Mở đầu
Chương 1: Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1.1. Vốn và vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm về vốn
1.1.2. Đặc trưng của vốn
1.1.3. Phân loại vốn
1.1.4. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.2.1. Quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn
1.2.3. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo Lâm 2.1. Khái quát về Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo Lâm
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
2.1.2. Cơ cấu tổ chức
2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh
2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo Lâm
2.2.1. Tình hình huy động và chi phí vốn
2.2.2. Thực trạng sử dụng tổng vốn
2.2.3. Thực trạng sử dụng vốn lưu động
2.2.4. Thực trạng sử dụng vốn cố định
2.3. Đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo Lâm
2.3.1. Thành công
2.3.2. Hạn chế
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo Lâm 3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo Lâm
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo Lâm
3.3. Một số kiến nghị
Kết luận
Tài liệu tham khảo
100 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4270 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Lương Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đây cũng là một đặc điểm của sản xuất xây dựng. Vì vậy, hoạt động quản lý thu hồi công nợ và quản lý vốn lưu động trong khâu tiêu thụ sản phẩm là rất cần thiết.
3 Đánh giá tình hình sử dụng vốn tại công ty
Là một doanh nghiệp Nhà nước thực hiện kết hợp nhiệm vụ kinh tế với quốc phòng và lại hoạt động trên một thị trường có tính cạnh tranh ngày càng quyết liệt, ban lãnh đạo công ty Tây Hồ đã tỏ rõ bản lĩnh kinh doanh của mình trong việc dẫn dắt công ty tồn tại và phát triển. Với bản chất là những người lính đi làm kinh tế, lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên công ty Tây Hồ đã thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh với tinh thần cao, tận dụng tối đa mọi nguồn lực sẵn có, liên tục huy động về trang thiết bị, máy móc, vốn và đặc biệt là con người để không ngừng phát triển năng lực sản xuất, mở rộng quy mô, đầu tư thiết bị hiện đại nhằm khẳng định vị trí của công ty trên thị trường xây dựng cũng như trong các đơn vị quốc phòng làm kinh tế.
Tuy nhiên, xuất phát từ một đơn vị Quốc phòng nay đi làm nhiệm vụ kinh tế, khi bước vào lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ này công ty Tây Hồ đã gặp phải rất nhiều khó khăn đặc biệt là trong công tác quản lý tài chính mà trong đó vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn rất được doanh nghiệp quan tâm chú ý. Mặc dù trong thời gian qua doanh nghiệp có nhiều cố gắng nhưng trong hoạt động quản lý và sử dụng vốn của công ty vẫn bộc lộ một số hạn chế. Nguyên nhân của các hạn chế này bao gồm cả những lý do chủ quan và khách quan như do những khó khăn từ phía thị trường buộc công ty phải đưa ra những giải pháp tình thế chưa phù hợp và một phần cũng do những khiếm khuyết mà công ty khó tránh khỏi trong công tác quản lý tài chính.
3.1 Những kết quả đạt được:
Như đã phân tích ở trên, việc sử dụng vốn của công ty đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Doanh thu thuần không ngừng tăng trong các năm qua khiến đem lại cho công ty nhiều lợi nhuận. Công ty đã thành công trong việc đảm bảo đủ vốn cho sản xuất kinh doanh. Việc sử dụng điều hoà khá linh hoạt càng làm tăng thêm hiệu quả sử dụng vốn. Điều này thể hiện ở chỗ thời gian qua mặc dù được tài trợ chủ yếu bởi nợ ngắn hạn, song công ty vẫn không bị mất khả năng thanh toán. Số nợ ngắn hạn được sử dụng để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động ngày càng tăng và một phần nhu cầu tài sản cố định của đơn vị. Với cơ cấu vốn chưa thật sự hợp lý song công ty đã cố gắng duy trì được mức lợi nhuận dương.
Mặc dù hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động tăng trong năm 2000 rồi lại giảm trong năm 2001 nhưng về mặt giá trị thì hiệu quả sử dụng vốn của công ty đã là một thành tích mà không phải doanh nghiệp xây dựng, nhất là doanh nghiệp xây dựng quốc phòng nào cũng đạt được trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Hiện nay, hiệu suất sử dụng vốn cố định của công ty được duy trì ở mức 7,83 đồng, hiệu quả sử dụng vốn cố định là gần 8%. Các chỉ số trung bình của ngành xây dựng là 4,5 đồng đối với hiệu suất sử dụng tài sản cố định và 7% đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định. Như vậy kết quả không thể phủ nhận được là công ty đã duy trì được sản xuất kinh doanh theo mức chung của các doanh nghiệp xây dựng hiện nay.
Công ty đã duy trì được lượng vốn lưu động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn của công ty do đó tạo thuận lợi cho công ty trong sản xuất kinh doanh, chi phí khấu hao thấp giảm giá thành tăng lợi nhuận. Công ty đã tận dụng tốt những khoản nợ ngắn hạn mà chủ yếu là vay ngắn hạn và các khoản phải trả phải nộp khác để tài trợ cho tài sản lưu động và một phần khá quan trọng tài sản cố định. Điều này không phải là dễ dàng bởi muốn dùng nợ ngắn hạn để tài trợ cho tài sản dài hạn công ty phải có đủ uy tín cũng như khả năng phát triển. Việc duy trì các khoản phải thu lơn cũng chưa hẳn là xấu nếu công ty biết rõ khả năng có thể thu hồi lại được số công nợ này. Đồng thời công ty có thể ký kết được các hợp đồng mới hoặc có quan hệ kinh doanh với số khách hàng chưa trả nợ này. Nếu biết tiếp thị tốt cũng như duy trì mối quan hệ làm ăn lâu dài này, trong thời gian sắp tới chắc chắn công ty sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn do chính sách tín dụng thương mại thu hút khách hàng. Vì vậy vốn lưu động cũng như vốn cố định sẽ được sử dụng hiệu quả hơn.
3.2 Những hạn chế và nguyên nhân:
Qua phân tích hiệu quả sử dụng vốn ở trên ta có thể dễ dàng nhận thấy hiệu quả sử dụng vốn của công ty đã giảm trong năm 2001. Điều đó cho thấy công tác quản lý và sử dụng vốn năm 2001 đã có nhiều vướng mắc cần phải tháo gỡ để tiếp tục sản xuất kinh doanh trong những năm tiếp theo.
Những hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng vốn cố định:
Trong năm 2000 và 2001 hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty đều giảm. Sở dĩ như vậy là do doanh thu và lợi nhuận của công ty tăng chậm so với sự gia tăng của vốn cố định bình quân. Đặc biệt năm 2001 lợi nhuận của công ty giảm so với năm 2000 khiến cho hiệu quả sử dụng vốn cố định giảm gần một nửa. Như vậy một hạn chế cơ bản là tài sản cố định đầu tư mới đã không phát huy được tác dụng. Tài sản cố định tăng liên tục trong các năm 2000 và 2001 song doanh thu và lợi nhuận lại không tăng tương ứng. Nguyên nhân là do các tài sản cố định mới đầu tư ít được sử dụng do khối lượng công việc tăng không đáng kể, công suất của máy móc cũ có thể đáp ứng được yêu cầu của các công trình. Vì vậy, máy móc thiết bị mới hầu như ít được dùng trong khi đó vẫn phải tính và trích khấu hao đối với số máy móc thiết bị mới này. Điều đó làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh của đơn vị. Như vậy vốn cố định bình quân tăng nhanh trong khi doanh thu và lợi nhuận tăng lên chậm hoặc giảm đi là một hạn chế trong công tác quản lý sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
Những hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động:
Như đã nhiều lần đề cập ở phần trước, trong lĩnh vực xây dựng hiện nay, các công ty xây dựng ( bên B ) phải ứng trước một khối lượng vốn lớn để tiến hành thi công, còn việc thanh toán sẽ được chủ đầu tư ( bên A ) thực hiện thành nhiều lần trong và sau quá trình thi công. Do đó, một phần lớn vốn lưu động của các đơn vị xây dựng là các khoản phải thu của khách hàng, có những khoản kéo dài tới hàng năm hoặc lâu hơn nữa mà chưa được thanh toán. Số phải thu của khách hàng này lại chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản lưu động cũng như vốn lưu động của doanh nghiệp. Việc tiết kiệm chi phí, tăng khả năng sinh lợi cũng như tăng số vòng quay của vốn lưu động phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả của việc quản lý và thu hồi các khoản phải thu.
