PHẦN I : MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Đất nước ta bước sang một thiên niên kỷ mới, một thời kỳ đổi mới nền kinh tế xã hội đòi hỏi phải có con người mới xã hội chủ nghĩa - đó là những con người có nhận thức đúng đắn, có quan điểm sống tích cực để điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với xã hội.
Giáo dục mầm non là nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân, đối tượng của giáo dục mầm non là trẻ em từ 0 đến 6 tuổi. Đây là một thực thể tự nhiên, bước đầu vào xã hội, dần dần trở thành “người”, trở thành con người có ích cho xã hội, chiến lược giáo dục con người mới trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục về mọi mặt. Chính vì vậy việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo vô cùng quan trọng và cần thiết, nó tạo ra những tiền đề đầu tiên cho sự hình thành nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa. Nếu như ta không tiến hành giáo dục trẻ ở lứa tuổi mầm non thì sang giai đoạn sau khó có thể hình thành cho trẻ những nét phẩm chất tâm lý đạo đức bền vững để lĩnh hội những tri thức chuẩn mực xã hội.
Trong thực tiễn hiện nay, việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ được chú ý đến, mặc dù ngành học mầm non đã đưa nội dung chương trình giáo dục lễ giáo đã được nhiều năm nay nhưng nội dung giáo dục chưa đầy đủ. Các biện pháp giáo dục của giáo viên còn mang tính áp đặt, tản mạn, không lô gích, gò ép trẻ. Chính vì thế hiệu quả của giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ chưa cao đặc biệt là cho trẻ mẫu giáo nhỡ. Nhiều trẻ ở độ tuổi này chưa có thái độ ứng xử đúng trong khi giao tiếp cho phù hợp với chuẩn mực xã hội, nhận thức đúng sai còn hạn chế. Chính vì thế qua thời gian học tại khoa Giáo dục mầm non - Trường đại học sư phạm Hà Nội tôi đã được các thầy cô giáo giảng dạy hướng dẫn cho thấy rõ việc giáo dục thế hệ trẻ ở lứa tuổi mầm non cần được chăm sóc giáo dục để tạo nên những con người mới xã hội chủ nghĩa có phẩm chất đạo đức, có khả năng và có thể lực cường tráng để phù hợp với thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Vì vậy, để nâng cao chất lượng giáo dục “giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ” tôi chọn đề tài:
“Một số biện pháp để luyện phát âm đúng cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi ở Huyện Yên Thuỷ - Tỉnh Hoà Bình” nhằm chỉ ra những biện pháp cụ thể, xây dựng những tiêu chí hợp lý góp phần nhân cách hiệu quả giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ tạo cơ sở ban đầu để hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ.
38 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 11218 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số biện pháp để luyện phát âm đúng cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi ở Huyện Yên Thuỷ - Tỉnh Hoà Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sự là quá trình tác động đáng kinh ngạc, những chuỗi cười không dứt, những hành động đa dạng vẫn không giới hạn, khi cùng với bạn trẻ vẫn dễ so sánh hơn, dễ thể hiện mình hơn và nắm được nhiều tri thức, kỹ năng trong hoạt động chung.
Giao tiếp trẻ em vơí trẻ em xuất hiện giữa và dưới nhiều hình thức khác nhau với sự phức tạp dần và ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong sự hình thành tâm lý và nhân cách trẻ.
- Giao tiếp thực hành xúc cảm: Xuất hiện ở trẻ 3 - 4 tuổi, đặc trưng của hình thức giao tiếp này là: Trẻ muốn có bạn cùng chơi cho vui hơn chứ chưa có sự phối hợp hành động Giao tiếp này thể hiện ở chỗ các thành viên đều muốn trẻ khác chú ý đến mình và đánh giá hành động của mình, tìm mọi cách để phô diễn khả năng của mình nhưng không cho bạn can thiệp vào công việc của mình, chúng không lắng nghe lẫn nhau nên không có sự đồng cảm lẫn nhau nên dễ thể hiện tình cảm tiêu cực. Vì vậy, khi tổ chức các hoạt động này người lớn cần dự tính trước những xung đột có thể xảy ra, dạy trẻ nhận biết nhân cách của bạn vì đây là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá sự giao tiếp của con người, tuy có một số hạn chế nhất định nhưng hình thức giao tiếp này có tác dụng phát triển tính năng động, tích cực, sáng tạo và hình thành sự tự giác của trẻ.
Giao tiếp công việc tình huống xuất hiện ở trẻ 4 tuổi, ở tuổi này nhu cầu giao tiếp của trẻ tăng lên, đặc biệt là trong trò chơi thể hiện rất rõ nhu cầu giao tiếp này. Trẻ có xu hướng động tác làm việc với nhau, có trách nhiệm với công việc chung mặc dù mỗi trẻ thực hiện một phần công việc riêng nhưng phải phối hợp chặt chẽ để đạt mục đích chung. Trong giai đoạn này trẻ thường nhìn nhận bản thân qua thái độ của bạn, đồng thời nhận ra thái độ của bạn qua ánh mắt, nét mặt, lời nói, hành động. Thái độ cuả bạn có thể khích lệ những hành vi tích cực, ngược lại có thể gây ra những hành vi tiêu cực cho nên cần có sự quan tâm định hướng của người lớn trong quá trình tổ chức các hoạt động cùng nhau của trẻ. Chính giao tiếp các công việc đã tập hợp trẻ thành một nhóm chơi cùng tuổi hoặc khác tuổi, thể hiện rõ trong trò chơi đóng vai, chủ đề. Sự tham gia vào công việc chung đã tạo ra những phẩm chất đặc biệt ở trẻ mà A.UXOVA gọi là “tính xã hội”. Đó là năng lực tham gia vào trò chơi chung, hành động phù hợp trong xã hội đó, thiết lập quan hệ với trẻ khác, phục tùng những yêu cầu của thế giới trẻ em. Đây là những phẩm chất nhân cách cần thiết của con người lao động trong tương lai.
Tóm lại: giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo có vai trò rất quan trọng và giao tiếp với người lớn là cơ sở, tiền đề cho quá trình giao tiếp của trẻ sau này. Do đó, người giáo viên phải có những biện pháp, phương tiện nhằm mở rộng quan hệ giao tiếp cho trẻ, Đồng thời giáo viên cũng phải gần gũi với trẻ, giúp trẻ tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong cuộc sống và trong giao tiếp sau này.
4. Phương tiện giao tiếp của trẻ mầm non.
Giao tiếp là sự trao đổi thông tin giữa hai hay nhiều người. Nó bao gồm sự gửi thông tin phản hồi để sử dụng trong giao tiếp hàng ngày, các thông tin gửi đi cần có nghĩa và phải hiểu được các thông tin của đối tượng giao tiếp có thể lĩnh hội được qua hành vi giao tiếp thực của họ với các phương tiện lời nói và hành động thể hiện bằng nét mặt, cử chỉ, giọng nói, nhịp độ và không gian giao tiếp. Đó là các phương tiện giao tiếp, giao tiếp được thực hiện bằng phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.
4.1 Giao tiếp bằng phương tiện ngôn ngữ :
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp đặc thù quan trọng, theo tâm lý học Xô Viết ngôn ngữ có nhiều chức năng : chức năng thông báo, chức năng truyền đạt thông tin, chức năng biểu cảm qua giọng điệu cấu âm và các biện pháp tu từ, từ đó biểu lộ tình cảm nhu cầu, thái độ của mình; chức năng tác động: sự tác động bằng ngôn ngữ có thể làm thay đổi trạng thái tâm lý, tình cảm và động cơ hành động của con người, tạo nên sự đồng tình từ hai phía. Trong giao tiếp có thể dùng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết nhưng ngôn ngữ nói là cơ bản.
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ có những nét đặc trưng riêng biệt, vì ngôn ngữ không phải là chức năng bẩm sinh nên muốn sử dụng được ngôn ngữ phải qua quá trình đào tạo, rèn luyện lâu dài và phức tạp. Quá trình nắm lấy ngôn ngữ phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
- Yếu tố sinh lý: Gồm cơ quan phát âm và thính giác giúp con người nói và nghe được.
