MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
1.1: Cơ sở lý luận : Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ( Khoá 8) đã ra nghị quyết về định hướng chiến lược phát triển Giáo dục - Đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá; Dựa vào tinh thần nội dung của Luật Giáo dục đã được Quốc hội thông qua ( Tháng 12/1998) Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển Giáo dục - Đào tạo từ năm 2001 đến năm 2010. Quốc hội đã có Quyết định 40/2000 QH 10 ngày 9 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội nưowcs CHXHCN Việt Nam về đổi mới Chương trình giáo dục phổ thông; Quyết định 41/ 2001 QH 10 về phổ cập giáo dục THCS. Bộ Giáo dục và Đào tạo với nhiều biện pháp tích cực đang chỉ đạo triển khai thực hiện các chủ trương trên, trong đó có thực hiện CT - SGK mới.
Giáo dục Việt Nam phát triển theo hướng xã hội hoá, hiện đại hoá, đa dạng hoá, dân chủ hoá. “ Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội” ( Chương 2- điều 3 Luật Giáo dục). Như thế, nguyên lý giáo dục là nguyên tắc chung, phương pháp tổng quát của hoạt động giáo dục. Người quản lý giáo dục của tất cả mọi cấp đều phải vận hành hệ thống giáo dục theo nguyên lý giaó dục.
Nước ta có khoảng 60% học sinh ở độ tuổi 11 – 14 kế thừa kết quả giáo dục mầm non, tiểu học và THCS chuẩn bị cho các em bước vào THPT, THCN, công nhân kỹ thuật, một số bước vào lao động sản xuất. Nhiệm vụ đó đối với nhà trường THCS là quan trọng và nặng nề lớn lao.
Trong những năm gần đây, Phòng Giáo dục - Đào tạo Cửa Lò, Sở Giáo dục Đào tạo Nghệ An đã có những chỉ đạo và biện pháp cụ thể trong công tác quản lý thực hiện Chương trình - SGK. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng phát triển các cấp học bậc học nói chung, bậc THCS nói riêng ở Nghệ An vẫn đang cần được quan tâm giải quyết.
Dựa vào các chức năng quản lý giáo dục và bản chất của quá trình quản lý trường học đối với một trường THCS, theo chúng tôi, công tác quản lý cần dựa vào những định hướng và yêu cầu của việc đổi mới chương trình hiện nay.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Cửa Lò là một Thị xã du lịch đang phát triển nằm ở phía bắc Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng nhanh chóng. Tuy nhiên trình độ dân trí – nền giáo dục chưa phát triển ngang tầm với yêu cầu phát triển kinh tế xã - hội của Thị xã. Đối với Ngành Giáo dục Thị xã Cửa Lò nói chung và bậc THCS nói riêng, cần có một sự đổi mới mạnh mẽ, quyết liệt trong nhận thức, trong phương pháp đối với cán bộ quản lý trong việc triển khai thực hiện đổi mới Chương trình - SGK mới. Có đổi mới tư duy và phương pháp quản lý thì các nhà trường THCS trên địa bàn mới thực thành công nội dung chương trình giáo dục theo tinh thần thay sách. Nhằm hình thành cho thế hệ học sinh một mô hình nhân cách mới như mục tiêu đào tạo, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đô thị du lịch biển Cửa Lò giai đoạn 2001 – 2010.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn, chúng tôi nghiên cứu đề tài:” Một số giải pháp chủ yếu trong công tác quản lý nhà trường nhằm thực hiện có hiệu quả đối mới Chương trình - SGK THCS trên địa bàn TX Cửa Lò Tỉnh Nghệ An”.
125 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3136 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp chủ yếu trong công tác quản lý nhà trường nhằm thực hiện có hiệu quả đối mới Chương trình - SGK THCS trên địa bàn thị xã Cửa Lò Tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hất lượng học sinh là cơ sở khoa học để triển khai kế hoạch xây dựng và phát triển các yếu tố khác như cơ sở vật chất trường lớp, đội ngũ cán bộ giáo viên v.v..
2.1.1.1. Dự báo số lượng học sinh.
Theo số điều tra ở chương II về thực trạng giáo dục ở địa bàn Thị xã Cửa Lò, diễn biến về số lượng học sinh qua các năm từ 1999 đến năm 2003 như sau:
- Số học sinh tiểu học giảm dần: Từ 6494 em ở năm học 1999 - 2000 xuống 5583 em ở năm học 2002 - 2003.
- Số học sinh THCS tăng dần: Từ 4286 em ở năm học 1999 - 2000 đến 4974 em ở năm học 2002 - 2003.
Nhưng đến năm học 2002 - 2003, số lượng học sinh THCS bắt đầu chững lại.
Dấu hiệu này cho phép chúng ta dự báo được số lượng học sinh THCS từ nay đến năm 2010 có xu hướng giảm dần, khoảng 4500 em vào năm 2010.
2.1.1.2. Dự báo về chất lượng.
Theo số liệu thống kê ở chương II ( bảng 4,5) chúng ta thấy:
- Đối với học sinh tiểu học, chất lượng giáo dục đại trà tăng dần cả về đức dục và trí dục từ năm học 1999- 2000 đến năm học 2002 - 2003.
Chất lượng giáo dục mũi nhọn cũng tăng dần theo từng năm học.
- Đối với học sinh THCS, chất lượng giáo dục đại trà tăng dần theo các năm học cả về đức dục và trí dục.
Qua các số liệu trên, chúng ta có thể dự báo được chất lượng học sinh THCS từ nay đến năm 2010 đang có chiều hướng được nâng cao nếu như ngành giáo dục Thị xã Cửa Lò có một cơ chế mới trong quản lý và chỉ đạo hoạt động giáo dục của các nhà trường.
2.1.2. Quy hoạch đội ngũ giáo viên đủ số lượng, đồng bộ về cơ cấu, mạnh về chất lượng
Như đã phân tích thực trạng đội ngũ giáo viên THCS trên địa bàn Thị xã Cửa Lò ( chương II) chúng ta thấy rằng:
Đội ngũ tuy đủ về số lượng định biên nhưng lại thiếu về cơ cấu theo các môn học. Đặc biệt là thiếu giáo viên Nhạc, Hoạ, Giáo dục công dân và Công nghệ. Hiện tại nhiều giáo viên đang phải dạy chéo môn ( có tới 22 giáo viên trong 7 trường THCS) gồm Giáo dục công dân: 4 giáo viên; Âm nhạc: 7 giáo viên; Mỹ thuật 7 giáo viên và Công nghệ: 4 giáo viên.
Đó là chưa nói đến giáo viên dạy tin học đối với lớp 8, lớp 9 sẽ đưa vào chương trình từ năm học 2004 - 2005.
Như vậy vấn đề đặt ra cho ngành giáo dục đào tạo Thị xã Cửa Lò và các cấp các ngành có liên quan phải có biện pháp giải quyết kịp thời về hiện trạng thiếu giáo viên ở các bộ môn nói trên.
Một mâu thuẫn trong việc sắp xếp đội ngũ giáo viên hiện nay là phải đạt yêu cầu chuẩn về trình độ đào tạo; từ Cao đẳng trở lên đối với giáo viên THCS. Bởi vậy mà, mặc dù Nghành GD&ĐT Cửa Lò còn thiếu trầm trọng giáo viên Mỹ thuật, Âm nhạc nhưng các ban ngành chức năng vẫn cương quyết không bố trí giáo viên được đào tạo dưới chuẩn về các bộ môn nói trên đứng lớp. Trong khi đó, người ta lại chấp nhận giáo viên không hề qua đào tạo Âm nhạc, Mỹ thuật đứng lớp các môn học này. Những giáo viên đó chỉ được biết đại khái về Âm nhạc, Mỹ thuật qua một số ngày học chuyên đề trong hè.
Vấn đề thiếu giáo viên nói trên là hiện trang phổ biến trên toàn ngành giáo dục. Nhưng không vì thế mà các nhà trường bố trí giáo viên đứng lớp một cách tuỳ tiện, nếu không, chúng ta đã vô tình tạo cho giáo viên một cách nhìn không đúng đắn, thiếu công bằng với các môn học. Đặc biệt các môn Âm nhạc, Mỹ thuật... lại là những bộ môn mới mẻ được đưa vào nhà trường bắt đầu từ năm học thay sách lớp 6.