Trong năm 2001 hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp giảm chứng tỏ công tác thu hồi nợ của công ty kém, tồn kho cũng như các khoản tạm ứng, chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển...lớn khiến doanh nghiệp bị ứ đọng vốn, giảm tốc độ luân chuyển cũng như sức sinh lợi của vốn lưu động.
Trong cơ cấu vốn lưu động của doanh nghiệp có một bộ phận quan trọng nằm trong khâu sản xuất và khâu dự trữ nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp được liên tục. Bộ phận chủ yếu của vốn lưu động nằm trong khâu sản xuất là giá trị của sản phẩm dở dang hay chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Trong các doanh nghiệp xây dựng, đây có thể là các công trình, các hạng mục công trình dở dang chưa hoàn thành hay khối lượng công tác dở dang trong kỳ chưa được bên chủ đầu tư nghiệm thu, chấp nhận thanh toán hoặc chi phí phát sinh từ khi khởi công công trình đến thời điểm kiểm kê đánh giá đối với các công trình quy định thanh toán sau khi hoàn thành toàn bộ. Vì đặc điểm của ngành xây dựng là có chu kỳ sản xuất dài, giá trị sản phẩm dở dang lớn nên nếu các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực xây dựng cơ bản đẩy nhanh được tốc độ lưu chuyển bộ phận vốn lưu động này thì chắc chắn sẽ góp phần nâng cao đáng kể hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Vốn lưu động nằm trong khâu dự trữ chủ yếu là nguyên vật liệu tồn kho. Tỷ trọng hai khoản mục chi phí sản xuất kinh doanh dở dang và nguyên vật liệu tồn kho trong tổng vốn lưu động của đơn vị đang tăng trong hai năm qua. Nguyên nhân là do chu kỳ sản xuất kéo dài nên nhiều công trình chưa được hoàn thành và công ty phải duy trì sẵn sàng nguyên vật liệu cho thi công các hạng mục này. Một số công trình thi công bị gián đoạn vì bên A sửa thiết kế hay do thiếu vốn khiến công ty không có tiền thanh toán nguyên vật liệu và trả lương cho công nhân. Ngoài ra hai năm qua còn có một số các công trình chậm được quyết toán do nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan ... gây ra tình trạng công trình chậm được nghiệm thu hoặc thanh toán, nguyên vật liệu phải sẵn sàng ở trong kho để sử dụng tăng tức là nguyên vật liệu tồn kho tăng. Do đó hiện tượng ứ đọng vốn lưu động tác động xấu đến công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động tại doanh nghiệp. Đây cũng là một vấn đề cần xem xét tìm ra giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TẠI CÔNG TY TÂY HỒ
I- ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY TRONG THỜI GIAN TỚI
Cùng với đà phát triển của nền kinh tế đất nước nói chung và của ngành xây dựng Việt Nam nói riêng, Công ty Tây Hồ-Bộ Quốc phòng đã đưa ra phương hướng và các chỉ tiêu kế hoạch cụ thể để phấn đấu nâng cao năng lực sản xuất mở rộng thị trường nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Từ nay đến năm 2020, Đảng và Nhà nước ta đang phấn đấu để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Việc xây dựng, cải thiện và nâng cấp cơ sở hạ tầng đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do đó nhu cầu về sửa chữa xây mới các công trình xây dựng sẽ không ngừng tăng lên trong những năm sắp tới.
Theo dự báo về phát triển kinh tế của Việt Nam, giai đoạn 2001 -2005 tốc độ tăng GDP/ đầu người bình quân đạt 6 - 7%, có khả năng lên tới 7,5% một năm và vốn đầu tư của toàn xã hội trong 5 năm sẽ là 57-60 tỷ USD. Cùng với quá trình đó nhu cầu về nhà ở, cầu đường, nhà máy, văn phòng làm việc... của cả nước trong giai đoạn này tăng từ 15 -20% và có thể lên tới 25% (theo tờ trình của Bộ xây dựng) và giai đoạn 2005- 2010 sẽ là khoảng 15% một năm.
Do đó đây là cơ hội tốt để các công ty xây dựng, trong đó có Công ty Tây Hồ mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu thị trường và khả năng cung ứng các sản phẩm xây dựng hiện có cũng như xem xét việc mở rộng để đáp ứng những nhu cầu này, Công ty Tây Hồ đã đề ra phương hướng phát triển và đưa ra mức doanh thu tiêu thụ sản phẩm cũng như mức lợi nhuận và thu nhập của người lao động để công ty phấn đấu đạt được. Cụ thể như sau:
Doanh thu: 113.400 triệu đồng, tỷ lệ tăng trưởng 10%.
Nộp ngân sách đạt 8.556 triệu đồng
Lợi nhuận thực hiện : 1.265 triệu đồng.
Tiền lương bình quân người lao động :900.000/tháng.
Để thực hiện được các chỉ tiêu trên, công ty đã đề ra kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được thể hiện thông qua bảng sau:
Chỉ tiêu
Năm trước
Năm nay
Sản phẩm quốc phòng
31.610
34.000
-Xây dựng nhà cửa
15.210
16.000
-Xây dựng công trình giao thông
13.851
14.000
-Hệ thống điện nước-Hạ tầng
1.902
4.000
-Sản phẩm khác
647
0
Sản phẩm kinh tế
73.754
79.400
-Xây dựng dân dụng
50.216
55.000
-Xây dựng công trình giao thông
10.209
10.500
-Hệ thống điện nước-Hạ tầng
11.005
13.900
-Sản phẩm khác
2.324
0
Trên đây là một số chỉ tiêu mà công ty Tây Hồ phấn đấu đạt được trong năm 2002. Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty về cơ bản là có nhiều thuận lợi, tuy nhiên còn có một số khó khăn khách quan cũng như chủ quan gây ảnh hưởng bất lợi đến việc thực hiện thành công các chỉ tiêu trên. Qua phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn cho thấy trong năm vừa qua vốn được sử dụng chưa thực sự đem lại lợi nhuận cao nhất, việc đầu tư vào tài sản cố định và tài sản lưu động chưa hiệu quả. Một số chỉ tiêu tài chính biến động theo chiều hướng bất lợi làm giảm sự lành mạnh tài chính của công ty. Tình hình công nợ đang là một mối lo của công ty. Với mức nợ còn tồn đọng trong khâu thanh toán cao như năm 2001 thì công ty sẽ phải rất khó khăn trong việc huy động vốn cho sản xuất kinh doanh năm 2002 cũng như tốn chi phí cho việc thu hồi nợ đọng. Hơn nữa, những khó khăn khách quan cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất của công ty trong năm 2002 này. Tính cạnh tranh trên thị trường xây dựng ngày càng tăng với sự tham gia của nhiều công ty xây dựng ở trên tất cả các địa bàn. Tình hình nguyên vật liệu biến động mạnh gây khó khăn cho việc dự toán giá thành của công trình... Tất cả những khó khăn này đòi hỏi công ty phải có giải pháp kịp thời để phát huy thế mạnh, khắc phục điểm yếu tiếp tục duy trì tốt hoạt động sản xuất kinh doanh đạt được mục tiêu kế hoạch đã đề ra. Qua thời gian thực tập được tìm hiểu về công ty cũng như tình hình tài chính tại công ty, em xin mạnh dạn đưa ra những ý kiến nhằm giúp công ty khắc phục những khó khăn, cải thiện tình hình tài chính của mình.
II - GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TẠI CÔNG TY TÂY HỒ
1. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định.
1.1. Lựa chọn phương pháp trích khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao hợp lý.
Như đã phân tích, tài sản cố định trong quá trình sử dụng sẽ bị hao mòn dần cho đến khi hết thời hạn sử dụng. Phần giá trị hao mòn của tài sản cố định được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ở các doanh nghiệp có giá trị tài sản cố định cao thì chi phí khấu hao tài sản cố định chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng chi phí của doanh nghiệp. Hơn nữa, phần giá trị hao mòn được tích luỹ trong quỹ khấu hao của doanh nghiệp để sẵn sàng thay thế tài sản cố định cũ khi đã hết thời hạn sử dụng. Vì vậy, việc tính toán đúng và đủ mức khấu hao tài sản cố định có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với công ty Tây Hồ, việc tính toán và sử dụng quỹ khấu hao hợp lý đang là một yêu cầu và điều kiện quan trọng để cải thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung cũng như hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty nói riêng.
Trong công tác khấu hao tài sản cố định, hiện công ty Tây Hồ áp dụng phương pháp khấu hao đường thẳng đối với tất cả tài sản cố định. Có nghĩa là công ty ấn định thời gian sử dụng cho mỗi tài sản cố định từ đó xác định mức khấu hao hàng năm theo nguyên giá và thời hạn sử dụng đó. Việc xác định thời hạn sử dụng của tài sản cố định chủ yếu dựa trên các thông số kỹ thuật cũng như định mức của ngành xây dựng mà chưa quan tâm đến mức độ và cường độ sử dụng tài sản cố định tại công ty. Phương pháp khấu hao này có ưu điểm là việc tính toán mức khấu hao hàng năm, hàng tháng, hàng quý khá đơn giản, chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ổn định không bị đột biến.. Nhưng với mức trích khấu hao đều như vậy đã không phản ảnh được mức độ sử dụng của tài sản cố định, do đó thời điểm kết thúc trích khấu hao tài sản cố định không trùng với thời điểm tài sản cố định bị hao mòn hết tính năng và công suất. Một số tài sản cố định do có cường độ sử dụng cao nên nhanh hỏng, chúng hết giá trị sử dụng trong khi vẫn được trích khấu hao; hoặc có một số tài sản cố định dùng ít nên có thể kéo dài được thời gian sử dụng nhưng trong khi chúng vẫn còn giá trị sử dụng thì đã trích khấu hao xong. Trích khấu hao không chính xác như vậy khiến cho chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không phản ánh đúng thực trạng sử dụng tài sản cố định tại doanh nghiệp. Hơn nữa tính toán không chính xác thời gian sử dụng tài sản cố định khiến mức tích luỹ khấu hao (quỹ khấu hao tài sản cố định) có thể không đủ để thay thế tài sản cố định cũ khi chúng hết hạn sử dụng thực sự.
Bên cạnh đó, do đặc thù của ngành xây dựng thường xác định trước chi phí để tham gia đấu thầu, công ty đã đặt ra định mức khấu hao cho các tài sản cố định theo kế hoạch năm. Điều này giúp công ty theo dõi sát sao công tác thu hồi vốn cố định, dự tính trước được chi phí phát sinh trong kỳ để có biện pháp hợp lý tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, dựa vào mức khấu hao kế hoạch năm, công ty thường có xu hướng coi đây là mức khấu hao khuôn mẫu để tính toán phân bổ mức khấu hao hàng năm cho các tài sản cố định. Điều đó không phản ánh đúng tác dụng của việc tính toán và lập quỹ khấu hao cũng như không đảm bảo phản ứng linh hoạt trước những thay đổi về nguyên vật liệu, thị trường cũng như các yếu tố khác ảnh hưởng đến chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy trong thời gian sắp tới công ty cần chú trọng tới công tác tính toán mức khấu hao tài sản cố định theo hướng sau:
Vẫn áp dụng khấu hao theo đường thẳng nhưng việc tính toán thời gian sử dụng tài sản cố định cần điều chỉnh lại. Các loại trang thiết bị có cường độ làm việc cao thì được ấn định số năm thu hồi nguyên giá ít và ngược lại thiết bị có cường độ làm việc thấp thì ấn định thời gian thu hồi vốn dài hơn. Việc xác định cường độ làm việc của thiết bị dựa trên các báo cáo về tình hình sử dụng tài sản cố định của các đội thi công, kế hoạch công việc định kỳ của phòng kế hoạch cũng như những định mức kinh tế-kỹ thuật khác.
Đồng thời công ty nên áp dụng phương pháp khấu hao nhanh đối với một số tài sản cố định quan trọng, thời gian làm việc lớn và cường độ làm việc cao để có thể thu hồi vốn đầu tư nhanh và đảm bảo phản ánh đúng mức độ sử dụng của tài sản cố định. Việc xác định cường độ làm việc của tài sản cố định dựa trên số lượng công việc cần thiết bị đó cũng như số lượng thiết bị tương ứng hiện có tại doanh nghiệp. Hiển nhiên rằng với một máy móc thiết bị được sử dụng với cường độ cao thì tính năng và công suất của nó giảm nhanh hơn so với cùng thiết bị đó nhưng được sử dụng ít hơn. Với cách xác định như vậy, mức khấu hao sẽ phản ánh đúng mức độ dịch chuyển giá trị của tài sản cố định vào sản phẩm và quỹ khấu hao thu được đủ để bù đắp chi phí cho việc thay thế tài sản cố định cũ đã hết thời hạn sử dụng.
Ngoài ra, đối với các máy móc thiết bị đầu tư mới bằng vốn vay ngân hàng, công ty phải trả lãi và gốc trong thời hạn quy định, thường là ngắn hơn thời hạn sử dụng của tài sản cố định được đầu tư. Về nguyên tắc, số tiền trích khấu hao thu được phải được dùng để trả lãi và vốn vay. Vì vậy công ty nên áp dụng phương pháp khấu hao nhanh để hoàn trả cho ngân hàng. Tuy nhiên, việc trích khấu hao này đã không phản ánh đúng mức độ sử dụng của tài sản cố định. Hơn nữa, công ty gặp phải khó khăn trước cơ chế tài chính của ngân hàng và khung quy định khấu hao của Nhà nước. Có những tài sản công ty đầu tư bằng vốn vay ngân hàng, theo quy định của Nhà nước tài sản đó được khấu hao nhanh nhất trong 6 năm nhưng công ty lại phải trả vốn vay ngân hàng trong 4 năm khiến công ty gặp không ít khó khăn trong việc tính trích khấu hao và trả lãi vay cho ngân hàng.