- Yếu tố tâm lý: Sự phát triển chức năng ngôn ngữ của trẻ em có mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển tư duy, ý chí, tình cảm , trí nhớ…
- Yếu tố xã hội: Tiếp thu ngôn ngữ là quá trình tập luyện dưới sự hướng dẫn của người lớn. Cha mẹ, ông bà, anh ch, thầy cô giáo và những người gần gũi xung quanh trẻ là tập thể ngôn ngữ tạo nên xã hội mà trẻ cùng chung sống. Trải qua quá trình rèn luyện lâu dài và phức tạp, kỹ năng ngôn ngữ của trẻ được hình thành. Quá trình này được chia làm hai giai đoạn:
* Giai đoạn chuẩn bị: (giai đoạn tiền ngôn ngữ trước 1,5 tuổi)
Trong đó chỉ xuất hiện một số dấu hiệu báo trước các chức năng ngôn ngữ đã hình thành và giai đoạn phát triển (giai đoạn ngôn ngữ trước 1,5 đến 6 tuổi). giai đoạn này tính chất thực sự của ngôn ngữ nảy sinh và phát triển đến lúc trẻ có thể nói được như người lớn.Sự phát triển khả năng ngôn ngữ ở trẻ không phải là quá trình ngẫu nhiên mà có các quy luật nhất định. Vì vậy, để trẻ có thể sử dụng ngôn ngữ một cách dễ dàng trong giao tiếp cần tìm hiểu quy luật phát triển đó, ở trẻ khả năng hiểu đi trước khả năng nói. Việc hiểu chẳng qua là một phản xạ đối với một ấn tượng thính giác tổng quát. Việc học nói cũng vậy, tiếng nói bập bẹ đầu tiên là bản nhạc giàu âm điệu nhưng rối mớ lộn xộn. Sau này, dưới những ảnh hưởng của mọi người xung quanh lần lượt xuất hiện một số yếu tố tạo nên một loại từ trong vốn ngôn ngữ của trẻ, nội dung ý nghĩa của từ của câu cũng dần tách ra, cho nên các nhà ngôn ngữ cho rằng dạy trẻ nói trước hết là tìm hiểu các ấn tượng tổng quát như có tác động mạnh mẽ vào điều cần uốn nắn.
Việc tiếp thu ngôn ngữ của trẻ không biểu hiện một cách riêng rẽ mà gắn liền với sự phát triển khác như năng lực cảm thụ, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy … do đó, cần taọ mối quan hệ thường xuyên giữa các điều mà trẻ em thấy được và từ ngữ các em nghe được giữa hệ thống tín hiệu I và hệ thống tín hiệu II. Hơn nữa trong quá trình thích ứng với thế giới bên ngoài trẻ luôn đòi hỏi sự hiểu biết những gì các em nghe nhìn và tự thể nghiệm. Cho nên cần có kế hoạch cho trẻ tiếp xúc với môi trường bên ngoài để mở rộng tầm nhìn, nhận thức. Đồng thời, cũng là dịp thúc đẩy ham muốn tích luỹ từ ngữ tạo điều kiện cho vốn từ phát triển một cách tự nhiên.
Trẻ em hay bắt chước người lớn về mọi mặt: lời nói, cử chỉ, hành động, tác phong… Do đó, người lớn phải chú ý noí năng cho đúng, phát âm chính xác, rõ ràng có chọn lọc, dùng câu đúng quy tắc ngữ pháp, lời nói phải có tính biểu cảm kỹ năng ngôn ngữ của trẻ. Kỹ năng ngôn ngữ của trẻ còn được hình thành và phát triển qua các trò chơi. Đây là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo, trong khi chơi trẻ phải dùng từ chỉ hành động của mình, chỉ đồ vật trong trò chơi, phải giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ để phối hợp hành động, để giao ước với những người cùng tham gia. Tính chất sôi nổi của trò chơi nghệ thuật, diễn cảm của lời nói một cách tự nhiên.
Như vậy, ngôn ngữ trẻ em nảy sinh và phát triển không phải vì bản thân nó mà vì nhu cầu thích ứng với hoàn cảnh khách quan, nhu cầu tự khẳng định, nhu cầu hoạt động …Việc thoả mãn những nhu cầu đó tạo điều kiện ngôn ngữ phát triển và nảy sinh.
Do vậy, cần cho trẻ được quan sát nhiều hơn, kết hợp với trò chuyện để giúp trẻ sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp được tốt. Trong giao tiếp với trẻ người lớn cần sử dụng ngôn ngữ giàu hình tượng, sử dụng các ngôn ngữ, tục ngữ tạo điều kiện cho trẻ được làm quen với ngôn ngữ đậm đà và thuần tuý dân tộc.
Việc hình thành kỹ năng ngôn ngữ cho trẻ em bao gồm phát âm, tích luỹ vốn từ nói thành câu hoàn chỉnh.
Nghiên cứu quá trình xây dựng kỹ năng phát âm của trẻ cho thấy trẻ em tỏ ra rất nhạy bén trong việc tiếp thu đặc điểm và cách phát âm của những người xung quanh. Do đó phải tạo ra một môi trường mới với sự phát âm đúng quy cách. Đồng thời do sự phát âm của trẻ từ 2 - 6 tuổi chưa thật ổn định và chính xác nên cần thường xuyên theo dõi cách phát âm của trẻ khi nói chuyện với chúng, sớm cho trẻ có ý thức đầy đủ về cách phát âm đúng. Để giúp trẻ phát âm đúng cần tổ chức các tiết học rèn luyện về ngữ âm, cho trẻ kết hợp với dẫn chuyện, kể chuyện, đọc thơ và các trò “thách, nói”làm cho trẻ có cách phát âm đúng, rõ ràng và thêm phần diễn cảm.
Tích luỹ vốn từ: tốc độ phát triển vốn từ của trẻ không đều nhau có phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Quan trọng nhất là môi trường, vốn từ của trẻ em sẽ tăng nhanh khi được nghe người xung quanh nói nhiều, được người lớn chú ý gợi chuyện thường xuyên đối với trẻ. Những từ chỉ khái niệm cụ thể để lĩnh hội dễ tiếp thu hơn so với những từ chỉ khái niệm cụ thể trừu tượng. Vì vậy, để giúp đỡ trẻ lĩnh hội từ loại này cần có sự vật, hiện tượng cụ thể để minh họa cho những khái niệm đó hoặc dùng phương pháp kể chuyện để giúp trẻ lĩnh hội một số yếu tố của hệ thống tín hiệu thứ II nhưng vẫn giữa được nguyên tắc cơ bản là cái trừu tượng phải xây dựng trên cái cụ thể.
Tóm lại: Dạy trẻ nắm chắc một từ phải tạo cho trẻ cách phát âm đúng và hiểu đúng nghĩa của từ, sử dụng từ đúng cách nghĩa là sử dụng từ trong câu. Nói thành câu hoàn chỉnh khi lĩnh hội câu qua lời nói của người lớn sẽ tiếp thu những mô hình câu mà dần dần chúng sẽ rút ra. Vì vậy, phải cho trẻ làm quen với các loại mô hình khác nhau không có nghĩa là phân tích cho chúng thấy những câu gồm có chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ được sắp xếp theo một thứ tự nhất định mà bằng lời nói cụ thể người lớn sẽ trình bày lặp đi, lặp lại một cách có ý thức, có mô hình. Những câu dùng làm mẫu để nghe rồi nhận thức,bắt chước rồi sẽ ghi vào ký ức lúc nào không hay để đến khi vận dụng một cách tự nhiên, đúng luật lệ. Trên thực tế dạy phát âm, dạy từ không tách rời nhau.
Trong giao tiếp ngoài việc biết nói đúng, cần phải biết nói hay, diễn cảm để người nghe không những hiểu ý mà còn phải nhận được tình cảm của ta nữa. Tình cảm qua lúc nói chuyện thể hiện qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ của người nói. Riêng ngôn ngữ với những đặc thù tự có cũng có khả năng biểu đạt tình cảm để giúp trẻ nói một cách có tình cảm với người lớn, cần phải có phương thức diễn đạt tình cảm của ngôn ngữ . Cần có kế hoạch quan sát cuộc sống, thực hiện cho trẻ với mục đích rèn luyện ngôn ngữ diễn cảm của trẻ, cho trẻ tiếp thu với thiên nhiên bởi vì cái đẹp của thiên nhiên dễ tiếp xúc và gợi lên cho trẻ những cảm xúc phong phú sâu sắc, là cơ sở cho kỹ năng và thể hiện ngôn ngữ hay và đẹp.
Để tạo điều kiện cho việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ, giáo viên mầm non phải luôn nâng cao tính tích cực giao tiếp của trẻ, giáo viên tích cực giao tiếp với trẻ, tạo điều kiện cho trẻ được giao tiếp, bộc lộ hiểu biết ý muốn của mình với bạn bè, với người lớn xung quanh. Cho trẻ tự nhận xét, đánh giá về mình về những nhân vật trong truyện và những người xung quanh. Dạy trẻ văn hoá giao tiếp là dạy trẻ các thành phần văn hoá giao tiếp. Văn hoá giao tiếp giúp cho ngôn ngữ sống động linh hoạt, có tính thực tiễn và tính sử dụng. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là các chuẩn mực, các hành vi văn hoá giao lưu.
