Bài viết dưới đây tập trung bình luận, phân tích các quy định linh hoạt áp dụng cho nguyên tắc đa số khi ra quyết định trọng tài để thấy rõ nội hàm đầy đủ, cụ thể và chính xác của nguyên tắc này trong pháp luật các nước. Tác giả cũng vận dụng cả lý luận và thực tiễn để phân tích, so sánh và chỉ ra những điểm còn bất cập của pháp luật trọng tài Việt Nam liên quan đến nguyên tắc này, đề xuất những kiến nghị để sửa đổi, bổ sung các quy định đó cho thêm tính khả thi và tính thực tiễn, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế về trọng tài thương mại. Ngoài ra, tác giả cũng đề cập đến nhiều khía cạnh của nguyên tắc thảo luận bắt buộc trước khi ra quyết định trọng tài, một điều vẫn xảy ra trên thực tế, nhưng vì chưa được quy định cụ thể và rõ ràng trong pháp luật Việt Nam nên rất có thể gây ít nhiều bất cập trong quá trình thực hiện. Hy vọng rằng những phân tích và kiến nghị của bài viết này sẽ được cân nhắc, tham khảo trong quá trình xây dựng Luật trọng tài thương mại sắp tới.
1. Quyết định trọng tài
Trước hết cần khẳng định một trong những điểm nổi bật của Pháp lệnh trọng tài Thương mại năm 2003 (Pháp lệnh) so với pháp luật về trọng tài trước đây (Nghị định 116/CP ngày 5 tháng 9 năm 1994 về về tổ chức và hoạt động của Trọng tài kinh tế phi Chính phủ (Nghị định 116/CP) là tính được cưỡng chế thi hành của các phán quyết trọng tài. Có thể nói nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc trọng tài phi Chính phủ ở nước ta chưa thể hiện được vai trò và khả năng của mình, mặc dù được thành lập từ năm 1994, là tính không chung thẩm, không được cưỡng chế thi hành của Quyết định trọng tài. Pháp lệnh 2003 đã khẳng định rõ hiệu lực của Quyết định trọng tài ngay tại Điều 6:
“Quyết định trọng tài là chung thẩm, các bên phải thi hành, trừ các trường hợp Toà án huỷ quyết định trọng tài theo quy định của Pháp lệnh này”.
Có thể nói tất cả các bên tranh chấp bỏ chi phí về tiền bạc, thời gian và công sức để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đều mong mỏi quá trình tố tụng sẽ được kết thúc bằng một quyết định trọng tài, trừ trường hợp họ đạt được sự hoà giải hoặc cách giải quyết nào khác trong quá trình tố tụng. Họ đương nhiên cũng hy vọng quyết định đó là chung thẩm và được các bên tự nguyện thi hành, mặc dù vẫn ý thức được quyền sửa đổi hoặc huỷ quyết định trọng tài. Quy tắc tố tụng trọng tài quốc tế lẫn quốc gia đều phản ánh điều này. Luật Mẫu về Trọng tài (Luật Mẫu) của Uỷ Ban thương mại quốc tế của Liên Hợp quốc (UNCITRAL) quy định rất đơn giản như sau:
“Tố tụng trọng tài sẽ được chấm dứt bởi quyết định chung thẩm hoặc bởi yêu cầu của Hội đồng trọng tài ”.
Quy tắc tố tụng trọng tài của Phòng thương mại Quốc tế (ICC), thừa nhận khả năng huỷ quyết định trọng tài tại nơi tuyên quyết định trọng tài (nước gốc), theo nguyên tắc lex arbitri, thì quy định thận trọng hơn:
“Mọi phán quyết sẽ ràng buộc với các bên. Bằng việc đưa trọng tài ra trọng tài giải quyết theo Quy tắc này, các bên cam kết thực hiện mọi phán quyết ngay lập tức và được hiểu là đã từ bỏ quyền kháng cáo của mình dưới mọi hình thức nếu việc từ bỏ quyền kháng cáo đó có giá trị theo quy định của pháp luật.”