Để khắc phục những thiếu hụt này, có thể thực hiện các biện pháp sau:
a) Các trường tham mư cho Ngành giáo dục và các ban ngành chức năng để được phép hợp đồng với các giáo viên đã tốt nghiệp trung cấp Âm nhạc, Mỹ thuật đứng lớp. Thời hạn hợp đồng tuỳ thuộc vào thời điểm đơn vị có đủ giáo viên chính thức.
b) Ngành Giáo dục - Đào tạo TXCL có kế hoạch tổ chức cho những giáo viên dạy chéo môn ( không qua đào tạo cơ bản các môn tương ứng ) được học các chương trình bổ túc để đảm bảo lên lớp được các bộ môn nói trên.
c) Ngành Gáo dục - Đào tạo tiến hành quy hoạch đội ngũ, lập kế hoạch dài hạn từ nay đến 2010 để cân đối lại chỉ tiêu định biên, cơ cấu môn học. Từ đó có thể cử giáo viên có năng khiếu đi học tại các trường đào tạo để tự cân đối giáo viên cho những năn sau.
Đi đôi với việc cân đối cơ cấu, các trường tiến hành rà soát lại chất lượng đội ngũ giáo viên.
Chất lượng đội ngũ giáo viên được đánh giá qua nhiều yếu tố:
- Số lượng đội ngũ
- Cơ cấu đội ngũ
- Chất lượng của giáo viên.
Về chất lượng giáo viên có thể xem xét trên ba lĩnh vực:
- Phẩm chất đạo đức, trong đó có phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp và lối sống sư phạm.
- Năng lực chuyên môn được thể hiện ở trình độ đào tạo và kiến thức chuyên môn mà mỗi giáo viên đạt được, chiếm lĩnh được để làm tốt công tác dạy học của môn học mà giáo viên đó đảm nhiệm.
Năng lực nghề nghiệp, năng lực sư phạm: người giáo viên phải nắm vững các phương pháp dạy học, phương pháp tổ chức và quản lý dạy học, phương pháp đánh giá trong giáo dục, v.v... nghĩa là phải biết " hành nghề " dạy học.
Công tác quản lý của các trường có tác động đến chất lượng đội ngũ giáo viên. Điều cốt yếu trong vấn đề này là tạo cho họ một động lực tốt ; động viên họ không ngừng thi đua dạy tốt, công tác tốt. Muốn thực hiện được như vậy thì phải có một sự đổi mới trong công tác quản lý (sẽ trình bày ở phần sau).
Trên cơ sở rà soát lại chất lượng đội ngũ, các trường THCS mạnh dạn đề nghị lên Phòng giáo dục và các cơ quan chức năng không bố trí đứng lớp đối với những trường hợp không đạt yêu cầu. Mặt khác cho đi đào tạo lại đối với những giáo viên còn non yếu tay nghề; đề bạt những giáo viên có năng lực vào hàng ngũ quản lý.
Qua khảo sát tình hình đánh giá chất lượng đội ngũ giáo viên các trường THCS trong những năm gần đây, đặc biệt là năm đầu thực hiện đổi mới Chương trình - SGK 2002 - 2003 trên địa bàn Thị xã Cửa Lò, chúng ta thấy các trường còn biểu hiện thái độ hời hợt, vị nể. Hiện trạng đó thể hiện ở sự phân loại chất lượng giờ dạy của giáo viên chưa sát đúng với thực tế ; biểu hiện trong các cuộc bình xét thi đua học kỳ và cuối năm học; biểu hiện trong việc bố trí không đúng người đúng lớp v.v...
Từ thực trạng trên, chúng tôi đề nghị:
Các nhà trường và ngành Giáo dục - Đào tạo Thị xã Cửa Lò thực hiện nghiêm túc hướng dẫn số 955/ GD - TCCB ngày 29 tháng 8 năm 2002 của Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An về việc thực hiện công tác tổ chức cán bộ.
Trong đó nhấn mạnh về việc phân loại giáo viên:
" Tập trung chỉ đạo mạnh mẽ, dân chủ, chính xác việc đánh giá, rà soát phân loại giáo viên dạy yếu kém. Giáo viên vi phạm pháp luật, vi phạm ma tuý tuỳ theo mức độ nặng nhẹ không bố trí đứng lớp hoặc đưa ra khỏi ngành."
Đội ngũ giáo viên là một nhân tố quan trọng và có vai trò then chốt trong việc thực hiện đổi mới Chương trình - SGK. Sản phẩm của nhà trường chính là nhân cách của một thế hệ, chủ nhân tương lai của đất nước. Giáo viên là người trực tiếp giáo dục hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Do vậy, đội ngũ giáo viên phải được chuẩn hoá, phải đạt được các chuẩn mực về phẩm chất, năng lực của nghề dạy học, đáp ứng được các yêu cầu đổi mới của giáo dục phổ thông, trong đó yêu cầu thực hiện Chương trình - SGK mới. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên càng phải tự đổi mới, tự hoàn thiện mình, không ngừng học tập, chuyên môn, nghiệp vụ để hoàn thành tốt nhiệm vụ cao cả của mình.
2.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ phục vụ.
Theo thống kế số lượng, trình độ đào tạo của đội ngũ giáo viên bậc THCS Thị xã Cửa Lò ( Bảng 11.a chương II) chúng ta thấy tỉ lệ giáo viên đạt chuẩn đào tạo trở lên là 91,6%. Tỉ lệ giáo viên có trình độ đào tạo chưa đạt chuẩn là 8,4%.
Kết quả thi kiểm tra nhận thức của giáo viên về đổi mới Chương trình - SGK lớp 6 tại địa bàn Thị xã Cửa Lò ( Chương II, bảng 15) có 301/311 giáo viên đạt yêu cầu trở lên, chiếm tỉ lệ 96,8%. Số chưa đạt yêu cầu là 10 giáo viên, chiếm tỉ lệ 3,2%.
Theo bảng 16 tổng hợp kết quả giờ lên lớp của giáo viên dạy thay sách lớp 6 năm học 2002 - 2003, số giờ đạt trung bình trở lên chiếm tỉ lệ 95,3%. Số giờ bị xếp loại yếu chiếm tỉ lệ 4,7%. Trong tổng số giờ đạt yêu cầu, có tới 39,3% số giờ chỉ đạt mức trung bình.
Từ các số liệu trên chúng ta cần có một số biện pháp mang tính khả thi để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên; mà chủ yếu là nâng cao năng lực sư phạm - phương pháp dạy học cho giáo viên:
- Thứ nhất là nâng cao nhận thức cho giáo viên về tính tất yếu và cơ sở khoa học trong việc đổi mới Chương trình - SGK THCS.
Một thực tế cho thấy, giáo viên rất ít có cơ hội được nghiên cứu văn bản chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, ngành Giáo dục. Họ cần được học tập nghiên cứu để quán triệt các chủ trương, chỉ thị về đổi mới giáo dục phổ thông và CT - SGK THCS để trên cơ sở đó có tinh thần và hành động tốt trong việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn.
Về hình thức tổ chức học tập nghiên cứu có thể tổ chức, tập trung và cung cấp tài liệu để giáo viên tự nghiên cứu có thu hoạch, v.v .. có động lực tốt để học tập, tiếp thu các tinh thần chỉ đạo nói trên.
- Thứ hai là tăng cường đầu tư cho hoạt động trên lớp của giáo viên.
Thực tế cho thấy, thời lượng giáo viên được tiếp thu Chương trình - SGK mới trong hè chưa đủ để cho họ nắm bắt thành thạo các yêu cầu, phương pháp lên lớp theo tinh thần thay sách.
Những khái niệm " Tích hợp", " phân nhóm học sinh", còn quá mới mẻ đối với giáo viên. Một số giáo viên còn mơ hồ, trong nhận thức và lúng túng trong thao tác về các nội dung này. Đặc biệt đối với môn Ngữ văn, kỹ năng tích hợp giữa các phân môn Từ ngữ, Ngữ pháp - Văn - Tập làm văn của giáo viên còn thấp. Nhiều giáo viên ngại khó khi thực hiện phân nhóm học sinh để tổ chức trao đổi bài học trên lớp. Qua kiểm tra một số giờ trên lớp , tỉ lệ giáo viên còn dạy theo phương pháp cũ đang còn cao .