Vì vậy, phát triển ngôn ngữ cho trẻ là góp phần giáo dục thẩm mỹ đạo đức dạy ngôn ngữ là dạy người.
4.2 Giao tiếp phi ngôn ngữ
Giao tiếp phi ngôn ngữ là những thông điệp giao tiếp không phải bằng lời, các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ hoặc là đi kèm theo ngôn ngữ, hoặc là xuất hiện một cách độc lập thay thế ngôn ngữ. So với ngôn ngữ các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ nghèo nàn hơn, đơn điệu hơn, đôi khi mang tính chất mập mờ, nhưng trong nhiều trường hợp có ý nghĩa rất quan trọng trong giao tiếp. Để có thể hiểu được các tín hiệu phi lời và biết sử dụng nó qua lời trong quá trình giao tiếp cần phân biệt các dâú hiệu phi lời và biết sử dụng nó qua lời trong quá trình giao tiếp. Cần phân loại các dấu hiệu phi lời: phân loại chủ yếu dựa vào các giác quan phi lời nhận chúng bao gồm thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác.
Để có thể sử dụng các yếu tố phi lời trong giao tiếp ta hay xem xét một số yếu tố phi lời được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp:
- Nét mặt: Trong giao tiếp nét mặt giúp chúng ta nói rất nhiều điều, nhìn gương mặt để phỏng đoán người sâu sắc hay nông cạn, người siêng năng hay đần độn, ở nét mặt thể hiện suy nghĩ và hành động rõ nhất là cặp mắt và cái miệng tức là ánh mắt và nụ cười trong giao tiếp, nhiều khi cặp mắt mang thông tin gần bằng hoặc hơn cả lời nói, nó phô bày tâm trạng diễn đạt tình cảm.
- Nụ cười: Là một cử chỉ báo phi ngôn ngữ quan trọng, cần phải biết cười hồn nhiên, tránh cười gượng, cười vô vị, cười thương hại. Muốn có nụ cười tự nhiên phải biết yêu đời, nó là biểu hiện của sức khoẻ và hạnh phúc. Một đứa trẻ ốm yếu và bệnh tật trong người hoặc trong gia đình trẻ có chuyện gì buồn chẳng hạn bỏ nhau thì trên gương mặt trẻ không thể có một nụ cười hồn nhiên, tự tin.
- Tư thế: Tư thế hay còn gọi là sơ đồ thân thể, các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ phi giao tiếp cho rằng: Mỗi sự thể của hình dáng có thể là biểu hiện một ý tưởng, một người có sức khỏe về thể chất và nghị lực bao giờ cũng đi đứng đàng hoàng không cúi đầu lom khom…Trẻ cần phải chú ý uốn nắn, sửa sai tư thế để giúp trẻ có được tư thế tự nhiên, đàng hoàng thoải mái khi ngồi, đi đứng và trong mọi hoạt động.
VD: Khi trẻ đến lớp hoặc khi ra về phải đi đứng đàng hoàng, mắt nhìn vào cô và khoanh tay chào cô
- Cử chỉ: Cử chỉ bao gồm cử động chân tay, nếu cử chỉ hấp tấp vội vàng khi đi đứng hành động, nói năng thì nội tâm có điều bất an, khi giao tiếp cử chỉ của con người phải tự nhiên, thân thiết không nên kiểu cách thân mật đến suồng sã.
Muốn dạy trẻ cử chỉ đẹp đẽ người lớn cần gương mẫu trước mặt trẻ. Đồng thời uốn nắn trẻ ở mọi lúc, mọi nơi. VD : Trong khi ăn phải lấy tay che miệng nếu bị hắt hơi và phải quay ra ngoài.
- Khoảng cách: Là một dấu hiệu của giao tiếp phi ngôn ngữ, khoảng cách nói lên quan hệ ít hay nhiều, tính chất nghi thức nhiều hay ít. Có trẻ khi được cha mẹ đón thì đứng ở cửa lớp chào cô trong khi cô đứng ở cuối lớp, giáo viên phải uốn trẻ không được chào cô như vậy, phải đến gần cô để chào cô và cô phải quay mặt lại với trẻ, có như vậy hành vi giao tiếp của trẻ mới thực sự là hành vi có văn hoá.
- Trang phục: Thể hiện cách ăn mặc trong khi giao tiếp, trang phục của người có văn hoá thể hiện ở chỗ ăn mặc gọn gàng, quần áo sạch sẽ. Không ai có thiện cảm với người đầu tóc bù xù, trang phục thì cẩu thả.
Khung cảnh tự nhiên: Đây cũng là một thành tố có vai trò nhất định trong giao tiếp. Trong lớp cô trang trí lớp, sắp xếp cho đẹp, khoa học.Trang trí ảnh đẹp, phù hợp với lứa tuổi và tầm nhìn của trẻ. Lớp học phải sạch đẹp, thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông, khung cảnh lớp như vậy cũng tạo ra cho trẻ trong quá trình giao tiếp được tốt hơn.
Tóm lại: Trong quá trình giao tiếp cả người nói và người nghe đều sử dụng tín hiệu phi ngôn ngữ. Người nói dùng các tín hiệu không lời cho các thông điệp bằng lời có thêm sức mạnh. Người nghe dùng các tín hiệu phi ngôn ngữ để diễn giải dụng ý của người nói, cảm giác của người nói và để có kết luận về nhân cách của người nói. Trẻ em cũng vậy khi giao tiếp trẻ cũng dùng các tín hiệu phi ngôn ngữ. Cho nên là một giáo viên mầm non cần chú ý uốn nắn, sửa sai cho trẻ trong khi giao tiếp.
II. Cơ sở thực tiễn của giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo nhỡ.
1. Mục đích khảo sát:
Chúng tôi tiến hành thực tiễn nhằm xác định rõ tình hình giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mầm non và mức độ hình thành văn hoá giao tiếp cho trẻ mẫu giáo nhỡ
2. Nội dung khảo sát:
2.1 Khảo sát thực trạng công tác giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo.
Nội dung có trong ankét (phần phụ lục)
2.2 Khảo sát mức độ hình thành văn hoá giao tiếp của trẻ mẫu giáo nhỡ.
Nội dung có trong phần phiếu hỏi trẻ (phần phụ lục)
3. Thang đánh giá:
3.1 Thang đánh giá trình độ nhận thức của trẻ về giao tiếp có văn hoá được chia làm 3 mức độ.
- Mức độ cao: Trẻ trả lời đúng và đầy đứng xử
- Mức độ trung bình: Trẻ trả lời chưa đầy đủ hoặc còn sai sót.
- Mức độ thấp: Trẻ không trả lời được.
3.2 Thang đánh giá về trình độ và hành vi giao tiếp có văn hoá cũng được chia làm 3 mức độ.
- Mức độ cao: Thực hiện đúng và thường xuyên.
- Mức độ trung bình: Thực hiện đúng nhưng chưa thường xuyên.
- Mức độ thấp: Không thực hiện
Cách cho điểm:
- Mức độ cao: Từ 15 đến 20 điểm
- Mức độ trung bình: Từ 0 đến dưới 15 điểm
- Mức độ thấp: Từ 0 đến dưới 10 điểm
4. Phương pháp khảo sát:
Để khảo sát thực trạng hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo nhỡ chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Điều tra bằng ankét (đối với giáo viên).
- Phỏng vấn (đối với trẻ)
- Quan sát trẻ và giáo viên
5. Kết quả khảo sát:
5.1 Thực trạng về mức độ giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo nhỡ.
Chúng tôi tiến hành khảo sát 30 giáo viên ở hai trường mẫu giáo trong huyện Yên Thuỷ và 100 trẻ mẫu giáo nhỡ (4 - 5 tuổi) của hai trường mầm non khu vực và xã Yên Lạc.
Bảng 1: Khảo sát trình độ nhận thức và hành vi của trẻ 4 - 5 tuổi về các chuẩn mực hành vi giao tiếp có văn hoá.
STT
CÁC CHUẨN MỰC HÀNH VI
TRÌNH ĐỘ NHẬN THỨC VÀ HÀNH VI
NHẬN THỨC
HÀNH VI
1
Khi gặp hoặc chia tay với bạn, cô, cha, mẹ cháu phải làm gì? phải nói những gì?
