Nó đã nhanh
chóng được đưa vào ứng dụng nhằm thay thế dần các vật liệu truyền thống như
kim loại, thủy tinh, gỗ, giấy, vải, da Nhờ có các đặc tính ưu việt về độ bền, nhẹ,
các sản phẩm nhựa đã từng bước xâm nhập vào tất cả các lĩnh vực cuộc sống.
Ngày nay, thật khó có thể hình dung sự thiếu vắng của các vật dụng bằng nhựa
trong tiện nghi đời sống con người. Một nghiên cứu đã được tiến hành cho thấy
70% vật dụng con người sử dụng đều có xuất xứ từ nhựa.
Ở nước ta, ngành công nghiệp nhựa là ngành công nghiệp non trẻ, mới thực
sự phát triển từ khi nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp
sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của
Nhà nước. Trong suốt 10 năm sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất (1975)
ngành nhựa Việt Nam không phát triển. Nếu năm 1975 là năm đầu tiên sau khi
thống nhất sản lượng của ngành nhựa đạt 50 ngàn tấn/năm thì 14 năm sau đó
(1989) sản lượng của ngành cũng chỉ đạt 50 ngàn tấn. Ngành công nghiệp nhựa
thựa sự khởi sắc và có tốc độ tăng trưởng cao trong 10 năm cuối cùng của thế kỷ
XX và những năm đầu thế kỷ XXI. Tốc độ tăng trưởng luôn đạt 25 đến 30%/năm.
Mặt khác, Việt Nam đã gia nhập AFTA, để có thể cạnh tranh nổi với các
nước trong khu vực và thế giới, đòi hỏi ngành nhựa Việt Nam phải có những bước
tiến mới cả về sản phẩm, công nghệ, trình độ cán bộ công nhân viên của ngành, về
giá cả sản phẩm, hình thức tiêu thụ,
Vì lý do trên mà chúng tôi đã chọn đề tài “MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG
CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHỰA VIỆT
NAM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Mục đích chính của luận văn là phân tích, đánh giá thực trạng của các doanh
nghiệp nhựa Việt Nam và kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp nhựa Việt Nam trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh, làm cơ sở cho các doanh nghiệp và Nhà nuớc định hướng chiến lược phát
triển cho các doanh nghiệp nhựa tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cho cả
ngành nhựa Việt Nam nói chung.
Sự phân bố sản xuất của ngành nhựa tại Việt Nam bao gồm khoảng 75%
tập trung tại Thành phố Hồ Chí Minh do đó đề tài này chỉ xin đề cập đến hoạt
động cạnh tranh của các doanh nghiệp nhựa Việt Nam đóng trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu dựa trên các kiến thức của các môn học
kinh tế đặc biệt là chuyên ngành Quản Trị Kinh Doanh, dựa trên số liệu thống kê,
báo cáo của Hiệp hội nhựa ở Thành phố Hồ Chí Minh và những dự báo tình hình
nhu cầu về sản phẩm nhựa trong những năm tới.
Nội dung chính của luận văn sẽ bao gồm ba chương như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và chiến lược cạnh tranh
- Chương 2: Phân tích và đánh giá thực trạng của doanh nghiệp nhựa Việt
Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh
74 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2954 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giải khát có gas, nước trái cây bổ dưỡng hiện còn rất ít,
khoảng 20 triệu lít/năm, nước ngọt có gas và không gas khoảng 450 triệu lít/năm
cũng sẽ có mức tăng trưởng từ 12% - 18%/năm. Dự tính đến năm 2005 mức tiêu
thụ nước quả trên thị trường nội địa sẽ đạt 120 triệu lít/năm.
- Đối với ngành dầu ăn: Hiện nay mức sử dụng dầu ăn của Việt Nam mới
đạt trên dưới 3kg/người (200.000 tấn/năm). Dự kiến trong 10 năm tới mức tiêu thụ
dầu ăn sẽ tăng gấp 4 lần so với hiện nay. Các loại chai nhựa đựng thực phẩm (thay
thế chai thủy tinh) đã bước đầu thâm nhập thị trường và phát triển vững chắc như
các ngành nước mắm, rượu cồn, magi, tương ớt, tương cà, các loại gia vị, …hàng
năm cũng sử dụng không dưới 50 triệu chai nhựa các loại.
- Đối với các loại thuốc bảo vệ thực vật: Trong 5 năm gần đây, ở Việt Nam
đã đẩy mạnh xu hướng thay thế chai thủy tinh bằng chai nhựa nhằm giảm thiểu ô
nhiễm và tai nạn trong canh tác nông nghiệp. Với 40.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật
49
được dùng trên đồng ruộng hàng năm, số lượng thuốc nước cần dùng là khoảng
26.000 tấn thì lượng bao bì nhựa dùng hàng năm không dưới 10.000 tấn.
- Đối với ngành mỹ phẩm và chất tẩy rửa: Hiện nay lượng bao bì nhựa dùng
cho nhu cầu này khoảng 30.000 tấn đã tăng đáng kể trong những năm vừa qua và
mức độ tăng trong 10 năm tới không dưới 20%/năm do mức sống được tăng cao
thì nhu cầu làm đẹp và sạch cũng sẽ tăng tương ứng.
- Đối với ngành dược phẩm: Hiện nay, bao bì dược rất đa dạng và phong
phú, ngoài loại bao bì võ nang cứng, nang mềm, tá dược, … thì loại bao bì chai lọ
nhựa bao bì mềm để đựng thuốc viên và nước là một nhu cầu lớn với hàng trăm
loại mẫu mã và kích cỡ khác nhau. 5 năm qua mức tiêu thụ dùng thuốc đạt tăng
trưởng khoảng 20% - 25%, năm 2005 mức bình quân này sẽ tăng lên gấp đôi và
sau 2005 mức tăng trưởng là 25%/năm.
- Đối với ngành công nghiệp sản xuất thuốc lá: Đến năm 2005, sản lượng
thuốc lá đạt 3 tỷ bao và đến năm 2010 đạt 3,2 tỷ bao. Trong đó, sản lượng thuốc lá
đầu lọc chiếm tỷ trọng trên 98% sản lượng chung, tỷ trọng thuốc lá đầu lọc bao
cứng chiếm 90% sản lượng đầu lọc. Nhu cầu BOPP cho ngành thuốc lá ước tính là
1.500 tấn/năm (nguồn Mitsu Việt Nam).
Quy hoạch phát triển của một số ngành kinh tế xã hội là khách hàng chính
của ngành bao bì nhựa.
Đơn vị tính: tấn
Sản phẩm 2005
Tốc độ
dự kiến
phát triển
(%/năm)
2010
Tốc độ dự
kiến phát
triển
(%/năm)
2015
Bao bì đơn lớp
và đa lớp
310.000 15 650.000 10 1.046.000
Bao dệt PP 180.000 9,2 280.000 20 700.000
Bao bì rỗng 250.000 18,3 580.000 15 1.234.000
Các loại két
nhựa
40.000 11,8 70.000 10 120.000
Tổng cộng 780.000 15,2 1.580.000 3.100.000
Bảng 14: Dự báo nhu cầu bao bì nhựa giai đoạn tới năm 2005 - 2015
50
20
320
620
920
1220
1520
1820
T
ổn
g
sả
n
lư
ợn
g
(n
gà
n
tấ
n)
1 2 3
Năm
Các loại két nhựa
Bao bì rỗng
Bao dệt PP
Bao bì đơn lớp và đa lớp
2005 2010 2015
Đồ thị 10: Dự báo nhu cầu bao bì nhựa giai đoạn tới năm 2005 và 2015
d/ Sản phẩm nhựa kỹ thuật cao:
- Sản phẩm cho ngành công nghiệp chế tạo ô tô, xe máy: Ngoài việc tiếp
tục sản xuất yên xe máy, thỏa mãn nhu cầu lắp ráp xe máy như thời gian qua,
trong giai đoạn tới có khả năng bước đầu cung cấp nệm cho công đoạn sản xuất
ghế ô tô lắp ráp trong nước. Các chi tiết khác của xe ô tô sẽ ở mức nghiên cứu
hoặc sản xuất thử. Mức độ phát triển của sản phẩm này không cao, khoảng 10% -
15%/năm.