Từ thực tế trên chúng ta có thể đi đến nhận định:
- Một số giáo viên chưa thực sự tự giác trong việc tiếp thu phương pháp dạy học mới theo tinh thần đổi mới Chương trình - SGK.
- Do nhận thức chưa đầy đủ nên nhiều giáo viên chưa thấy được hiệu quả giáo dục khi sử dụng phương pháp dạy học mới.
- Sức ì, tư tưởng ngại khó,.. vẫn còn trong một số giáo viên. Căn cứ tình hình và hiện trạng đã nêu và phân tích, có thể thực hiện các biện pháp sau:
a, Các trường dành một lượng thời gian hợp lý để tổ chức cho giáo viên xem băng hình về các tiết dạy thử nghiệm, do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hành.
b, Tổ chức dạy thử nghiệm ( mẫu ) và đánh giá rút kinh nghiệm ở các tổ.
c, Ban Giám hiệu, ban Thanh tra nhà trường, các tổ trưởng, nhóm trưởng bộ môn tăng cường hoạt động thanh tra kiểm tra hoạt động chuyên môn của giáo viên.
d, Nhà trường xác định những khâu yếu nhất trong các giờ lên lớp của giáo viên dạy các lớp thay sách để có biện pháp khắc phục.
đ, Kiên quyết không bố trí những giáo viên yếu về năng lực sư phạm đứng lớp .
e, Bằng nhiều cách thức, các trường cần tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên về đổi mới phương pháp ( mời các nhà sư phạm , tự bồi dưỡng nội bộ, cung cấp tài liệu cho giáo viên tự nghiên cứu).
Hoạt động chính và trọng tâm của các nhà trường phổ thông là hoạt động dạy học. Trong đó phương pháp dạy học là bí quyết thành công, tạo nên hiệu quả trong hoạt động này.
Trong quyển" Hỏi đáp về đổi mới Trung học cơ sở" (do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành - Tháng 7/2001) có nhấn mạnh:
" Phương pháp dạy học ở nước ta hiện nay cần phải thay đổi theo hướng" khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng những phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh" (Nghị quyết Trung ương II Khoá VIII ). Định hướng này đã được pháp chế hoá trong Luật Giáo dục, Điều 24, 25: " Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh""
Hiện nay trong thực tế giảng dạy ở các trường phổ thông đang sử dụng phương pháp truyền thụ kiến thức có sẵn. Giáo viên lên lớp chủ yếu là giảng giải, thuyết trình. Học sinh chủ yếu là nghe, trả lời một số câu hỏi của thầy và học thuộc lòng những điều thầy truyền thụ. Chương trình - SGK mới của THCS sẽ thực hiện phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực độc lập sáng tạo của học sinh, chủ yếu tổ chức cho học sinh tự mình phát hiện, tìm kiếm cách thức giải quyết vấn đề qua các hoạt động học tập thích hợp [18 - SĐD]
Những dấu hiệu cơ bản của sự thay đổi phương pháp dạy học trên lớp là:
" Học sinh được làm việc nhiều hơn ( làm thí nghiệm, làm việc trực tiếp với tranh ảnh, bản đồ, các văn bản, v.v ..); được suy nghĩ nhiều hơn ( quan sát, phân tích rút ra kết luận về bản chất các sự kiện, hiện tượng tự nhiên, xã hội và con người, v. v..); được nói nhiều hơn ( trao đổi với bạn, trao đổi với thầy, phát triển nhận thức của bản thân về nội dung bài học).
- Giáo viên là người thiết kế trên giáo án các hoạt động của thầy và trò ở trên lớp; là người thông báo thông tin mới, tổ chức hướng dẫn cho học sinh thu thập thông tin, xử lý thông tin ( thông qua hoạt động cá nhân hoặc nhóm) và vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống; là trọng tài trong khi học sinh tranh luận với nhau, giúp học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ học tập.
- Hình thức học tập sẽ đa dạng hơn
- Ngoài sự đánh giá của thầy còn có hình thức học sinh tự đánh giá kết quả học tập của bản thân và của bạn.
- Không khí học tập trên lớp sôi nổi, học sinh hứng thú, tích cực làm việc dưới sự tổ chức hướng dẫn của thầy." [19 - SĐD]
Bước đầu đổi mới phương pháp dạy học sẽ gặp những khó khăn và cách khắc phục như sau:
Đổi mới phương pháp dạy học là một quá trình lâu dài và không thể nóng vội. Qua kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, đổi mới phương pháp dạy học bước đầu sẽ không tránh khỏi những khó khăn. Thực tế cho thấy còn một số khó khăn và định hướng khắc phục như sau:
1. Việc đổi mới quan niệm, một thói quen trong dạy học sẽ gặp phải những khó khăn cả về nhận thức và hành động. Cơ quan chỉ đạo các cấp cần đặt đúng tầm quan trọng của đổi mới phương pháp dạy học trong các hoạt động của nhà trường, trân trọng, ủng hộ, khuyến khích, hướng dẫn giáo viên vận dụng, cải tiến phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoạt động của học sinh. Giáo viên chủ động nghiên cứu nắm vững bản chất, đặc điểm của phương pháp tích cực, tìm hiểu các kinh nghiệm, vận dụng vào môn học để có những sáng kiến, kinh nghiệm dù nhỏ cho bản thân và đồng nghiệp.
2. Phương pháp tích cực không hề hạ thấp vai trò của giáo viên. Giáo viên phải được đào tạo và bồi dưỡng chu đáo để vừa có tri thức bộ môn sâu rộng, vừa có trình độ sư phạm lành nghề, biết ứng xử tinh tế, biết vận dụng các phương tiện hiện đại, biết tự làm một số đồ dùng dạy học nhất định v.v .... Bên cạnh nỗ lực của bản thân giáo viên, nhà trường cần có kế hoạch tổ chức công tác bồi dưỡng thường xuyên để giáo viên được nâng cao tay nghề.
2.3. Tăng cường cơ sở vật chất - Thiết bị dạy học để thực hiện Chương trình - SGK mới.
Theo kết quả điều tra phân tích thực trạng về cơ sở vật chất thiết bị trường học của bậc THCS ngành Giáo dục & Đào tạo Thị xã Cửa Lò ở chươngII, các nhà trường đều đã kiên cố hoá phòng học. Có 3 đơn vị có số lượng phòng học đủ cho học sinh học 1 ca. 4 đơn vị còn phải học 2 ca. Đối với nội thất phòng học, có 4 đơn vị đạt quy chuẩn về bàn ghế học sinh, giáo viên, hệ thống ánh sáng, quạt điện gồm:
Trường THCS Nghi Hương, Trường THCS Nghi Thu, Trường THCS Nghi Hoà, Trường THCS Lê Thị Bạch Cát ( phường Thu Thuỷ).
Còn 3 đơn vị, nội thất chưa đạt chuẩn gồm:
Trường THCS Nghi Tân, Trường THCS Nghi Hải, Trường THCS Nghi Thuỷ.
Phòng học đạt chuẩn thì mới đảm bảo cho các trường thực hiện phương pháp dạy - học mới, như phân nhóm học sinh trên lớp để thảo luận, sử dụng các thiết bị dạy học v. v...
Để khắc phục hiện trạng những đơn vị chưa có phòng đạt chuẩn, chúng tôi đề xuất một số hướng khắc phục sau đây:
a, Các trường tham mưu để cấp uỷ chính quyền địa phương hiểu về tính cấp thiết của cơ sở vật chất - thiết bị dạy học trong việc thực hiện CT - SGK mới ở THCS, từ đó tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - thiết bị dạy học.
b, Các trường lập kế hoạch và tham mưu với các cấp các ngành để đầu tư có trọng điểm. Ưu tiên cho xây dựng và trang bị nội thất các phòng học, phòng thư viện thiết bị và yêu cầu đạt chuẩn để tránh tình trạng thiếu đồng bộ hoặc phải tu sửa bổ sung hàng năm.
Đối với những đơn vị có quy mô trường lớp lớn như Trường THCS Nghi Tân, THCS Nghi Hải, trong khi chưa có điều kiện đầu tư xây dựng toàn bộ hệ thống các phòng học thì có thể đầu tư theo hình thức " cuốn chiếu" để đáp ứng kịp thời cho nhu cầu thực hiện Chương trình - SGK lớp 6, lớp 7.
c, Tự thân các nhà trường phải phát huy tính chủ động linh hoạt sáng tạo trong việc đầu tư trang bị cơ sở vật chất phòng học.