13 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2688 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số điểm bất cập của pháp lệnh trọng tài thương mại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một số điểm bất cập của Pháp lệnh Trọng tài thương mại Việt Nam về quy định tuyên quyết định trọng tài theo nguyên tắc đa số Bài viết dưới đây tập trung bình luận, phân tích các quy định linh hoạt áp dụng cho nguyên tắc đa số khi ra quyết định trọng tài để thấy rõ nội hàm đầy đủ, cụ thể và chính xác của nguyên tắc này trong pháp luật các nước. Tác giả cũng vận dụng cả lý luận và thực tiễn để phân tích, so sánh và chỉ ra những điểm còn bất cập của pháp luật trọng tài Việt Nam liên quan đến nguyên tắc này, đề xuất những kiến nghị để sửa đổi, bổ sung các quy định đó cho thêm tính khả thi và tính thực tiễn, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế về trọng tài thương mại. Ngoài ra, tác giả cũng đề cập đến nhiều khía cạnh của nguyên tắc thảo luận bắt buộc trước khi ra quyết định trọng tài, một điều vẫn xảy ra trên thực tế, nhưng vì chưa được quy định cụ thể và rõ ràng trong pháp luật Việt Nam nên rất có thể gây ít nhiều bất cập trong quá trình thực hiện. Hy vọng rằng những phân tích và kiến nghị của bài viết này sẽ được cân nhắc, tham khảo trong quá trình xây dựng Luật trọng tài thương mại sắp tới. 1. Quyết định trọng tài Trước hết cần khẳng định một trong những điểm nổi bật của Pháp lệnh trọng tài Thương mại năm 2003 (Pháp lệnh) so với pháp luật về trọng tài trước đây (Nghị định 116/CP ngày 5 tháng 9 năm 1994 về về tổ chức và hoạt động của Trọng tài kinh tế phi Chính phủ (Nghị định 116/CP) là tính được cưỡng chế thi hành của các phán quyết trọng tài. Có thể nói nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc trọng tài phi Chính phủ ở nước ta chưa thể hiện được vai trò và khả năng của mình, mặc dù được thành lập từ năm 1994, là tính không chung thẩm, không được cưỡng chế thi hành của Quyết định trọng tài. Pháp lệnh 2003 đã khẳng định rõ hiệu lực của Quyết định trọng tài ngay tại Điều 6: “Quyết định trọng tài là chung thẩm, các bên phải thi hành, trừ các trường hợp Toà án huỷ quyết định trọng tài theo quy định của Pháp lệnh này”. Có thể nói tất cả các bên tranh chấp bỏ chi phí về tiền bạc, thời gian và công sức để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đều mong mỏi quá trình tố tụng sẽ được kết thúc bằng một quyết định trọng tài, trừ trường hợp họ đạt được sự hoà giải hoặc cách giải quyết nào khác trong quá trình tố tụng. Họ đương nhiên cũng hy vọng quyết định đó là chung thẩm và được các bên tự nguyện thi hành, mặc dù vẫn ý thức được quyền sửa đổi hoặc huỷ quyết định trọng tài. Quy tắc tố tụng trọng tài quốc tế lẫn quốc gia đều phản ánh điều này. Luật Mẫu về Trọng tài (Luật Mẫu) của Uỷ Ban thương mại quốc tế của Liên Hợp quốc (UNCITRAL) quy định rất đơn giản như sau: “Tố tụng trọng tài sẽ được chấm dứt bởi quyết định chung thẩm hoặc bởi yêu cầu của Hội đồng trọng tài…”. Quy tắc tố tụng trọng tài của Phòng thương mại Quốc tế (ICC), thừa nhận khả năng huỷ quyết định trọng tài tại nơi tuyên quyết định trọng tài (nước gốc), theo nguyên tắc lex arbitri, thì quy định thận trọng hơn: “Mọi phán quyết sẽ ràng buộc với các bên. Bằng việc đưa trọng tài ra trọng tài giải quyết theo Quy tắc này, các bên cam kết thực hiện mọi phán quyết ngay lập tức và được hiểu là đã từ bỏ quyền kháng cáo của mình dưới mọi hình thức nếu việc từ bỏ quyền kháng cáo đó có giá trị theo quy định của pháp luật.” Trong cả hai quy tắc trọng tài trên, quyết định trọng tài được nhắc đến ở số ít; và người đọc có thể chấp nhận một cách hiểu rằng mục đích, hay kết quả của trọng tài là đạt được một quyết định đơn lẻ, thống nhất. Tuy nhiên, trong lĩnh vực trọng tài, rất có khả năng xảy ra những trường hợp ngoại lệ. Hội đồng trọng tài có thể ra nhiều loại quyết định khác nhau, ví dụ quyết định về thủ tục và các hướng dẫn (đôi khi còn bị coi nhầm là quyết định tạm thời “interlocutory awards), hoặc các quyết định giải quyết một vài vấn đề nhất định giữa các bên, còn các vấn đề chính thì tạm gác lại. Hội đồng trọng tài cũng có thể ra một quyết định phán xét về thẩm quyền, khi có một bên khiếu nại về thẩm quyền liên quan đến một hoặc nhiều vấn đề trong vụ tranh chấp, hơn là việc cứ nhắm mắt tiến hành vụ xét xử theo trình tự từ đầu cho đến lúc ra quyết định, trong trường hợp cũng có thể họ thực sự không có thẩm quyền. Đó cũng có thể là một quyết