LỜI MỞ ĐẦU
Trong hơn một năm qua dư luận, báo chí đã tốn khá nhiều giấy bút xoay quanh Luật thuế thu nhập cá nhân sắp có hiệu lực vào ngày 01/01/2009. Đây là sắc luật gây nhiều tranh cãi nhất từ trước tới nay. Điều đó cho thấy sự phức tạp cũng như ít đồng thuận, từ không chỉ người dân mà cả trong giới công chức. Đây cũng là điều dễ hiểu, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi chính đáng của người dân.
Phải nói một điều dân ta chưa quen lắm với việc phải trích lại một khoảng từ thu nhập chính đáng do công sức, trí lực và sự bương chải vượt qua bao nhiêu khó khăn, kể cả việc đánh đổi những rủi ro liên quan đến sinh mạng cá nhân và gia đình từ công việc hàng ngày của mình để nộp thuế.
Luật thuế thu nhập cá nhân đã được ấp ủ từ hơn 17 năm qua, được soạn thảo và lấy ý kiến rộng rãi từ mọi người dân từ hơn ba năm qua, cho thấy công tác chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Tuy nhiên, khi ban hành, Luật thuế này vẫn chưa thu hút sự đồng thuận của đại đa số người dân, ngay cả trong thành viên Quốc hội, có đến 115 đại biểu (chiếm 35,09%) không tán thành với mức khởi điểm phải chịu thuế này và mức giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc. Đặc biệt trong bối cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, lạm phát tại Việt Nam tháng 10/2009 tăng 23,15% so với cùng kỳ năm ngoái, thì để nhận được sự ủng hộ của người dân quả là điều không dễ.
Xuất phát từ những lý do trên, nhóm học viên cao học lớp Ngân hàng ngày 1 - khóa 17, chọn đề tài: “Một số bất cập khi thực thi Luật Thuế Thu nhập cá nhân ở Việt Nam” làm chủ đề nghiên cứu của nhóm.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là:
Diểm qua quá trình hình thành và xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam;Xác định những vấn đề tồn tại, bất cập của Luật thuế thu nhập cá nhân;Đánh giá chung và những kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật thuế thu nhập cá nhân.
Phương pháp nghiên cứu, thu thập dữ liệu:
Nhóm sử dụng phương pháp phân tích định tính dựa trên cơ sở nguồn dữ liệu thứ cấp thu thập từ tài liệu tạp chí chuyên ngành và báo cáo thống kê chuyên ngành tài chính, thuế.
Cấu trúc bài viết: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận bài viết gồm 3 phần:
Phần 1: Cơ sở lý thuyết: Phần này nêu và phân tích một số khái niệm cơ bản về thuế thu nhập cá nhân;
Phần 2: Luật thuế Thu nhập cá nhân ở Việt Nam: Phần này tập trung đánh giá quá trình hình thành, phân tích những mặt tích cực và hạn chế, bất cấp của Luật thuế này.
Phần 3: Đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật thuế thu nhập cá nhân: Phần này đưa ra các đánh giá và các quan điểm của nhóm tác giả đề xuất bổ sung, sửa đổi nhằm hoàn thiện Luật này.
Những người tham gia bài viết này gồm:
24 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2715 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số bất cập khi thực thi luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĩa vụ đóng góp một phần thu nhập của mình cho xã hội thông qua việc nộp thuế. Nguyên tắc "công bằng" và “khả năng nộp thuế” thể hiện ở chỗ: người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn, người có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế ít hơn, mỗi cá nhân dù có thu nhập từ các nguồn khác nhau đều được điều chỉnh thống nhất trong một chính sách thuế; người có thu nhập thấp chưa phải nộp thuế.
(Nguồn: Tổng cục thuế)
2. Vai trò, mục tiêu của Luật thuế thu nhập cá nhân
Luật Thuế thu nhập cá nhân là một trong những sắc thuế quan trọng nhằm tiến tới công bằng xã hội khi nó đảm bảo cho mọi người bình đẳng về nghĩa vụ đối với đất nước và tạo điều kiện cho mọi người tự giác đóng thuế để tăng ngân sách nhà nước, củng cố an ninh - quốc phòng, tăng cường an sinh xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế...
Luật thuế thu nhập cá nhân có những vai trò và mục tiêu sau:
- Đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư, góp phần hạn chế khoảng cách về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội.
- Đảm bảo động viên một cách hợp lý thu nhập dân cư, khuyến khích mọi cá nhân ra sức lao động, sản xuất kinh doanh, gia tăng thu nhập làm giàu chính đáng.
- Đảm bảo huy động nguồn lực để Nhà nước giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội.
- Tăng tỷ lệ đóng góp của thuế thu nhập cá nhân trong tổng thu ngân sách.
- Tái phân phối của cải vật chất; điều tiết thu nhập tạo sự cân bằng tương đối giữa người giàu người nghèo.
- Tạo sự công bằng giữa các công dân. Đã là công dân và được hưởng dịch vụ công thì phải đóng thuế. Thuế ở đây vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ của công dân. Vì vậy có nhiều nước áp dụng mục tiêu này với mức thu nhập đầu tiên chịu thuế rất thấp so với thu nhập bình quân.
- Thực hiện công bằng về giữa người có thu nhập chính thức và người có thu nhập không chính thức. Việc thu được từ mảng thu nhập phi chính thức này vừa đạt được mục tiêu tăng ngân sách, vừa đạt được sự công bằng cho những công dân có mức thu nhập chính thức - vốn là đối tượng chính của luật thuế thu nhập hiện tại.
- Hạn chế những hoạt động mà Nhà nước không muốn phát triển, chẳng hạn như đầu cơ vào thị trường bất động sản.
- Thúc đẩy sự phát triển của một số hoạt động có đóng góp dài lâu cho sự tăng trưởng về giá trị kinh tế của quốc gia.
(Lâm Minh Chánh - Báo Kinh Tế Sài Gòn ngày 08/11/2007 )
Phần 2: LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM
1. Sự hình thành của Luật thuế TNCN
Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, hệ thống chính sách thuế đã được hình thành và từng bước hoàn thiện qua hai lần cải cách (năm 1990 và năm 1995). Thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam đã được áp dụng từ năm 1991. Tuy nhiên, trong suốt 17 năm, loại thuế này vẫn chỉ chiếm tỷ lệ quanh quẩn 2% trong tổng thu ngân sách. Trong khi, ở các nước tiên tiến, tỉ lệ thuế thu nhập cá nhân thường chiếm từ 30% đến 50% tổng thu ngân sách của chính phủ.