1.78 (tốt)
1.30 (TB)
2
Nếu chẳng may cháu làm hỏng đồ chơi của bạn hoặc làm bạn bị ngã hay muốn đi qua trước mặt bạn cháu phải nói gì?
1.58(tốt)
1.24(TB)
3
Khi được cô, cha mẹ, anh chị giúp đỡ cháu phải làm gì?
1.70 (tốt)
1.20 (TB)
4
Nếu cháu muốn lấy đồ dùng, đồ chơi của bạn (hoặc của lớp), muốn nhờ bạn hoặc cô giúp đỡ cháu phải làm gì?
5
Cháu phải nói năng, xưng hô với bạn và người lớn, em nhỏ như thế nào?
1.51`(tốt)
0.60(TB)
6
Khi nhận hoặc đưa đồ vật cho người khác cháu phải nhận hoặc đưa như thế nào? phải nói gì?
1.37(tốt)
0.50 (yếu)
7
Đã bao giờ cháu hứa với mẹ, cô, anh chị… điều gì chưa?
1.65(tốt)
0.50 (yếu)
8
Nếu cháu và nhiều bạn khác cùng thích một đồ chơi nhưng không có đủ cho mỗi cháu thì cháu phải nói gì và làm gì?
1.10 (TB)
0.45 (yếu)
9
Khi chuẩn bị đi dạo ngoài trời nếu thấy bạn không đi giày được hoặc không mặc áo được cháu phải làm gì? nói gì với bạn đó?
1.25 (TB)
0.40 (yếu)
10
Khi thấy cô hoặc bố mẹ đang nói chuyện riêng thì cháu có thích lại gần và nói chuyện với họ không ?
1.20(TB)
0.55 (yếu)
Kết quả
160 (tốt)
0.45(yếu)
Từ bảng trên tôi có một số nhận xét như sau:
- Về nhận thức:
+ Các chuẩn mực nhận thức 1.2.3.4.5.10 được trẻ nhận thức tốt, các chuẩn mực đaọ đức này đạt từ 1,51 đến 1,78 điểm (60%).
+ Các chuẩn mực nhận thức 5.7.8.9 là các chuẩn mực nhận thức thấp hơn, các chuẩn mực đạt từ 1,10 đến 1,37 điểm (40%)
- Về hành vi: Đa số trẻ về các chuẩn mực hành vi còn thấp chiếm 70% loại yếu và 30% loại TB. Điều đó chứng tỏ rằng trẻ nhận thức một đằng và hành động một nẻo.
Nhận thức và hành vi về các chuẩn mực giao tiếp có văn hoá không tương xứng với nhau. So sánh mức độ đánh gía và hành vi giao tiếp của trẻ ở các chuẩn mực sau:
+ Chuẩn mực 1: Về nhận thức của trẻ đạt 1,78 điểm (loại tốt) nhưng về hành vi chỉ đạt 1,3 điểm (loại trung bình)
+ Chuẩn mực 2 và 3 về nhận thức đạt loại tốt nhưng về hành vi chỉ đạt loại trung bình. Điều này chứng tỏ trẻ nhận thức tốt, trả lời được các câu hỏi của cô đặt ra nhưng việc thực hiện các chuẩn mực đó chưa được thường xuyên.
+ Các chuẩn mực 4.6.10 trẻ nhận thức tốt nhưng về hành vi văn hoá chỉ đạt yếu. Điều này chứng tỏ trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày trẻ không thực hiện.
+ Các chuẩn mực 5.7.8.9 trẻ nhận thức đạt loại trung bình nhưng hành vi đạt loại yếu.
Qua thực tế khảo sát trẻ ở hai trường mầm non khu vực trường mầm non xã Yên Lạc chúng tôi thấy một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó là:
- Giáo viên chưa biết sử dụng và phối hợp các biện pháp giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ một cách thường xuyên liên tục và hệ thống.
- Chưa phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường trong quá trình giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ.
5.2 Thực trạng về công tác giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá trong trường mầm non.
Kết quả khảo sát trên cho thấy một phần nào trách nhiệm của gia đình và nhà trường trong việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo nhỡ ở trường mầm non hiện nay. Để hiểu rõ về công tác giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá ở trường mầm non, chúng tôi tiến hành khảo sát 30 giáo viên ở hai trường mầm non trên với nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá mà họ đã sử dụng. Sau đây là kết quả mà chúng tôi thu được trong đợt khảo sát.
+ Chúng tôi sử dụng phiếu điều tra ankét hỏi 30 giáo viên của hai trường mầm non kết hợp thu được như sau:
* Số ý kiến cho rằng giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ có vai trò quyết định đến chất lượng giáo dục chiếm 72,3 %.
* Số ý kiến cho rằng nó ảnh hưởng hoặc không ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục chiếm 27,7%
+ Khi hỏi về nội dung giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ theo họ thì những nội dung 1.2.3.5.6.10 đã được họ quan tâm và sử dụng; còn các nội dung 4.7.8.9 họ chưa chú ý. Điều này đã chứng tỏ họ chưa hiểu một cách đầy đủ các nội dung giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ.
+ Khi hỏi về các phương pháp mà họ đã sử dụng để giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ phần lớn số ý kiến cho rằng họ đã sử dụng phương pháp chế độ sinh hoạt hàng ngày chiếm 46,5%, phối hợp với gia đình chiếm 37,1% còn lại là các phương pháp như tổ chức các tiết học, trò chơi, nêu gương gương mẫu, khen thưởng họ có sử dụng nhưng còn hạn chế.
+ Khi hỏi về mức độ hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ thì chúng ta thu được kết quả như sau:
- Mức độ tốt 40%
- Mức độ khá 50%
- Mức độ yếu 10%
Đánh giá các mức độ trên đây của họ theo chúng tôi đánh giá một cách chủ quan nên thiếu chính xác. Để xác định rõ vấn đề này chúng tôi làm thực nghiệm phần sau:
+ Khi gặp những khó khăn trong quá trình hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ thì số ý kiến cho rằng thiếu phương tiện giáo dục chiếm 58,2%, số ý kiến khó khăn trong phối hợp với gia đình chiếm 64,3%. Còn lại các khó khăn khác như thiếu kiến thức cơ bản về phương pháp giáo dục thì họ không nói tới.
Một số điều đáng chú ý ở đây họ nói trong các phương pháp giáo dục hành vi văn hoá cho trẻ thì phương pháp kết hợp giữa gia đình và nhà trường là phương pháp chính, còn phương pháp tổ chức lớp học, nêu gương khen ngợi ít được sử dụng, họ nói các kiến thức cơ bản trên tiết học thì họ nắm vững còn việc khó khăn trong việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường. Điều này chứng tỏ việc hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ họ chưa có phương pháp, biện pháp giáo dục cụ thể, chưa có sự phối hợp chặt chẽ với các ngành giáo dục khác.
Qua điều tra chúng tôi thu được kết quả như sau:
Về kinh nghiệm mà họ đã thu được trong quá trình giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá như giáo viên luôn để ý, uốn nắn kịp thời (58% số ý kiến), nêu gương khen ngợi (22,1%) còn các kinh nghiệm khác như sưu tầm thơ, truyện có nội dung giáo dục lễ giáo phối hợp với gia đình là 96% số ý kiến.
Qua khảo sát một số giáo viên chúng tôi có ý kiến như sau:
- Giáo viên còn thiếu kiến thức cơ bản về giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ.
- Trong việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ, giáo viên chưa có phương pháp và biện pháp giáo dục cụ thể và chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường.
- Giáo viên chưa chủ động sáng tạo trong việc tổ chức giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ, còn áp đặt hạn chế sử dụng phương pháp mới.
Nói tóm lại: Giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách phát triển toàn diện cho trẻ mẫu giáo.
Trên thực tế, giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ hiện nay ở các trường trong địa bàn huyệnYên Thuỷ còn rất thấp. Do nhiều nguyên nhân dẫn đến tình hình trên nhưng nguyên nhân chủ yếu là giáo viên chưa nắm chắc phương pháp giáo dục trẻ.
Để nâng cao hiệu quả của việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo, chúng tôi đề ra một số biện pháp giáo dục phù hợp và có hệ thống giúp giáo viên dễ sử dụng trong việc giáo dục trẻ.
Chương II. Một số biện pháp giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo nhỡ.