Thực hiện phân cấp quản lý về tài chính của đơn vị trường học, các trường có thể điều chỉnh nguồn kinh phí từ thu quỹ xây dựng và học phí để mua sắm tu sửa nhỏ như trang bị bảng chống loá, hệ thống đèn, quạt bàn ghế học sinh, bàn ghế giáo viên. Ngoài ra còn có thể tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để trang bị các phương tiện hiện đại như máy tính, đầu máy chiếu băng hình v.v.. để phục vụ dạy học.
d, Nắm bắt thời cơ để xây dựng cơ sở vật chất trường học.
Như đã phân tích ở chương II, Cửa Lò đang đẩy nhanh tốc độ xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng. Mục tiêu đến năm 2007, các trường mần non, tiểu học, THCS trên địa bàn Thị xã Cửa Lò đều đạt trường chuẩn Quốc gia giai đoạn hai. Đây cũng là mục tiêu đề ra trong Nghi quyết Đại hội Đảng bộ Thị xã Cửa Lò khoá II. Trong điều kiện thuận lợi này, các trường tranh thủ thời cơ, tham mưu cho Thị xã để có sự ưu tiên đầu tư xây dựng cơ bản cho đơn vị.
Đối với thiết bị trường học, qua phân tích tình hình thực trạng về phòng ốc, nhà xưởng, cán bộ phụ trách, chúng ta thấy các trường THCS trên địa bàn Thị xã Cửa Lò hầu hết là còn thiếu thốn và chưa đạt chuẩn. Chỉ có một số ít trường có phòng đa chức năng nhưng cũng không đồng bộ.
Theo yêu cầu đổi mới Chương trình - SGK, các trường đã và sẽ tiếp nhận một lượng thiét bị lớn. Đối với đơn vị có số lớp ít được cấp tối thiểu mỗi khối lớp 1 bộ thiết bị. Trong khoảng thời gian 4 năm học 2002 - 2003 đến 2005 - 2006, đơn vị trường có quy mô trường lớp nhỏ sẽ được cấp 4 bộ thiết bị cho 4 khối lớp 6,7,8,9. Đơn vị có quy mô trường lớp lớn sẽ được cấp mỗi khối 2 bộ thiết bị; qua 4 năm học, các đơn vị đó phải tiếp nhận quản lý sử dụng tới 8 bộ thiết bị!
Như vậy mỗi trường phải có tối thiểu 6 phòng kiên cố phục vụ cho nhu cầu thiết bị gồm:
- 4 phòng đựng đồ dùng thiết bị của 4 khối lớp.
- 1 phòng biểu diễn thí nghiệm có cấu trúc 3 phần gồm kho chứa, phòng chuẩn bị và phòng biểu diễn.
- 1 phòng dạy tin học ( đối với lớp 8, lớp 9)
Ngoài ra các nhà trường phải xây dựng đủ các phòng phục vụ thư viện như phòng đọc sách, tài liệu, phòng đọc.
Tiến tới các đơn vị trường học còn phải xây dựng thêm xưởng trường để phục vụ học nghề, hướng nghiệp cho học sinh.
Trong tương lai, các trường THCS cần tăng cường xây dựng các phòng học bộ môn để đảm bảo các môn học đều được học ở các phòng học bộ môn.
Đồ dùng thiết bị, sách giáo khoa, tài liệu phục vụ thay sách đã đưa về tận các trường. Vấn đề đặt ra cho các trường THCS là cách quản lý điều hành như thế nào cho đạt hiệu quả giáo dục ngay trong điều kiện thiếu thốn về cơ sở vật chất. Có thể thực hiện một số biện pháp:
- Tận dụng những trang thiết bị sẵn có và mới được cấp.
- Tăng cường công tác kiểm tra sử dụng và bảo quản đồ dùng dạy học trên lớp của giáo viên.
- Kiểm tra việc quản lý theo dõi cấp phát và bảo quản đồ dùng thiết bị của cán bộ phụ trách công tác thiết bị.
- Phát động giáo viên làm thêm đồ dùng dạy học để bổ trợ cho những đồ dùng thiết bị còn thiếu.
2. 4. Cải tiến công tác quản lý trường THCS
2. 4.1.Tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng.
Điều lệ trường Trung học ( nhà xuất bản Giáo dục - 2000) quy định tại điều 20 về " Tổ chức Đảng và các đoàn thể trong trường Trung học" nêu rõ:
" Tổ chức Đảng cộng sản Việt Nam trong trường trung học lãnh đạo nhà trường và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật"
Đảng lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện thông qua Nghị quyết Đại hội của chi bộ nhà trường đầu năm học. Nhiệm vụ chính trị của chi bộ trường học là lãnh đạo nhà trường và các đoàn thể trong trường học thực hiện tốt nhiệm vụ năm học. Cán bộ, giáo viên là đảng viên phải thực sự là tấm gương sáng về mọi mặt, thể hiện được vai trò tiên phong; là hạt nhân lãnh đạo các phong trào thi đua trong trường học.
Đối với nhiệm vụ thực hiện Chương trình - SGK mới, cấp uỷ đảng phải coi đây là nhiệm vụ chính trị hàng đầu và phải quán triệt trong tất cả các hoạt động của nhà trường.
Các chỉ tiêu kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học của nhà trường là sự cụ thể hoá Nghị quyết của chi bộ. Ngược lại Nghị quyết của chi bộ đề ra phải dựa trên nhiệm vụ năm học của đơn vị.
Như vậy mọi hoạt động của nhà trường đều mang tính Đảng. Nó thể hiện tính nhất quán trong lãnh đạo và quản lý chỉ đạo.
Trong những năm đầu thực hiện Chương trình - SGK mới sẽ không tránh khỏi những khó khăn trở ngại, các nhà trường cần phải tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, thì mới đảm bảo được chất lượng và hiệu quả giáo dục.
2.4.2. Sử dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý.
Hiện nay máy tính đã trở thành công cụ mang tính phổ cập trong các cơ quan trường học.
Để sử dụng có hiệu quả công nghệ thông tin , cán bộ quản lý nhà trường phải biết sử dụng máy tính ở một chừng mực nhất định.
Hiệu trưởng phải dùng được máy tính để soạn thảo các văn bản, nhập và lưu dữ các thông tin dữ liệu liên quan đến lĩnh vực quản lý.
Dùng máy tính để lên thời khoá biểu; lên kế hoạch quản lý chỉ đạo cho năm học, học kỳ, tháng, tuần.
Dùng máy tính để kiểm tra chuyên môn theo dõi phong trào thi đua; quản lý thu chi tài chính v.v..
Dùng máy tính để truy cập thông tin, nối mạng Internet, trao đổi, học tập, tham quan các cơ sở giáo dục tiên tiến qua mạng.
- Sử dụng công nghệ thông tin để thỉnh giảng, trao đổi chuyên môn, học tập các mô hình tiên tiến trong nước về giáo dục
2.4.3.Tổ chức hội thảo, tham quan, viết sáng kiến kinh nghiệm.
Hội thảo là một hình thức hoạt động chuyên môn trong nhà trường. Hội thảo là điều kiện tốt nhất để phát huy tính dân chủ, khuyến khích các ý tưởng mới, các giải pháp hay của đội ngũ cán bộ giáo viên nâng cao hiệu quả thực hiện đổi mới Chương trình - SGK. Tại buổi hội thảo, hội đồng sư phạm có điều kiện sơ kết đánh giá những ưu điểm và hạn chế trong việc thực hiện chương trình. Người Hiệu trưởng hoặc Phó hiệu trưởng cần phải hướng trọng tâm của chương trình hội thảo vào những " điểm nóng" cần giải quyết như :
* Các hoạt động trên lớp của thầy và trò
- Thực hiện phương pháp tích hợp ( đặc biệt đối với môn ngữ văn ) .
- Thực hiện phân nhóm học sinh để thảo luận tại lớp.
- Cách sử dụng đồ dùng dạy học cho đạt hiệu quả
- Tình hình thiếu giáo viên Âm nhạc, Mỹ thuật và hướng giải quyết khắc phục.
- Áp dụng kiến thức vào thực tiễn địa phương, vào thực tế cuộc sống, lồng ghép vào một số bài học, môn học.