Cũng trong 17 năm qua, ngưỡng bắt đầu chịu thuế áp dụng cho người Việt Nam đã được điều chỉnh 5 lần (chưa tính những lần Chính phủ đề xuất nhưng không được Quốc hội thông qua), ngưỡng này tăng dần từ 500 ngàn đồng/tháng (áp dụng từ năm 1991) đến 5 triệu đồng/tháng (áp dụng từ năm 2004). Đồng thời, thuế suất tối đa áp dụng cho người Việt Nam cũng giảm dần từ mức 80% xuống 72%, rồi 65%, rồi 40%, để còn lại mức 35% như trong Luật thuế hiện tại áp dụng ngày 01/01/2009. (Bùi Văn-
Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao ở Việt Nam được hình thành và sửa đổi qua các văn bản pháp quy sau:
1.1. Cơ sở pháp lý
- Pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước số 50-LCT/HĐNN8 ngày 07/01/1991 về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
- Nghị định số 119/HĐBT ngày 17/4/1991 của Hội đồng Bộ trưởng Quy định chi tiết thi hành pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
- Thông tư số 22/TC-TCT ngày 22/4/1991 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước và Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng về thu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
- Nghị quyết số 32/NQ-UBTVQH9 ngày 10/3/1993 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc bổ sung Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
- Nghị định số 23/CP ngày 23/3/1993 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành nghị quyết số 32/NQ-UBTVQH9 ngày 10/3/1993 của Uỷ ban thường vụ quốc hội về việc bổ sung pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
- Thông tư số 29/TC-TCT ngày 01/4/1993 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Nghị định của Chính phủ về việc bổ sung Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
- Pháp lệnh không số ngày 19/5/1994 của Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa đổi Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
- Nghị định số 05/CP ngày 20/01/1995 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
- Thông tư số 27/TC-TCT ngày 30/3/1995 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 05/CP ngày 20/01/1995 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
- Nghị định số 30/CP ngày 05/4/1997 của Chính phủ Sửa đổi một số điều của Nghị định số 05/CP ngày 20/01/1995 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
- Thông tư số 39/TC-TCT ngày 26/6/1997 của Bộ Tài chính Hướng dẫn thi hành Nghị định số 5/CP ngày 20/01/1997 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
- Pháp lệnh không số ngày 06/02/1997 của Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa đổi một số điều của Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
- Pháp lệnh số 14/1999/PL-UBTVQH10 ngày 30/6/1999 của Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa đổi một số điều của Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
- Thông tư số 15/2000/TT-BTC ngày 23/02/2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn bổ sung và sửa đổi một số điểm trong Thông tư số 39 TC/TCT ngày 26 tháng 6 năm 1997của BộTài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 05/CP ngày 20 tháng 1 năm 1995 và Nghị định số 30/CP ngày 5 tháng 4 năm 1997 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
- Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao số 35/2001/PL-UBTVQH10 ngày 19/5/2001 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 10;
- Pháp lệnh số 14/2004/PL-UBTVQH11 ngày 24/3/2004 sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
- Nghị định số 147/2004/NĐ-CP, ngày 23/7/2004 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Thuế Thu nhập đối với người có thu nhập cao;
- Thông tư 81/2004/TT-BTC ngày 13/8/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 147/2004/NĐ-CP ngày 23/7/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
- Thông tư 12/2005/TT-BTC ngày 04/02/2005 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư số 81/2004/TT-BTC ngày 13/8/2004 của Bộ Tài chính.
1.2. Những kết quả đạt được
Việc ban hành và sửa đổi Luật thuế thu nhập cá nhân nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách thuế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn phát triển. Việc áp dụng Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao trong thời gian qua là phù hợp với tiến trình phát triển đất nước, nên đã phát huy tác dụng trong quản lý và thu ngân sách. Nguồn thu từ sắc thuế này được thể hiện qua biểu sau:
BẢNG TỔNG HỢP THU THUẾ TNCN QUA CÁC NĂM
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Số TT
Năm
Tổng thu ngân sách
Trđó: Thuế TNCN
Chiếm tỳ lệ (%)
1
1995
53.370
520
0,97
2
1996
62.387
1.354
2,17
3
1997
65.352
1.482
2,27
4
1998
72.965
1.782
2,44
5
1999
78.489
1.856
2,36
6
2000
90.749
1.831
2,02
7
2001
102.970
2.058
2,00
8
2002
123.860
2.338
1,89
9
2003
152.274
2.951
1,94
10
2004
190.928
3.521
1,84
11
2005
228.287
4.234
1,85
12
2006
279.472
5.179
1,85
13
2007
(Tổng hợp từ nguồn: World Bank và Cục thống kê)
Bảng số liệu cho thấy, kể từ khi pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao có hiệu lực đến nay, số tiền thu nộp ngân sách từ sắc thuế liên tục tăng và chiếm bình quân khoảng gần 2% tổng thu ngân sách hàng năm.
1.3. Một số hạn chế, bất cập
Trong những năm tới, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (giai đoạn 2006 – 2010), các thị trường tài chính, tiền tệ, vốn, lao động, bất động sản, khoa học công nghệ sẽ có sự phát triển mạnh mẽ hơn. Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân có cơ hội đầu tư, sản xuất kinh doanh, có thêm nhiều nguồn thu nhập khác nhau: thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, từ dịch vụ và đầu tư tài chính… Bên cạnh đó, cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế số người nước ngoài đến làm ăn sinh sống tại Việt Nam và số người Việt Nam có thu nhập từ nước ngoài cũng tăng lên. Sự đa dạng và gia tăng thu nhập của các cá nhân trong xã hội sẽ làm cho khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư ngày càng lớn.
Trước tình hình trên, chính sách thuế hiện hành đối với thu nhập của cá nhân đã bộc lộ một số hạn chế: chưa thực sự đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ thuế vì cùng là thu nhập của cá nhân nhưng thu nhập từ kinh doanh không được trừ khởi điểm và nộp thuế theo mức 28% trong khi thu nhập từ tiền công, tiền lương trên mức khởi điểm 5 triệu đồng/tháng mới phải nộp thuế và áp dụng thuế suất luỹ tiến từng phần từ 10% đến 40%; còn áp dụng biểu thuế khác nhau giữa người Việt Nam và người nước ngoài, người trong nước phải nộp thuế cao hơn người nước ngoài. Chính sách thuế hiện hành cũng chưa phù hợp với thông lệ quốc tế: chưa có một chính sách thuế điều tiết thống nhất đối với thu nhập của cá nhân. Việc duy trì các chính sách thuế hiện hành đối với thu nhập của cá nhân sẽ hạn chế việc khuyến khích cá nhân tích cực lao động, đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, làm giàu chính đáng.
Để đảm bảo phát triển kinh tế xã hội ổn định, bền vững và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, việc tiếp tục hoàn thiện các chính sách tài chính trong đó hệ thống chính sách thuế nói chung, thuế thu nhập cá nhân nói riêng là hết sức cần thiết, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ phân bổ nguồn lực đồng thời giải quyết tốt các mối quan hệ giữa tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng, giữa tăng trưởng với công bằng xã hội và xóa đói giảm nghèo.
(Nguồn: Tổng cục thuế)
2. Luật Thuế thu nhập cá nhân áp dụng ngày 01/01/2009
Thời gian qua ở nước ta, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thu nhập của các tầng lớp dân cư cũng tăng lên, nhưng khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa nhóm người có thu nhập cao và nhóm người có thu nhập thấp cũng có xu hướng ngày càng tăng (trong thời gian từ năm 1993 đến năm 2004, khoảng cách này đã tăng từ 3,7 lần lên đến 13,5 lần). Như vậy, việc áp dụng thuế thu nhập cá nhân sẽ góp phần đảm bảo tính hợp lý, công bằng, hiệu quả của hệ thống chính sách thuế và thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời Nhà nước sẽ nắm được thông tin về thu nhập của cá nhân. Thông qua đó, vừa thực hiện động viên nguồn lực vừa góp phần phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Với ý nghĩa đó, thuế thu nhập cá nhân đã được nhiều nước áp dụng từ rất sớm, ngay từ khi nền kinh tế chưa phát triển, thu nhập của dân cư cũng chưa cao, đến nay, đã có trên 180 nước trên thế giới áp dụng loại thuế này.