“Giao tiếp của trẻ là kỹ năng tham gia vào giao tiếp hoặc tổ chức hoạt động của trẻ.Trong đó các phương tiện hành vi là ngôn ngữ phù hợp với các chuẩn mực xã hội nhằm tạo mối quan hệ đạo đức cho trẻ”
Để nâng cao hiệu quả giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ, trước hết phải biết phối hợp sử dụng một cách linh hoạt, sáng tạo các biện pháp sau:
1. Tổ chức tiết học vơí nội dung giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ với yêu cầu ngày càng cao.
Nguyên tắc tổ chức tiết học giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ là : Giáo viên phải dựa trên những chuẩn mực về giao tiếp để xây dựng những mẫu về phương thức giao tiếp nào đó mà trẻ chưa biết hoặc chưa hiểu rõ, điều quan trọng là phải động viên trẻ tích cực tham gia vào giao tiếp. Do vậy tiết học phải xây dựng từ dễ đến khó, từ những sự vật, hiện tượng thường gặp nhất trong cuộc sống hàng ngày gần gũi với con người.
Trong quá trình chơi trẻ học được cách cư xử với bạn, tinh thần đoàn kết thân ái, biết chơi vì đồng đội của mình. Tiết học dưới hình thức trò chơi này sẽ giúp cho những trẻ nhút nhát hay e thẹn xấu hổ có cơ hội trở nên linh hoạt, mạnh dạn, tự tin hơn bởi vì trẻ đã cùng cô và các bạn chơi thoải mái.
- Hình thành giao tiếp nhận thức tiết học: Sau những tiết học, dưới hình thức chơi trẻ có cơ hội tiếp xúc tự nhiên thoải mái với nhau, với cô gíao làm cho trẻ thích thú hơn muốn được tham gia vào các tiết học có nội dung giao tiếp. Trên cơ sở đó giáo viên có thể tổ chức tiết học đàm thoại để hình thành giao tiếp. Nhận thức trên tiết học này trẻ sẽ được nghe kể về cuộc sống, thói quen của động vật, hiện tượng thiên nhiên… nên kết hợp với tranh minh hoạ. Đặc biệt là giáo viên nên khuyến khích trẻ tích cực tham gia đàm thoại.
Hình thành giao tiếp cá nhân trên tiết học: Trong quá trình tổ chức tiết học, giáo viên nên tạo điều kiện cho trẻ nhận thức đánh gía hành độngvà thói quen trong quan hệ của các nhân vật trong truyện VD trong khi kể chuyện cho trẻ nghe cô có thể đặt các câu hỏi như trong chuyện có những con vật nào? có những nhân vật nào hoặc thích giống ai trong truyện…có thể gợi ý cho trẻ trả lời hoặc cô nói ý kiến của mình, giải thích lập luận cho sự đúng đắn, bước đầu trẻ có thể tự nhận xét đánh giá như so sánh bức tranh của mình với bức tranh của bạn xem bức nào đẹp hơn và đẹp hơn ở chỗ nào? màu sắc, bố cục ra sao?…dần dần cho trẻ đàm thoại về những đề tài có liên quan đến cuộc sống của trẻ và những vấn đề có liên quan đến chúng.
2. Tổ chức trò chơi với mục đích tạo điều kiện cho trẻ được rèn luyện các chuẩn mực hành vi trong hoàn cảnh tương tự
Như ta đã biết hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo, chơi gây ra những biến đổi về chất, có ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách trẻ và làm tiền đề cho việc học tập ở lứa tuổi tiếp theo.
ông K.Dusinki (người Nga) đề cao vai trò của hoạt động vui chơi đối với trẻ mầm non đặc biệt là những trò chơi tập thể tạo điều kiện hình thành phát triển những mối quan hệ đầu tiên ở trẻ, Đồng thời thông qua các hoạt động trò chơi này, trẻ dễ dàng lĩnh hội được một số kinh nghiệm xã hội. Trò chơi có ý nghĩa quan trọng đối với sự giáo dục và sự tưởng tượng sáng tạo, tư duy logic của trẻ mẫu giáo, ông khuyến khích người lớn cần chú ý đến nội dung chơi của trẻ, hướng trẻ tới nội dung chơi lành mạnh, cung cấp thêm cho trẻ một số biểu tượng đạo đức hay cho trẻ tự chơi theo ý muốn của trẻ không áp đặt trẻ, không chơi hộ trẻ.
A.X.Macarenco có cách đánh giá cao vai trò của hoạt động vui chơi đối với trẻ em: “trò chơi có một ý nghĩa quan trọng trong đời sống của trẻ em, có một ý nghĩa giống như ý nghĩa cuả hoạt động công tác và sự phục vụ của người lớn vậy. Trong khi chơi trẻ như thế nào thì sau này lớn lên trong công tác phần lớn trẻ sẽ như thế ấy. Do đó, việc giáo dục những nhà hoạt động tương lai bắt đầu trước tiên từ trò chơi”
Trong hoạt động vui chơi của trẻ thì trò chơi đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ. Trong khi chơi trẻ thử sức mình hành động như người lớn, trẻ tự thiết lập mối quan hệ giữa bạn bè trong nhóm chơi, trẻ tìm được vị trí của mình biết sống cùng nhau, có tinh thần trách nhiệm với người khác và có lòng thương người, biết lo lắng quan tâm đến người khác… VD trò chơi bác sĩ cần có thái độ nhẹ nhàng khi khám cho bệnh nhân, trẻ đóng vai cô y tá phát thuốc và tiêm thuốc với thái độ vui vẻ, không cáu gắt an ủi người bệnh, giao tiếp với người bệnh ra sao?…Qua trò chơi hình thành hành vi xã hội của trẻ, hình thành phẩm chất đạo đức quý giá và đúng đắn của con người chân chính.
Trong trò chơi đóng vai có chủ đề tồn tại hai dạng giao tiếp: giao tiếp giữa các vai và giao tiếp thực giữa trẻ (giao tiếp khi trẻ ra khỏi trò chơi), giao tiếp giữa các vai nhằm mục đích phát triển vai đã chọn và xảy ra trong hoàn cảnh tưởng tượng, còn giao tiếp giữa trẻ là giao tiếp hướng tới thực hiện mối quan hệ thực giữa trẻ, thường mang tính chất phục tùng mối quan hệ giữa các vai khi chơi.
Sự tham gia của trẻ vào trò chơi đóng vai có chủ đề được xác định bằng ngôn ngữ của vai chơi và hành vi nhân vật mà trẻ chọn đóng vai, khi xác định được nội dung và phân vai trẻ thường phối hợp hành động với bạn nghĩa là phát triển vai chơi của mình và chờ đợi hành vi tương tự của bạn cùng chơi, khi xác định được đặc điểm nổi bật của hình tượng nhân vật và biết thể hiện vai chơi bằng hành động và các phương tiện giao tiếp phù hợp thì đó là lúc trình độ giao tiếp giữa các vai trong trò chơi đã phát triển ở mức độ cao.
Trò chơi đóng kịch ở lứa tuổi này có thể sử dụng các trò chơi đóng kịch để rèn luyện các kỹ năng giao tiếp của trẻ, vở kịch có thể là do cô soạn thảo hoặc sưu tầm, lựa chọn những vở kịch có nội dung ngắn gọn, rất gần gũi với cuộc sống xung quanh trẻ, trong vở kịch đó trẻ sẽ rèn luyện thể hiện các hành vi giao tiếp giữa các vai trong trò chơi đã phát triển ở mức độ cao hơn.
Tóm lại: Khi tổ chức cho trẻ chơi trò đóng vai có chủ đề, giáo viên cần dự tính trước tính chất của những quan hệ có thể xảy ra giữa trẻ, không đặt ra yêu cầu quá phức tạp về phương thức xây dựng mối quan hệ với nhau giữa trẻ, cần hướng dẫn trẻ phương thức xây dựng chủ đề, dạy trẻ biết hành động theo ý đồ riêng. Việc phát triển văn hoá giao tiếp của trẻ trong trò chơi được tổ chức có mục đích và hệ thống sẽ trở thành phương thức giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ.
3. Tổ chức cho trẻ luyện tập các hành vi giao tiếp có văn hoá trong quá trình sinh hoạt hàng ngày.
Đây là biện pháp chủ yếu để hình thành những thói quen có văn hoá bền vững ở trẻ, các kỹ xảo hành vi văn hoá của trẻ được hình thành là do quá trình tập luyện thường xuyên liên tục và có hệ thống. Chính trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ có thể thấy rõ mức độ tiếp nhận chuẩn mực về hành vi của mình, của bạn, nó đã trở thành nhu cầu của trẻ ở mức độ nào.