- Sản phẩm nhựa composite: Vật liệu composite đã phát triển trên thế giới
vài chục năm nay và ngày càng có nhiều ứng dụng rộng rãi. Ở Việt Nam, ngành
composite chỉ dưới 10 tuổi, còn non trẻ cả về kỹ thuật và ứng dụng. Hiện nay, mức
tiêu thụ composite ở Việt Nam dự kiến là 5.000 tấn/năm.
- Màng mỏng và giả da:
+ Màng mỏng: Tiềm năng tiêu thụ màng mỏng ở nội địa và xuất khẩu trong
vài năm tới còn tăng, khoảng 16%, sản lượng tăng này tập trung vào các sản phẩm
chất lượng cao cấp như: màng trong suốt, màng siêu mỏng, màng thổi khí, màng
khổ rộng cho sản xuất muối ăn, nuôi trồng thủy sản.
+ Giả da: Sản lượng tiêu thụ giả da ở thị trường nội địa tăng đều qua các
năm với tỷ lệ khoảng 20%/năm. Theo số liệu nhập khẩu và sản xuất giả da, ta thấy
hiện nay đây là mặt hàng có nhu cầu khá cao trên thị trường để gia công hàng xuất
khẩu, tuy nhiên các nhà sản xuất trong nước lại chưa nắm bắt được. Theo đà phát
51
triển, do chính sách đẩy mạnh xuất khẩu và tăng hàm lượng nguyên vật liệu sản
xuất trong nước, nếu có sự liên kết và phối hợp chặt chẽ giữa nhà sản xuất và các
đơn vị gia công hàng gia dụng xuất khẩu đặc biệt là ngành da giày thì tốc độ tăng
trưởng mặt hàng này trong sản xuất và tiêu thụ có thể tăng trưởng cao hơn nữa. Vì
giả da phục vụ cho ngành da giày là chính, định hướng phát triển cho ngành giả da
phải căn cứ vào sự phát triển của ngành gia dày. Theo báo cáo quy hoạch phát
triển ngành da giày Việt Nam đến năm 2010, dự kiến trong giai đoạn 2005 – 2010
mức tăng trưởng của sản phẩm giả da khoảng 22%/năm.
3.1.1.3. Dự báo về tình hình ngành nhựa trong nước
Chủ yếu là sản phẩm nhựa gia dụng và bao bì nhựa, dự đoán nhu cầu thị
trường xuất khẩu như sau:
a/ Nhựa gia dụng:
Đối với các sản phẩm gia dụng cũng còn nhiều tiềm năng, không chỉ nhắm
vào các nước chậm phát triển ở lân cận như Lào, Campuchia mà còn cần được
quan tâm đẩy mạnh tiếp thị ở các quốc gia công nghiệp như các nước Âu Châu,
Bắc Mỹ, Nga, Nhật, … do khả năng cạnh tranh về chi phí lao động sản xuất ở Việt
Nam còn thấp.
Cơ cấu các mặt hàng nhựa gia dụng xuất khẩu tập trung vào hai loại là đồ
nhựa gia dụng và giày dép nhựa. Kim ngạch xuất khẩu của sản phẩm nhựa gia
dụng trong năm 2000 đạt 140 triệu USD, dự đoán xuất khẩu sản phẩm nhựa gia
dụng trong những năm tới như sau:
Đơn vị tính: triệu USD
Sản phẩm nhựa
gia dụng xuất
khẩu
Năm
2000
Tốc độ
tăng
trưởng
Năm
2010
Tốc độ
tăng
trưởng
Năm
2015
Đồ nhựa gia dụng 100 310 500
Dày dép nhựa 40 125 264
Tổng cộng 140
11,5%/năm
435
10%/năm
764
Bảng 15: Dự đoán kim ngạch xuất khẩu nhựa gia dụng đến năm 2010 - 2015
Xét về sản phẩm tiêu dùng có sử dụng chi tiết nhựa, ngoài sản phẩm nhựa
gia dụng được dùng trực tiếp còn cần kể tới các sản phẩm tiêu dùng có kết cấu
52
gồm một phần là các chi tiết nhựa. Đối với các loại sản phẩm này thì hiện nay có
xu hướng gia tăng đáng kể nhu cầu các sản phẩm tiêu dùng có các chi tiết phụ tùng
bằng nhựa như đồ dùng điện, điện tử gia dụng (TV, cassette, máy giặt, quạt điện,
…) xe gắn máy, ô tô, …(mà trong phân loại được xếp vào nhóm các sản phẩm
nhựa phục vụ các ngành công nghiệp khác), theo dự đoán tỉ lệ tăng trưởng của
nhóm sản phẩm nhựa phục vụ ngành công nghiệp này sẽ gia tăng nhanh từ 18% -
20%/năm trong thập niên tới.
b/ Bao bì nhựa
Theo chủ trương của Nhà nước, nền kinh tế nước ta trong thời gian tới
hướng vào xuất khẩu nên khả năng xuất khẩu gián tiếp của bao bì nhựa rất là lớn.
Hiện nay, các nước phát triển đang bỏ dần các công nghệ làm bao bì nhựa do
không có hiệu quả kinh tế cao tại các nước này. Chính điều này đã mở ra một tiềm
năng lớn xuất khẩu trực tiếp bao bì nhựa. Trong nhóm mặt hàng bao bì nhựa thì
bao bì mềm đơn lớp, đa lớp và bao dệt PP có khả năng xuất khẩu cao do có đặc
điểm không cồng kềnh khi vận chuyển so với bao bì rỗng và két nhựa. Mục tiêu
đến năm 2010, ngành bao bì nhựa xuất khẩu ước tính đạt 435 triệu USD.
3.1.1.4. Dự báo nguồn nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp nhựa
Đơn vị tính: ngàn tấn
Nguyên liệu 2000 2005 2010 2015
PE 300 686 1.300 2.093
Trong đó: LDPE 70 137 130 209
LLDPE 60 206 620 837
HDPE 170 343 650 1.047
PP 300 600 1.032 1.700
PVC 160 300 530 853
PS 33 66 116 186
Màng BOPP 15 30 60 -
Chất dẻo DOP 24 48 77 107
Bảng 16: Dự báo nhu cầu sử dụng nguồn nguyên liệu cho ngành nhựa Việt Nam
3.1.2. Mục tiêu và phương hướng phát triển ngành nhựa Thành phố Hồ Chí
Minh
3.1.2.1. Quan điểm phát triển ngành công nghiệp nhựa TP Hồ Chí Minh
53
Trong bối cảnh chung, ngành nhựa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và
vùng phụ cận đã có những bước tiến vững chắc, phát huy tính năng động sáng tạo
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành nhựa, đảm bảo phục vụ đầy
đủ thị trường trong nước và hội nhập thị trường quốc tế, tiếp tục phát huy vị trí
trung tâm ngành nhựa cả nước. Quan điểm phát triển ngành công nghiệp nhựa TP
Hồ Chí Minh như sau:
- Phát triển ngành công nghiệp nhựa theo hướng hiện đại, đáp ứng các mục
tiêu phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Từng bước điều chỉnh cơ cấu đầu tư
nhằm đảm bảo tính cân đối toàn ngành.
- Phát triển phải khai thác triệt để thế mạnh về các nguồn lực. Tận dụng các
nguồn vốn trong nước và tranh thủ vốn nước ngoài để hiện đại hóa ngành.
- Phát triển công nghệ luôn gắn kết với việc phát triển năng lực nghiên cứu
triển khai và xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển ngành.
- Phát triển ngành gắn với phát triển ổn định lâu dài các ngành công nghiệp
khác và phù hợp với quy hoạch phát triển công nghiệp của cả nước theo vùng lãnh
thổ.
- Phát triển ngành nhựa gắn với việc bảo vệ môi trường và tiết kiệm các
nguồn tài nguyên, nhiên vật liệu.