Việt Nam chưa có một luật thuế thu nhập cá nhân hoàn chỉnh, hiện nay thu nhập của cá nhân được điều chỉnh bởi các luật và pháp lệnh thuế khác nhau, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế; còn áp dụng khởi điểm chịu thuế, biểu thuế khác nhau giữa người Việt Nam và người nước ngoài. Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân nhằm đảm bảo ổn định nguồn lực cho ngân sách nhà nước.
Kinh tế - xã hội càng phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì nhu cầu chi tiêu của Nhà nước để giải quyết các vấn đề an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội, phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế ... cũng ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến cơ cấu thu ngân sách cũng thay đổi theo hướng nguồn thu từ tích luỹ trong nước được tăng dần và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thu ngân sách nhà nước. Thuế thu nhập cá nhân cũng sẽ góp phần nâng cao tỷ trọng thu nội địa để ổn định thu cho ngân sách nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tỷ trọng thuế thu nhập cá nhân trong tổng số thu ngân sách tại các nước trong khối ASEAN, như: Thái Lan, Malaysia, Philippin... khoảng 12-16%, các nước đang phát triển khoảng 13-14%, các nước phát triển như: Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức... khoảng 30-40% tổng số thu ngân sách. Tỷ lệ thuế thu nhập của cá nhân (bao gồm cả thuế TNCN, thu nhập DN, thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất) tại Việt Nam hiện nay khoảng 4,1%.
(Nguồn: Tổng cục thuế)
Sau hơn ba năm chuẩn bị kỹ lưỡng với hàng trăm cuộc hội thảo và sau gần một năm công bố rộng rãi để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, ngày 20/11/2007, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội nước Cộng hoà XHCH Việt nam khoá XII đã thông qua Luật thuế Thu nhập cá nhân với tổng số 79,11% số phiếu tán thành. Luật này sẽ có hiệu lực thi hành từ 01/01/2009.
2.1. Cơ sở pháp lý
- Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 ngày 21/11/2007 của Quốc hội khóa XII;
- Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân;
- Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính Hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân.
Luật này gồm 4 chương, 35 điều, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2009, quy định như sau:
2.2. Nội dung của Luật thuế TNCN
2.2.1. Đối tượng nộp thuế
- Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật thuế thu nhập cá nhân phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật thuế thu nhập cá nhân phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam.
- Cá nhân cư trú là người đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:
+ Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam;
+ Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn.
- Cá nhân không cư trú là người không đáp ứng điều kiện cư trú quy định trên.
2.2.2. Thu nhập chịu thuế:
Thu nhập chịu thuế của cá nhân gồm các loại thu nhập sau đây:
- Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh;
- Thu nhập từ tiền lương, tiền công mà người lao động nhận được từ người sử dụng lao động;
- Thu nhập từ đầu tư vốn;
- Thu nhập từ chuyển nhượng vốn;
- Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản;
- Thu nhập từ trúng thưởng bằng tiền hoặc hiện vật;
- Thu nhập từ bản quyền;
- Thu nhập từ nhượng quyền thương mại theo quy định của Luật Thương mại;
- Thu nhập từ thừa kế là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng;
- Thu nhập từ nhận quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng.
2.2.3. Thu nhập được miễn thuế
- Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau.
- Thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở của cá nhân trong trường hợp cá nhân chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất.
- Thu nhập từ giá trị quyền sử dụng đất của cá nhân được Nhà nước giao đất.
- Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau.
- Thu nhập của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản chưa qua chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường.
- Thu nhập từ chuyển đổi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao để sản xuất.
- Thu nhập từ lãi tiền gửi tại tổ chức tín dụng, lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
- Thu nhập từ kiều hối.
- Phần tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn so với tiền lương làm việc ban ngày, làm trong giờ theo quy định của pháp luật.
- Tiền lương hưu do Bảo hiểm xã hội chi trả.
- Thu nhập từ học bổng.
- Thu nhập từ bồi thường hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, tiền bồi thường tai nạn lao động, khoản bồi thường nhà nước và các khoản bồi thường khác theo quy định của pháp luật.
- Thu nhập nhận được từ quỹ từ thiện được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập hoặc công nhận, hoạt động vì mục đích từ thiện, nhân đạo, không nhằm mục đích lợi nhuận.
- Thu nhập nhận được từ nguồn viện trợ nước ngoài vì mục đích từ thiện, nhân đạo dưới hình thức chính phủ và phi chính phủ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
2.2.4. Giảm thuế
Đối tượng nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn, bệnh hiểm nghèo ảnh hưởng đến khả năng nộp thuế thì được xét giảm thuế tương ứng với mức độ thiệt hại nhưng không vượt quá số thuế phải nộp.
2.2.5. Các khoản giảm trừ
* Giảm trừ gia cảnh:
- Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú. Giảm trừ gia cảnh gồm hai phần sau đây:
+ Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng (48 triệu đồng/năm);
+ Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng.
- Việc xác định mức giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc thực hiện theo nguyên tắc mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế.
- Người phụ thuộc là người mà đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng, bao gồm:
+ Con chưa thành niên; con bị tàn tật, không có khả năng lao động;
+ Các cá nhân không có thu nhập hoặc có thu nhập không vượt quá mức quy định, bao gồm con thành niên đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc học nghề; vợ hoặc chồng không có khả năng lao động; bố, mẹ đã hết tuổi lao động hoặc không có khả năng lao động; những người khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng.
Chính phủ quy định mức thu nhập, kê khai để xác định người phụ thuộc được tính giảm trừ gia cảnh.
2.2.6.Giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo
- Các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú, bao gồm:
+ Khoản đóng góp vào tổ chức, cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người tàn tật, người già không nơi nương tựa;
+ Khoản đóng góp vào quỹ từ thiện, quỹ nhân đạo, quỹ khuyến học.
- Tổ chức, cơ sở và các quỹ quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập hoặc công nhận, hoạt động vì mục đích từ thiện, nhân đạo, khuyến học, không nhằm mục đích lợi nhuận.
2.2.7. Biểu thuế luỹ tiến từng phần
- Biểu thuế luỹ tiến từng phần áp dụng đối với thu nhập tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công là tổng thu nhập chịu thuế trừ các khoản đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với một số ngành, nghề phải tham gia bảo hiểm bắt buộc, các khoản giảm trừ nêu trên.
- Biểu thuế luỹ tiến từng phần được quy định như sau:
Bậc thuế
Phần thu nhập tính thuế/năm
(triệu đồng)
Phần thu nhập tính thuế/tháng
(triệu đồng)
Thuế suất (%)
1
Đến 60
Đến 5
5
2
Trên 60 đến 120
Trên 5 đến 10
10
3
Trên 120 đến 216
Trên 10 đến 18
15
4
Trên 216 đến 384
Trên 18 đến 32
20
5
Trên 384 đến 624
Trên 32 đến 52
25
6
Trên 624 đến 960
Trên 52 đến 80
30
7
Trên 960
Trên 80
35
2.2.8. Biểu thuế toàn phần
- Biểu thuế toàn phần áp dụng đối với thu nhập tính thuế đối với thu nhập từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản, trúng thưởng, tiền bản quyền, nhượng quyền thương mại, nhận thừa kế, quà tặng là thu nhập chịu thuế.