Công ty chỉ nên điều chỉnh khấu hao của kỳ thực tế theo những định mức khấu hao kế hoạch đã đặt ra. Như đã phân tích việc tính toán trước khấu hao (mức khấu hao theo kế hoạch) là một phần trong việc xác định trước chi phí sản xuất kinh doanh nhằm dự báo lợi nhuận. Đây chỉ nên là định mức kế hoạch cho công ty chứ không phải là chuẩn khấu hao để tiến hành trích lập định kỳ. Mức khấu hao thực tế có thể lớn hơn hay nhỏ hơn mức khấu hao kế hoạch tuỳ theo tình hình sử dụng tài sản cố định trong kỳ mà vẫn dự tính trước được chi phí khấu hao hợp lý. Xác định được điều này thì tính chính xác trong việc theo dõi giá trị tài sản cố định của công ty chắc chắn sẽ được nâng cao.
1.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư đổi mới tài sản cố định.
Hoạt động trên thị trường xây dựng là chủ yếu, công ty Tây Hồ có lượng tài sản cố định với số lượng lớn để sẵn sàng thực hiện các công trình ở các địa bàn khác nhau. Việc đổi mới tài sản cố định đối với công ty là nhu cầu thường xuyên và là điều kiện trọng yếu để công ty có thể tồn tại và phát triển được. Xuất phát từ đặc điểm sản xuất kinh doanh của ngành xây dựng, việc đầu tư đổi mới tài sản cố định thường theo hai xu hướng:
Một là: đầu tư “ đón đầu “ . Đây là cách được sử dụng khá phổ biến ở các doanh nghiệp xây dựng hiện nay. Đó là cách doanh nghiệp thực hiện đầu tư mua sắm Tài sản cố định trước khi tham gia đấu thầu công trình. Ưu điểm cơ bản của phương pháp này là nhờ đầu tư tài sản cố định làm tăng năng lực về máy móc thiết bị cũng như công nghệ tiên tiến, tăng tính đồng bộ của máy móc thiết bị, đảm bảo khả năng thi công với kỹ thuật cao ...Điều đó giúp công ty hạ được giá thành sản phẩm, tăng chất lượng công trình cũng như giảm thời gian thi công, sẵn sàng thi công sau khi nhận thầu...từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh của công ty khi tham gia đấu thầu.
Tuy nhiên, nếu không trúng thầu thì việc đầu tư theo cách này thường gây ra tình trạng máy móc thiết bị đầu tư mới phải nằm chờ việc, doanh nghiệp phải mất chi phí bảo quản, trích khấu hao cho tài sản mà không phát huy được năng lực, không phản ánh đúng tình hình sử dụng máy móc của công ty. Hơn nữa nếu tài sản cố định này được đầu tư bằng vốn vay ngân hàng thì công ty còn phải chịu một khoản lãi vay không nhỏ. Ngoài ra, nếu thông tin về thị trường xây dựng cũng như thông tin khoa học công nghệ không đầy đủ thì việc đầu tư này sẽ gây ra sự lãng phí rất lớn, đầu tư tràn lan mà không phát huy được hiệu quả.
Xu hướng thứ hai trong đầu tư tài sản cố định là các doanh nghiệp sau khi thắng thầu các công trình, căn cứ vào yêu cầu kỹ thuật của công trình và tình trạng tài sản cố định của mình mà có kế hoạch đầu tư tài sản cố định. Theo cách này việc đầu tư tài sản cố định có trọng điểm hơn, nhanh chóng phát huy được năng lực sản xuất. Tuy nhiên việc đầu tư theo cách này có thể bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh và việc đầu tư tài sản cố định không phải lúc nào cũng dễ dàng nhanh chóng do đó việc thi công có thể bị ngưng trệ trong khi doanh nghiệp tìm kiếm mua máy móc thiết bị.
Qua phân tích thực trạng ở công ty Tây Hồ thời gian qua cho thấy việc đầu tư tài sản cố định theo xu hướng “ đón đầu”: phần lớn tài sản cố định của công ty, đặc biệt là máy móc thiết bị được mua sắm trước khi nhận thầu. Có thể thấy rõ tình hình này trong năm 2001. Trong năm này lượng tài sản cố định tăng từ 11.759 triệu đồng lên 14.526 triệu động mức tăng 2.767 triệu đồng tương ứng với 23,5%. Lượng vốn đầu tư vào tài sản cố định lớn nhất từ trước đến nay và việc đầu tư chủ yếu là máy móc thiết bị nhằm tăng năng lực của công ty. Nhưng việc đầu tư đã không mang lại hiệu quả như mong muốn, một loạt các máy móc hiện đại không có việc để thi công do công ty có thêm ít hợp đồng thi công mới, khối lượng công trình ít khiến máy móc thiết bị được sử dụng không hết công suất. Do đó hiệu quả sử dụng tài sản cố định giảm sút rất lớn. Đồng thời chi phí cho bảo quản, trích khấu hao tài sản cố định trả lãi vay ngân hàng cho những tài sản cố định này rất lớn cũng là một trong những nguyên nhân làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, công ty không hoàn thành kế hoạch lợi nhuận.
Do vậy, việc tiếp tục đầu tư theo xu hướng trên của doanh nghiệp ở thời điểm hiện tại là chưa cần thiết và có thể còn dẫn tới sự giảm sút nhanh hơn hiệu quả sử dụng của các tài sản cố định cũng như làm nghiêm trọng hơn sự mất cân đối trong cơ cấu tài sản cố định của công ty. Hiện nay, với máy móc thiết bị đã được đầu tư cũng như nhu cầu thị trường dự báo có thể đảm bảo năng lực sản xuất của công ty ít nhất trong 4 - 5 năm tới. Vì vậy, trong năm 2002 công ty nên hạn chế đầu tư thêm máy móc thiết bị trừ những máy móc thiết bị bắt buộc phải có cho thi công. Bên cạnh đó doanh nghiệp cần cân đối lại cơ cấu đầu tư, quan tâm hơn tới tài sản cố định là các phương tiện quản lý có nguy cơ hao mòn vô hình nhanh. Quy mô đầu tư đổi mới cho những tài sản này tương đối nhỏ chỉ ở mức khoảng vài ba trăm triệu nhưng hiệu quả sử dụng của các tài sản cố định thuộc loại này chắc chắn sẽ tăng lên một cách rõ rệt, gấp nhiều lần so với những việc đầu tư vào máy móc thiết bị và bù đắp phần nào hiệu quả sử dụng thấp của máy móc thiết bị trong một hai năm đầu, nâng cao hiệu quả đầu tư chung.
1.3 Thực hiện thuê và cho thuê tài sản cố định:
Trong hoạt động kinh doanh, tín dụng thuê mua là một phương thức giúp cho các doanh nghiệp thiếu vốn vẫn có được tài sản cần thiết sử dụng vào hoạt động kinh doanh của mình. Đây là phương thức tài trợ thông qua hợp đồng thuê giữa người thuê và người cho thuê. Người thuê được sử dụng tài sản và phải trả tiền thuê cho người cho thuê theo thời hạn mà hai bên thoả thuận, người cho thuê là người sở hữu tài sản và nhận được tiền cho thuê tài sản.Tín dụng thuê mua có hai phương thức giao dịch chủ yếu là thuê vận hành và thuê tài chính.