- Vấn đề bất cập trong quản lý thiết bị, thư viện và hướng giải quyết khắc phục. v.v ...
Tham quan cũng là một hình thức hoạt động chuyên môn.
Năm học 2002 - 2003 Chương trình - SGK mới được thực hiện đồng loạt cho tất cả các trường Tiểu học và THCS bắt đầu từ lớp 1 và lớp 6. Trước đó, Bộ Giáo dục đã tiến hành chọn thử nghiệm ở 11 huyện(quận, thị) của 11 tỉnh thành đại diện cho các trường THCS trong cả nước tham gia thí điểm Chương trình - SGK mới (Quyết định số 2893/ QĐ/BGD - ĐT ngày 10/8/1999 của Bộ Giáo dục & Đào tạo). Cụ thể là: Cầu Giấy (Hà Nội) Hồng Bàng ( Hải Phòng), Thị xã Tuyên Quang), Yên Lạc ( Vĩnh Phúc), Đức Thọ ( Hà Tĩnh), Châu Thành (Bến Tre), Mộ Đức ( Quảng Ngãi) Thị xã Bạc Liêu( Bạc Liêu), Đắc Hà ( Con Tum). Năm 2000 - 2001 có khoảng 2,4 ngàn giáo viên và hơn 3 vạn học sinh lớp 6 tham gia thí điểm.
Tính đến năm học 2002 - 2003, các đơn vị nói trên đã có 3 năm thực hiện Chương trình - SGK mới. Nhờ có sự đúc rút kinh nghiệm qua nhiều năm nên các địa phương đó có thể là điểm tham quan cho các đơn vị thuộc diện áp dụng đại trà. Tuy nhiên nội dung tham quan rất phong phú bởi nhiều lĩnh vực. Ngay trong những đơn vị thuộc diện áp dụng đại trà từ năm 2002 - 2003, cũng có nhiều hoạt động chuyên môn tốt để cho đơn vị bạn về tham quan học tập về nhiều mặt như: thực hiện CT - SGK mới, về đổi mới phương pháp dạy học, về cơ sở vật chất - thiết bị dạy học v.v..
Trên cơ sở tham quan học tập các đơn vị điển hình tiên tiến, các trường chọn ra hướng đi thích hợp cho đơn vị mình; học tập bạn những mô hình quản lý giỏi, những cách làm hay từ đó đề ra những giải pháp khả thi.
Viết sáng kiến kinh nghiệm cũng là một hoạt động chuyên môn mang nhiều ý tưởng sáng tạo, mang tính lý luận, tính khoa học và tính thực tiễn. Đây là một hoạt động thường xuyên hàng năm của các trường. Mấy năm học gần đây, ngành Giáo dục - Đào tạo Thị xã Cửa Lò đã có nhiều sáng kiến kinh nghiệm đạt bậc 3 và bậc 4 có giá trị được vận dụng có hiệu quả trong hoạt động giáo dục. Phong trào viết sáng kiến kinh nghiệm có tác dụng rèn luyện và nâng cao khả năng tư duy, lập luận lô gich ; rèn luyện khả năng phân tích phán đoán chính xác, tác phong làm việc có khoa học, từ đó cán bộ giáo viên nâng cao được nghiệp vụ chuyên môn. Việc thực hiện Chương trình - SGK mới đòi hỏi rất nhiều ở sự năng động sáng tạo của Hội đồng khoa học sư phạm. Các nhà trường không thể duy trì tác phong quản lý theo lối bao cấp trước đây; không ngồi trông chờ cơ hội đến với mình; không thụ động thả lỏng buông xuôi. Ngược lại các nhà trường phải có một bước bứt phá táo bạo; vượt lên khó khăn thiếu thốn hiện tại; có sự đầu tư, trăn trở và biết tạo ra cơ hội cho mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học.
2.4.4. Đẩy mạnh công tác hướng nghiệp tư vấn - Phân luồng học sinh
cuối cấp.
Đề án đổi mới chương trình giáo dục Phổ thông ( Hà Nội - 2/2001) trong phần II( nhiệm vụ) đối với THCS có ghi:
- " Chương trình phải phù hợp với yêu cầu phổ cập giáo dục THCS từ nay đến 2010.
- Tiếp tục quan điểm tích hợp, thể hiện qua việc hình thành nhóm môn học có liên quan chặt chẽ như: nhóm môn Khoa học tự nhiên; nhóm môn Khoa học xã hội; nhóm môn Khoa học kỹ thuật - Hướng nghiệp; đảm bảo tốt yêu cầu liên bộ môn.
- Có thêm môn tự chọn và các chủ đề tự chọn (Bắt buộc hoặc tuỳ theo nguyện vọng) góp phần thực hiện nguyên tắc phân hoá, bắt đầu từ lớp 8, để giúp học sinh có khả năng, nguyện vọng tìm hiểu sâu hơn những kiến thức đã học, hoặc mở sâu lĩnh vực khác chưa có trong chương trình, chuẩn bị cho việc phân ban ở các trường trung học phổ thông.
- Có thêm các sách và tài liệu mới ( sinh hoạt hướng nghiệp, hoạt động ngoài giờ lên lớp, hướng dẫn thực hành thí nghiệm)"{20- SĐD]
Chương trình - SGK mới THCS chú trọng đến yêu cầu phổ cập THCS (đến năm học 2010, cả nước ta phải đạt chuẩn phổ cập THCS). Riêng địa bàn Thị xã Cửa Lò phấn đấu đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS vào cuối năm 2003. Như vậy ngành Giáo dục - Đào tạo TX Cửa Lò sẽ là một trong những địa phương sớm đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS.
Vấn đề đặt ra đối với các trường THCS trên địa bàn là tăng cường công tác hướng nghiệp, tư vấn, phân luồng học sinh bắt đầu từ lớp 8. các trường THCS trên địa bàn mấy năm học nay thường hướng cho học sinh nghề điện dân dụng, nghề cắt may, nghề sản xuất nông nghiệp. Xu hướng trong những năm tới, các trường có thể giới thiệu cho học sinh lớp 8, lớp 9 nghề chế biến hải sản, nghề sửa chữa điện tử, nghề nuôi trồng thuỷ sản v.v... Cửa Lò là một vùng đô thị du lịch biển, nhiều ngành nghề mới, các nhà trường có thể căn cứ đặc điểm sinh thái và ngành nghề của phường xã để chọn nghề phù hợp giới thiệu cho học sinh.
Thị xã Cửa Lò có 2 trường trung học phổ thông và bán công, 1 trung tâm giáo dục thường xuyên. Hàng năm 3 cơ sở giáo dục này tuyển 95% học sinh đã TN THCS. Còn 5% số học sinh TNTHCS sẽ đi học nghề hoặc đi làm những công việc lao động chân tay, nếu được các trường THCS chuẩn bị tốt khâu hướng nghiệp tư vấn việc làm thì số học sinh này có khả năng chủ động hơn khi bước vào cuộc sống lao động.
2.5. Tiếp tục tăng cường xã hội hoá giáo dục để thực hiện Chương trình
SGK mới.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Giáo dục là nhiệm vụ của toàn xã hội, trong đó Nhà trường đóng vai trò nòng cốt. Thị xã Cửa Lò vốn là một vùng đất có truyền thống hiếu học. Phụ huynh, các ban ngành đoàn thể, ban lãnh đạo địa phương, cùng các cấp các ngành luôn quan tâm đến giáo dục. Thị uỷ Thị xã Cửa Lò đã quyết định lấy hiệu quả giáo dục của các nhà trường làm " đột phá khẩu" cho giai đoạn tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2000 - 2010. Quan điểm chỉ đạo đúng đắn đó cũng rất phù hợp với quan điểm của Đảng ta: " Giáo dục là quốc sách hàng đầu.", " Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển".
Chính đây là cơ sở thuận lợi cho các nhà trường tăng cường công tác tham mưu, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các cấp các ngành.