- Biểu thuế toàn phần được quy định như sau:
Thu nhập tính thuế
Thuế suất (%)
a) Thu nhập từ đầu tư vốn
5
b) Thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền thương mại
5
c) Thu nhập từ trúng thưởng
10
d) Thu nhập từ thừa kế, quà tặng
10
e) Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản- Trường hợp không xác định được thu nhập tính thuế thì áp dụng thuế suất tính trên giá bán
20
0,1
g) Thu nhập từ chuyển nhượng vốn- Đối với chuyển nhượng chứng khoán áp dụng thu thuế theo từng phần
25
2
2.2.9. Về kê khai, thu nộp:
Trong 6 khoản thu nhập thuộc diện chịu thuế thì chỉ có 2 khoản thu nhập từ kinh doanh và thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất là cá nhân tự kê khai, tự tính thuế và tự nộp thuế, cơ quan thuế thực hiện kiểm tra, kiểm soát. Đối với tất cả các khoản thu nhập còn lại áp dụng phương pháp thu thuế khấu trừ tại nguồn. Theo phương pháp này, khi chi trả thu nhập cho người nộp thuế, cơ quan chi trả thu nhập thực hiện khấu trừ và nộp tiền thuế vào ngân sách; cuối năm cá nhân tổng hợp các khoản thu nhập thực hiện quyết toán nếu có số thuế nộp thừa thì được thoái trả tiền thuế.
2.3. Những mặt tích cực của Luật này
Mặc dù còn những ý kiến khác nhau về Luật thuế TNCN, song có thể nói, đây là một văn bản luật được soạn thảo công phu nhất từ trước đến nay, phản ánh khá đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân với nhiều điểm mới so với Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và phù hợp hơn với điều kiện kinh tế-xã hội nước ta hiện nay.
2.3.1. Bổ sung và quy định rõ hơn về đối tượng nộp thuế.
- Điểm mới là việc đưa cá nhân kinh doanh vào diện nộp thuế TNCN. Việc điều tiết thu nhập của cá nhân kinh doanh theo Luật thuế TNCN thực hiện theo phương pháp luỹ tiến sẽ đảm bảo điều tiết hợp lý thu nhập dân cư, quy định này đảm bảo tính thông lệ quốc tế, vì hầu hết các nước đều đưa cá nhân kinh doanh vào diện nộp thuế TNCN.
- Định nghĩa rõ hơn đối tượng cư trú, đó là "cá nhân có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở lại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn".
2.3.2. Đổi mới cách phân loại thu nhập chịu thuế để xác định nghĩa vụ thuế.
Luật thuế TNCN phân loại thu nhập chịu thuế theo nguồn phát sinh thu nhập. Theo đó, thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ kinh doanh; thu nhập từ tiền lương, tiền công; thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản; thu nhập khác (bao gồm: thu nhập từ trúng thưởng, thu nhập từ bản quyền, thu nhập từ thừa kế, quà tặng, thu nhập từ chuyển nhượng quyền thương mại). Đây là cơ sở để tính thuế phù hợp với từng loại thu nhập. Từ cách phân loại này, việc áp dụng thuế suất được quy định theo hai hướng: đối với thu nhập từ kinh doanh và tiền lương, tiền công thì áp dụng biểu thuế suất luỹ tiến từng phần; đối với các khoản thu nhập còn lại thì áp dụng biểu thuế luỹ tiến toàn phần.
2.3.3 Mở rộng diện điều tiết một cách hợp lý trên cơ sở bổ sung một số khoản thu nhập chịu thuế.
- Một số khoản thu nhập được quy định trong Luật thuế TNCN gồm: thu nhập từ chuyển nhượng quyền thương mại, thu nhập từ quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các cơ sở kinh doanh, bất động sản hoặc tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc sử dụng, thu nhập từ casino, thu nhập từ trúng thưởng các cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác.
- Luật thuế TNCN quy định miễn thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng, thừa kế, quà tặng giữa vợ với chồng; cha mẹ đẻ; cha mẹ nuôi; mẹ nuôi với con đẻ, con nuôi; cha chồng mẹ chồng với con dâu; cha vợ mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu nội, cháu ngoại; anh chị em ruột với nhau.
- Tính thuế đối với thu nhập từ đầu tư vốn, thu nhập từ chuyển nhượng vốn bao gồm cả chuyển nhượng chứng khoán. Tuy nhiên, phần thu nhập từ lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng và lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được miễn thuế TNCN.
Mở rộng diện điều tiết như trên sẽ góp phần điều tiết công bằng thu nhập của các tầng lớp dân cư theo hướng mọi cá nhân có thu nhập (trừ trường hợp thu nhập rất thấp và một số trường hợp đặc biêt) đều phải có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Đồng thời, bằng quy định mới này, Luật thuế TNCN sẽ góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước một cách hợp lí trên cơ sở không bỏ sót nguồn thu của nền kinh tế.
2.3.4. Sử dụng thuật ngữ "thu nhập được miễn thuế" thay cho "thu nhập không chịu thuế" và bổ sung một số khoản thu nhập được miễn thuế.
- Luật thuế TNCN đã gọi đúng bản chất là thu nhập được miễn thuế và bổ sung một số khoản thu nhập được miễn thuế khác, như: thu nhập từ tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn lương làm việc ban ngày, làm việc trong giờ; lương hưu; Tiền thưởng cho cá nhân về việc phát hiện, khai báo cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luât; học bổng nhận từ ngân sách Nhà nước và từ các tổ chức trong và ngoài nước theo quy định của Chính phủ; thu nhập từ viện trợ, từ thiện với điều kiện các quỹ từ thiện này phải được Nhà nước cho phép thành lập hoặc công nhận hoạt động vì mục đích nhân đạo không nhằm mục đích thu lợi nhuận; thu nhập từ lãi trái phiếu chính phủ.
Việc bổ sung một số khoản thu nhập miễn thuế nêu trên thể hiện sự ưu đãi của Nhà nước đối với một số đối tượng được hưởng thu nhập trong những trường hợp gặp khó khăn. Điều này cũng thể hiện chính sách khuyến khích của nhà nước đối với một số hoạt động có lợi cho phát triển kinh tế- xã hội như tốt giác tội phạm, tăng cường lao động sản xuất…
2.3.5. Áp dụng giảm trừ gia cảnh khi xác định nghĩa vụ thuế.
- Đây chính là vấn đề được ủng hộ của đông đảo nhân dân nhất song cũng là vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất khi dự thảo Luật được đưa ra lấy ý kiến nhân dân. Sự ủng hộ xuất phát từ cơ sở là, thay vì áp dụng mức khởi điểm chịu thuế chung cho mọi đối tượng nộp thuế thì chuyển sang áp dụng giảm trừ gia cảnh, tức là có tính đến hoàn cảnh cá nhân của đối tượng nộp thuế. Điều này làm cho việc xác định nghĩa vụ thuế của mỗi đối tượng nộp thuế được công bằng hơn. Mức giảm trừ cho bản thân đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng, cho mỗi người phụ thuộc mà đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ nuôi dưỡng là 1,6 triệu đồng/tháng.
- Mức giảm trừ gia cảnh như trên là phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam trong những năm tới và phù hợp với quản điểm cải cách hệ thống thuế của Việt Nam. Chỉ những người có thu nhập từ trung bình khá trở lên mới phải nộp thuế, khi thu nhập tăng lên, mức giảm trừ này sẽ tiến gần đến với mức thu nhập trung bình trong xã hội và khi đó những người có thu nhập ở mức trung bình trở lên đều có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước, từ đó đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của tầng lớp dân cư. Tất nhiên, đến một thời điểm nào đó, khi thu nhập và mức sống của dân cư đã tăng rất cao, Quốc hội sẽ xem xét điều chỉnh mức giảm trừ này cho phù hợp.