Từ đặc điểm tình hình tài chính của công ty có thể thấy rằng công ty hiện có một lượng tài sản cố định là máy móc thiết bị đang nằm chờ việc đồng thời có nhu cầu về máy móc thiết bị phục vụ thi công ở các địa bàn xa, hoặc các máy móc thiết bị chuyên dụng chỉ sử dụng một lần nhưng bắt buộc phải có. Một áp lực khiến công ty phải đầu tư lớn vào máy móc thiết bị cho dù hiệu quả đầu tư chưa cao là việc mở rộng địa bàn hoạt động trong những năm vừa qua. Các công trình mà công ty trúng thầu cũng như các công trình được chỉ định thực hiện nằm rải rác khắp nơi như Lạng Sơn, Bắc Giang, Hà Tây, Hải Phòng, Nghệ An, Quảng Bình ... việc di chuyển trang thiết bị công trình cồng kềnh sẽ rất tốn kém, việc đầu tư mới còn dẫn đến sự trùng lặp về chủng loại của nhiều máy móc thiết bị trong toàn công ty, máy móc sau khi đầu tư phát huy không hết công suất vì không có việc. Hơn nữa, công ty đang gặp khó khăn trong việc huy động những nguồn vốn dài hạn, nguồn vốn được cấp từ Tổng cục Công nghiệp quốc phòng-kinh tế không phải dễ dàng có được và số vốn này cũng rất hạn chế. Việc tích luỹ từ nội bộ công ty còn rất nhỏ bé, nếu vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp phải chịu áp lực nợ nần lớn vì thị trường việc làm không ổn định, để phát huy được tối đa công suất của máy móc thiết bị là rất khó khăn.
Vì vậy, với đặc điểm sản xuất kinh doanh của ngành xây dựng là thường thi công các công trình đơn chiếc, nằm rải rác trên cả nước có loại thiết bị chỉ sử dụng trong thời gian ngắn nên việc thuê và cho thuê tài sản đặc biệt là hình thức thuê vận hành là rất phù hợp với công ty. Số máy móc thiết bị chưa sử dụng có thể thực hiện cho thuê vận hành. Khả năng cho thuê vận hành là có thể bởi hiện nay ít có doanh nghiệp xây dựng nào có thể đáp ứng được đầy đủ nhu cầu máy móc thiết bị cho thi công. Với việc cho thuê này, công ty nhận được tiền thuê máy móc để bù đắp chi phí khấu hao và chi phí sửa chữa tài sản cố định, dù máy móc không trực tiếp làm việc cho công ty nhưng vẫn mang lại thu nhập cho công ty, từ đó làm tăng hiệu quả sử dụng tài sản cố định của công ty.
Đồng thời, việc thực hiện thuê vận hành là một giải pháp quan trọng đối với công ty hiện nay. Cụ thể phương án này có thể được cân nhắc thay thế cho việc mua sắm mới đối với một số trường hợp sau:
Các máy móc thiết bị có tần suất sử dụng thấp, thường chỉ phục vụ cho một số ít các công trình hoặc trong một giai đoạn ngắn trong toàn bộ quá trình thi công cho một công trình.
Công ty cùng một lúc thực hiện nhiều hợp đồng khác nhau tại các địa phương cách xa nhau và một vài chủng loại máy móc thiết bị phục vụ thi công của công ty hạn chế về số lượng, khó khăn cho việc vận chuyển trực tiếp máy thi công tới.
Các máy móc thiết bị mà công ty đã có nhưng đang bận thi công tại các công trình khác chưa điều động về kịp.
Phương án này có nghĩa là khi thực hiện công trình ở các địa phương khác nhau công ty có thể thuê máy móc thiết bị của các doanh nghiệp hoạt động ở địa bàn đó. Mục đích là triệt để tận dụng những ưu thế của phương thức đầu tư này: Công ty không phải bỏ ra 1 lần toàn bộ chi phí đầu tư, không cần có tài sản thế chấp vì tài sản đi thuê vẫn thuộc sở hữu của bên cho thuê, doanh nghiệp không phải trích khấu hao cho tài sản đi thuê, tránh được hao mòn vô hình của tài sản. Dù tiền thuê máy móc khá cao song so với việc đầu tư mới tài sản cố định, di chuyển tài sản cố định đến công trình và duy trì hoạt động cho những tài sản cố định đó trong điều kiện thị trường hiện nay thì việc đi thuê tài sản để thi công những công trình này là phương án thích hợp nhất.
Trong thời gian gần đây, với sự tham gia của một số công ty tài chính trên lĩnh vực xây dựng cơ bản đã mở ra một hướng mới trong trong việc đầu tư vào tài sản cố định của các doanh nghiệp xây dựng. Đó là phương thức thuê tài chính. Thay vì phải đầu tư toàn bộ cho việc mua mới, các công ty có thể thuê sử dụng các thiết bị thi công theo đúng yêu cầu. Căn cứ vào nhu cầu tài sản cố định, công ty yêu cầu bên cho thuê cung cấp loại tài sản cố định phù hợp, các điều kiện về việc mua lại tài sản cố định cũng như về tiền thuê hàng năm được thoả thuận trước. Do đó công ty có thể có được tài sản cố định theo nhu cầu mà không phải bỏ vốn đầu tư ngay một lần, không tốn chi phí tìm kiếm và mua sắm đúng loại tài sản cố định cần có (việc mua sắm tài sản cố định là do bên cho thuê thực hiện).
1.4. Nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định về thời gian, về công suất quyết định đến phần lớn hiệu quả sử dụng vốn cố định. Thực trạng công ty cho thấy máy móc thiết bị đã không được sử dụng hết công suất, thời gian sử dụng ít, do đó hiệu quả sử dụng tài sản cố định cũng như vốn cố định chưa cao. Do vậy, doanh nghiệp phải cố gắng áp dụng các giải pháp nâng cao hiệu suất sử dụng máy móc thiết bị.
Giải pháp quan trọng nhất để nâng cao hiệu suất sử dụng là đẩy mạnh hơn nữa công tác tìm kiếm việc làm, công ty phải tích cực chủ động tìm kiếm, tiếp thị và tham gia đấu thầu các công trình, không thụ động chờ Tổng cục giao việc. Có việc làm công ty mới có thể phát huy năng lực của máy móc thiết bị cả về thời gian và công suất.
Đồng thời công ty phải lập kế hoạch sản xuất thật cụ thể, đặc biệt là kế hoạch thi công của từng công trình. Việc tính toán chính xác về thời gian sử dụng máy móc thiết bị sẽ giúp công ty có kế hoạch điều động máy móc thiết bị nhịp nhàng để máy móc được sử dụng một cách liên tục, phát huy hết công suất, với một lượng máy móc thiết bị phù hợp có thể đáp ứng nhu cầu cho nhiều công trình. Từ đó hiệu quả sử dụng vốn cố định được cải thiện.
Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý các đội thi công, tăng cường mối quan hệ giữa các đội sản xuất với nhau cũng như sự chỉ đạo sát sao của công ty với các đội sản xuất tăng khả năng cơ động và điều chuyển máy móc thiết bị từ công trình này tới công trình khác vừa đảm bảo kế hoạch thi công vừa phát huy được hiệu suất sử dụng máy móc thiết bị.
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Trong cơ cấu vốn của một doanh nghiệp xây dựng hiện nay, vốn lưu động chiếm một tỷ trọng rất lớn. Vốn lưu động nằm ở tất cả khâu của quá trình sản xuất và do chu kỳ sản xuất kéo dài, vốn bị đọng ở nhiều khâu như: trong giá trị sản phẩm dở dang, trong các khoản phải thu, các khoản tạm ứng thi công ... Việc sử dụng hiệu quả vốn lưu động phải giải quyết được mâu thuẫn giữa khối lượng vốn lớn và tốc độ luân chuyển nhanh. Sau đây là một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty Tây Hồ-Bộ quốc phòng.
2.1. Đẩy nhanh việc thu hồi công nợ, thúc đẩy hoạt động thanh toán giữa các đối tác.
Qua phân tích công tác quản lý các khoản phải thu cho thấy công ty Tây Hồ cũng như nhiều công ty xây dựng khác có một khoản vốn lớn nằm tồn đọng trong khâu thanh toán, công nợ phải thu của công ty lên tới hơn 60 tỷ đồng. Nếu rút ngắn thời gian thu hồi nợ thì công ty sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí, nó giúp công ty giảm nhiều khoản vay ngắn hạn.