3.1.2.2. Mục tiêu phát triển ngành công nghiệp nhựa Thành phố Hồ Chí
Minh
Những chỉ tiêu phát triển cơ bản của ngành nhựa Việt Nam trong thời kỳ
2005 – 2015 như sau:
* Về tổng sản lượng nhựa toàn quốc và cơ cấu sản phẩm:
Phấn đấu đưa tốc độ tăng trưởng hàng năm trong những năm tới bảo đảm
tối thiểu là 15% để sau 5 năm đạt sản lượng gấp đôi sản lượng của 5 năm trước.
Năm Sản lượng (kg)
Chỉ số chất
dẻo/người So sánh
2000 950.000 12 1996/2000 tăng hơn 2 lần
2005 2.100.000 20 2005/2000 tăng gần 2 lần
2010 4.200.000 40 2010/2005 tăng gần 2 lần
2015 8.400.000 80 2010/2015 tăng gần 2 lần
54
Bảng 17: Mục tiêu tăng trưởng sản lượng của ngành nhựa Việt Nam 2000-2015
* Về doanh thu toàn ngành:
- Năm 2005 : 3,0 tỷ USD (tương đương 45.000 tỷ đồng)
- Năm 2010 : 6,3 tỷ USD (tương đương 95.500 tỷ đồng)
- Năm 2015 : 13 tỷ USD (tương đương 200.000 tỷ đồng)
0
2
4
6
8
10
12
14
D
oa
nh
th
u
(t
ỷ
U
SD
)
1 2 3
Năm
Doanh thu (tỷ USD)
2005 2010 2015
Đồ thị 11: Dự báo doanh thu ngành nhựa từ năm 2005-2015
* Tỷ lệ sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước:
- Năm 2005 : 30% nhu cầu tức 700.000 tấn
- Năm 2010 : 50% nhu cầu tức 2.100.000 tấn
- Năm 2010 : 70% nhu cầu tức 5.800.000 tấn
3.2. NHÓM GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP NHỰA TP HỒ CHÍ
MINH NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
3.2.1. Mở rộng thị trường tiêu thụ
Ngành nhựa Việt Nam là ngành công nghiệp trẻ rất giàu tiềm năng, trong
quá trình hợp tác hội nhập quốc tế, cần có những giải pháp tối ưu để khắc phục
những hạn chế và phát huy lợi thế, tăng khả năng cạnh tranh để trở thành ngành
công nghiệp có đóng góp lớn vào phát triển kinh tế của đất nước ta trong thời gian
tới. Các chính sách và giải pháp về thị trường chủ yếu tập trung theo hướng mở
rộng thị trường tiêu thụ.
55
3.2.1.1. Đối với thị trường trong nước
Có thể xem đây là yếu tố quyết định sự thành bại đối với sự phát triển của
ngành nhựa Thành phố Hồ Chí Minh cũng như ngành nhựa cả nước nói chung.
Nếu các doanh nghiệp không nắm bắt được nhu cầu của thị trường thì không
những chúng ta không thể mở rộng ra thị trường nước ngoài mà còn có khả năng
bị hàng hóa nhựa nước ngoài xâm nhập đặc biệt khi hàng rào thuế quan được dỡ
bỏ.
Thông qua nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp mới phát hiện các chi tiết
của sản phẩm cần cải tiến, các sản phẩm nào thích hợp với nhu cầu thị trường và
xu hướng của thị trường trong thời gian tới để có thể đứng vững trong cạnh tranh
trên thị trường. Để nắm vững các thông tin về thị trường các doanh nghiệp sản
xuất nhựa tại Thành phố Hồ Chí Minh cần phải có một chương trình cụ thể cho
việc nghiên cứu thị trường. Đồng thời phải có kế hoạch đầu tư ngân sách cho việc
nghiên cứu thị trường.
- Thứ nhất, coi trọng thị trường nội địa với 80 triệu dân, với các lứa tuổi
khác nhau và nhiều vùng khác nhau. Bên cạnh việc đáp ứng các nhu cầu sử dụng
các sản phẩm nhựa của các ngành công nghiệp: giao thông vận tải, cấp thoát nước,
nông nghiệp, thủy sản, thực phẩm, mỹ phẩm, các doanh nghiệp trong khu chế xuất
– khu công nghiệp để có kế hoạch cung cấp sản phẩm hoặc đầu tư sản xuất các sản
phẩm nhựa mới cung cấp theo nhu cầu. Đặc biệt, chú trọng nâng cao chất lượng
sản phẩm với mẫu mã phong phú, hạn chế tối đa việc nhập khẩu các sản phẩm
chuyên ngành.
- Thứ hai, phải có chương trình liên kết các doanh nghiệp trong việc cũng
cố và phát triển thị trường. Chương trình này được thực hiện theo các liên kết
ngang và liên kết dọc nhằm tạo ra hệ thống cung ứng và sản xuất tối ưu, nâng cao
sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đảm bảo sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu
vào.
- Thứ ba, cần có chương trình xây dựng và quảng bá thương hiệu cho doanh
nghiệp và cho sản phẩm của doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí
Minh trên thị trường trong nước và quốc tế bằng cách tham gia trưng bày sản
phẩm hàng hóa trong “Nhà Việt Nam” ở các nước.
- Thứ tư, các doanh nghiệp cần xây dựng được chiến lược tổng thể, phát
triển theo từng giai đoạn trong đó cần phải xác định rõ thị trường cơ bản cần
chiếm lĩnh (trong và ngoài nước) và phải xác định rõ mặt hàng chủ lực trong từng
giai đoạn, tương ứng với từng thị trường (các mặt hàng chính này quyết định hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và toàn ngành).
56
3.2.1.2. Đối với thị trường xuất khẩu
- Trước tiên, duy trì và mở rộng thị trường truyền thống đồng thời không
ngừng phát triển và tìm kiếm thị trường mới ở nước ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu.
Tăng cường công tác tiếp thị, nắm bắt thông tin, tiếp cận với các bạn hàng trực
tiếp, giảm dần các khâu trung gian nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Thứ hai, cải tiến hệ thống phân phối tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu ở các thị
trường, mục tiêu ở nước ngoài. Hệ thống này phải được các doanh nghiệp nhựa
Việt Nam và các doanh nghiệp nước ngoài liên kết thực hiện với mục tiêu là phân
phối theo nhu cầu của thị trường mục tiêu, phân phối linh hoạt, tính cạnh tranh
cao, cung cấp hàng hóa đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, trong thực tế, hệ thống
này chỉ thực sự phát huy tác dụng khi nước ta trở thành thành viên của WTO.
- Thứ ba, các doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh
phải biết tận dụng các chương trình xúc tiến thương mại của nhà nước trong các
chuyến đi khảo sát thị trường, mở phòng trưng bày, website, tham quan triển lãm
hội chợ để phát triển thị trường xuất khẩu.
Đối với các nhóm sản phẩm, ngoài mục tiêu ngắn hạn là giữ vững thị phần
trong nước và thay thế nhập khẩu, còn nhằm mục đích lâu dài là cạnh tranh trên thị
trường nước ngoài. Đối với sản phẩm hiện nay đã có thị trường xuất khẩu như: Túi
siêu thị, áo mưa, bình xịt, giày dép nhựa giả da, bao bì, nhựa gia dụng, …cần củng
cố và duy trì ổn định, đồng thời quan hệ thêm với các khách hàng nước ngoài để
mở rộng thị trường tiêu thụ, bên cạnh đó cần nghiên cứu nhu cầu và thị hiếu của
thị trường nước ngoài để sản xuất sản phẩm mới đáp ứng theo yêu cầu
Ngoài ra, xây dựng các bước tiếp cận, xâm nhập và chiếm lĩnh đối với từng
thị trường. Có các giải pháp cạnh tranh (về giá cả, chất lượng, phương thức thanh
toán, chủng loại mặt hàng, …). Nâng cao sức cạnh tranh là điều kiện tiên quyết để
phát triển nhanh công nghiệp nhựa và hội nhập quốc tế có hiệu quả. Ngoài ra, cần
tăng khả năng tiếp thị, các dịch vụ hậu mãi sau bán hàng đồng thời thiết lập các
liên kết thích hợp với những tập đoàn sản xuất lớn trên thế giới.