Do vậy, quá trình này cần được diễn ra với sự tổ chức đúng đắn, hợp lý của giáo viên. Tạo điều kiện cho trẻ được thường xuyên luyện tập hành vi, thói quen giao tiếp có văn hoá của mình. Trong quá trình tổ chức chế độ sinh hoạt hàng ngày cần lưu ý:
- Phải xây dựng những điều kiện phù hợp với đôí tượng lứa tuổi. Phải làm cho quá trình giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá phù hợp với trẻ.
- Phải tổ chức các hoạt động đa dạng nhằm thu hút trẻ tham gia tích cực vào quá trình lĩnh hội các khuôn mẫu chuẩn mực hành vi đạo đức.
Muốn làm được như vậy trước hết giáo viên phải tạo ra tình huống giao tiếp trong thực tế hàng ngày, hướng sự chú ý của trẻ đến bản thân chúng với câu hỏi: cháu đang làm gì? hôm nay cháu thấy vui hay buồn?… như thế buộc trẻ phải suy nghĩ về bản thân, cố gắng hiểu và đánh giá hành động của mình,. Ngoài ra cho trẻ giao tiếp với bạn, đánh giá nhận xét về bạn. Từ đó buộc trẻ quan tâm đến nhau và biết thể hiện hành vi giao tiếp có văn hoá trong sự tiếp xúc đó.
Trong các hoạt động thực hành trên tiết học cũng là hình thức dạy theo tiết, quá trình hoạt động với trẻ được thoả thuận với nhau, chú ý và quan sát lẫn nhau, sự hợp tác đòi hỏi phải đứng về phía bạn, phối hợp hành động với bạn làm cho giao tiếp với bạn được phát triển.
Việc giáo dục hành vi giao tiếp của trẻ thông qua các biện pháp:
1. Lấy gương tốt, việc tốt của người lớn, lời nói và cách đối xử công bằng làm gương cho trẻ.
2. Trong trường lớp tác phong làm việc cuả cô, sự ngăn nắp gọn gàng trong lớp là môi trường thuận lợi mở rộng nhận thức cho trẻ.
3. Giáo viên và người lớn định hướng tình cảm đẹp cho trẻ
4. Tổ chức tiết học giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ với nhu cầu ngày càng cao hơn.
5. Tổ chức trò chơi với mục đích tạo điều kiện cho trẻ được rèn luyện các chuẩn mực hành vi trong hoàn cảnh tương tự.
6. Tổ chức cho trẻ luyện tập các hành vi giao tiếp có văn hoá trong quá trình sinh hoạt hàng ngày.
Tóm lại: Để đạt được hiệu quả tốt trong việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mầm non cần sử dụng các biện pháp trên một cách hiệu quả, mỗi một biện pháp đều có ưu thế riêng của nó trong việc trang bị tri thức tình cảm, hình thành thói quen. Các biện pháp đó đều hỗ trợ cho nhau trong việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ, để chứng minh vấn đề này chúng tôi bước đầu thử nghiệm và thu được một số kết quả sẽ trình bày ở chương sau.
Chương III
Thực nghiệm và phân tích kết quả thực nghiệm.
I. Mục đích cuả thực nghiệm:
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm nhằm kiểm nghiệm các biện pháp đã nêu trên có liên quan đến giả thiết của đề tài.
II. Nội dung của thực nghiệm.
Dựa trên các chuẩn mực hành vi giao tiếp có văn hoá của trẻ mầm non và mức độ phát triển văn hoá giao tiếp mẫu giáo nhỡ.
Chúng tôi đã sử dụng các biện pháp nêu trên để giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo nhỡ.
1. Tổ chức 3 tiết học giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ với yêu cầu ngày càng cao hơn:
- Tiết 1: Tiết học dưới hình thức chơi.
- Tiết học với nội dung hình thành giao tiếp các nhận thức đàm thoại về các chủ đề nhận thức.
- Tiết 3: Tiết học với nội dung hình thành giao tiếp cá nhân đàm thoại về hành vi cá nhân.
2. Tổ chức các trò chơi nhằm tạo điều kiện cho trẻ rèn luyện các chuẩn mực hành vi trong hòan cảnh tưởng tượng.
- Trò chơi vận động đóng vai có chủ đề
- Chỉ tiêu về hành vi: Nội dung khảo sát xoay quanh các chỉ tiêu: tính chính xác, phổ biến, tính ổn định của hành vi và động cơ của hành vi.
Thang đánh giá chia làm 3 mức:
+ Mức độ tốt: Thực hiện tốt, thường xuyên đúng mọi lúc, mọi nơi (2 điểm)
+ Mức độ trung bình: Thực hiện đúng với động cơ, đúng nhưng chưa thường xuyên. (1 điểm)
+ Mức độ yếu: Thường xuyên không thực hiện đúng các chuẩn mực (0 điểm). Cách tính điểm: DTB = D/S
DTB: Điểm trung bình
D: số điểm
S: Là tổng số trẻ.
B: là kết qủa kiểm tra trước và sau thực nghiệm
Bảng 2: Trình độ nhận thức và hành vi của nhóm thực nghiệm và đối chứng nhóm thực nghiệm.
STT
CÁC CHUẨN MỰC HÀNH VI
NHÓM THỰC NGHIỆM
NHÓM ĐỐI CHỨNG
Điểm nhận thức
Điểm hành vi
Điểm nhận thức
Điểm hành vi
1
Khi gặp hoặc chia tay với bạn, cô, cha, mẹ cháu phải làm gì? phải nói như thế nào?
1.36
1.04
1.16
1.00
2
Khi được bạn, cô, cha mẹ, anh chị giúp đỡ cháu phải làm gì?
1.36
1.16
1.28
1.04
3
Nếu chẳng may cháu làm hỏng đồ chơi của bạn (hoặc làm bạn ngã, muốn đi qua trước mặt bạn) cháu phải nói gì?
1.24
1.00
1.20
0.92
4
Nếu cháu muốn chơi và dùng đồ chơi của bạn thì phải nói gì và nói như thế nào?
1.04
0.76
1.12
0.72
Trò chơi đóng kịch:
3. Tổ chức trẻ luyện luyện tập các hành vi văn hoá trong sinh hoạt hàng ngày.
Tạo tình huống giao tiếp giữa trẻ và cô giáo và giữa trẻ với nhau.
-Tạo điều kiện cho trẻ được hoạt động cùng nhau trong các hoạt động ở trường mầm non.
- Nghe cô kể chuyện, đọc chuyện.
- Tham gia các hoạt động tạo ra sản phẩm như vẽ, nặn, cắt, dán…
III. Cách tiến hành thực nghiệm.
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm ở trường mầm non huyện Yên Thuỷ.
- Số lớp mẫu giáo nhỡ gồm 2 lớp với tổng số cháu là 58 cháu, lớp A có 28 cháu, lớp B có 30 cháu. Hầu hết các cháu đều là con em trong thị trấn huyện Yên Thuỷ, các cháu đều sinh năm 1998.
- Chúng tôi đã chọn 25 cháu ở lớp mẫu giáo nhỡ A làm thực nghiệm và 25 cháu ở lớp B làm nhóm đối chứng. Các cháu này đều có sức khoẻ bình thường, cùng năm sinh và nhận thức và giao tiếp là tương đương.
1. Tiến hành khảo sát thực nghiệm.
Để đánh gía mức độ hành vi giao tiếp có văn hoá của trẻ trước thực nghiệm, chúng tôi đã tiến hành khảo sát trẻ ở 2 nhóm (đối chứng và thực nghiệm). Trước khi tiến hành khảo sát trẻ ở hai nhóm này chúng tôi đã xây dựng các tiêu chí và mức độ đánh giá.
a. Xây dựng các tiêu chí và thang đánh giá:
- Tiêu chí về nhận thức:
Nội dung khảo sát xung quanh việc trẻ hiểu thế nào về nội dung các chuẩn mực và ý nghĩa đạo đức, thẩm mỹ của việc thực hiện các chuẩn mực.
- Thang đánh giá: Chia làm 3 mức độ khác nhau.
+Mức độ cao: (2 điểm) hiểu đúng, đầy đủ.
+ Mức độ trung bình (1 điểm) hiểu chưa đầy đứng xử, thiếu chính xác.
+ Mức độ thấp: (o điểm) không hiểu.
- Phương pháp khảo sát là đặt câu hỏi cho trẻ, cô gợi ý cho trẻ (điểm trung bình của nhóm thực nghiệm là 1.21; điểm trung bình của nhóm đối chứng là 1.13) sự chênh lệch là không đáng kể.
- Về hành vi: Điểm trung bình cộng về hành vi của nhóm thực nghiệm là 0.07, điểm trung bình của nhóm đối chứng là 0.67 (sự chênh lệch không đáng kể và về hành vi của hai nhóm gần tương đương nhau)
Kết quả khảo sát trước thực nghiệm cho thấy trình độ ban đầu của hai nhóm về nhận thức và hành vi là như nhau.