- Việc giảm trừ cho người phụ thuộc được thực hiện theo nguyên tắc mỗi người phụ thuộc được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế. Luật cũng không khống chế mức giảm trừ tối đa cho người phụ thuộc.
Việc mở rộng diện giảm trừ như trên cho những người phụ thuộc đảm bảo thực hiện công bằng trong điều tiết thu nhập và phù hợp với đạo lý xã hội của người Việt Nam, chắc chắn sẽ nhận được sự đồng tình ủng hộ của đông đảo nhân dân.
2.3.6. Áp dụng giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo.
- Khoản đóng góp từ thiện nhân đạo được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế nhưng chỉ áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ kinh doanh; không áp dụng đối với cá khoản thu nhập khác. Với quy định này, Luật đã khuyến khích mọi công dân trong xã hội tham gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo.
2.3.7. Quy định giảm trừ chi phí cho cá nhân kinh doanh một cách hợp lý
- Cùng với việc chuyển cá nhân kinh doanh từ diện nộp thuế TNDN sang nộp thuế TNCN, Luật thuế TNCN đã quy định các khoản chi phí hợp lý được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế của cá nhân kinh doanh. Về cơ bản, các khoản chi phí hợp lý được trừ này kế thừa cá quy định hiện hành của Luật thuế TNDN. .
2.3.8. Điều chỉnh thuế suất theo hướng giảm thuế suất cao nhất, thấp nhất, và tăng bậc thuế suất; thống nhất biểu thuế đối với người Việt Nam và người nước ngoài.
- Luật thuế TNCN vẫn áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần nhưng mức thuế suất thấp nhất giảm xuống còn 5% và mức thuế suất cao nhất giảm xuống còn 35% với số lượng bậc thuế nâng lên thành bảy và áp dụng chung cho cả người Việt Nam và người nước ngoài. Với biểu thuế mới này, đảm bảo công bằng hơn trong điều tiết thu nhập do chênh lệch về thuế suất giữa các bậc thuế giảm đi. Việc hạ thuế suất cao nhất và thấp nhất xuống thể hiện tinh thần mở rộng diện đánh thuế nhưng mức độ điều tiết cũng giảm đi, việc giảm mức thuế suất cao nhất sẽ góp phần khuyến khích người lao động tích cực lao động và sản xuất, kinh doanh; khuyến khích người dân làm giàu chính đáng.
- Đối với các khoản thu nhập còn lại. Luật thuế thu nhập cá nhân quy định biểu thuế luỹ tiến toàn phần. Ngoài ra, Luật còn quy định thuế suất cụ thể cho từng loại thu nhập áp dụng đối với cá nhân không cư trú với các mức thuế suất từ 1% đến 10% tính trên toàn bộ thu nhập phát sinh ở Việt Nam (không được trừ chi phí).
Tóm lại, Luật thuế TNCN vừa được Quốc hội thông qua có nhiều điểm mới, phù hợp với tiến trình đổi mới quản lý kinh tế của nhà nước, với quá trình hội nhập kinh tế của đất nước và phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay. Với việc ban hành Luật thuế quan trọng này, hệ thống thuế của chúng ta đang hướng đến phù hợp hơn với hệ thống thuế các nước, hướng tới một hệ thống thuế công bằng và hiện đại hơn.
(Lê Xuân Trường - Tapchiketoan.com, cập nhật 04/07/2008)
2.4. Một số hạn chế, bất cập
Tuy nhiên, Luật thuế thu nhập cá nhân cũng còn tồn tại một số hạn chế, bất cập mà thời gian qua, dư luận tranh luận rất nhiều, các tranh luận xoay quanh các vấn đề sau:
2.4.1. Luật chỉ đánh thuế đối với những người làm công ăn lương
Trong điều kiện cơ sở hạ tầng về kinh tế, xã hội của nước ta còn thấp, các chính sách an sinh xã hội, quy định pháp lý về thanh toán, kiểm soát nguồn thu chưa đồng bộ, người dân có thói quen sử dụng tiền mặt trong sinh hoạt thì tính khả thi của Luật thuế TNCN đến đâu? Hiện có một bộ phận rất lớn người dân hoạt động sản xuất kinh doanh tự do, không thực hiện luân chuyển tiền qua hệ thống nhân hàng, cơ quan thuế không thể kiểm soát được thu nhập của họ là bao nhiêu để đánh thuế. Luật thuế TNCN do đó chỉ đánh thuế đối với những người làm công ăn lương, cán bộ công chức. Điều đó dẫn đến những bất bình đẳng trong việc đóng thuế, đi ngược lại mục đích của luật là phân phối thu nhập, giảm khoảng cách giàu nghèo.
2.4.2. Bất cập về mức khởi điểm và mức giảm trừ gia cảnh
- Tỷ lệ thống nhất mức khởi điểm bắt đầu phải chịu thuế thu nhập cá nhân là 4 triệu đồng/tháng cho người nộp thuế, giảm trừ thêm cho mỗi người phụ thuộc 1,6 triệu đồng/tháng có tỷ lệ đại biểu Quốc hội bỏ phiếu thông qua ít nhất: 64,91% tương đương với 115 Đại biểu không tán thành với mức khởi điểm phải chịu thuế này.
- Ngay tại thời điểm xây dựng Luật Thuế TNCN, đã có quá nhiều ý kiến chuyên gia phản biện rằng mức khởi điểm chịu thuế quá thấp. Đặc biệt, các mức thuế suất, giảm trừ gia cảnh... không tính đến yếu tố trượt giá. Tất cả các mức giảm trừ gia cảnh, khởi điểm chịu thuế... đều cho thấy sự bất cập giữa thu nhập chịu thuế và chi tiêu thực tế trong cơn bão giá. Luật chỉ khả thi và huy động được khả năng đóng góp của nhân dân khi mức thu nhập phải đảm bảo nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt phí và tích luỹ tối thiểu. Căn cứ vào những tiêu chí này thì sẽ thấy, mức khởi điểm chịu thuế 4 triệu đồng/tháng là quá thấp.
Theo Cục thống kê, Chỉ số giá tiêu dùng 10 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007 là 123,15%. Luật thuế TNCN ban hành tháng 11/2007, từ đó đến nay tỷ lệ lạm phát tăng khoảng 23,0%, như vậy, mức khởi điểm chịu thuế đã trượt giá lên 4.920.000 đồng và mức giảm trừ gia cảnh tăng 1.968.000 đồng.
Tuy nhiên, vừa yếu kém trong dự báo; vừa quá bảo thủ trước những ý kiến trái chiều; cơ quan xây dựng Luật thuế vẫn khẳng định: Đã tính đến yếu tố trượt giá; thậm chí cơ quan này còn cho rằng mức tính trượt giá đã khá "sâu" và khẳng định mức thu nhập 4 triệu đồng/tháng đã là thu nhập trung bình ở mức cao tại VN.