3.2.2. Cải tiến mẫu mã và nâng cao chất lượng sản phẩm
Mẫu mã là yếu tố đập vào mắt khách hàng đầu tiên, nhất là những sản phẩm
nhựa gia dụng thì mẫu mã rất quan trọng. Hai sản phẩm giống hệt nhau về chức
năng, về chất lượng và giá cả, … thì khi mua chắc chắn khách hàng sẽ chọn sản
phẩm có mẫu mã đẹp.
57
Các doanh nghiệp nhựa Việt Nam phải thường xuyên nghiên cứu những
sản phẩm trên thị trường và thị hiếu của người tiêu dùng để có kế hoạch thay đổi
mẫu mã phù hợp.
Chất lượng của sản phẩm cũng đóng vai trò rất quan trọng cho việc thành
bại trên thị trường. Các doanh nghiệp nhựa Việt Nam cần phải có sản phẩm vừa có
chất lượng cao nhưng giá thành thấp, phế phẩm ít. Muốn được thế, các doanh
nghiệp cần phải:
- Tổ chức kiểm tra sản phẩm thường xuyên.
- Biến việc kiểm tra chất lượng sản phẩm là của mọi người chứ không phải
là của phòng kỹ thuật hoặc phòng kiểm tra chất lượng sản phẩm.
- Đào tạo cán bộ thường xuyên để theo kịp công nghệ mới.
- Mở rộng phạm vi áp dụng hệ thống tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO 9000
trong các doanh nghiệp nhựa Việt Nam.
3.2.3. Đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị sản xuất
Công nghệ thiết bị trong ngành nhựa được cập nhật tiến bộ khoa học kỹ
thuật thế giới rất nhanh, theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa
mẫu mã, tăng tính thẩm mỹ, tăng năng suất lao động, kiểm soát quy trình tự động,
giảm tiêu hao điện năng, giảm định mức tiêu hao nguyên liệu trong sản xuất, giảm
tỷ lệ phế phẩm trong sản xuất.
Bất kỳ một ngành sản xuất công nghiệp nào, trình độ công nghệ ảnh hưởng
trực tiếp tới năng suất, chất lượng, giá thành và sự phát triển của ngành. Chính vì
vậy, tất cả các nước, muốn đẩy nhanh sự phát triển của ngành công nghiệp đều
phải quan tâm hàng đầu tới việc đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản
phẩm và tăng năng suất lao động. Tốc độ đổi mới về công nghệ sản xuất của
ngành nhựa phụ thuộc rất nhiều vào việc nghiên cứu và chuyển giao công nghệ
của ngành và phụ thuộc vào các ngành công nghiệp khác như chế tạo máy, hóa
dầu, hóa chất, tự động hóa.
Các chính sách phát triển khoa học công nghệ của ngành nhựa như sau:
- Tăng chi phí cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công
nghệ của ngành nhựa bằng cách cho phép các doanh nghiệp được trích 2% doanh
thu cho công tác nghiên cứu triển khai và đầu tư bổ sung thêm trang thiết bị và
nâng cao năng lực các phòng nghiên cứu, phòng thí nghiệm gắn với sản xuất, phối
58
hợp với các cơ sở khác trong và ngoài ngành, nghiên cứu phục vụ mục tiêu phát
triển ngành
- Nên đầu tư nhiều loại công nghệ tùy thuộc vào từng nhóm sản phẩm nhựa
khác nhau:
+ Đối với sản phẩm như nhựa gia dụng do kỹ thuật sản xuất đơn giản thì
nên chọn công nghệ sử dụng nhiều lao động giúp cho ngành tiết kiệm được vốn,
tận dụng được những điều kiện sẵn có, giải quyết được lao động dư thừa của xã
hội.
+ Đối với sản phẩm kỹ thuật cao (như màng mỏng PVC, giả da PVC, vải
tráng nhựa PVC, giả da PU) đòi hỏi độ chính xác cao, chất lượng tốt nên lựa chọn
công nghệ cao vì công nghệ cao không chỉ giúp ta rút ngắn dần khoảng cách và
trình độ công nghệ của ngành với các nước tiên tiến trên thế giới mà còn giúp
ngành nhựa sản xuất được nhiều mặt hàng có chất lượng, giá trị cao đáp ứng được
yêu cầu đa dạng của các ngành kinh tế kỹ thuật khác trong nước và xuất khẩu, tạo
thế cạnh tranh.
Điều quan trọng là phải chọn đúng được công nghệ đang cần và đầu tư đón
đầu đúng hướng. Phải tận dụng, phát huy ngay được công nghệ mới đầu tư, tổ
chức tiếp thu và làm chủ được các công nghệ nhập bằng cách đào tạo mới và đạo
độ ngũ cán bộ kỹ thuật (gởi đi nước ngoài đào tạo). Để nhập công nghệ cần:
- Các doanh nghiệp cần có sự chọn lựa kỹ càng, chủ động tìm kiếm hoặc
thông qua công ty tư vấn. Chỉ nhập thiết bị mới và công nghệ với khoảng cách
không xa quá về trình độ so với công nghệ hiện đại của ngành. Tổ chức tốt các
đơn vị thẩm định, kiểm tra khi nhập công nghệ.
- Các doanh nghiệp phải tổ chức tốt đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật tiếp
thu tốt các công nghệ nhập để tổ chức sản xuất ổn định, tiến tới làm chủ được công
nghệ nhập. Có thể tự sản xuất một số phụ tùng thay thế để phát huy hết công suất
của thiết bị và khả năng của công nghệ để tạo ra sản phẩm có giá trị cao.
- Những doanh nghiệp có vốn nhiều có thể nhập thiết bị công nghệ cao để
sản xuất mặt hàng cao cấp, đồng thời lại chuyển giao các thiết bị, công nghệ hiện
tại cho một số cơ sở nhỏ để củng cố, cải tiến nâng cao thành công nghệ nội tạo ra
thị trường chuyển giao công nghệ sôi động liên tục trong toàn ngành.
- Các doanh nghiệp đặc biệt chú ý công nghệ xử lý bảo vệ môi trường. Bởi
vì vấn đề bảo vệ môi trường là một vấn đề lớn cần có sự phối hợp nhiều ngành và
tiến hành đồng bộ trên từng khu cụm công nghiệp nhựa cụ thể thông qua các chính
sách lớn của Nhà nước. Nhà Nước cần quy hoạch các đơn vị sản xuất nhựa tập
trung vào một khu vực nhằm hạn chế độc hại do sản xuất nhựa gây ra có thể ảnh
59
hưởng đến sức khỏe của mọi người, hoặc là đề ra các biện pháp buộc nhà sản xuất
phải đóng thuế rác dựa trên sản lượng sản xuất ra, phải tự bỏ chi phí để thu hồi
nhựa phế thải tái chế lại, cao hơn nữa là đưa phế liệu vào dây chuyền hóa dầu để
tái tạo các sản phẩm hóa dầu mới.
- Các doanh nghiệp cần nhanh nhạy trong việc ứng dụng những thành tựu
của thế giới về các loại vật liệu nhựa mới có khả năng tự phân hủy, các loại nhựa
sinh học, nhằm hạn chế tối đa ô nhiễm môi trường như các loại bao bì trên cơ sở
tinh bột hoặc màng từ polyninylalcol đã và đang được nghiên cứu và bước đầu
đưa vào sử dụng như túi áo đựng sản phẩm áo sơ mi may sẵn xuất qua thị trường
Nhật Bản được làm từ màng polyvinylalcol, …
- Các doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh nên liên kết, hợp
tác để đầu tư thực hiện các hoạt động nghiên cứu và phát triển nhằm tăng chất
lượng nghiên cứu, ứng dụng và giảm chi phí tránh việc nghiên cứu bị trùng lập.
Nên thành lập các dịch vụ kỹ thuật nghiên cứu – phát triển theo hình thức liên
doanh trong nước và nước ngoài tại Việt Nam, nhằm giúp các doanh nghiệp nhỏ
trong việc đổi mới và nâng cấp công nghệ.
3.2.4. Tăng cường đầu tư và vốn kinh doanh
Căn cứ trên suất đầu tư bình quân cho một tấn sản phẩm nhựa với công
nghệ hiện đại và với chỉ số chất dẻo bình quân đầu người Việt Nam vào năm 2010
là 40 kg/người (theo “Quy hoạch tổng thể phát triển ngành nhựa Việt Nam đến
2010” của Bộ Công Nghiệp) và 2015 là 80 kg/người thì đòi hỏi phải có kế hoạch
đầu tư rất lớn nhằm đạt được các mục tiêu dự báo.