định một phần về một khoản tiền mà họ cho rằng không là khoản nợ mà một bên phải trả cho bên kia. Sự khác biệt giữa phán quyết chung thẩm với các loại phán quyết khác mà Hội đồng trọng tài có thể ban hành là ở chỗ phán quyết chung thẩm giải quyết mọi vấn đề (hoặc mọi vấn đề còn lại) đã đưa ra trọng tài. Theo nghĩa này, đây là quyết định “cuối cùng” (last) Nó thông thường sẽ là kết quả của một quá trình tranh luận thấu đáo. Tuy nhiên, nó cũng có thể là phán quyết được ra trong trường hợp bị đơn không thể hoặc từ chối tham dự, trong trường hợp này quyết định được hiểu thông thường là phán quyết mặc định hoặc ex parte (phán quyết của một bên/ một phía). Trong bài viết này, phán quyết được nghiên cứu, phân tích là phán quyết chung thẩm theo nghĩa nó giải quyết tận gốc mọi vấn đề đã đưa ra và nó ràng buộc với các bên. Phán quyết chung thẩm này còn được hiểu theo nghĩa nó kết luận mọi hướng dẫn của Hội đồng trong tài. Chính vì mọi quyết định trọng tài đều nhằm giải quyết một/ hoặc nhiều vấn đề đã xác định, cho nên điều quan trọng là việc Hội đồng trọng tài cần phải cố gắng để đảm bảo không chỉ rằng phán quyết đó phải đúng, mà còn ở chỗ nó cần phải được thi hành cả ở nước ngoài.[1] Không một Hội đồng trọng tài nào có thể đảm bảo rằng phán quyết do họ đưa ra có thể được thi hành tại bất kỳ nước nào mà chủ nợ lựa chọn làm nơi thi hành án. Điều hy vọng này là quá mức lạc quan, đứng từ góc độ cả “lý’ và “tình”. Tuy vậy, mọi Hội đồng trọng tài đều phải làm việc hết sức mình. Quy tắc trọng tài ICC cũng đã thể hiện điều này: “Đối với những vấn đề không được quy định rõ trong Quy tắc này, thì Toà án và Hội đồng trọng tài sẽ hành động theo tinh thần của Quy tắc và sẽ nỗ lực để đảm bảo rằng phán quyết được ban hành sẽ có khả năng được thi hành theo quy định của pháp luật”.[2] 2. Nguyên tắc ra quyết định trọng tài theo đa số trong pháp luật Việt Nam Trên cơ sở đảm bảo tính chung thẩm và tính được cưỡng chế thi hành, Pháp lệnh trọng tài thương mại Việt Nam tại Điều 42 đã quy định nguyên tắc ra quyết định của Hội đồng như sau: “Quyết định trọng tài của Hội đồng trọng tài được thành lập theo nguyên tắc đa số, trừ trường hợp vụ tranh chấp do trọng tài viên duy nhất giải quyết. Ý kiến của thiểu số được ghi vào biên bản phiên họp”. a. Trường hợp Hội đồng trọng tài chỉ có 1 trọng tài viên duy nhất: Trong trường hợp Hội đồng trọng tài có một trọng tài viên duy nhất, thì trọng tài viên đó phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trong việc ra quyết định trọng tài. Sau khi tiến hành các thủ tục tố tụng trọng tài như nhận đơn kiện của nguyên đơn, bản tự bảo vệ của bị đơn, nghiên cứu hồ sơ, xác minh vụ việc, hoặc gặp gỡ, nghe các bên trình bày ý kiến, thu thập chứng cứ, trọng tài viên duy nhất sẽ nghiên cứu, phân tích và quyết định vụ việc bằng cách ra phán quyết trọng tài. b. Trường hợp Hội đồng trọng tài gồm 3 trọng tài viên: Tuy nhiên, phần lớn Hội đồng trọng tài do các bên thành lập đều gồm 3 trọng tài viên (Điều 25, 26). Trong trường hợp này thì việc ra phán quyết không hẳn là đơn giản như trường hợp một trọng tài viên duy nhất. Sẽ rất lý tưởng một khi phán quyết được ban hành trên cơ sở đồng lòng nhất trí của mọi thành viên Hội đồng trọng tài. Tuy nhiên, vấn đề sẽ trở nên không đơn giản nếu ta mổ xẻ tình huống khác có thể xảy ra khi áp dụng nguyên tắc ra quyết định theo đa số. Thử tính đến trường hợp không có quyết định trọng tài trong trường hợp không thể đạt được sự nhất trí của Hội đồng trọng tài. Cũng có thể lý giải rằng, cần phải bắt buộc các trọng tài viên tiếp tục tranh luận cho đến khi nào họ thoả hiệp được với nhau về kết quả cuối cùng. [3] Tuy nhiên cũng rất có thể các trọng tài không bao giờ tìm được tiếng nói chung. Ví dụ trong các vụ trọng tài về công nghiệp xây dựng thường có một số nhóm các vấn đề khác nhau liên quan đến các khiếu kiện riêng biệt, và do vậy, thông thường mỗi trọng tài thường có những cách nhìn khác nhau về những vấn đề khác nhau. Hơn thế, các trọng tài còn có thể có những cái nhìn khác nhau đối với các câu hỏi mang tính chất định lượng của các vụ việc, mà không đạt được một sự thoả hiệp nào nhằm ban hành được một phán quyết theo nguyên tắc đa số.