Chúng ta có thể làm một bài toán như sau: Chẳng hạn 01 người sống ở Thành phố Buôn Ma Thuột – tỉnh Dak Lak, anh ta phải chi phí các khoản cho 1 tháng như sau:
+ Xăng xe đi lại: 20km x 2 lít/100km x 14.000 đ/lít x 30 ngày = 168.000 đồng
+ Khấu hao xe máy: 20.000.000 đ /5 năm /12 tháng = 333.000 đồng
+ Tiền ăn + cà phê sáng: 70.000 đồng/ngày x 30 ngày = 2.100.000 đồng
+ (Quần 150.000x2 + áo 250.000x2 + dày 300.000 + mũ 150.000)/12 = 105.000 đồng
+ Tiền thuê nhà + điện + nước = 700.000 đồng
+ Điện thoại 2.400.000 đ/12 tháng + cước 200.000 đ = 400.000 đồng
+ Các vật dụng cá nhân = 100.000 đồng Tổng cộng: 3.906.000 đồng
Như vậy, với mức 4 triệu đồng/tháng, một cá nhân ở Buôn Ma Thuột chỉ đủ chi tiêu ở mức tối thiểu, chưa kể các thành phố lớn như Hà Nội hay TP. Hồ Chí Minh có vật giá đắt đỏ hơn nhiều thì làm sao đủ chi tiêu cho nhu cầu tối thiểu?; trong khi anh ta không thể có chi phí để học tập thêm, tham gia các nhu cầu giải trí, du lịch và đặc biệt là... muôn thuở anh ta không thể có tích luỹ để mua nhà hay giải quyết công việc gì lớn có giá trị vài chục triệu đồng trở lên. Điều đó cho thấy mức khởi điểm chịu thuế thấp sẽ không cho người dân có cơ hội tích luỹ, không mang tính "khoan thư sức dân" mà mang tính "tận thu". Và do đó sẽ khó có thể tạo ra xã hội giàu có theo tinh thần "dân giàu, nước mạnh".
- Trong giảm trừ gia cảnh không tính đến giảm trừ cho những người có nhu cầu đi học tiếp để nâng cao trình độ như đại học, cao học, nghiên cứu sinh ... Trong khi, mục tiêu đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ đến năm 2010 (Cường bổ sung....)
2.4.3. Bất cập về sự cào bằng giữa thành thị và nông thôn
Hiện nay, người dân và công chức sống tại các khu đô thị luôn chịu áp lực giá, phí, lệ phí, thuế... cao hơn các vùng khác. Bên cạnh đó, bản thân các điều tra xã hội học đều cho thấy Hà Nội hay TP. Hồ Chí Minh đều đã lọt vào danh sách có giá sinh hoạt đắt đỏ trong khu vực và thế giới.
Đại đa số người có thu nhập cao là ở thành phố lớn, nơi có nhiều loại và mức độ chi phí lớn. Tuy nhiên, Luật đã chưa tính hết được các yếu tố hình thành chi phí trong đời sống thực tế. Chúng ta đang hoan nghênh và áp dụng Nghị định số 167/2007/NĐ-CP ngày 16/11/2007 quy định mức lương tối thiểu thành 03 vùng và Nghị định số 110/2008/NĐ- CP 10/10/2008 quy định mức lương tối thiểu phân thành 04 vùng và sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2009. Vậy tại sao Luật thuế TNCN lại không tính đến chênh lệch thu nhập như đã quy định mức lương tối thiểu phân theo vùng.
2.4.4. Bất cập về mức thuế lũy tiến
- So sánh với mức thuế suất, sự bất hợp lý còn rõ hơn khi mức thuế đều rất cao. Cách đánh thuế luỹ tiến cao (bậc 7 lên đến 35%) thực chất sẽ phản tác dụng khi làm xói mòn sự hăng say làm giàu chính đáng; giảm năng suất lao động. Sẽ thật bất công nếu như người ta càng vắt óc, vắt sức ra để kiếm được nhiều tiền lại càng bị đánh thuế cao.
- Các mức thuế luỹ tiến 5,6,7 trong bậc luỹ tiến (tương đương với mức 25%, 30% và 35%) đã đánh vào đối tượng là người có tài, người có khả năng làm giàu. Điều đó sẽ phản tác dụng vì sự cào bằng, bình quân chủ nghĩa và thực chất là sự tước đoạt của người này để chia cho người khác.
- Mức sống của dân ta hiện rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới, không nên áp dụng ngay một lúc mức mức lũy tiến lên đến 35% được. Hãy so sánh với Singapore, một đảo quốc có mức thu nhập bình quân đầu người rất cao 26.892 USD (năm 2005), trong khi đó, mức thuế thu nhập cá nhân cao nhất chỉ 20%.
2.4.5. Bất cập về thủ tục hành chính
- Ngày 30/9/2008, Thông tư 84/2008/TT-BTC hướng dẫn về thuế TNCN được Bộ Tài chính ban hành. Với nội dung dài hơn 60 trang, 28 biểu mẫu, chắc chắn cả cơ quan thuế và người nộp thuế sẽ có cả một "biển việc" và "núi giấy tờ" cần làm để thực thi luật này. Việc giảm trừ gia cảnh quy định rất nhiều giấy tờ, thủ tục xác nhận cần khoảng hơn 30 loại giấy tờ. Luật gia Hữu Dung nhận xét: Nếu một người nộp thuế phải tham gia tất cả quy trình trên thì có lẽ "cả năm chỉ đi lo thủ tục thuế". Sẽ là quá bất cập, nhiêu khê, phức tạp khi một người có thu nhập, sau khi giảm trừ gia cảnh thì không còn phải nộp thuế TNCN, nhưng lại vẫn phải đáp ứng đầy đủ các loại giấy tờ, thủ tục như trên và rõ ràng cơ quan thuế cũng mất nhiều công sức mà thực chất không thu được một đồng tiền thuế nào.
(Phạm Anh - Tú Mai, Lao Động số 205 Ngày 06/09/2008)
- Việc giảm trừ gia cảnh với 1,6 triệu đồng/tháng cho người phụ thuộc sẽ là rất phức tạp. Cơ quan thuế có thể sẽ... đau đầu với khái niệm "người phụ thuộc", bởi với mối quan hệ gia đình của Việt Nam thì số lượng có thể sẽ rất nhiều, và khái niệm này sẽ mở rộng đến đâu nếu cá nhân được quyền nhận con nuôi? Việc xác nhận người phụ thuộc sẽ do cơ quan hành chính thực hiện, đây hoàn toàn có thể là "mắt xích" làm nảy sinh tiêu cực; trong khi cơ quan thuế không thể quản lý nổi đối tượng này.
2.4.6. Repo chứng khoán đánh thuế trùng
- Dịch vụ Repo chứng khoán đang được áp dụng rộng rãi trên thị trường. Khi nhà đầu tư và công ty chứng khoán thực hiện hợp đồng mua bán nhưng về thực chất việc repo chứng khoán hiện nay không khác gì cầm cố chứng khoán để vay tiền. Đối với nhà đầu tư đã chọn phương thức nộp thuế trên giá chuyển nhượng chứng khoán từng lần theo thuế suất 0,1%, một khi đã thực hiện bán cho công ty chứng khoán là phải chịu thuế. Đến kỳ hạn, nhà đầu tư mua lại chứng khoán từ Công ty, sau đó bán ra thị trường sẽ phải chịu một lần thuế nữa. Trường hợp giá chứng khoán giảm đến tỷ lệ công ty chứng khoán phải thanh lý, nhà đầu tư chỉ phải chịu thuế 1 lần nhưng mức giá chịu thuế sẽ không đúng với giá bán thực tế, có thể cao hơn hoặc thấp hơn.
Dịch vụ repo chứng khoán được nhiều công ty áp dụng rộng rãi, đã góp phần tăng thanh khoản cho thị trường. Tuy nhiên, cho đến nay các cơ quan quản lý nhà nước chưa quy định về dịch vụ này. Có khả năng các công ty chứng khoán và nhà đầu tư sẽ tìm cách "lách" để không nộp thuế trùng lắp. Hai bên cũng sẽ ký vào một hợp đồng mua bán. Theo đó, công ty chứng khoán tạm ứng cho nhà đầu tư một khoản tiền, thoả thuận đến một thời điểm trong tương lai sẽ thực hiện mua bán chứng khoán. Khi đến thời điểm này, hai bên cùng huỷ hợp đồng, nhà đầu tư trả tiền tạm ứng cộng một khoản phí.