Hướng chính của việc đầu tư nhằm:
- Tăng năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài. Theo danh mục các ngành
hàng ưu tiên xuất khẩu của ngành, thực hiện việc liên doanh giữa các doanh
nghiệp lớn trong nước và các công ty nước ngoài, hoặc các công ty cổ phần với sự
tham gia cổ phần không hạn chế của các công ty nước ngoài nhằm thu hút đầu tư
trực tiếp và gián tiếp, tri thức khoa học và kinh nghiệm quản lý, kinh doanh nhằm
khai thác thị trường xuất khẩu trên cơ sở công nghệ thiết bị hiện đại, quy mô vốn
lớn, tạo ra các sản phẩm có tính cạnh tranh cao trong thị trường.
- Đổi mới một cách cơ bản cơ cấu sản phẩm hiện có đi theo hướng mở rộng
cơ cấu sản phẩm phục vụ công nghiệp, xây dựng nông nghiệp và sản phẩm kỹ
thuật cao vì đây là những ngành hàng sản xuất đòi hỏi kỹ thuật và công nghệ sản
xuất phức tạp.
60
- Đầu tư thêm các doanh nghiệp mới nhằm đáp ứng nhu cầu hoặc hướng tới
một sản phẩm mới hoàn toàn nhằm thay thế hàng nhập khẩu, đồng thời nhanh
chóng tiếp nhận kỹ thuật sản xuất và công nghệ sản xuất tiên tiến để sánh vai kịp
các nước trong khu vực nhất là quá trình gia nhập của nước ta AFTA đang đến
gần.
- Các doanh nghiệp cần đầu tư vào các nhà máy hoặc máy móc thiết bị
nhằm mở rộng viêc sử dụng các chủng loại nguyên liệu khác nhau. Hiện nay
chúng ta chỉ tập trung vào sử dụng các loại nguyên liệu chính là PVC, PE, PS, PP.
Trong khi đó nguyên liệu nhựa này trên thế giới đã có vài chục loại.
Theo thống kê tổng vốn đầu tư cho phát triển ngành nhựa trong 10 năm qua
khoảng 2 tỷ USD, trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khoảng 1,3
tỷ USD, các doanh nghiệp trong nước đầu tư khoảng 0,7 tỷ USD. Riêng Tổng
Công ty Nhựa Việt Nam giai đoạn 1996 – 2000 có tổng vốn đầu tư khoảng 134 tỷ
đồng, trong đó hầu hết là vốn vay chiếm 62,2%, còn lại là vốn tự bổ sung, không
sử dụng vốn ngân sách. Thời gian qua vốn đầu tư nhằm hiện đại hóa thiết bị sản
xuất, đầu tư mới các khu công nghiệp, trong đó tỷ trọng đầu tư cho thiết bị 57%,
cho nhà xưởng khoảng 35,5%.
Trong quy hoạch phát triển ngành tới 2015 nhu cầu vốn đầu tư cho các dự
án phát triển của các chuyên ngành là rất lớn. Nhu cầu vốn đầu tư tới 2010 với
tổng vốn đầu tư: 3.854 triệu USD.
Giai đoạn
Vốn đầu tư
hiện có
(tỷ USD)
Vốn đầu tư
tăng thêm
(tỷ USD)
Tổng vốn
đầu tư cho
ngành
(tỷ USD)
Chỉ số chất dẻo
bình quân
đầu người
(kg/đầu người)
2001 - 2005 2,21 0,488 2,698 23
2005 – 2010 2,69 2,810 5,509 46
2010 - 2015 5,51 7,200 10 80
Bảng 18: Dự kiến tổng vốn đầu tư cho từng giai đoạn
Để huy động được lượng vốn rất lớn như trên nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư
đòi hỏi phải phối hợp đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau như sau:
- Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi để thu hút nhanh và sử dụng có hiệu
quả các nguồn vốn trong và ngoài nước. Ưu tiên khuyến khích các nhà đầu tư
nước ngoài và cả nhà đầu tư trong nước đầu tư vào các dự án sản xuất nguyên liệu
61
trong nước. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài bằng cách giảm thuế trong
những năm đầu của dự án một cách hợp lý nhằm thu hút đầu tư 100% vốn nước
ngoài và vốn liên doanh vào lĩnh vực sản xuất nguyên liệu cho ngành nhựa. Đây là
những bước quan trọng đầu tiên nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp nhựa Việt Nam
phát triển.
- Nhà nước phải có chính sách ưu đãi về vốn cho các dự án mang tính chiến
lược. Đối với các dự án sản xuất nguyên liệu, nhà nước cho vay vốn đầu tư dài hạn
tới 15 năm với lãi suất ưu đãi như đối với ngành cơ khí và được hưởng ân hạn 3 –
5 năm.
- Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo
cán bộ kỹ thuật cho ngành thông qua các chương trình hỗ trợ hợp tác với nước
ngoài.
Về nguồn vốn đầu tư theo chúng tôi đề nghị một số biện pháp nhằm huy
động một số nguồn như sau:
- Vốn trong nước: Dự kiến huy động trong nước 60-65%. Từ các nguồn
vốn ưu đãi đầu tư (từ ngân sách Nhà nước), vốn đóng góp của các cổ đông, vốn tự
có của doanh nghiệp, các nguồn vốn khác để đầu tư cơ sở hạ tầng, nhà xưởng và
một phần vốn lưu động tạo môi trường thu hút các nhà đầu tư nước ngoài cùng
hợp tác phát triển ngành.
- Vốn đầu tư nước ngoài: Dự kiến thu hút 35-40%, phần vốn này chủ yếu
đầu tư máy móc thiết bị. Cần tập trung cho các dự án có quy mô lớn, sản phẩm có
chất lượng cao và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Nguồn vốn ODA: Ưu tiên dành nguồn vốn này cho các dự án đầu tư cơ sở
hạ tầng để sản xuất nguyên liệu trong nước, các dự án về đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực trong ngành.
- Các nguồn vốn khác: Huy động các nguồn vốn khác cho đầu tư phát triển
ngành nhựa như vốn nhàn rỗi trong dân, vốn của các đối tác đầu tư, vốn của các
nhà đầu tư trong nước, vốn của các Việt kiều.
Ngoài ra, thu hút thêm vốn đầu tư trong nước thông qua việc đẩy mạnh cải
cách doanh nghiệp Nhà nước bằng các hình thức như cổ phần hóa, cho thuê, bán,
62
khoán để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, vốn của các thành phần kinh tế.
Tiến hành cổ phần hóa một số doanh nghiệp nhà nước nhất là đối với một số
doanh nghiệp không chiếm tỷ trọng lớn của ngành.
Giai đoạn 2005 - 2010 Giai đoạn 2010 – 2015
Nguồn vốn Tỷ trọng
(%)
Giá trị
(1.000USD)
Tỷ trọng
(%)
Giá trị
(1.000 USD)
1. Vốn cổ phần 15 421.500 15 1.080.000
2. Vốn tự có
của doanh
nghiệp
10 281.000 20 1.440.000
3. Tín dụng trả
chậm
5 140.500 5 360.000
4. Cho thuê tài
chính
25 702.500 10 720.000
5. Tín dụng
ngân hàng
10 281.000 20 1.440.000
6. Tín dụng ưu
đãi nước ngoài
5 140.500 10 720.000
7. Nguồn vốn
đầu tư trực tiếp
nước ngoài
25 702.500 15 1.080.000
8. Quỹ đầu tư
mạo hiểm
5 140.500 5 360.000
Bảng 19: Dự kiến tỷ trọng và giá trị các nguồn vốn đến 2015
3.2.5. Một số giải pháp phát triển nguồn nguyên liệu
Hiện nay ngành nhựa Việt Nam mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ
nguyên liệu phục vụ cho ngành, còn lại phải nhập khẩu của nước ngoài. Với nguồn
nguyên liệu phải nhập khẩu chiếm tới 90% thì ngành nhựa thực sự là phát triển rất
bấp bênh, không có tính bền vững, rủi ro lớn. Để thực sự trở thành một ngành kinh
tế mạnh trong nền kinh tế, ngành nhựa cần phát triển nguồn nguyên liệu cho mình.