Trong hoạt động đấu thầu xây dựng, khi đấu thầu công ty đưa ra một mức giá dự toán cho việc thi công công trình. Nếu chủ đầu tư thấy mức giá đó là phù hợp, công ty sẽ được chấp nhận. Sau khi thắng thầu, chủ đầu tư có thể ứng trước một phần giá trị công trình hoặc công ty phải huy động vốn để tiến hành thi công. Tuỳ theo thoả thuận, khi một hạng mục hoặc toàn bộ công trình hoàn thành, chủ đầu tư sẽ tiến hành thẩm định chất lượng, quyết toán và thanh toán cho nhà thầu chính.
Như vậy, mối quan hệ thanh toán của công ty sẽ phụ thuộc vào việc công ty là nhà thầu chính (B chính) hay nhà thầu phụ. Nếu công ty là nhà thầu chính, sau khi công trình được quyết toán, quá trình thanh toán là quá trình hai bên giữa công ty và chủ thầu. Nếu công ty chỉ là nhà thầu phụ, quá trình quyết toán sẽ là quan hệ ba bên, giữa chủ thầu - nhà thầu chính - công ty. Tuy nhiên, dù có là quan hệ giữa hai hay ba bên, thì tốc độ quá trình thanh toán cũng phụ thuộc vào tốc độ quyết toán công trình, xác định đơn giá, khối lượng thi công hoàn thành, tốc độ giải ngân vốn đầu tư và quá trình thanh toán giữa B chính và các bên B phụ.
Để thúc đẩy tốc độ thu hồi công nợ, công ty cần chú ý tới các vấn đề sau:
2.1.1.Xác định rõ nguồn vốn của các công trình mà công ty tham gia ký kết hợp đồng xây dựng.
Đối với các doanh nghiệp xây dựng, các công trình có nguồn vốn đầu tư khác nhau sẽ ảnh hưởng tới tiến độ thi công và có quá trình thanh quyết toán khác nhau.
Đối với công trình có vốn ngân sách cấp thường có đặc điểm là:
Quá trình quyết toán các hạng mục công trình chậm do việc chờ kết quả thẩm định của các cấp có thẩm quyền.
Quá trình thanh toán sẽ được tiến hành do chờ vốn cấp theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước hoặc các bộ ngành.
Đối với công trình có vốn nước ngoài:
Công trình luôn đòi hỏi về kỹ thuật, chất lượng cao, tiến độ thi công nhanh, có sự thẩm định của cơ quan có thẩm quyền.
Quá trình thanh toán sẽ được tiến hành nhanh hơn đối với công trình có vốn ngân sách cấp.
Như vậy, qua việc tìm hiểu thực trạng nguồn vốn đầu tư cho các công trình mà công ty sẽ ký kết hợp đồng xây dựng sẽ giúp cho việc ra quyết định có thực hiện hay không, nếu thực hiện thì đề ra phương án thi công phù hợp, dự tính trước được việc thanh toán do đó công ty chủ động hơn trong việc đảm bảo vốn cho kinh doanh. Đặc biệt, công ty nên hạn chế thi công trước các công trình chưa có kế hoạch cấp vốn từ ngân sách Nhà nước. Mặt khác, biết trước thực trạng nguồn vốn của các công trình để công ty có kế hoạch về vốn cho việc khởi đầu thi công công trình cũng như kế hoạch thu hồi vốn của công ty.
2.1.2. Thực hiện tốt công tác hoàn thiện hồ sơ quyết toán.
Hồ sơ thanh quyết toán được hoàn thiện dựa trên cơ sở thống nhất xác định khối lượng thi công các hạng mục công trình bao gồm các chi phí trực tiếp (vật liệu, nhân công, máy thi công), chi phí chung, lãi định mức và các đơn giá chi tiết kèm theo các phần việc của các hạng mục đó.
Hồ sơ thanh quyết toán là cơ sở đầu tiên trong quá trình thu hồi vốn của mọi công ty xây dựng. Do đó ngay từ bước khởi đầu này thì công ty cũng cần thực hiện tốt công tác hoàn thiện hồ sơ quyết toán với chủ đầu tư (bên A). Hồ sơ được lập hợp lý, hợp lệ, chính xác với hợp đồng đã ký thì bên A không có lý do gì để kéo dài thời gian thanh toán cho phía công ty. Nếu công trình bao gồm nhiều nhà thầu thì công ty còn cần kết hợp chặt chẽ với các nhà thầu khác cũng như bên A để tính toán chính xác khối lượng công việc đã hoàn thành bàn giao.
Để việc xác định khối lượng xây dựng hoàn thành bàn giao được tiến hành nhanh chóng thì về phía đơn vị mình, công ty luôn cần phải đảm bảo thi công đúng thiết kế, đúng tiến độ đồng thời phải coi trọng vấn đề kỹ thuật và chất lượng công trình. Nếu trong quá trình thi công có sự chỉnh sửa thiết kế thì công ty phải có hồ sơ lưu trữ toàn bộ những thay đổi đó để làm cơ sở cho việc xác định khối lượng. Mặt khác, đối với những công trình lớn có nhiều nhà thầu cùng tham gia thi công (bao gồm các nhà thầu chính và các nhà thầu phụ), việc xác định khối lượng xây dựng hoàn thành bàn giao không chỉ liên quan giữa công ty Tây Hồ và bên A mà còn có sự tham gia của giám sát kỹ thuật nhà thầu chính, thậm chí cả tư vấn xây dựng của bên A. Bởi vậy, trong quá trình thi công, công ty Tây Hồ cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa đơn vị, nhà thầu chính, chủ đầu tư.
Việc tiến hành thi công đảm bảo thiết kế, tiến độ và thoả mãn các yêu cầu kỹ thuật, chất lượng và hoàn thành hồ sơ quyết toán nhanh gọn, chính xác là những nhân tố tích cực thúc đẩy quá trình thanh toán giá trị khối lượng hoàn thành bàn giao kể cả khi cần có sự thẩm định của các cơ quan có thẩm quyền.
2.2.Tăng cường công tác quản lý vốn lưu động trong khâu sản xuất.
Những đặc điểm rất phức tạp của hoạt động xây dựng đã gây rất nhiều khó khăn cho công ty Tây Hồ trong việc quản lý vốn lưu động nói chung cũng như giá trị sản phẩm dở dang nói riêng. Những khó khăn có thể kể đến đối với công ty là:
Công ty phải tạm ngừng thi công do phải chờ chỉnh sửa thiết kế. Thông thường, thiết kế xây dựng là của chủ đầu tư hoặc tư vấn xây dựng đưa ra, công ty có trách nhiệm thi công theo đúng thiết kế đó. Việc tạm dừng thi công để chờ thiết kế không những xảy ra với những công trình vừa thiết kế vừa thi công mà ngay cả những công trình có quy mô lớn, đã có sự chuẩn bị kỹ càng nhưng nhiều khi phải sửa đổi cho phù hợp với các tình huống thực tế phát sinh hay những thay đổi trong quy mô đầu tư, quy hoạch. Những lúc như vậy, công ty phải dừng thi công và chờ thiết kế mới hàng tuần, máy móc thiết bị phải nằm chờ, làm kéo dài thời gian thi công, tăng thêm chi phí.
Để có thể khắc phục phần nào thiệt hại trong những trường hợp này, trước khi thi công công ty cần yêu cầu chủ đầu tư khảo sát thật kỹ lưỡng. Đồng thời, công ty cần đưa ra những điều khoản cam kết cụ thể về trách nhiệm vật chất đối với việc làm chậm tiến độ thi công, lấy đó làm căn cứ yêu cầu chủ đầu tư có trách nhiệm bồi thường đối với những tổn thất do ngừng thi công gây ra.