[4] c. Giải pháp áp dụng khi Hội đồng trọng tài không đạt được sự nhất trí theo nguyên tắc đa số Các bên của trọng tài không nên liều lĩnh trả một khoản tiền đáng kể để lấy một kết quả là con số 0. Trong trường hợp quyết định theo đa số được tuyên, thì thông thường đó là kết quả của sự thoả hiệp giữa chủ tịch Hội đồng trọng tài và một trong các trọng tài viên do các bên chỉ định. Mỗi trọng tài viên được chỉ định có thể có phán quyết khác xa, tách rời khỏi khuôn khổ (nội dung) vụ việc, hoặc mức định lượng hoặc có thể với cả hai. Cách tiếp cận của Quy tắc tố tụng trọng tài ICC hơi khác. Quy tắc này tuyên rằng, với những Hội đồng trọng tài gồm 3 trọng tài viên, thì phán quyết được tuyên theo nguyên tắc đa số; tuy nhiên trong trường hợp không đạt được sự nhất trí đa số, thì chủ tịch Hội đồng trọng tài tự ra phán quyết. [5] Cách tiếp cận tương tự cũng có thể tìm thấy trong pháp luật một số nước khác, như Luật trọng tài của Thuỵ sỹ năm 1989, Luật trọng tài của Anh năm 1996 và Quy tắc trọng tài LCIA.[6] Theo Quy tắc trọng tài ICC và trọng tài LCIA thì gánh nặng không đặt lên Chủ tịch Hội đồng trọng tài mà lên các trọng tài viên khác trong việc thống nhất với Chủ tịch Hội đồng để tạo thành đa số. Điều này là cần thiết bởi lẽ nếu không đạt được sự nhất trí đa số, chủ tịch Hội đồng trọng tài sẽ tuyên phán quyết theo ý kiến của riêng mình. Tuy nhiên, nếu điều này xảy ra, thì những người phán xét sự lựa chọn của các bên không phải là các bên của phán quyết, mà thay vào đó phán quyết sẽ được tuyên do một người mà các bên đã buộc phải chịu chấp nhận theo sự chỉ định của Cơ quan trọng tài hay cơ quan có thẩm quyền chỉ định chủ tịch Hội đồng trọng tài. Tuy nhiên, theo quy định của Quy tắc UNCITRAL, cũng có thể có một số cách thoả thuận nhất định giữa chủ tịch Hội đồng trọng tài hoặc một trong các trọng tài do các bên chỉ định để có thể đạt được một phán quyết theo đa số cần thiết. Cách làm này có thể dẫn đến một kết quả ít công bằng hơn hơn là khi phán quyết do chỉ riêng Chủ tịch Hội đồng trọng tài tuyên. Với trọng tài giải quyết tranh chấp đầu tư giữa Nhà nước và công dân của Nhà nước khác (trọng tài ICSID), nguyên tắc đa số cũng được tôn trọng. Công ước Washington[7] quy định rằng: “Hội đồng trọng tài sẽ ra quyết định dựa trên đa số của tất cả thành viên”.[8] và quy định này đã có hiệu lực khi được đưa vào Quy tắc trọng tài ICSID với nội dung: “Phán quyết của Hội đồng trọng tài sẽ được tuyên dựa trên đa số của tất cả thành viên. Việc không bỏ phiếu sẽ được coi là phiếu không đồng ý”.[9] Theo nội dung của trọng tài ICSID, quy tắc đa số có nghĩa rằng ít nhất 2 trong 3 thành viên của Hội đồng trọng tài cần phải chuẩn bị đồng ý với với nhau, kể cả khi phải thương lượng hoặc thoả hiệp với nhau. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm phải ra phán quyết; không cho phép tuyên bố rằng phán quyết này còn để ngỏ hoặc không thể ra phán quyết này được. Hội đồng trọng tài không được lấy lý do thiếu cơ sở pháp lý vì lý do pháp luật không rõ hoặc không quy định.[10] Một điều có thể khó cho cá nhân các thành viên của Hội đồng trọng tài trong việc thay đổi tình trạng tương ứng để đạt được quyết định đa số cần thiết. Biên bản soạn thảo Quy tắc trọng tài ICSID ghi lại rằng, trong Dự thảo đầu tiên, người ta đã tính đến khả năng Hội đồng trọng tài không thể đạt được quyết định đa số. Tuy nhiên, người ta đã kết luận rằng, không có vấn đề gì xảy ra đối với câu hỏi mang tính chất phủ định hay khẳng định. Nếu câu trả lời khẳng định không đạt được theo tiêu chí đa số, có nghĩa nó sẽ đương nhiên thành quyết định phủ định (bởi lẽ theo quy chế của ICSID, phiếu trắng đồng nghĩa với câu trả lời phủ định). Khi không thể có câu trả lời đơn giản là “có” hay “không” (ví dụ như trong việc khẳng định mức thiệt hại cần phải bồi thường), người ta khẳng định rằng “quyết định thông thường có thể đạt được bằng việc những sự lựa chọn lần lượt bị loại bỏ”.[11] Các quy tắc trọng tài nêu ở trên có cách giải thích (tiếp cận) dựa trên nguyên tắc “một cây làm chẳng nên non – ba cây chụm lại nên hòn núi cao” (“two heads are better than one”). Theo quy định của quy tắc này, và trong trường hợp không đạt được sự nhất trí (thống nhất) hoàn toàn, thì hai trong ba trọng tài viên cần phải dàn hoà quan điểm với nhau để có thể ra được phán quyết theo đa số. Luật Mẫu UNCITRAL và Luật của Đức cũng áp dụng tiêu chí “nguyên tắc đa số”, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.