Trước hết, quản lý các trường THCS trên địa bàn phải có những nỗ lực và biện pháp nhằm tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cộng đồng nhân dân đối với chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước và của ngành Giáo dục về đổi mới Chương trình - SGK THCS. Làm cho cộng đồng nhân dân hiểu được mục đích yêu cầu và vai trò quan trọng của công tác giáo dục thế hệ trẻ trong giai đoạn hiện nay. Tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của hội Khuyến học các phường xã, các dòng họ; phối hợp với các ban ngành đoàn thể, đặc biệt là Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh v.v .. để phối hợp giáo dục. Tham mưu tích cực với Chính quyền địa phương các phường xã để đầu tư xây dựng cơ bản đảm bảo đúng quy chuẩn về khuôn viên, phòng học, phòng chức năng; đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ dạy tốt học tốt.
- Tham mưu với ngành giáo dục và ban tổ chức Chính quyền Thị xã về bố trí chuẩn đội ngũ giáo viên, cán bộ thiết bị, thư viện.
- Đề xuất với các ban ngành chức năng để tổ chức tập huấn, bổ túc nghiệp vụ cho giáo viên và cán bộ thư viện thiết bị
- Xây dựng các khối xóm dân cư điển hình về phong trào học tập tự quản.
- Phối hợp chặt chẽ với Hội cựu chiến binh, Hội cha mẹ học sinh về công tác giáo dục.
2.6. Đổi mới cơ chế quản lý và thể chế hoá các hoạt động quản lý của trường THCS
2.6.1. Đổi mới cơ chế quản lý các hoạt động quản lý của trường THCS
Cơ chế là " Cách thức sắp xếp tổ chức để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện" ( Đại từ điển tiếng Việt - NXB Văn hoá - Thông tin, 1999).
Cơ chế quản lý là một yếu tố quản lý ( có thể nói là công cụ) có tác động rất lớn đến kết quả của các hoạt động kinh tế - xã hội. Một minh chứng rất thực tiễn là Nhà nước ta đã trải qua một thời kỳ dài trong cơ chế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp. Với cơ chế này đã kìm hãm sự phát triển của kinh tế, không tạo nên động lực cho sự tăng năng suất lao động, không tạo nên sự kích thích cho kết quả của các hoạt động xã hội, v. v ... Vì vậy, đổi mới cơ chế quản lý là một hoạt động có tính quyết định tới kết quả của các hoạt động kinh tế - xã hội, trong đó có sự hoạt động giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
Với phạm vi của đề tài, ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến một khía cạnh của đổi mới cơ chế quản lý: dân chủ hoá các hoạt động giáo dục; phân công, phân cấp, phân quyền và thể chế hoá các hoạt động quản lí.
a) Dân chủ hoá các hoạt động của trường THCS
Theo Từ điển Bách khoa: "Dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do". Dân chủ cũng được vận dụng vào cách tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế chính trị nhất định.
Với tư cách là hình thức tổ chức chính trị của Nhà nước, dân chủ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước. Khác với các hình thức khác của thiết chế nhà nước, trong thiết chế dân chủ, quyền của đa số, quyền bình đẳng của một công dân, tính tối cao của pháp luật được chính thức thừa nhận; những cơ quan cơ bản của Nhà nước do dân bầu cử mà ra. Dân chủ thực hiện thông qua hai hình thức cơ bản: dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Thuật ngữ dân chủ (democracy, democratic) theo gốc Hy Lạp được ghép từ hai thành phần: Demos ( dân) và Kratos ( quyền lực).
Dân chủ phải gắn liền với các mặt khác của xã hội:
- Dân chủ phải đi với văn hoá dân chủ.
- Dân chủ phải đi đôi với dân trí, dân chủ là tinh hoa của dân trí.
Trong thời đại chuyển từ văn minh nông nghiệp, công nghiệp sang văn minh hậu công nghiệp, tri thức, trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão và trở thành lực lượng trực tiếp thúc đẩy và phát triển kinh tế - xã hội, những người lao động tham gia xây dựng xã hội và cuộc sống bản thân không chỉ bằng sức lực cơ bắp mà còn bằng sức lực trí tuệ thì dân chủ càng đòi hỏi phải có dân trí, trong đó giáo dục là chủ lực.
- Dân chủ phải đi đôi với pháp luật. Đó là lý do cần thể chế hoá hoạt động của lĩnh vực nào đó trong đời sống xã hội. Và để cho những thể chế đó vận hành trong thực tiễn thì phải có cơ chế, cái đảm bảo cho quyền dân chủ là loại cơ chế xã hội. Nó được xem là mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành hệ thống theo những nguyên tắc nhất định để đảm bảo sự vận hành của hệ thống nhằm thực hiện chức năng đã đề ra. Cũng có thể hiểu, cơ chế là cách thức tổ chức họat động có hệ thống.
Từ khi ra đời, Đảng ta đã chú trọng vấn đề dân chủ, đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành quyền dân chủ. Sau khi giành được chính quyền, nước Việt Nam dân chủ ra đời, Đảng tiếp tục lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là quá trình nhân dân thể hiện và phát huy quyền làm chủ của mình trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống xã hội. Mục tiêu của việc xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta như Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (Khoá VI), BCH Trung ương đã xác định là " nhằm phát huy nhân tố con người, phát huy cao độ tính tự giác và sáng tạo to lớn của mọi tầng lớp nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ xã hội mới".
- Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn Quốc lần thứ VIII, trong phần: Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước CHXHCN Việt Nam lại khẳng định quan điểm: " Xây dựng Nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân" (trang. 129)
- Hội nghị BCHTW lần thứ năm khoá VIII đã khẳng định: " Tiếp tục phát huy tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ Nhà nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước".
- Bộ Chính trị đã có chỉ thị 30- CT/TW ngày 18/2/1998 về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở.
- Chính phủ đã có Nghị định 71/1998/NĐ - CP ngày 8/9/1998 ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan.
Để thực hiện dân chủ trong quản lý xã hội của Nhà nước ta, các cơ quan, các tổ chức xã hội, các đơn vị quản lý nhà nước đã có các quy định về dân chủ hoá các hoạt động.
- Văn kiện Đại hội IX của Đảng lại khẳng định "Xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Đối với Giáo dục và Đào tạo, chúng ta hãy xem xét các mặt dân chủ hoá:
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Quyết định số 04/2000/QĐ - BGD&ĐT ngày 1/3/2000 ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường.
Dân chủ hoá quá trình đào tạo nghĩa là dân chủ hoá các thành tố của quá trình đào tạo Mục tiêu - Nội dung - Phương pháp - Thầy - Trò, trong đó DCH hai thành tố Thầy - Trò là trung tâm, là hạt nhân của quá trình DCH.
* Dân chủ hoá nhà trường:
Dân chủ hoá nhà trường là tạo môi trường dân chủ để tất cả mọi người đều có quyền tham gia quản lý và giải quyết các công việc của nhà trường với phạm vi và đối tượng cụ thể.
Dân chủ hoá quản lý nhà trường gắn liền với việc tăng cường quyền tự chủ của nhà trường, với việc tranh thủ các lực lượng xã hội vào việc tổ chức và quản lý công việc nhà trường.
Dân chủ hoá nội bộ trường học gắn liền với sự hình thành và hoạt động tích cực của các tổ chức quản lí giáo viên và học sinh, phát huy tính chủ động theo chức năng nhiệm vụ của các tổ chức chính trị - xã hội trong nhà trường tham gia vào các hoạt động của nhà trường.
Nội dung cơ bản của DCH quản lý nhà trường đã được thể chế hoá trong Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động nhà trường ban hành theo Quyết định 04/2000 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT.
* Một số biện pháp thực hiện dân chủ hoá nhà trường:
Bảo đảm thông tin đầy đủ và kịp thời cho cán bộ giáo viên, làm cho họ nhận thức đầy đủ về quyền lợi và nghĩa vụ ( Theo Pháp lệnh công chức), gắn quyền lợi với nghĩa vụ của từng thành viên trong nhà trường. Công khai hoá các hoạt động quản lí theo tinh thần Nghị định 71/CP của Chính phủ và Quyết định 04/2002 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT.
Tổ chức tốt các hình thức thực hiện dân chủ đại diện cũng như dân chủ trực tiếp, tạo môi trường tốt để CBGV được: Biết - Bàn - Làm - Kiểm tra trong các hoạt động của nhà trường mà hoạt động sư phạm là cốt yếu.
- Tổ chức tốt hội nghị CBCC.