Tương tự, đối với những công trình thi công theo tiến độ cấp vốn của chủ đầu tư, công ty Tây Hồ nên có sự thoả thuận về trách nhiệm vật chất của chủ đầu tư về những tổn thất mà công ty phải chịu khi ngừng thi công do thiếu vốn. Công ty cần đưa vào hợp đồng những cam kết cụ thể về phương hướng giải quyết, mức bồi thường ... Tuỳ trường hợp, công ty có thể huy động nguồn vốn từ các nguồn khác hỗ trợ để đảm bảo thi công được diễn ra liên tục, tuy nhiên, cần ràng buộc chủ đầu tư để họ có trách nhiệm thanh toán những chi phí phát sinh do lỗi từ phía họ. Trong thực tế ngành xây dựng hiện nay, đây là một đòi hỏi rất khó thực hiện nhưng khi thị trường này đã đi vào trật tự, có sự bình đẳng giữa các bên thì công ty có thể tham khảo giải pháp này để nâng cao tốc độ luân chuyển của vốn lưu động trong khâu sản xuất, giảm giá trị sản xuất kinh doanh dở dang.
Ngoài ra, còn một vấn đề rất quan trọng trong ngành xây dựng là việc giải phóng mặt bằng cho thi công. Hầu như công ty xây dựng nào cũng đã phải trải qua tình huống máy móc thiết bị đã tập trung đầy đủ nhưng chưa thể tiến hành công việc được vì chưa có mặt bằng thi công. Đối với công ty Tây Hồ tuy không hoạt động nhiều trên lĩnh vực thi công cần giải phóng mặt bằng như xây dựng cầu đường nhưng những trường hợp phải ngừng thi công chờ giải phóng mặt bằng của công ty cũng đã phát sinh những khoản chi phí không phải là nhỏ. Nói chung, việc giải quyết thường vượt ra ngoài khả năng của công ty vì vậy công ty cần phối hợp chặt chẽ với chủ đầu tư cũng như các cơ quan có trách nhiệm khác cùng thúc đẩy tiến trình giải phóng mặt bằng đồng thời tích cực thi công cuốn chiếu nhằm tránh thời gian nghỉ việc vô ích.
2.3. Thực hiện tốt công tác dự toán Ngân quỹ.
Trên cơ sở thực hiện đồng bộ các giải pháp trên, công ty Tây Hồ có thể tiến tới việc dự toán Ngân quỹ của mình. Mặc dù chưa cụ thể và độ chính xác chưa cao nhưng chắc chắn nó sẽ hơn hẳn tình trạng khá bị động trong việc quản lý các dòng tiền xuất nhập quỹ như hiện nay. Với cơ chế quản lý vốn lưu động hiện hành, trong mùa xây dựng, nhiều khi công ty phải rất khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn tài trợ để đáp ứng đủ những nhu cầu vốn lớn đột xuất phục vụ cho thi công các công trình. Đây không những là sự lãng phí lớn về chi phí và nhân lực, giảm sự lành mạnh trong hoạt động tài chính của công ty mà còn là bất lợi lớn của công ty trong sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt của thị trường xây dựng.
Để dự toán được Ngân quỹ, phải nắm được quy mô thời điểm nhập xuất của các dòng tiền tệ. Việc cải thiện cơ chế thanh toán, tăng cường tốc độ thu hồi công nợ là cơ sở tốt để công ty Tây Hồ có thể nắm được các dòng tiền nhập quỹ. Vấn đề còn lại là quản lý các dòng tiền xuất quỹ. Đây có thể nói là công việc dễ dàng hơn và phụ thuộc nhiều vào nỗ lực quản lý của bản thân công ty.
Để quản lý các dòng tiền xuất quỹ, có thể chia chúng thành các khoản có thể dự trù được tương đối chính xác và các khoản tiền xuất quỹ biến động. Các dòng tiền xuất quỹ tương đối ổn định và có thể dự đoán trước là tiền lương phải trả cho cán bộ công nhân viên, tiền sửa chữa, bảo dưỡng định kỳ máy móc, chi phí dịch vụ mua ngoài, lãi vay ngân hàng...Các khoản này có thể dự trù được tương đối chính xác nên công ty có thể chủ động hơn trong việc huy động vốn đáp ứng nhu cầu này. Để quản lý tốt ngân quỹ cần giảm thiểu sự biến động của các dòng xuất quỹ ổn định này bằng cách công ty có thể trích trước chi phí hoặc đặt ra mức chi phí kế hoạch làm khung chuẩn cho chi phí thực tế phát sinh.
Các dòng xuất quỹ khó có thể dự đoán trước là chi thanh toán nguyên vật liệu, chi sửa chữa máy móc hỏng bất thường cũng như chi phí các hoạt động bất thường khác...Để có thể dự đoán được chính xác nhu cầu thanh toán nguyên vật liệu của các đội sản xuất, phòng kế toán tài chính cần phối hợp hoạt động với phòng kinh tế - kế hoạch, phòng xe máy - vật tư, các đội trưởng đội sản xuất ... Ngay từ khi nhận được thiết kế công trình, phòng kinh tế - kế hoạch, phòng xe máy - vật tư phải căn cứ vào hợp đồng để vạch ra tiến độ thi công hợp lý, dự trù trước nhu cầu nguyên vật liệu của từng giai đoạn thi công. Đó là cơ sở để phòng kế toán - tài chính dự trù nhu cầu vốn lưu động trong kỳ, đề ra các biện pháp cân đối giữa nguồn thu và chi, bù đắp thiếu hụt một cách chủ động. Tất nhiên trong quá trình thực hiện sẽ phát sinh những chênh lệch cần tới sự điều chỉnh nhưng với sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban như trên thì việc điều chỉnh sẽ không quá phức tạp. Đồng thời, sự phối hợp đó sẽ giúp cho vốn, vật tư... của công ty được quản lý chặt chẽ hơn, nghiệp vụ của các bộ phận trong công ty sẽ nâng cao và doanh nghiệp sẽ vững vàng hơn trong cơ chế thị trường đầy biến động.
Ngoài ra công ty cần xây dựng mối quan hệ với bên cung cấp nguyên vật liệu cho thi công. Việc ký trước hợp đồng về việc vận chuyển nguyên vật liệu đúng địa điểm thời gian cũng như với khung giá thoả thuận giúp công ty chủ động hơn trong việc đảm bảo đầy đủ nhu cầu nguyên vật liệu phục vụ cho thi công một cách kịp thời.
2.4 Các biện pháp kinh tế khác
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động các doanh nghiệp ngoài cách sử dụng các giải pháp trên cần áp dụng một số biện pháp tổng hợp như: đẩy mạnh khâu tiêu thụ hàng hoá, xử lý kịp thời các vật tư hàng hoá chậm luân chuyển để giải phóng vốn; thường xuyên xác định phần chênh lệch giá giữa giá mua ban đầu với giá thị trường tại thời điểm kiểm tra tài sản lưu động tồn kho để có biện pháp xử lý kịp thời, hiệu quả; tăng cường việc kiểm tra tài chính đối với việc sử dụng vốn lưu động, thực hiện công việc này thông qua một số chỉ tiêu như: vòng quay vốn lưu động, sức sinh lợi của vốn lưu động ... Trên cơ sở đó, biết được rõ tình hình sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp, phát hiện những vướng mắc nhằm sửa đổi kịp thời, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Thực hiện nghiêm túc, triệt để công tác thanh toán công nợ, chủ động phòng ngừa rủi ro, hạn chế tình trạng bị chiếm dụng vốn mà từ đó làm phát sinh nhu cầu vốn lưu động dẫn đến doanh nghiệp phải đi vay ngoài kế hoạch, tăng chi phí vốn mà đáng lẽ không có. Vốn bị chiếm dụng ngày càng trở thành gánh nặng cho doanh nghiệp khi trở thành nợ khó đòi, gây thất thoát vốn của doanh nghiệp. Bởi vậy, để chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp nên lập các quỹ dự phòng tài chính để có thể bù đắp khi vốn bị thiếu hụt.