So sánh trình độ nhận thức và hành vi của trẻ ta thấy rằng điểm trung bình về nhận thức của cả hai nhóm đều cao xấp xỉ gần điểm trung bình cộng về hành vi của cả hai nhóm, điều này chứng tỏ trẻ nói một đằng nhưng hành động một nẻo. Vì vậy, điểm trung bình cộng của hai nhóm chỉ bằng 1/2 điểm về nhận thức.
2 Cách tiến hành thực nghiệm:
Sau khi khảo sát và phân nhóm chúng tôi đã tiến hành làm thực nghiệm giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá ở lớp mẫu giáo nhỡ A với 25 cháu. Tại lớp mẫu giáo B chúng tôi đã chọn 25 cháu làm nhóm đối chứng, nhóm này để giáo viên tự giáo dục theo cách thông thường.
Sau thời gian 2 tháng làm thực nghiệm, chúng tôi so sánh trình độ nhận thức và hành vi ở cả hai nhóm và so sánh kết quả thực nghiệm đã đạt được với trình độ ban đầu của nhóm này trước khi làm thực nghiệm.
IV. Phân tích kết quả thực nghiệm:
Thông qua việc tổ chức cho trẻ thực hiện từng chuẩn mực hành vi giao tiếp có văn hoá, dựa vào mức độ đánh gía, chúng tôi tiến hành phân tích kết quả thực nghiệm. Qua thời gian 2 tháng làm thực nghiệm chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 3: Trình độ nhận thức và hành vi của trẻ ở nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng sau thực nghiệm.
STT
CÁC CHUẨN MỰC HÀNH VI
NHÓM THỰC NGHIỆM
NHÓM ĐỐI CHỨNG
Điểm nhận thức
Điểm hành vi
Điểm nhận thức
Điểm hành vi
5
Cháu phải nói năng, xưng hô với bạn, người lớn em nhỏ như thế nào?
1.00
0.44
0.84
0.44
6
Khi nhận hoặc đưa đồ vật cho người khác cháu phải nhận hoặc đưa như thế nào?
1.36
0.76
1.36
0.72
7
Đã bao giờ cháu hứa với mẹ, cô, anh chị điều gì chưa? nếu đã hứa cháu phải làm gì?
1.16
0.44
1.04
0.48
8
Nếu cháu và nhiều bạn khác cùng thích một đồ chơi nhưng không đủ cho mỗi bạn cháu phải nói và làm gì?
1.04
0.44
1.00
0.36
9
Khi chuẩn bị đi dạo ngoài trời nếu thấy bạn không đi giày được hoặc không mặc áo được cháu phải làm gì? nói gì với bạn đó?
1.28
0.64
1.16
0.68
Khi thấy cô hoặc bố mẹ đang nói chuyện riêng thì cháu có thích lại gần và nói chuyện với họ không ?
1.28
0.44
1.16
0.40
Điểm trung bình cộng
1.21
0.70
1.13
0.67
Nhìn vào bảng ta thấy:
- Về nhận thức: Nhìn chung cả hai nhóm nhận thức của trẻ tương đương nhau. Điểm trung bình cộng về nhận thức của nhóm thực nghiệm là 1.21; điểm trung bình cộng của nhóm đối chứng là 1.13 (sự chênh lệch không đáng kể)
9
Khi chuẩn bị đi dạo ngoài trời nếu thấy bạn không đi giày được hoặc không mặc áo được cháu phải làm gì? nói gì với bạn đó?
1.28
0.64
1.16
0.68
10
Khi thấy cô hoặc bố mẹ đang nói chuyện riêng thì cháu có thích lại gần và nói chuyện với họ không ?
1.64
1.48
1.28
0.44
Điểm trung bình cộng
1.544
1.344
1.12
0.684
Trên bảng 3 cho ta thấy: Sau 2 tháng làm thực nghiệm, kết hợp các biện pháp nêu trên kết qủa thu được như sau:
- Về nhận thức:
+ Điểm trung bình cộng về nhận thức của nhóm đối chứng là 1.544 điểm
+ Điểm trung bình cộng của nhóm thực nghiệm là 1.12 điểm (điểm chênh lệch là 0.424)
- Về hành vi:
Điểm trung bình về hành vi của nhóm thực nghiệm là 1.344
Điểm trung bình về hành vi của nhóm đối chứng là 0.684 (chênh lệch 0.66 điểm)
Điều đó chứng tỏ qua thời gian giáo dục, uốn nắn trẻ bằng các phương pháp, biện pháp, hình thức giáo dục trẻ ở mọi lúc, mọi nơi, thường xuyên liên tục và có hệ thống trẻ đã nắm được các chuẩn mực hành vi giao tiếp có văn hoá, cho nên điểm hành vi của trẻ tăng rõ rệt so với nhóm đối chứng.
Điểm hành vi của nhóm thực nghiệm sau thực nghiệm ở các chuẩn mực 3.4.7.8 trẻ thực hiện còn yếu. VD: ở chuẩn mực 8 thì đa số trẻ ở lứa tuổi này rất thích chơi đồ chơi mới lạ nên khi trong lớp có đồ chơi mới thì trẻ thường ra tranh nhau để được chơi trước, muốn tìm tòi khám phá xem đồ chơi mới này như thế nào? ở chuẩn mực 7 cũng vậy trẻ thực hiện còn yếu khi được bố mẹ đưa đến trường trẻ trường vòi vĩnh bố mẹ mua bánh kẹo có gắn những đồ chơi. Mặc dù hôm trước ở lớp trẻ đã hứa với bố mẹ và cô giáo ngày mai sẽ không mua những thứ quà đó nữa nhưng trẻ không thực hiện lời hứa đó. Trên đường đi qua nhà bà bán hàng trẻ lại đòi bố mẹ mua, trẻ đã quên lời hứa hôm trước.
Còn các chuẩn mực khá 1.2.6 trẻ thực hiện thường xuyên trong sinh hoạt hàng ngày cho nên hành vi của trẻ đạt được ở các chuẩn mực này tốt hơn.
Kết quả sử dụng biện pháp giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá (đã nêu trên) còn thể hiện sự chênh lệch giữa kết quả đạt được của trẻ ở nhóm thực nghiệm ở giai đoạn trước và sau quá trình thực nghiệm, có thể thấy sự chênh lệch đó qua bảng sau:
Bảng 4: So sánh trình độ nhận thức của trẻ (trước và sau thực nghiệm)
STT
CÁC CHUẨN MỰC HÀNH VI
NHÓM THỰC NGHIỆM
NHÓM ĐỐI CHỨNG
Điểm nhận thức
Điểm hành vi
Điểm nhận thức
Điểm hành vi
1
Khi gặp hoặc chia tay với bạn, cô, cha, mẹ cháu phải làm gì? phải nói như thế nào?
1.52
1.40
1.08
1.00
2
Khi được bạn, cô, cha mẹ, anh chị giúp đỡ cháu phải làm gì?
1.60
1.56
1.28
1.20
3
Nếu chẳng may cháu làm hỏng đồ chơi của bạn (hoặc làm bạn ngã, muốn đi qua trước mặt bạn) cháu phải nói gì?
1.60
1.28
1.24
0.96
4
Nếu cháu muốn chơi và dùng đồ chơi của bạn thì phải nói gì và nói như thế nào?
1.48
1.24
1.12
0.72
5
Cháu phải nói năng, xưng hô với bạn, người lớn em nhỏ như thế nào?
1.52
1.36
0.92
0.52
6
Khi nhận hoặc đưa đồ vật cho người khác cháu phải nhận hoặc đưa như thế nào?
1.56
1.40
1.24
0.64
7
Đã bao giờ cháu hứa với mẹ, cô, anh chị điều gì chưa? nếu đã hứa cháu phải làm gì?
1.52
1.24
0.92
0.36
8
Nếu cháu và nhiều bạn khác cùng thích một đồ chơi nhưng không đủ cho mỗi bạn cháu phải nói và làm gì?
1.48
1.16
1.04
0.40
9
Khi chuẩn bị đi dạo ngoài trời nếu thấy bạn không đi giày được hoặc không mặc áo được cháu phải làm gì? nói gì với bạn đó?
1.28
0.64
1.52
1.32
10
Khi thấy cô hoặc bố mẹ đang nói chuyện riêng thì cháu có thích lại gần và nói chuyện với họ không ?