(Trung Phương - Lao Động số 214 Ngày 17/09/2008 Cập nhật: 8:39 AM, 17/09/2008)
2.4.7. Bất cập đối với thị trường chứng khoán
- Việc áp thuế TNCN đối với thị trường chứng khoán vừa bất khả thi, vừa gây thêm khó khăn cho nhà đầu tư cũng như các công ty chứng khoán, Việc áp thuế sẽ là rào cản lớn đối với thị trường chứng khoán. Nhiều nhà đầu tư cho biết họ đã tính đến phương án có văn bản kiến nghị lên Bộ Tài chính, Ủy ban chứng khoán Nhà nước; hoặc nếu không sẽ sớm rút lui khỏi thị trường. (Phạm Anh - Lao Động số 250 Ngày 29/10/2008 Cập nhật: 10:35 PM, 28/10/2008)
- Mức thuế 25% đối với thu nhập từ chứng khoán và bất động sản cũng khiến giới kinh doanh "bị choáng". Ví dụ nếu như trong 1 năm, nhà đầu tư rủi ro và lỗ 60 triệu đồng thì nhà đầu tư phải chịu. Nhưng ở năm tiếp theo, nếu nhà đầu tư lãi được 60 triệu thì mất đứt 15 triệu tiền thuế. Với cách đánh thuế này, rõ ràng nhà đầu tư vừa phải chịu rủi ro, vừa phải chịu thiệt thòi.
(Lao Động số 225 Ngày 28/09/2007 Cập nhật: 10:25 PM, 27/09/2007)
- Trong khi đó, các quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực như Hồng Kông, Singapore, Thái Lan... không đánh thuế vào chuyển nhượng chứng khoán, còn Trung Quốc thì áp dụng mức thuế rất thấp. Đối với thị trường tập trung, nên dùng phương pháp thuế khoán trên từng giao dịch: Đánh thuế căn cứ vào giá bán với thuế suất khoảng 0,05% - 0,1%. Với thị trường phi tập trung, do khó xác định giá mua bán nên căn cứ vào mệnh giá và có thuế suất cao hơn, khoảng 0,5%. (Lao Động số 153 Ngày 05/07/2007 Cập nhật: 9:12 PM, 04/07/2007)
* Tham khảo thuế thu nhập cá nhân của một số nước
Các nước đều áp dụng tỷ lệ thu thuế cao đối với người có thu nhập cao nhằm rút bớt khoảng cách giàu nghèo. Ngược lại, các nước cũng chú trọng đến tình trạng kinh tế và gia đình của người nộp để được miễn giảm.
- Mỹ: Chủ yếu từ người giàu
Thuế thu nhập cá nhân là nguồn thu chủ yếu và quan trọng bảo đảm nguồn tài chính của nước Mỹ. Từ tổng thống cho đến người bình thường đều phải đóng thuế. Để điều chỉnh mức thu nhập tăng trưởng quá nhanh của tầng lớp giàu có, Mỹ tăng tỷ lệ thu thuế người giàu và giảm thu thuế người nghèo. Nguyên tắc cơ bản để thu thuế là thu nhập càng cao đóng thuế càng nhiều.
Quy định về thu nhập của Mỹ tương đối phức tạp, không những chú trọng thu nhập cá nhân mà còn chú trọng đến các thành viên trong gia đình. Cùng một mức thu nhập nhưng khoản nộp thuế của một đôi vợ chồng có con nhỏ và một đôi vợ chồng không có con chênh lệch khá nhiều.
Người có thu nhập cao là đối tượng chủ yếu nộp thuế. 60% tổng nguồn thuế thu nhập cá nhân ở Mỹ thu từ người có thu nhập 100.000 USD (1,58 tỷ đồng Việt Nam) mỗi năm trở lên. Công dân trong diện đóng thuế phải khai thu nhập trước ngày 15-4 hàng năm.
- Pháp: Thu nhập cao, đóng thuế nhiều
Luật quy định công dân Pháp và những người tạm trú từ sáu tháng trở lên tại nước này (bất luận quốc tịch nào) có chức nghiệp và lợi ích kinh tế tại Pháp đều phải kê khai và đóng thuế.
Thu nhập càng cao, tỷ lệ nộp thuế sẽ càng nhiều. Lấy ví dụ một người độc thân: thu nhập hàng năm dưới 4.191 euro (82 triệu đồng Việt Nam) không phải đóng thuế; thu nhập từ 4.192 đến 8.242 euro (82 triệu - 162 triệu đồng Việt Nam) đóng thuế 7,05%. Tỷ lệ này tăng dần lên cho đến mức thu nhập từ 47.131 euro ( 925 triệu đồng Việt Nam) trở lên phải nộp thuế 49,585%.
Trên thực tế, mức thu thuế còn dựa vào tình trạng gia đình, con cái của cá nhân người nộp.
- Đức: Điều chỉnh thuế hàng năm
Theo luật của Đức, cư dân thường trú và cư dân nước ngoài không thường trú nhưng có nguồn thu nhập tại Đức đều phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Tỷ lệ nộp thuế không giống nhau. Thu nhập càng cao, tỷ lệ nộp thuế càng nhiều. Đức điều chỉnh tỷ lệ thu thuế hàng năm. Đức cũng căn cứ vào tình trạng gia đình của cá nhân để thu thuế. Thuế thu nhập cá nhân chiếm 1/3 nguồn thu hàng năm của Đức.
Năm 2004, người độc thân có thu nhập mỗi năm từ 7.664 Euro (150 triệu đồng Việt Nam) trở lên phải nộp thuế. Thu nhập phải nộp thuế đối với người có gia đình là 15.328 Euro (300 triệu đồng Việt Nam), gấp đôi thu nhập của người độc thân.
Các trường hợp sau đây sẽ được giảm thuế: (1) Người có gia đình có con dưới 18 tuổi hoặc dưới 27 tuổi nhưng vẫn còn đi học và không có thu nhập; (2) Quyên góp cho các khoản từ thiện và chính trị của Chính phủ; (3) Cần chi tiêu nhiều, bất khả kháng như bị bệnh.
Tại Đức, những người thuê mướn lao động chi trả tiền lương cho nhân viên thông qua ngân hàng. Nhà nước thông qua ngân hàng để khấu trừ thuế và điều chỉnh tỷ lệ nộp thuế hàng năm. Những người có việc làm đều phải tham gia ba loại bảo hiểm: bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm hưu trí và bảo hiểm y tế. Người thuê mướn lao động và người lao động cùng nhau thanh toán.
- Singapore: nước có tỷ lệ nộp thuế thấp nhất
Singapore có hệ thống thuế thu nhập cá nhân tương đối hoàn thiện. Mọi công dân trong diện nộp thuế đều phải kê khai thu nhập với cơ quan thuế trước ngày 15-4 hàng năm như ở Mỹ.
Tỷ lệ thuế thu nhập cá nhân của Singapore từ 0% đến 22%, bao gồm: thu nhập kiếm được tại Singapore và thu nhập nước ngoài gửi về cho công dân Singapore. Thu nhập phải nộp thuế bao gồm tiền lương, cổ tức và lợi tức. Trong đó, tiền lương bao gồm tiền công, hoa hồng, phụ cấp kỳ nghỉ…
Thu nhập nước ngoài chuyển đến cho người không thường trú tại Singapore không phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Singapore cũng khấu trừ thuế cho những trường hợp như phải nuôi dưỡng bố mẹ, học thêm để nâng cao kiến thức chuyên môn, mua bảo hiểm nhân thọ hoặc phải nuôi ba con trở lên.