- Tổ chức có hiệu quả các hình thức đối thoại, phát huy vai trò Công đoàn, tạo điều kiện để Công đoàn tham gia công tác quản lí nhà trường và CBGV thực hiện nhiệm vụ của đoàn viên công đoàn. Xây dựng các tổ chức chính quyền, đoàn thể và các tổ chức khác trong nhà trường và phát huy dân chủ, tự quản của các tổ chức này và đẩy mạnh phong trào thi đua " Dạy tốt, học tốt" trong nhà trường.
* Triển khai các biện pháp trên bằng:
- Tổ chức học tập các văn bản chủ yếu: Chỉ thị 30/ CP - TW của Bộ Chính trị; Pháp lệnh CBCC; Nghị định 71/1998/NĐ - CP của Chính phủ; Quy chế đánh giá công chức hàng năm ( ban hành theo QĐ số 11/1998/TCCP - CCVC ngày 05/12/1998 của Bộ trưởng - Trưởng ban tổ chức - CBCP); Quyết định số 04/2000/QĐ-BGD&ĐT ngày 1/3/2000 ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường.
- Xây dựng các quy định, quy chế, nội quy hoạt động của nhà trường.
- Làm tốt vai trò quản lí nhà nước của Hiệu trưởng, kết hợp đúng đắn chế độ thủ trưởng và nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Xây dựng nhà trường thành khối đoàn kết nhất trí.
- Đẩy mạnh thực hiện XHHGD trong nhà trường.
b)Phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lí trường THCS
Căn cứ vào Luật Giáo dục và Điều lệ Trường Trung học, bộ máy của Trường THCS bao gồm:
i) Bộ máy gồm:
- Ban giám hiệu: Hiệu trưởng và phó Hiệu trưởng
- Các tổ chuyên môn
- Tổ hành chính - Quản trị
- Lớp học, tổ học sinh, khối lớp.
- Giáo viên
- Học sinh
i.i) Các hội đồng tư vấn:
- Hội đồng giáo dục
- Các Hội đồng khác: Hội đồng khen thưởng thi đua, Hội đồng kỷ luật, v.v...
i.i.i) Các tổ chức Đảng và đoàn thể trong trường trung học.
Từ bộ máy đến các tổ chức chính trị xã hội đã được quy định rõ chức năng nhiệm vụ và cơ chế hoạt động trong Luật Giáo dục, trong Điều lệ trường Trung học. Ngoài ra, các tổ chức chính trị - xã hội (Tổ chức Đảng CSVN, Đoàn TNCSHCM, Công đoàn, Hội Cựu chiến binh, Hội Cha mẹ học sinh, v.v..) đã được quy định về chức năng nhiệm vụ và cơ chế hoạt động rất cụ thể trong các điều lệ, các quy định của các tổ chức đó. Ngoài các quy định do Nhà nước , các tổ chưc chính trị - xã hội cấp trên quy định, căn cứ vào tình hình cụ thể, trong trường THCS cũng có thể quy định rõ hơn những nhiệm vụ, chức năng và các hoạt động của các tổ chức và cá nhân trong trường. Song các quy định đó không vượt khỏi quy định của Luật pháp, của các tổ chức cấp trên.
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình, mỗi tổ chức và cá nhân hoạt động trong phạm vi các quy định đã được thể chế. Tất cả những hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong trường THCS nhằm một mục đích là thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường - nhiệm vụ dạy học và giáo dục.
Về trách nhiệm, quyền hạn và mối quan hệ giữa các tổ chức và cá nhân trong trường THCS đã được quy định trong các văn bản pháp quy như Luật Giáo dục, Điều lệ Trường Trung học, các điều lệ của các tổ chức chính trị - xã họi trong trường học.
- Tổ chức Đảng (chi bộ) trong trường THCS lãnh đạo nhà trường. Các tổ chức và cá nhân trong trường phải chịu sự lãnh đạo này.
- Các tổ chức đoàn thể, các tổ chức xã hội hoạt động giúp nhà trường thực hiện mục tiêu, nguyên lí giáo dục. Các tổ chức này hoạt động có tính độc lập tương đối. Quan hệ giữa Hiệu trưởng và Chủ tịch Công Đoàn và Bí thư Đoàn trường là quan hệ phối hợp.
- Các tổ chức chuyên môn và cá nhân ( giáo viên, học sinh) chịu trách nhiệm trong các hoạt động được quy định trong nhiệm vụ.
- Giáo viên, học sinh có trách nhiệm và quyền lợi theo các quy định trong Luật Giáo dục, trong Điều lệ Trường Trung học, v.v...
Thực hiện sự phân cấp, phân quyền này sẽ mang lại những kết quả tốt cho hoạt động dạy học, giáo dục trong nhà trường nói chung và thực hiện đổi mới giáo dục nói riêng.
Trong trường THCS, hoạt động dạy học là hoạt động cơ bản, là nhiệm vụ chính trị của nhà trường, cần có sự phân cấp, phân công, phân quyền một cách đầy đủ để mọi tổ chức , cá nhân( thầy, trò) thực hiện tốt chức trách của mình. Trong một chừng mực nhất định, có thể vận dụng phương pháp quản lí theo nguyên lí " chiếc hộp đen", nghĩa là khoán chất lượng trong hoạt động, nhất là chất lượng dạy và học.
c). Thể chế hoá các hoạt động quản lí của trường THCS
Theo Đại từ điển Tiếng Việt ( Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin, 1999), thể chế là " Những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội".
Căn cứ vào những văn bản pháp quy của Nhà nước, của ngành giáo dục, của địa phương, cần thể chế hoá các hoạt động quản lí cơ bản của nhà trường về các mặt:
(i) Hoạt động dạy học: Có những quy định về hoạt động dạy học như thực hiện kế hoạch dạy học đối với giáo viên, học sinh, v. v..
(i,i), Quản lí nhân sự: Quy định chế độ lao động đối với giáo viên, cán bộ công chức thuộc phạm vi quản lí của nhà trường; quy định quyền lợi, nghĩa vụ của cán bộ giáo viên về các hoạt động; quy định thưc hiện ( khi có hướng dẫn thi hành) Nghị định 116/2003/CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lí cán bộ công chức; v.v..
(i.i.i), Quản lí tài chính: các quy định chi nội bộ trong quản lí tài chính theo tinh thần Nghị định 10/2002/CP đối với đơn vị sự nghiệp có thu. Các quy định này nằm trong hành lang pháp lí song phải động viên kích thích được sự đóng góp của các thành viên trong nhà trường và đảm bảo tính công bằng, dân chủ.
(i.v), Các quy định nội bộ về các lĩnh vực hoạt động khác như nội quy cơ quan, chế độ báo cáo,v. v..
2.7. Mối quan hệ giữa các giải pháp.
Các giải pháp đề xuất trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, giải pháp này hỗ trợ giải pháp kia. Tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể mà có thể ưu tiên ( hay tập trung) cho một hay một số giải pháp nào đó. Mối liên hệ có thể sơ đồ hoá như sau:
QH
QH - Quy hoạch phát triển
CCQL CLĐN đội ngũ
CLĐN - Nâng cao chất lượng
đội ngũ
XHH CSVC CSVC - Tăng cường cơ sở vật -
Thiết bị dạy học
CTQL CTQL - Cải tiến quản lí nhà
nhà trường
XHH - Tăng cường xã hội
hoá giáo dục
CCQL - Đổi mới cơ chế quản
lí nhà trường
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Đối chiếu thực trạng giáo dục và việc thực hiện Chương trình - SGK mới trên địa bàn Thị xã Cửa Lò, chúng tôi thấy mặc dù ngành đã có nhiều cố gắng song chưa đạt so với yêu cầu. Đơn vị trường học là nơi thực thi mà khâu quản lý chỉ đạo của Hiệu trưởng là then chốt quyết định đến hiệu quả giáo dục do đó chúng tôi đã trăn trở nghiên cứu, tìm ra những giải pháp mang tính khả thi trong việc quản lý chỉ đạo thực hiện Chương trình - SGK mới.
Các giải pháp mà chúng tôi đề xuất đã bước đầu có sự tiếp nhận và đưa vào ứng dụng ở các trường THCS trên địa bàn. UBND Thị xã Cửa Lò và ngành giáo dục đã tham khảo đề tài này trong việc xây dựng kế hoạch năm học 2003 - 2004 và trong đề án xây dựng trường Chuẩn quốc gia.