[12] Như vậy là có nhiều cách tiếp cận để Hội đồng trọng tài gồm 3 thành viên có thể ra được phán quyết. Phán quyết đó có thể được tuyên trên sự thống nhất hoàn toàn ý kiến của 3 thành viên, hoặc theo đa số, hoặc nếu cần thiết, thì do chủ tịch Hội đồng trọng tài tự quyết định theo ý kiến của riêng mình, theo pháp luật về tố tụng trọng tài. Khi có nhiều vấn đề cần phải quyết định, thì về nguyên tắc có thể tách thành một vài vấn đề có ý kiến khác nhau và một số vấn đề khác được thống nhất chung. Trong những trường hợp đó, một câu hỏi đặt ra là liệu toàn bộ các vấn đề sẽ đều do Chủ tịch Hội đồng trọng tài giải quyết (nếu điều này được pháp luật có liên quan cho phép), hoặc phán quyết có thể được chia nhỏ thành nhiều quyết định khác nhau, theo đó từng quyết định sẽ được tuyên theo từng thủ tục khác nhau (theo nguyên tắc đa số tuyệt đối, tương đối hoặc theo quyết định riêng biệt của chủ tịch Hội đồng trọng tài). Nếu chỉ có một trong nhiều vấn đề không đạt được theo nguyên tắc đa số, thì toàn bộ phán quyết có thể được coi là theo đa số. Nếu có nhiều vấn đề không được giải quyết dựa trên đa số, thì toàn bộ phán quyết được coi là do Chủ tịch Hội đồng trọng tài tuyên, nếu pháp luật tương ứng cho phép; nếu không, thì các trọng tài cần phải tiếp tục, bằng cách này hay cách khác, để cố gắng đạt được phán quyết theo đa số. Pháp luật Việt Nam chỉ quy định nguyên tắc chung của việc ra quyết định trọng tài là nguyên tắc đa số mà chưa tính đến trường hợp ngoại lệ khi nguyên tắc này không đạt được. So sánh với pháp luật nước ngoài (như đã phân tích ở trên), chúng ta thấy quy định này trong Pháp lệnh trọng tài thương mại của ta là chưa rõ ràng, cụ thể, dẫn đến việc khó thực hiện trong trường hợp các trọng tài viên không đạt được thoả thuận theo đa số. Đề xuất của tác giả, là các quy định này cần được bổ sung chi tiết hơn nữa (trước mắt là bằng văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh, và sau nữa là tại Luật trọng tài thương mại đang được chuẩn bị xây dựng). Các phương án có thể áp dụng là theo quy tắc trọng tài ICC[13], Luật trọng tài Thuỵ sỹ[14], Luật trọng tài của Anh năm 1996[15] và Quy tắc trọng tài LCIA[16], theo đó với những Hội đồng trọng tài gồm 3 trọng tài viên, thì trong trường hợp không đạt được sự nhất trí đa số, Chủ tịch Hội đồng trọng tài sẽ tự ra phán quyết, và phán quyết đó sẽ được coi là phán quyết của Hội đồng trọng tài. 3. Nguyên tắc thảo luận tập thể trước khi ra phán quyết trọng tài. Pháp lệnh trọng tài Việt Nam không quy định nguyên tắc Hội đồng trọng tài phải thảo luận tập thể trước khi ra phán quyết, mặc dù trên thực tiễn, để ra quyết định trọng tài, Hội đồng trọng tài vẫn thảo luận tập thể. Tuy nhiên, một khi nguyên tắc này chưa được đưa thành một quy định của pháp luật, thì cũng là một điểm còn khiếm khuyết, cần được bổ sung. Theo quy định của pháp luật trọng tài các nước, trong trường hợp Hội đồng trọng tài nhiều hơn 1 trọng tài viên, thì hiển nhiên cần có sự thảo luận trước khi ra quyết định trọng tài. Pháp luật trọng tài một số nước quy định nguyên tắc thảo luận tập thể là điều kiện bắt buộc[17]. Và kể cả cho dù pháp luật không quy định bắt buộc như vậy, thì việc các trọng tài viên phải thảo luận trước khi ra phán quyết cũng là điều được công nhận rộng rãi. Việc thảo luận này không nhất thiết phải được tổ chức tại nơi giải quyết tranh chấp. Nếu một trọng tài viên từ chối tham gia phiên thảo luận để ra phán quyết, các trọng tài viên còn lại thông thường vẫn ra quyết định theo nguyên tắc đa số, trong sự vắng mặt của trọng tài viên kia. Điều này cũng có thể nảy sinh một số khó khăn nếu như pháp luật áp dụng yêu cầu việc thảo luận phải được tiến hành với sự có mặt của đầy đủ mọi thành viên. Mặc dù vậy, một số nước vẫn có xu hướng từ chối thi hành quyết định trọng tài, theo Công ước New York 1958, nếu một trong các trọng tài viên cố tình làm vô hiệu trọng tài bằng cách từ chối tham gia thảo luận của Hội đồng trọng tài sau phiên toà. Tuy nhiên, trên thực tiễn thì các thiết chế trọng tài cũng đã theo xu hướng công nhận mô hình chóp nón của Hội đồng trọng tài “truncated tribunal” trong những hoàn cảnh thích hợp.