- Trung Quốc: Sửa luật thuế cân bằng giàu nghèo
Theo thống kê năm 2001, trong số 7.000 tỷ nhân dân tệ gửi trong ngân hàng, có tới 80% của người giàu trong khi họ chỉ chiếm 20% số lượng người gửi tiền và chỉ nộp 10% số tiền trên cho cục thuế.
- Ngày 01/9/2005, luật thuế sửa đổi sẽ chính thức có hiệu lực. Từ nay về sau, người có thu nhập trên 1.500 nhân dân tệ (ba triệu đồng Việt Nam) mới phải đóng thuế thu nhập cá nhân, tăng lên so với mức thu nhập phải đóng thuế trước kia là 800 nhân dân tệ (1,6 triệu đồng Việt Nam). Tỷ lệ đóng thuế cũng sẽ được nâng lên đối với người có mức thu nhập cao.
Theo báo Global Times, những người giàu ở Trung Quốc đóng thuế thu nhập cá nhân nhẹ nhất thế giới. Việc sửa đổi luật thuế có tác dụng cân bằng khoảng cách giàu nghèo của công dân nước này.
(Theo Pháp luật TP.HCM)18:19' 30/09/2005 (GMT+7)
Phần 3:
ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1. Đánh giá chung:
Luật thuế TNCN ra đời đánh dấu một nỗ lực rất lớn của Nhà nước ta, đã luật hóa được pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã được ấp ủ hơn 17 năm qua. Luật thuế TNCN được chuẩn bị, xây dựng rất kỹ lưỡng, lấy ý kiến của nhân dân từ hơn 3 năm qua. Tuy nhiên, đây cũng là sắc luật gây nhiều tranh cãi nhất từ trước đến nay. Luật thuế TNCN là một sắc thuế quan trọng nhằm tiến tới công bằng xã hội khi nó đảm bảo cho mọi người bình đẳng về nghĩa vụ đối với đất nước và tạo điều kiện cho mọi người tự giác đóng thuế để tăng ngân sách nhà nước, củng cố an ninh - quốc phòng, tăng cường an sinh xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, Luật thuế TNCN cũng còn có những rào cản và sự phức tạp, chưa phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Các nhà soạn luật cần tính toán và điều chỉnh lại cho phù hợp, nhằm tăng tính khả thi của luật, thu hút sự đồng tình ủng hộ của mọi thành phần trong xã hội để họ tự nguyện kê khai và nộp thuế, đảm bảo sự công bằng xã hội, an sinh xã hội.
2. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật thuế thu nhập cá nhân
2.1. Trong ngắn hạn
- Cần xây dựng cơ sở hạ tầng về kinh tế, xã hội của nước ta tiên tiến, phù hợp với chuẩn quốc tế. Xây dựng cơ sở pháp lý về thanh toán, kiểm soát nguồn thu đồng bộ, hiện đại hóa hệ thống ngân hàng, ràng buộc mọi người, mọi tổ chức thanh toán, chuyển tiền qua hệ thống ngân hàng nhằm kiểm soát được thu nhập của cá nhân, tổ chức, từ đó mới có cơ sở để đánh thuế TNCN, đảm bảo tính công bằng trong việc thu nộp thuế.
- Nâng mức khởi điểm bắt đầu phải chịu thuế thu nhập cá nhân lên 7 triệu đồng/tháng cho người nộp thuế, giảm trừ thêm cho mỗi người phụ thuộc 2,8 triệu đồng/tháng nhằm đảm bảo cho người dân có cơ hội tích lũy, có thêm thu nhập để chi phí học tập thêm, tham gia các nhu cầu giải trí, du lịch và đặc biệt là trang trải các khoản chi phí lớn hàng chục triệu đồng cũng như cơ hội tích luỹ để mua nhà.
- Trong giảm trừ gia cảnh nên tính đến giảm trừ cho những người có nhu cầu đi học tiếp để nâng cao trình độ như đại học, cao học, nghiên cứu sinh ... nhằm khuyến khích mọi người dân học tập, nâng cao trí tuệ, nhằm góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Luật thuế TNCN nên phân vùng theo tỷ lệ chênh lệch như đã quy định mức lương tối thiểu nhằm đảm bảo cho người dân và công chức sống tại các khu đô thị giải tỏa những áp lực giá, phí, lệ phí, thuế... cao hơn các vùng khác.
- So sánh với mức thuế suất, sự bất hợp lý còn rõ hơn khi mức thuế đều rất cao. Cách đánh thuế luỹ tiến cao (bậc 7 lên đến 35%) thực chất sẽ phản tác dụng khi làm xói mòn sự hăng say làm giàu chính đáng; giảm năng suất lao động. Sẽ thật bất công nếu như người ta càng vắt óc, vắt sức ra để kiếm được nhiều tiền lại càng bị đánh thuế cao.
- Nên bỏ các mức thuế luỹ tiến 5,6,7 trong bậc luỹ tiến (tương đương với mức 25%, 30% và 35%) nhằm khuyến khích sự hăng say làm giàu chính đáng, tăng năng suất lao động. Nên tham khảo Luật thuế TNCN của Singapore - một hiện tượng phát triển kinh tế của Châu Á.
- Cải cách thủ tục hành chính, giảm bớt các biểu mẫu, thủ tục xác minh, xác nhận nhằm hạn chế tiêu cực có khả năng phát sinh từ việc xác nhận các thủ tục giảm trừ gia cảnh...
- Chưa nên đánh thuế TNCN đối với thị trường chứng khoán, vì đây là thị trường non trẻ, mới hình thành nên cần khuyến khích, tạo điều kiện phát triển. Tham khảo các quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực như Hồng Kông, Singapore, Thái Lan... không đánh thuế vào chuyển nhượng chứng khoán, còn Trung Quốc thì áp dụng mức thuế rất thấp.
- Cơ quan thuế cũng cần bổ sung quy định "bù trừ" trong việc chồng thu nhập cao thì có thể bù cho vợ thu nhập thấp hoặc không có thu nhập.
- Cơ quan thuế nên bãi bỏ khâu quyết toán thuế nếu xét thấy đối tượng sau khi giảm trừ không còn phải nộp thuế.
- Cơ quan thuế cần có sự thay đổi trong việc tuyên truyền cho dân hiểu về chính sách thuế. Cụ thể, thuế là "trách nhiệm", "nghĩa vụ" đóng góp, chứ không phải là "quyền lợi" hay "tinh thần tự giác". Đây chính là sự rõ ràng về chính sách. Bên cạnh đó, chính sách thuế phải có sự trung lập; không nên thưởng, phạt ai, mà cần thực hiện theo luật.
2.2. Trong dài hạn
- Cần xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội tiên tiến, xây dựng cơ sở pháp lý phù hợp, xây dựng đề án hạn chế dùng tiền mặt của người dân.... Tuyên truyền người dân hạn chế sử dụng tiền mặt trong sinh hoạt.
- Khi nền kinh tế ổn định, mức sống của người dân cao, trình độ dân trí, ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ của người dân về thuế được nâng cao, khi đó sẽ áp dụng các mức thu thuế lũy tiến cao.
KẾT LUẬN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số bất cập khi thực thi Luật Thuế Thu nhập cá nhân ở Việt Nam.doc