Đây là đề tài còn rất mới mẻ, sẽ không tránh khỏi những thiếu sót trong nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải pháp. Nhưng chúng tôi tin rằng nó sẽ có giá trị hữu ích nhất định đối với các trường học phổ thông đặc biệt là cấp THCS trong và ngoài địa bàn.
2. Khuyến nghị
Để thực hiện đổi mới Chương trình - SGK giáo dục phổ thông nói chung, cấp THCS nói riêng, chúng tôi xin khuyến nghị:
2.1. - Trước hết, Nhà nước cần có giải pháp hữu hiệu để khắc phục tình trạng thiếu giáo viên ở một số môn học mới như Âm nhạc, Mỹ thuật....
- Tăng ngân sách đầu tư cho giáo dục để từng bước thực hiện kiên cố hoá, chuẩn hoá cơ sở vật chất cho các trường học.
- Cần đào tạo và bổ sung kịp thời kịp thời cán bộ thư viên thiết bị cho các trường THCS để khắc phục tình hình cán bộ vừa thiếu lại vừa yếu như hiện nay.
2.2. Các cấp các ngành ở địa phương cần phối hợp chặt chẽ với Ngành Giáo dục trong công tác đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học. Khắc phục tình trạng không đồng bộ trong xây dựng cơ sở vật chất và trong sử dụng các công trình đã xây dựng.
2.3. Phòng Giáo dục - Đào tạo Thị xã Cửa Lò tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo thanh tra kiểm tra hoạt động chuyên môn của các trường. Có kế hoạc dành thời gian thích hợp trong năm học để tổ chức bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên về thực hiện CT - SGK mới; xây dựng được điển hình về đơn vị trường học trong Thị xã về thực hiện tốt Chương trình - SGK mới.
2.4. Các trường THCS cần chủ động phát huy nội lực và tận dụng các ngoại lực để thực hiện có hiệu quả việc triển khai CT - SGK mới, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đát nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tác giả và tác phẩm:
1 - Trần Hữu Cát và Đoàn Minh Duệ ( Vinh 1999). : Đại cương về
khoa học quản lý
2 - Đỗ Văn Chấn 1999 : Dự báo và kế hoạch phát triển.
3 - Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: Bài giảng những vấn đề lý
luận quản lý gáo dục và quản lý nhà trường (H. 1998).
4 - Nguyễn Thị liên Diệp : Quản trị học ( NXB Thống kê).
5 - Vũ Cao Đàm : Phương pháp luận nghiên cứu khoa học ( NXB
Khoa học và Kỹ thuật - H - 1998).
6 - Võ Nguyên Giáp : Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh.
7 - Phạm Minh Hạc : Một số vấn đề giáo dục và Khoa học giáo dục
(NXB Giáo dục Hà Nội 1886).
8 - Lưu Xuân Mới : Kiểm tra, thanh tra, đánh giá trong giáo dục
( Trường ĐHSP - HN II - Trường CBQLGD - ĐT TWI - H- 1998).
9 - Phạm Viết Nhụ : - Đầu tư cho Giáo dục - ĐT và quản lý tài
chính trong các cơ sở giáo dục ( H- 1999).
: - Bài giảng hệ thống thông tin quản lý Giáo
dục và Văn hoá ( Trường CBQL - GD - ĐT - 1999).
10 - Hoàng Minh Thao : - Tâm lý học quản lý ( Hà Nội 1998)
: - Tổ chức và quản lý quá trình sư phạm
( HàNội, 4/2003 ).
11 - Thái Duy Tuyên : - Dự báo và Kế hoạch chiến lược phát triển
giáo dục ( Hà Nội, 1997.)
- Sự phát triển Chính sách giáo dục Việt Nam
( Hà Nội, 1999).
12 - Hà Thế Truyền : Một số cơ sở pháp lý của vấn đề đổi mới quản
lý Nhà nước và quản lý giáo dục.
13 - Jan Amos KomenSky : Thiên đường của trái tim ( trích tác phẩm của
Jan Amos KomenSky - Nhà giáo dục - Nhà tư tưởng và Nhà văn hoá
của nhân dân Tiệp Khắc. H. 1999).
B. Tài liệu, Văn bản
14 - Bác Hồ nói về cách dạy, cách học
15 - Báo cáo tổng kết năm học 2001 - 2002 và phương hướng nhiệm vụ
năm học 2002 - 2003 ( Phòng Giáo dục - Đào tạo Thị xã Cửa Lò).
16 - Báo cáo tổng kết năm học 2002 - 2003 và phương hướng nhiệm vụ
năm học 2003 -2004 ( Phòng Giáo dục - Đào tạo Thị xã Cửa Lò).
17 - Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ v/v đổi mới Chương trình giáo dục
Phổ thông thực hiện Nghị quyết số 20/2000/QH 10 của Quốc hội.
18- Chương trình Trung học cơ sở ( Ban hành kèm theo Quyết định số 03/
2002/ QĐ - BGD - ĐT ngày 24/1/2002 của Bộ Giáo dục - Đào tạo -
NXBGD).
19- Điều lệ Trường Trung học Phổ thông (NXBGD - 2000).
20 - Đề án đổi mới Chương trình giáo dục Phổ thông (H, 2- 2002)
21 - Đề án xây dựng trường chuẩn Quốc gia bậc Tiểu học và THCS Thị xã
Cửa Lò giai đoạn 2001 - 2005.
22 - Luật Giáo dục ( được thông qua tại kỳ họp thứ tư QH 10).
23 - Kết quả thi kiểm tra nhận thức giáo viên và đổi mới Chương trình
THCS và SGK lớp 6 mới ( Phòng Giáo dục - Đào tạo Thị xã Cửa Lò -
2002).
24 - Hỏi đáp về đổi mới Trung học cơ sở ( Nhà xuất bản Giáo dục -
7/2001)
25 - Hướng dẫn thực hiện quy định đánh giá xếp loại giáo viên và chính
sách cho giáo viên không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
26 - Hướng dẫn thanh tra, kiểm tra việc thực hiện đổi mới Chương trình
giáo dục Phổ thông Hà Nội tháng 9/2002.
27 - Nghị quyết số 40/2000/QH10 về đổi mới Chương trình giáo dục Phổ
thông.
28 - Nghi quyết số 41/2000/QH10 về thực hiện Phổ cập giáo dục THCS.
29 - Nghị định của Chính phủ số: 88/2001 NĐ - CP về thực hiện Phổ cập
giáo dục THCS.
30 - Phát triển con người - Từ quan niệm đến chiến lược và hành động
( NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội - 1999).
31 - Tài liệu Hội nghị triển khai Thực hiện đổi mới Chương trình giáo dục
Phổ thông 9 ( Hà Nội, 17 và 18/4/2002).
32 - Thông tư số: 14/ 2002/ TT - BGD - ĐT v/v hướng dẫn uỷ ban nhân dân
tỉnh và các thành phố trực thuộc TW thực hiện Chỉ thị 14/2001/
CTTTg ngày 11/6/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc đổi mới
Chương trình Giáo dục Phổ thông.
33 - Thông báo Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
IX ( v/v tiếp tục thực hiện Nghị quyết TWII ( Khoá VIII) và phương
pháp phát triển Giáo dục - Đào tạo, Khoa học và Công nghệ từ nay đến
năm 2005 và đến 2010).
34 - Tìm hiểu chiến lược giáo dục 2001 - 2010 ( Báo Giáo dục - Thời đại
số: 17 - 28/4/2002).
35 - Tư duy mới về phát triển cho Thế kỷ XXI ( NXB Chính trị Quốc gia -
Hà Nội -1999).
36 - Văn bản 12531/GV ngày 13/11/2001 Kế hoạch bồi dưỡng giáo viên
dạy thay sách giáo khoa Tiểu học và THCS mới giai đoạn 2002 - 2007.
37 - Văn bản 2284/GV hướng dẫn triển khai bồi dưỡng Hiệu trưởng trường
TH, THCS, giảng viên sư phạm và giáo viên dạy lớp 1, lớp 6 theo sách mới.
38 - Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Khoá VIII.
NXB Chính trị Quốc gia 1997.
39 - Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn Quốc lần thứ IX. NXB CTQG năm
2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số giải pháp chủ yếu trong công tác quản lý nhà trường nhằm thực hiện có hiệu quả đối mới Chương trình - SGK THCS trên địa bàn TX Cửa Lò Tỉnh Nghệ.doc