III KIẾN NGHỊ
1. Kiến nghị với cơ quan chủ quản (tổng cục Công nghiệp Quốc phòng-kinh tế).
Do công ty Tây Hồ mới chuyển sang lĩnh vực xây dựng nên nguồn vốn có hạn, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào nguồn vốn được cấp và nguồn vốn vay Ngân hàng. Trong năm 2001 vừa qua công ty gặp nhiều khó khăn trong sản xuất: nhiều công trình giá cả thấp, những bất lợi do điều kiện khách quan mang lại đã làm giảm lợi nhuận của công ty. Để tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn tại công ty nói riêng, tổng cục cần có biện pháp giúp đỡ tạo điều kiện cho công ty.
- Cấp bổ sung thêm vốn cố định, vốn lưu động và lực lượng quản lý có nghiệp vụ tốt.
- Giúp đỡ tạo công ăn việc làm cho công ty để có thể khai thác năng lực hoạt động của máy móc thiết bị đã đầu tư trong năm 2001 mà chưa được sử dụng.
- Đề nghị Tổng cục cho phép công ty được giữ lại quỹ khấu hao để góp phần tăng nguồn vốn hoạt động cho công ty, công ty có điều kiện đầu tư đổi mới máy móc thiết bị mà không phải hoàn toàn phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng.
Đồng thời, Tổng cục nên tạo điều kiện tốt để tốt để doanh nghiệp chủ động hơn trong sản xuất kinh doanh cũng như có cơ chế thanh toán công bằng giữa công ty với Tổng cục để công ty đỡ thiệt thòi.
2. Kiến nghị với Nhà nước.
Đối với công tác khấu hao tài sản cố định tại doanh nghiệp, Nhà nước nên cho phép doanh nghiệp chủ động trong việc xác định mức trích khấu hao đối với từng tài sản của doanh nghiệp tuỳ thuộc vào mức độ sử dụng trong năm để việc trích phản ánh đúng mức độ hao mòn của tài sản cố định.
Đối với công tác giám định kỹ thuật công trình các cơ quan Nhà nước nên tiến hành nhanh chóng, chính xác đúng trách nhiệm, thẩm quyền để công ty không bị kéo dài thời gian chờ nghiệm thu công trình.
Sớm hoàn thiện thủ tục hoàn thuế để tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt trong những trường hợp công ty thi công những công trình được miễn thuế hay mua máy móc thiết bị được giảm thuế...
KẾT LUẬN
Tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đang là vấn đề mang tính thời sự cấp bách, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay.
Thời gian qua việc quản lý, sử dụng vốn tại công ty Tây Hồ đã đạt được những kết quả khả quan.Với qui mô vốn vừa phải, trình độ khoa học kỹ thuật, lượng máy móc thiết bị chưa thực sự hiện đại, công ty đã sử dụng các nguồn lực sẵn có của mình để không ngừng làm tăng lợi nhuận cũng như quy mô số vốn sở hữu của mình.Tuy nhiên trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt trên lĩnh vực xây dựng như hiện nay đang đòi hỏi công ty phải tích cực chủ động phấn đấu nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác tổ chức và sử dụng vốn, đồng thời nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên của Công ty.
Trong thời gian thực tập tại Công ty, tôi đã đi sâu tìm hiểu về vấn đề hiệu quả sử dụng vốn tại công ty, thông qua việc phân tích các chỉ tiêu tài chính, nêu ra các ý kiến đóng góp nhằm giúp công ty cải thiện và tăng cường hiệu quả sử dụng vốn của mình. Với sự giúp đỡ nhiệt tình của anh Nguyễn Hoài Phương và các cán bộ khác trong phòng kế toán-tài chính của Công ty, cùng sự chỉ bảo của cô giáo -tiến sĩ Phan Thị Thu Hà, trên cơ sở những kiến thức có được trong quá trình học tập, tôi hy vọng rằng chuyên đề này sẽ góp phần đưa ra những giải pháp gợi ý cho công ty đưa ra các quyết định đúng đắn. Tuy nhiên do có nhiều hạn chế về năng lực kiến thức và kinh nghiệm thực tế nên trong chuyên đề này chắc chắn có nhiều khiếm khuyết. Tôi rất mong được các thầy cô, bạn bè, các anh chị, cô chú trong Công ty Tây Hồ chỉ bảo và đưa ra những nhận xét, góp ý để tôi có thể hoàn thiện hơn nữa chuyên đề tốt nghiệp cũng như kiến thức của bản thân.
Hà Nội, ngày 12/05/2002
Sinh viên Đỗ Hoàng Hải
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình: Tài chính doanh nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính trường ĐHKTQD.
2. Quản trị tài chính doanh nghiệp. Tác giả: TS Vũ Duy Hào-Đàm Văn Huệ-Phạm Long. Nxb thống kê -2000
3. Đọc, lập, phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp
Tác giả : PGS.TS Ngô Thế Chi -TS Vũ Công ty. Nxb thống kê - 2001 4. Phân tích tài chính doanh nghiệp. Tác giả: JOSETTE PEYRARD - Nxb thống kê
5. Báo cáo tài chính Công ty Tây Hồ-Bộ Quôc phòng các năm 1999,2000 và 2001
6. Tạp chí tài chính
7. Tạp chí ngân hàng
Cùng các luận văn khoa Ngân hàng-Tài chính. ĐH KTQD các khoá 38,39
MỤC LỤC
Lời nói đầu
1
Phần I:
Vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
3
I
Vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường ngày nay
3
1.
Khái niệm
3
2.
Phân loại vốn
6
2.1
Phân loại vốn theo phương thức chu chuyển
6
2.2
Phân loại vốn theo nguồn hình thành
11
2.3
Phân loại vốn theo thời gian huy động và sử dụng
13
3.
Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp
14
II
Hiệu quả sử dụng vốn
16
1.
Quan điểm và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
16
1.1
Quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn
16
1.2
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
18
2.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn
21
2.1
Các nhân tố khách quan
21
2.2
Các nhân tố chủ quan
22
3.
Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
23
3.1
Vai trò của việc đảm bảo đủ vốn
23
3.2
Sự cần thiết nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
25
4.
Một số phương hướng biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
26
Phần II
Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Tây Hồ
35
I
Một số nét về công ty Tây Hồ
35
1.
Quá trình hình thành và chức năng nhiệm vụ
35
2.
Bộ máy tổ chức quản lý
37
3.
Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành xây dựng
39
II
Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Tây Hồ
44
1.
Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty
44
2.
Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn và các giải pháp nâng cao hiệu quả tại công ty
50
2.1
Tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
50
2.2
Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn cố định
52
2.3
Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động
57
3.
Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tại công ty
62
3.1
Những kết quả đạt được
63
3.2
Những hạn chế và nguyên nhân
64
Phần III
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Tây Hồ
67
I
Định hướng phát triển của công ty
67
II
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty
69
1.
Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ
69
2.
Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ
79
III
Kiến nghị
86
1.
Kiến nghị với nhà nước
86
2.
Kiến nghị với tổng công ty
87
Kết luận
88
Tài liệu tham khảo
89
Mục lục
90
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Lương Sơn.doc