1.28
0.44
1.64
1.48
Điểm trung bình cộng
1.212
0.708
1.544
1.344
Qua bảng 4 chúng tôi nhận xét như sau:
Nhìn chung sự phát triển về nhận thức và hành vi của trẻ nhóm thực nghiệm (trước và sau thực nghiệm) đều có hướng đi lên, cụ thể:
- Về nhận thức: Điểm trung bình cộng về nhận thức của trẻ trước thực nghiệm là 1.212 điểm, sau thực nghiệm là 1.544 đã tăng 0.332 điểm, điều đó chứng tỏ qua 2 tháng thực nghiệm (các biện pháp nêu trên) sự nhận thức các chuẩn mực hành vi giao tiếp có văn hoá của trẻ tăng lên rõ rệt.
- Về hành vi: Điểm trung bình cộng về hành vi của trẻ trước thực nghiệm là 0.708 điểm, sau thực nghiệm là 1.344 điểm tăng 0.636 điểm chứng tỏ hành vi của trẻ sau thực nghiệm cũng tăng lên đáng kể.
C. Kết luận chung
I. Qua quá trình nghiên cứu đề tài chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1. Giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ là một nhiệm vụ rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
Trong nền kinh tế thị trường, đạo đức truyền thống của dân tộc bị sói mòn một cách nghiêm trọng. Nó ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành nhân cách của con người nói chung và trẻ mầm non nói riêng. Việc hình thành cơ sở về phẩm chất đạo đức của con người bắt đầu từ ngay lứa tuổi mầm non. Giáo dục mầm non là khâu đầu tiên của việc đào tạo nhân cách con người mới, tạo tiền đề cho toàn bộ sự phát triển về sau. Những ấn tượng của thời thơ ấu để lại dấu vết trong suốt cả cuộc đời sau này. So với giáo dục thì việc cải tạo lại hay giáo dục lại là một quá trình lâu dài và khó khăn hơn nhiều. Giáo dục đúng đắn sẽ hạn chế sự tích luỹ kinh nghiệm tiêu cực của trẻ, ngăn cản sự phát triển kỹ năng, kỹ xảo, thói quen và hành vi xấu mà có thể ảnh hưởng không tốt đến sự hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức của trẻ.
Giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá đòi hỏi trẻ phải nắm được các chuẩn mực và quy tắc xã hội, phải hình thành ở trẻ kỹ xảo và các thói quen hành vi khác nhau, thể hiện lòng kính trọng đối với người lớn (nghe lời, chào hỏi, cảm ơn) Thái độ tốt đối với bè bạn (quan tâm, nhường nhịn), có ý thức hành vi văn hoá nơi công cộng (không nói to, không làm ảnh hưởng đến người khác, quần áo lịch thiệp) Trẻ phải biết vận dụng các quy tắc giao tiếp và sử dụng chúng một cách linh hoạt, sáng tạo, đúng mực, đúng chỗ, phù hợp với các tình huống cụ thể trong đơì sống hàng ngày. Hành vi văn hoá có ý nghĩa to lớn, nó giúp trẻ tiếp xúc giữa trẻ với người lớn, với bạn bè nhẹ nhàng hơn, tốt đẹp hơn.
2. Kết quả khảo sát giáo viên mầm non và trẻ 4 tuổi (mẫu giáo nhỡ) ở một số trường mầm non huyện Yên Thuỷ cho thấy: mức độ hình thành giao tiếp có văn hoá của trẻ còn thấp có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do giáo viên chưa biết sử dụng và phối hợp các biện pháp giáo dục trong quá trình giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ.
Để nâng cao hiệu quả của việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mầm non, giáo viên phải biết phối hợp các biện pháp giáo dục thông thường mà các cô giáo mầm non vẫn áp dụng thì chưa thu được kết quả gì, cụ thể là về hành vi và nhận thức của trẻ ở nhóm đối chứng. Vì vậy, các nhà giáo dục mầm non phải có biện pháp cụ thể và phải thường xuyên giáo dục trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày để hình thành cho trẻ kỹ năng giao tiếp có văn hoá
3. Dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chúng tôi đã xây dựng một số biện pháp giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mầm non bao gồm:
- Tổ chức tiết học với nội dung giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ với yêu cầu ngày càng cao.
- Hình thành kỹ năng, kỹ xảo giao tiếp có văn hoá thông qua việc tổ chức các trò chơi.
- Hình thành thói quen giao tiếp thông qua việc tổ chức chế độ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ.
- Bằng con đường thực nghiệm sư phạm luận văn khẳng định hiệu quả của việc sử dụng các biện pháp nêu trên.
4. Để việc sử dụng các biện pháp đã nêu có hiệu qủa cần phải có một số điều kiện nhất định:
- Về giáo viên, phương tiện giáo dục, sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường.
II. Từ kết quả êchăm sóc đề tài chúng tôi xin nêu một số ý kiến sau:
1. Cần trang bị cho giáo viên mầm non những tri thức cơ bản về giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ.
Trên cơ sở đó hướng dẫn cho giáo viên mầm non sử dụng phối hợp các biện pháp phù hợp với từng độ tuổi, với đặc điểm cá nhân, trình độ giáo dục của mỗi trẻ và của toàn lớp.
2. Cần phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường để thống nhất nội dung và phương pháp giáo dục trẻ, nhờ đó mà các thói quen giao tiếp của trẻ trở lên bền vững hơn.
3. Để có thể phát huy hiệu quả sử dụng của các biện pháp trên cần có các điều kiện như: Trang bị các phương tiện vật chất cho các lớp mẫu giáo (đồ chơi, vật liệu đa dạng, các taì liệu và tranh ảnh, tạo không gian cho trẻ chơi) xây dựng môi trường văn hoá ở trường mầm non và gia đình.
Là giáo viên mẫu giáo - người được giao phó trách nhiệm giáo dục trẻ em mẫu giáo - những công dân trẻ tuổi nhất của đất nước, hình thành cho trẻ những cơ sở ban đầu về nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa. Giáo viên muốn làm tốt nhiệm vụ cao cả của mình phải thường xuyên trau dồi đạo đức và nâng cao trình độ chuyên môn và trình độ tư tưởng lý luận của mình, giáo viên là tấm gương sáng về mặt đạo đức, về giao tiếp, ứng xử hành vi có văn hoá cho trẻ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Giáo dục học (tập I, II) Chủ biên: T.s Đào Thanh Âm
2. Những cơ sở giáo dục học mẫu giáo:
Trường Đaị học sư phạm I Hà Nội
3. Giao tiếp và ứng xử giữa cô giáo và trẻ em
T.s Ngô Công Hoàn
4. Đặc điểm giao tiếp trong trò chơi có chủ đề và tuyển tập Tâm lý học mầm non
Nhà xuất bản Viện Hàn Lâm năm 1998
5. Hành vi văn hoá - biểu hiện của xu hướng đạo đức nhân cách trẻ
Kỷ yếu GDMN - HHSD - Hoàng Thị Phương - 1995
6. Một số biện pháp hình thành giao tiếp văn hoá cho trẻ mầm non qua trò chơi ĐVTCD - Tạp chí MCMG số 9/1999 - Hoàng Thị Phương
7. Vấn đề ý thức trong việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mầm non
Tạp chí MCGD số 5/ 2002 - Hoàng Thị Phương
8. Tâm lý học trẻ em tuổi mầm non từ lọt lòng đến 6 tuổi/1994
Chủ biên Nguyễn Ánh Tuyết
9. Tổ chức hướng dẫn trẻ mẫu giáo chơi
Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội 1996
Chủ biên Nguyễn Ánh Tuyết
10. Những điều cần biết về sự phát triển của trẻ thơ
Nhà xuất bản 1996
Chủ biên Nguyễn Ánh Tuyết
11. Xã hội trẻ em trong trò chơi
Nhà xuất bản giáo dục Moska/1984
12. Giáo dục học mẫu giáo tập II
Nhà xuất bản Hà Nội/1979
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
BÀI TẬP NGHIỆP VỤ CUỐI KHOÁ
Đề tài : GIÁO DỤC HÀNH VI GIAO TIẾP CÓ VĂN HOÁ
CHO TRẺ MẪU GIÁO NHỠ 4 - 5 TUỔI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN : TS Đinh Hồng Thái
NGƯỜI THỰC HIỆN : Đinh Thị Hoài Thanh
LỚP ĐHTC HOÀ BÌNH - KHOA GDMN
HOÀ BÌNH, THÁNG 4 NĂM 2004
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số biện pháp để luyện phát âm đúng cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi ở Huyện Yên Thuỷ - Tỉnh Hoà Bình.doc