[18] Đây là trường hợp ngoại lệ khi lẽ ra phải chỉ định thêm hoặc thay thế một trong 3 trọng tài viên bằng một trọng tài viên khác cho đủ thành phần Hội đồng trọng tài (3 người), thì các bên lại thoả thuận và pháp luật cũng cho phép 2 trọng tài viên còn lại được phép ra quyết định trọng tài. Khi có một trọng tài viên bỏ cuộc hoặc cố tình trì hoãn vào giai đoạn cuối của tố tụng trọng tài bằng cách không chịu thảo luận hoặc không chịu biểu quyết ra quyết định, và khi thấy rõ rằng việc phải chỉ định thêm 1 trọng tài viên thay thế sẽ làm ảnh hưởng lớn đến tiến độ của việc ra quyết định trọng tài, cũng như tiến độ chung của vụ việc, thì các bên có thể thoả thuận áp dụng Mô hình Hội đồng trọng tài chóp nón (với 02 trọng tài viên còn lại). Mô hình “truncated tribunal” đã được thảo luận taị Hội nghị ICCA năm 1990. Tại Việt Nam, mặc dù chưa có quy định rõ ràng trong pháp luật trọng tài về tính bắt buộc của việc thảo luận, nhưng trên thực tiễn, các trọng tài viên đều ra phán quyết dựa trên sự bàn bạc kỹ càng, sau khi nghe ý kiến các bên. Tuy nhiên, sẽ vẫn là không đầy đủ, nếu như pháp luật của ta chưa quy định rõ về vấn đề này. Chính vì vậy, việc cân nhắc để bổ sung vào pháp luật về trọng tài của Việt Nam quy định nêu trên là cần thiết, nhằm tránh các trường hợp không hay xảy ra, khi một trong các trọng tài viên của Hội đồng trọng tài từ chối hoặc cố tình không chịu tham gia phiên thảo luận cuối cùng trước khi ra phán quyêt. Đề xuất của tác giả là cần có nguyên tắc bắt buộc trọng tài viên phải thảo luận trước khi ra phán quyết; việc thảo luận này là bắt buộc đói với mọi thành viên, trừ trường hợp vắng mặt có lý do chính đáng./. Tóm lại, chế định về tuyên quyết định trọng tài theo nguyên tắc đa số được quy định trong Pháp lệnh trọng tài thương mại Việt Nam hiện nay là còn bất cập, chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, chưa phù hợp với pháp luật quốc tế và pháp luật của các nước khác. Rõ ràng là cần phải nghiên cứu thấu đáo nội hàm của việc tuyên quyết định trọng tài theo nguyên tắc đa số, để giải quyết thấu đáo mọi tình huống ngoại lệ khi nguyên tắc này không đạt được (ví dụ trường hợp không đạt được sự nhất trí đa số hay trường hợp trọng tài viên cố tình làm vô hiệu quyết định trọng tài bằng cách từ chối tham gia thảo luận tại Hội đồng trọng tài...) như đã phân tích ở trên. Hy vọng một vài kiến nghị nêu trên sẽ được cân nhắc tham khảo trong quá trình xây dựng Luật trọng tài thương mại hiện nay. _________________Giải quyết tranh chấp: Trọng tài adhoc hay trọng tài quy chế Theo quy định của pháp luật Việt Nam cũng như quốc tế, hiện có hai hình thức trọng tài được sử dụng là Trọng tài vụ việc và Trọng tài quy chế. Tùy thuộc vào ý chí, điều kiện thực tế, thói quen hay nội dung của tranh chấp, các bên đương sự sẽ quyết định lựa chọn cho mình một hình thức trọng tài phù hợp. Bài viết dưới đây đưa ra những phân tích về ưu, nhược điểm của từng hình thức với mong muốn giúp các cá nhân và tổ chức kinh doanh lựa chọn cho mình một hình thức trọng tài để giải quyết một cách hiệu quả nhất các tranh chấp đã, đang và sẽ phát sinh trong quá trình kinh doanh. 1. Trọng tài vụ việc (adhoc) Có nhiều cách diễn đạt khác nhau về thuật ngữ “Trọng tài vụ việc”. “Trọng tài vụ việc” có thể được hiểu là hình thức trọng tài được lập ra theo yêu cầu của các đương sự để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể và tự giải thể khi tranh chấp đó đã được giải quyết. “Trọng tài vụ việc có nghĩa là trọng tài không được tiến hành theo quy tắc của một tổ chức trọng tài thường trực. Do các bên không bắt buộc phải tiến hành trọng tài theo quy tắc của một tổ chức trọng tài thường trực, họ có thể tự do quy định quy tắc tố tụng riêng. Nói cách khác, trọng tài vụ việc là trọng tài tự tiến hành (do it yourself arbitration)”[1]. Ưu điểm Ưu điểm cơ bản của hình thức Trọng tài vụ việc đó là quyền tự định đoạt của các bên là rất lớn. Thủ tục giải quyết của Trọng tài vụ việc hoàn toàn docác bên tự thỏa thuận cho riêng họ và các Trọng tài viên phải tuân theo. Điều này đòi hỏi sự hợp tác của các bên để thực hiện một cách đầy đủ và hiệu quả và y và nhiều thời gian vì các bên phải tthỏa thuận chi tiết về việc tiến hành quá trình tố tụng. Bên cạnh đó, việc tiến hành Trọng tài vụ việc có chi phí thấp và thời gian giải quyết nhanh. Với việc lựa chọn hình thức trọng tài này, các bên sẽ không phải trả thêm các khoản chi phí hành chính cho các trung tâm trọng tài (thông thường khoản chi phí này không nhỏ). Ví dụ, theo Quy tắc tố tụng của Tòa án Trọng tài quốc tế ICC, khi nộp đơn kiện, Nguyên đơn phải nộp một khoản phí đăng ký là 2.500 USD và khoản phí này sẽ không được hoàn lại trong bất kỳ điều kiện nào. Mức phí hành chính tối đa mà ICC yêu cầu các bên phải nộp có thể lên tới 75.800 USD[2]. Theo Quy tắc Tố tụng của Viện Trọng tài Stockhoml Thụy Điển, khi nộp đơn kiện, Nguyên đơn cũng phải nộp một khoản phí đăng ký là 1.500 Euro và khoản phí này sẽ không được hoàn lại trong bất kỳ trường hợp nào. Ngoài ra, đối với Trọng tài vụ việc, các bên có thể thỏa thuận bỏ qua một