Đây không chỉ đơn thuần cần sự nỗ lực của ngành mà cần có sự phối hợp của
63
nhiều ngành có liên quan đặc biệt là ngành dầu khí và hóa chất. Công nghiệp hóa
dầu Việt Nam đầy triển vọng trên cơ sở công nghiệp dầu khí không ngừng gia
tăng. Chính vì vậy, chiến lược sản xuất nguyên liệu nhựa tại Việt Nam là có cơ sở.
Song khả năng tài chính thực thi thì hạn chế. Đây là một thách thức đối với ngành
nhựa vì không đủ vốn đầu tư xây dựng nhà máy và một loạt các vấn đề khác như
thuế, môi trường, …
Tuy nhiên, tất cả các thách thức này có thể tạo cơ hội phát triển nhanh hơn
khi có sự hỗ trợ từ Chính phủ và liên kết sản xuất liên ngành các Tổng Công ty
Dầu khí Việt Nam, Tổng Công ty Hóa Chất Việt Nam và Tổng Công ty Nhựa Việt
Nam. Ngành nhựa Việt Nam nói chung và ngành nhựa TP Hồ Chí Minh nói riêng
cần phải xây dựng các nhà máy sản xuất nguyên liệu nhựa trong nước. Mặt khác,
phải liên kết với các công ty nước ngoài nhằm tận dụng trình độ khoa học công
nghệ, kỹ thuật sản xuất cũng như kinh nghiệm quản lý của họ.
* Cần xây dựng một số xí nghiệp sản xuất nguyên liệu:
Hiện nay, hàng năm ngành nhựa Việt Nam nhập khẩu hàng chục loại nhựa
khác nhau, nhưng chủ yếu là nhựa PVC, nhựa PP, PE, PS, nhựa Melamin, nhựa
Phenol, nhựa Acrylic, nhựa ABS, EVA, …Hóa chất như dầu DOP, TDI, MDI,
PPG, PEG, các loại dung môi hữu cơ, keo dán, mực in, chất mầu, …Các loại bán
thành phẩm như màng BOPP, OPP, …Các loại phụ gia như chất độn và các hóa
chất chuyên dùng khác. Về số lượng hàng năm gia tăng rất nhanh. Để đáp ứng
được yêu cầu trên thì phải xây dựng hàng chục nhà máy, điều này không thể thực
hiện ngay. Vì vậy, trong 10 năm từ nay đến 2015, chúng ta cần phải xây dựng các
nhà máy sản xuất một số nguyên liệu cho ngành mà tập trung chủ yếu vào 4 loại
nguyên liệu là: PVC, PE, PP và PS. Và cũng chỉ đáp ứng một phần nhu cầu trong
nước. Cụ thể tới năm 2005 phải đáp ứng được 30% nhu cầu trong nước tức là
700.000 tấn và tới 2015 đáp ứng được 70% nhu cầu tức 5.880.000 tấn
Để có những sản phẩm cho ngành nhựa, ngành hóa dầu phải đi từ hai loại
nguyên liệu chính là naphta và khí (metal, etan, LPG, …). Do đó, để sớm đáp ứng
được những nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế quốc dân trong đó có ngành nhựa thì
ngành hóa dầu nên thực hiện song song hai phương hướng phát triển trong thời
gian tới:
- Trên cơ sở khai thác khí của ngành công nghiệp hóa dầu cần phải xây
dựng các nhà máy tách khí e tan để từ đó xây dựng các nhà máy sản xuất etylen,
propylene, … là những loại nguyên liệu trong việc sản xuất các nguyên liệu như
PE, PP, PVC, ...
- Mặt khác, trên cơ sở nhu cầu bức thiết của ngành nhựa, chúng ta không
nên chờ đến khi có sản phẩm hóa dầu của Việt Nam mà nên có kế hoạch đón đầu
64
bằng cách nhập nguyên liệu trung gian để sản xuất một số nguyên liệu thiết yếu
như nhựa PVC, PE, PS, hóa dẻo DOP.
* Cần liên kết với các công ty nước ngoài:
- Nhà nước cần tạo môi trường kinh doanh và đầu tư tại Việt Nam có thể
đảm bảo được sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng cho các doanh nghiệp trong
tiến trình hội nhập khu vực và thế giới.
- Phải lôi kéo cho được sự đầu tư của các tập đoàn dầu khí đa quốc gia và
xuyên quốc gia ngành nhựa lớn trên thế giới như: Exxon Mobil, Shell, BP-Amoco,
Formosa, Dow-UCC, Petronas, …
Hiện tại, các nước trong khu vực đã thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực
sản xuất nguyên liệu nhựa như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc, …
trên cơ sở tạo ra lợi thế cạnh tranh cho đầu tư quy mô lớn, công nghệ hiện đại. Tuy
nhiên, theo thống kê của Liên đoàn nhựa các nước ASEAN, sản xuất nguyên liệu
nhựa cho nhu cầu của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương hiện nay, cung chỉ đáp
ứng được 80% cho cầu. Đây chính là cơ hội cho việc đầu tư sản xuất nguyên liệu
nhựa tại Việt Nam không chỉ nhằm đáp ứng cho nhu cầu nội địa mà cả cho xuất
khẩu.
3.2.6. Phát huy khả năng quản lý và nguồn nhân lực
* Về khả năng quản lý:
Mặc dù là ngành công nghiệp mới, non trẻ nhưng trong hơn 15 năm đổi
mới vừa qua, ngành nhựa đã có những đóng góp đáng kể vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sản phẩm của ngành đã đáp ứng được nhu cầu
sử dụng trong nước về nhựa gia dụng, vật liệu xây dựng bằng nhựa và các loại bao
bì bằng nhựa và phần nào nhựa kỹ thuật cao, nhựa phục vụ cho các ngành kinh tế
kỹ thuật khác. Quản lý Nhà nước đối với ngành đã được Chính phủ giao cho Bộ
Công nghiệp theo nghị định 74/CP ngày 1 tháng 11 năm 1996 (quyết định số
1189/QĐ-TCCB). Tổng Công ty Nhựa Việt Nam vừa có chức năng sản xuất kinh
doanh như một DNNN vừa tham mưu cho Bộ về các cơ chế, chính sách phát triển
ngành nhựa, vừa là đầu mối xây dựng chiến lược phát triển ngành. Từ khi thành
lập đến nay, Tổng Công ty đã không ngừng phát triển. Hiện tại vốn nhà nước của
Tổng Công ty đã đạt 326 tỷ đồng trên tổng số 1.676,7 tỷ đồng. Hàng năm nộp
65
ngân sách nhà nước trên 200 tỷ đồng. Mặc dù theo quyết định 58/2002/QĐ-TTG
của Thủ tướng Chính phủ thì Tổng Công ty không thuộc các ngành và lĩnh vực
nhà nước quản lý. Song đứng ở góc độ ngành kinh tế kỹ thuật do DNNN làm chủ
đạo nên chuyển Tổng Công ty hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con.