số thủ tục tố tụng không cần thiết để rút ngắn thời gian giải quyết vụ tranh chấp. Nhược điểm: Nhược điểm lớn nhất của Trọng tài vụ việc (có thể là yếu tố bất lợi nghiêm trọng) đó là phải phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của các bên. Nếu một bên không có thiện chí, quá trình tố tụng sẽ luôn có nguy cơ bị trì hoãn, và nhiều khi không thể thành lập được Hội đồng Trọng tài bởi vì không có quy tắc tố tụng nào được áp dụng. Trong Trọng tài vụ việc, không có tổ chức nào giám sát việc tiến hành trọng tài và giám sát các Trọng tài viên. Vì vậy, kết quả phần lớn phụ thuộc vào việc tiến hành tố tụng và khả năng kiểm soát quá trình tố tụng của các Trọng tài viên. Cả Trọng tài viên và các bên sẽ không có cơ hội nhận được sự ủng hộ và trợ giúp đặc biệt từ một tổ chức trọng tài thường trực trong trường hợp phát sinh sự kiện không dự kiến trước và trong trường hợp các Trọng tài viên không thể giải quyết được vụ việc. Sự hỗ trợ duy nhất mà các bên có thể nhận được là từ các Tòa án. Do vậy, chỉ khi có tồn tại một Hội đồng Trọng tài và một quy tắc tố tụng cụ thể được xác lập thì quá trình tố tụng mới có thể tiến hành được suôn sẻ như Trọng tài quy chế trong trường hợp một bên từ chối không tham gia vào quá trình tố tụng. 2. Trọng tài quy chế Trọng tài quy chế là hình thức trọng tài được thành lập dưới dạng các trung tâm, tổ chức hoặc hiệp hội, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có trụ sở cố định. Hầu hết các tổ chức trọng tài đều có Quy tắc tố tụng trọng tài riêng, một số có Danh sách trọng tài viên riêng. Khi các bên lựa chọn Trọng tài quy chế, các bên nhận được sự hỗ trợ nhất định của tổ chức trọng tài này liên quan tới việc tổ chức và giám sát tố tụng trọng tài. Tuy nhiên, để nhận được sự trợ giúp đó, các bên phải trả một số chi phí nhất định gọi là chi phí hành chính. Các chi phí này có thể nằm trong phí trọng tài hoặc được tách riêng. Nếu các bên muốn lựa chọn hình thức Trọng tài quy chế, các bên phải ghi rõ tên tổ chức trọng tài cụ thể trong điều khoản trọng tài hoặc ghi rõ tranh chấp sẽ được giải quyết theo Quy tắc tố tụng trọng tài của một tổ chức trọng tài cụ thể. Nếu không có thỏa thuận rõ ràng, các điều khoản trọng tài có nguy cơ bị vô hiệu hoặc không được cơ quan nào giải quyết khi tranh chấp phát sinh. Theo Điều 10 của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003, thỏa thuận trọng tài sẽ vô hiệu nếu không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên không có thoả thuận bổ sung. Nhằm giúp các bên có thể dễ dàng lựa chọn tổ chức trọng tài khi có ý định sử dụng trọng tài quy chế, các tổ chức trọng tài quy chế đều có những điều khoản trọng tài mẫu để các bên tham khảo. Có tổ chức trọng tài hướng các bên lựa chọn Quy tắc tố tụng trọng tài của mìnhVí dụ như Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ (AAA): “Bất kỳ tranh chấp hoặc khiếu nại nào phát sinh từ hoặc liên quan tới hợp đồng này được giải quyết bằng trọng tài theo Quy tắc tố tụng trọng tài của Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ”. Có tổ chức trọng tài hướng đến việc lựa chọn tên của tổ chức trọng tài đó hoặc Quy tắc của tổ chức trọng tài đó. Ví dụ như Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết chung thẩm tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam theo Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm này”. v.v... Với việc đưa các điều khoản trọng tài nêu trên vào hợp đồng, các bên sẽ được đảm bảo nhận được đầy đủ các hình thức hỗ trợ của trọng tài quy chế, đảm bảo trong mọi trường hợp, quá trình tố tụng trọng tài vẫn được tiến hành, không phụ thuộc vào việc một bên có tham gia tố tụng hay không. Về cơ bản, các trung tâm trọng tài đều có quy tắc tố tụng riêng, trong đó ấn định các thời hạn cụ thể hoặc có một số giới hạn. Theo quy tắc của một số tổ chức trọng tài, các bên phải chọn một Trọng tài viên từ danh sách do tổ chức cung cấp (Một số tổ chức trọng tài thường trực có thể hạn chế các Trọng tài viên trong danh sách là những công dân thuộc nước họ). Tuy nhiên, phần lớn các tổ chức trọng tài không có danh sách Trọng tài viên hoặc có danh sách Trọng tài viên cũng chỉ mang tính tham khảo, các bên không bắt buộc phải chỉ định Trọng tài viên từ danh sách đó. Ưu điểm: Việc quy định chi tiết các thủ tục tố tụng khi bắt đầu cho đến khi kết thúc là thuận lợi lớn nhất của Trọng tài quy chế. Chẳng hạn, khi các bên thỏa thuận trọng tài sẽ được tiến hành bởi một Hội đồng Trọng tài gồm ba Trọng tài viên nhưng Bị đơn lại không tiến hành chỉ định Trọng tài viên. Trong trường hợp đó, quy tắc tố tụng trọng tài sẽ quy định cụ thể về việc chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn. Theo Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC, nếu Bị đơn không tiến hành chỉ định Trọng tài viên trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu chỉ định Trọng tài viên thì Chủ tịch Trung tâm sẽ chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn. Ngoài ra, các quy tắc tố tụng của các tổ chức trọng tài thường quy định rất chi tiết về các bước của quá trình tố tụng, đảm bảo trong mọi trường hợp tranh chấp sẽ được giải quyết, không phụ thuộc vào việc một bên có tham gia vào quá trình tố tụng trọng tài hay không. Theo Quy tắc của ICC: “Nếu một trong các bên, mặc dù đã được thông báo hợp lệ, nhưng không tham dự, thì Trọng tài viên, nếu thấy rằng việc gửi thông báo đã được tiến hành hợp lệ mà bên nhận được thông báo vắng mặt không có lý do chính đáng, thì trọng tài vẫn có quyền tiếp tục các bước tố tụng, và quá trình tố tụng tố vẫn được coi là được tiến hành với sự có mặt của các bên”. Như vậy, trong trường hợp một bên không có thiện chí tham gia tố tụng trọng tài thì các quy định trên là rất cần thiết. Ưu điểm thứ hai đó là hầu hết các tổ chức trọng tài đều có những chuyên gia được đào tạo tốt để hỗ trợ quá trình trọng tài. Các chuyên viên này sẽ đảm bảo Hội đồng Trọng tài sẽ được thành lập, các khoản phí trọng tài sẽ được nộp đủ, đôn đốc đúng thời hạn và nói chung sẽ đảm bảo quá trình tố tụng được diễn ra phù hợp trong phạm vi tối đa có thể. Điển hình trong việc hỗ trợ và giám sát quá trình tố tụng trọng tài đó là Tòa án Trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC), giám sát toàn bộ tố tụng trọng tài từ lúc thông báo cho Bị đơn về yêu cầu trọng tài của Nguyên đơn cho đến lúc gửi quyết định trọng tài cho các bên. Đặc biệt, theo Điều 27 Quy tắc tố tụng của ICC, Hội đồng Trọng tài không được ban hành quyết định trọng tài khi chưa được ICC phê chuẩn về hình thức của quyết định. Đây là quy định rất quan trọng, về nguyên tắc vẫn đảm bảo quyền tự quyết của các Hội đồng Trọng tài. Tuy nhiên, sự xem xét của ICC nhằm mục đích hạn chế tối đa các sai sót về mặt hình thức, giảm thiểu nguy cơ quyết định trọng tài bị tuyên hủy. Nếu quá trình tố tụng không được giám sát theo cách thức trên, các Hội đồng Trọng tài sẽ phải tự đảm nhận các trách nhiệm này. Quá trình tố tụng sẽ có nguy cơ bị gián đoạn, kéo dài hoặc không thể tiến hành được theo đúng quy định mà các bên đã thỏa thuận hoặc quy định của quy tắc tố tụng. Nhược điểm: Nhược điểm lớn nhất của Trọng tài quy chế đó là tốn kém nhiều chi phí. Rõ ràng giải quyết tranh chấp tại Trọng tài quy chế, ngoài việc phải trả chi phí thù lao cho các Trọng tài viên, các bên còn phải trả thêm các chi phí hành chính để nhận được sự hỗ trợ của các trung tâm trọng tài. Nhược điểm thứ hai của Trọng tài quy chế đó là nhiều khi quá trình tố tụng bị kéo dài mà Hội đồng Trọng tài các các bên bắt buộc phải tuân thủ vì phải tuân theo các thời hạn theo quy định của Quy tắc tố tụng Như vậy, mỗi hình thức trọng tài đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Sẽ là lý tưởng khi có thể lựa chọn hình thức trọng tài vụ việc hoặc trọng tài quy chế khi tranh chấp đã phát sinh. Và khi đó các bên sẽ xem xét bản chất của vụ tranh chấp và quyết định loại trọng tài nào sẽ thích hợp để giải quyết, những thủ tục tố tụng nào cần thiết phải tuân theo. Tuy nhiên, trong thực tiễn, việc cân nhắc những ưu điểm và nhược điểm của mỗi phương thức thường rơi vào thời điểm đàm phán và ký kết hợp đồng và việc lựa chọn phương thức trọng tài cũng phải được tiến hành từ giai đoạn này. Điều này có tác dụng đảm bảo sự an toàn cho việc giải quyết tranh chấp khi có phát sinh. Nói cách khác, việc thỏa thuận một hình thức trọng tài cụ thể trong hợp đồng có tác dụng ngăn ngừa sự lạm dụng của một bên, nhất là bên vi phạm hợp đồng bởi vì khi phát sinh tranh chấp, bên vi phạm hợp đồng thường có thái độ thiếu thiện chí hoặc lẩn tránh nghĩa vụ của mình. [1] Trọng tài và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn do Trung tâm Thương mại Quốc tế UNCTAD/WTO – Geneva: ITC, 2001, xvii, 266p. [2] Biểu phí tổn và các chi phí trọng tài của ICC có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1998
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số điểm bất cập của Pháp lệnh Trọng tài thương mại Việt Nam.doc