Như vậy, qua phân tích thực trạng của các doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại
TP Hồ Chí Minh, chúng tôi thấy rằng cần thực hiện một số giải pháp sau nhằm
nâng cao khả năng quản lý của các doanh nghiệp:
- Thứ nhất, tận dụng được sức mạnh tổng hợp giữa vai trò của Hiệp hội
nhựa Thành phố, Hiệp hội nhựa Việt Nam và các doanh nghiệp. Cần đẩy mạnh
hơn nữa vai trò của Hiệp hội nhựa thành những đối trọng trong việc vận động xây
dựng chính sách của ngành. Hiệp hội Nhựa gồm đại diện các doanh nghiệp có hiểu
biết toàn diện về năng lực, trình độ, hiện trạng sản xuất kinh doanh cũng như
những thách thức đối với ngành mình. Do đó nên chăng Tổng Công ty nhựa Việt
Nam và Hiệp hội sẽ đưa ra các nghiên cứu khả thi và đề xuất các chính sách hỗ
trợ, phát triển để Chính phủ đánh giá, thẩm định và phê chuẩn. Như vậy mối quan
hệ giữa Hiệp hội ngành nghề và Chính phủ giống như quan hệ giữa người đi vay
và ngân hàng.Để nhận được khoản vay dài hạn mà ở đây là chính sách có lợi cho
ngành mình. Hiệp hội nhựa phải chứng minh được thông qua nghiên cứu khả thi
tiềm năng phát triển của ngành để thuyết phục Chính phủ. Bản thân trong các
nghiên cứu, kiến nghị bảo hộ của các Hiệp hội đưa ra phải chỉ rõ yêu cầu Nhà
nước bảo hộ trong bao lâu và kết quả dự kiến đạt được khi hết giai đoạn bảo hộ ra
sao, lộ trình và chiến lược phát triển trong môi trường cạnh tranh sau khi chấm dứt
bảo hộ như thế nào v.v…
- Thứ hai, cần tổ chức lại hệ thống thống kê báo cáo tách phần thống kê
ngành nhựa thành một chuyên mục riêng, không nên để mục thống kê cao su, chất
dẻo như hiện nay làm cho việc điều tra số liệu, đánh giá hoạt động của ngành nhựa
thiếu chính xác dẫn đến việc lập kế hoạch chiến lược phát triển ngành kém tính
khả thi.
- Thứ ba, nên thành lập trung tâm đào tạo, tư vấn kỹ thuật và thông tin tiếp
thị chuyên ngành. Trung tâm này có thể trực thuộc Tổng Công ty Nhựa Việt Nam
hoặc hoạt động độc lập như một thành viên trong Hiệp hội Nhựa Việt Nam.
- Thứ tư, cần thành lập trung tâm nghiên cứu, kiểm định chất lượng sản
phẩm của ngành nhựa với trang thiết bị đầy đủ mang tính phòng thí nghiệm quốc
gia đảm bảo kiểm định được chất lượng hàng nhựa theo tiêu chuẩn quốc tế tạo
điều kiện thuận lợi cho việc hội nhập khu vực và thế giới của ngành.
- Thứ năm, xây dựng các chương trình đào tạo về quản lý nhằm đào tạo cán
bộ quản lý kế cận.
66
Về phía Chính phủ, Bộ, Ngành cần thiết lập và duy trì quan hệ tương tác
với doanh nghiệp và Hiệp hội ngành nghề một cách chặt chẽ và chủ động hơn. Vai
trò của các Bộ, Ngành trong tương lai nên tập trung vào việc tạo lập môi trường
thể chế, chính sách để hỗ trợ sản xuất kinh doanh trong nước; phối hợp với các cơ
quan nghiên cứu và căn cứ trên nghiên cứu khả thi của bản thân ngành nhựa để
nhận diện những lĩnh vực phát triển trọng tâm của ngành trong từng giai đoạn cụ
thể.
* Về nguồn nhân lực:
Đặc điểm của ngành nhựa là sử dụng ít lao động nhưng lại đòi hỏi lao động
phải có sức khỏe và có trình độ tay nghề vì hầu hết dây chuyền thiết bị sử dụng
trong sản xuất là các dây chuyền mang tính chuyên môn tự động hóa cao.
Như vậy, để nâng cao nguồn nhân lực cho ngành nhựa Việt Nam tại TP Hồ
Chí Minh đòi hỏi phải thực hiện một số giải pháp đồng bộ như sau:
- Để đáp ứng nguồn lao động cho sự phát triển của ngành cần phối hợp với
các đơn vị có chức năng đào tạo để hình thành các kế hoạch đào tạo cụ thể, đáp
ứng nhu cầu của ngành nhựa, chủ yếu trong đào tạo dài hạn, nhằm đáp ứng một
trình độ nhất định: Công nhân lành nghề, cao đẳng, đại học, chủ yếu bằng nguồn
đào tạo trong nước.
- Mặt khác, tổng Công ty nhựa cần phối hợp với các doanh nghiệp trong
ngành lập quỹ học bổng tài trợ cho các học sinh trung học học nghề, sinh viên ở
các trường Đại học làm các đề án nghiên cứu phục vụ cho ngành.
- Các doanh nghiệp có thể liên kết với các trường đại học mở các khóa đào
tạo ngắn hạn, bồi dưỡng lý thuyết nâng cao tay nghề, hoặc có thể gởi kỹ sư,
chuyên gia đi đào tạo ở nước ngoài. Cần có kế hoạch đào tạo cả 3 trình độ công
nhân, cán bộ kỹ thuật chuyên ngành (cao đẳng, đại học) với 3 loại hình triển khai
đồng thời như sau:
+ Hệ tập trung tại trường (5 năm): tuyển chọn học sinh từ các kỳ thi quốc
gia, nhằm đào tạo những kỹ sư có trình độ khoa học cơ bản, trình độ chuyên môn
về lý thuyết và thực hành giỏi, có tiềm năng tự đào tạo và bồi dưỡng để trở thành
lực lượng cán bộ KHKT nòng cốt của ngành.
+ Hệ tại chức (5 năm): tuyển chọn từ cán bộ kỹ thuật trung học, công nhân
viên chức đã tốt nghiệp phổ thông trung học và đã qua kinh nghiệm thực tế sản
xuất để đào tạo thành những kỹ sư, cán bộ kỹ thuật giỏi thực hành, có năng lực
quản lý tốt, có trình độ khoa học nhất định.
67
+ Hệ cao đẳng (3,5 năm): tuyển chọn học sinh đã tốt nghiệp phổ thông để
đào tạo thành những kỹ thuật viên có trình độ.
Bên cạnh hệ đào tạo chính quy cần hình thành Trung tâm bồi dưỡng, đào
tạo nghề trực thuộc các Hiệp hội Nhựa. Các trung tâm hoạt động với sự tài trợ của
các doanh nghiệp và có nhiệm vụ phối hợp với các đơn vị có khả năng (trường,
viện, tổng công ty, …) đồng thời các trung tâm cũng tổ chức các khóa đào tạo lại
nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ đương chức theo yêu cầu của ngành, yêu cầu
của các doanh nghiệp, chương trình luôn cập nhật kiến thức và phổ biến thông tin
mới nhất trong và ngoài nước cho các học viên.
- Về nghiên cứu: Thành lập trung tâm nghiên cứu đầu ngành. Tuyển chọn
các kỹ sư tốt nghiệp ra trường loại khá, giỏi, các kỹ sư đang công tác tại cơ sở sản
xuất có năng lực nghiên cứu đa dạng về các cơ sở nghiên cứu của ngành. Có hệ số
tiền lương cao hơn giữa các kỹ sư làm công tác nghiên cứu và công việc khác. Tổ
chức đào tạo lại, đào tạo bổ sung và nâng cao cho đội ngũ làm công tác nghiên cứu
triển khai bằng các hình thức: thực tập sinh, đào tạo chuyên đề, đào tạo thạc sỹ.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC NHẰM NÂNG
CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHỰA VIỆT
NAM
3.3.1. Hoàn thiện một số chính sách phát triển kinh tế
- Nhà nước cần phải điều chỉnh vốn đầu tư nước ngoài vào một số ngành
hợp lý mang tính kích thích phát triển sản xuất trong nước như nên đầu tư vào
những ngành mà doanh nghiệp Việt Nam chưa có khả năng đầu tư.
- Kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ, thiết bị mới cho
ngành nhựa nhằm góp phần nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp nhựa Việt Nam.
- Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ nguồn nhân lực cho doanh nghiệp
nhựa bằng cách hỗ trợ cho các trường Đại học, Cao đẳng kinh phí, điều kiện để
đào tạo cán bộ kỹ thuật, chuyên ngành nhựa, tăng lượng tuyển sinh vào Đại học
cho các ngành này. Lập thêm ngành gia công, chế biến nhựa trong các trường
trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
3.3.2. Chính sách hỗ trợ vốn nhằm đổi mới thiết bị công nghệ
68
- Nên thành lập các quỹ đầu tư phát triển hỗ trợ cho các doanh nghiệp được
vay vốn. Nhà nước nên có chính sách cho vay ưu đãi cho công tác thay đổi công
nghệ, thiết bị máy móc và nghiên cứu sản phẩm mới ở các doanh nghiệp nhựa Việt
Nam.
- Nhà nước nên xây dựng các nhà máy chế tạo thiết bị cho ngành nhựa quy
mô lớn có khả năng chế tạo các thiết bị trong nước, ứng dụng công nghệ mới để
thực hiện kiểm soát chất lượng quá trình và tăng năng suất lao động nhằm thực
hiện chưong trình nâng cấp, hiện đại hóa ngành nhựa.
- Nhà nước nên có chính sách tăng thời gian khấu hao cơ bản lên nhằm
khuyến khích đầu tư dài hạn phát triển của các doanh nghiệp nhựa đồng thời cũng
nhằm làm giảm giá thành sản phẩm góp phần tăng khả năng cạnh tranh. Kiến nghị
tăng khấu hao cơ bản lên là 12-15 năm.
- Nhà nước tăng cường quản lý sự phát triển công nghệ trên cơ sở khuyến
khích nâng cao hàm lượng công nghệ hiện có. Có bộ phận hướng dẫn doanh
nghiệp chọn lựa công nghệ mới.
- Nhà nước cần hỗ trợ cho doanh nghiệp về vốn để nghiên cứu và phát
triển.
- Tạo một mạng truyền thông tin nhanh chóng giữa nhà nước với doanh
nghiệp để các chính sách của nhà nước đến tay doanh nghiệp dễ dàng và kịp thời.
- Có chế độ khen thưởng những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, cho phá sản
những doanh nghiệp kém hiệu quả.
* Đối với sản xuất cơ khí khuôn mẫu:
- Các dự án đầu tư cho sản xuất khuôn mẫu ngành nhựa cũng cần được ưu
tiên đầu tư như đối với sản xuất nguyên liệu vì đây cũng là cơ sở hạ tầng cho
ngành nhựa. Thu hút vốn liên doanh vào lĩnh vực này.
- Sản xuất cơ khí khuôn cho ngành nhựa cần được hưởng vay vốn ưu đãi
như đối với ngành cơ khí; vay tín dụng ưu đãi với lãi suất 3% thời gian 12 năm, ân
hạn 5 năm (theo quyết định số QĐ 67/2000 Bộ Công nghiệp).
* Đối với các dự án sản xuất các sản phẩm khác:
69
- Đối với các dự án sản xuất sản phẩm tiêu dùng và phục vụ các ngành công
nghiệp khác có thể sử dụng các hình thức huy động vốn như vốn cổ phần, vốn vay
hoặc hỗ trợ từ các đối tác (vốn góp bằng hiện vật, máy móc thiết bị,…).
- Đối với các dự án sản xuất sản phẩm xuất khẩu được phép sử dụng vốn từ
Quỹ hỗ trợ phát triển và được hưởng ưu đãi đầu tư.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước vay ưu đãi đầu
tư và vay vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh.
- Điều chỉnh thời hạn vay vốn đầu tư 7-10 năm đối với các doanh nghiệp
trong ngành để có điều kiện hoàn trả vốn vay.
3.3.3. Chính sách hỗ trợ một số mặt hàng sản xuất trong nước
- Hướng doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào các ngành chủ lực bằng các
chính sách khuyến khích sản xuất như giảm thuế, giá thuê đất tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực, các ngành chủ lực như sản xuất
nguyên liệu nhựa, các sản phẩm nhựa kỹ thuật cao.
- Đánh thuế cao vào những mặt hàng nhập khẩu mà trong nước có thể sản
xuất được.
- Có chính sách kiên quyết chống những loại mặt hàng nhựa nhập lậu vào
nước ta cả về nguyên liệu nhựa.
3.3.4. Hoàn thiện chính sách quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm
- Khuyến khích các doanh nghiệp có thương hiệu, động viên doanh nghiệp
đăng ký quyền sở hữu công nghiệp và có chế độ bảo vệ quyền này cho doanh
nghiệp yên tâm hoạt động và được hoạt động một cách an toàn.
- Thực hiện biện pháp chống hàng nhái, hàng giả một cách triệt để nhằm
bảo vệ các doanh nghiệp sản xuất.
3.3.5. Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư những ngành hàng
mới
Những ngành hàng sản phẩm công nghiệp kỹ thuật cao xuất hiện ở nước ta
mới vài năm gần đây, giá thành của sản phẩm còn cao, nhà nước nên có chế độ
70
khuyến khích ưu đãi về thuế để doanh nghiệp đủ sức cạnh tranh về giá để người
tiêu dùng mua được sản phẩm dễ dàng.
- Cần có chính sách ưu tiên cho các nhà đầu tư trong nước tại các vùng cần
chuyển dịch cơ cấu phát triển ngành. Cần phải có cơ chế chính sách tạo môi
trường thuận lợi cho hình thành khu công nghiệp tập trung ngành nhựa.
- Cần gấp rút ban hành danh mục các khu vực ưu tiên đầu tư. Ban hành
danh mục những chủng loại sản phẩm khuyến khích đầu tư và những chủng loại
sản phẩm không khuyến khích đầu tư cũng như cấm đầu tư.
- Đối với các dự án lớn, cần quy định một tỷ lệ tối thiểu xuất khẩu là 20-
30% để có điều kiện tiếp cận thị trường nước ngoài và tạo ngoại tệ cho đất nước.
- Nhà nước cho phép Hiệp hội nhựa Việt Nam thành lập một tổ chức tư vấn
đầu tư, được quyền có ý kiến và tham gia vào việc xem xét các dự án có liên quan
trực tiếp đến ngành nhựa.
Những mặt hàng khuyến khích đầu tư nước ngoài:
- Sản xuất nguyên liệu cho ngành nhựa.
- Hàng nhựa kỹ thuật cao và vật liệu mới từ nhựa (vật liệu composite).
- Đầu tư xây dựng các nhà máy thu mua nhựa, xử lý nhựa phế thải. Đây là lĩnh
vực tương đối nhạy cảm đòi hỏi Nhà Nước cần phải có chính sách nhất quán giúp
các doanh nghiệp yên tâm trong quá trình đầu tư. Theo chúng tôi, Nhà Nước cần
cho phép ngay việc xây dựng các nhà máy tái chế phế liệu nhựa do hiện nay có rất
nhiều doanh nghiệp muốn đầu tư vào lĩnh vực này nhưng chưa được phép nên đã
chuyển hướng đầu tư ra nước ngoài đặc biệt trong giai đoạn hiện nay do giá dầu,
giá nguyên liêu nhựa liên tục tăng.
71
KẾT LUẬN
Ngành nhựa trên địa bàn TP Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung
trong giai đoạn sắp tới (2005-2015) đang có nhiều cơ hội để phát triển, nhưng
không ít mối đe dọa và điểm yếu cần phải vượt qua. Quá trình cạnh tranh khốc liệt
không chỉ giữa các doanh nghiệp nhựa Việt Nam với nhau mà còn phải cạnh tranh
với các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp nước ngoài cũng như hàng nhập
khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp nhựa Việt Nam phải không ngừng nâng năng lực
cạnh tranh của mình.
Trên cơ sở tổng hợp các nghiên cứu về mặt lý luận và phân tích thực trạng
của các doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh trong thời gian qua,
luận văn đã đề ra một số giải pháp cần phải thực hiện nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh. Đồng thời, tác
giả luận văn đề xuất một số kiến nghị về chính sách nhà nước nhằm tạo điều kiện
thuận lợi để thực hiện những giải pháp kiến nghị.
Ngành nhựa Việt Nam cũng rất mong được sự quan tâm của Chính phủ và
các ngành kinh tế hữu quan trong việc phát triển của ngành. Với những mục tiêu
chung của nền kinh tế Việt Nam phát triển tới năm 2015, các sản phẩm nhựa sẽ có
vai trò đóng góp xứng đáng với vị trí của mình, góp phần đưa Việt Nam trở thành
một trong những nước phát triển trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Những vấn đề nghiên cứu còn rất mới mẻ, phức tạp, trình độ hạn chế của
tác giả nên luận văn này không tránh khỏi những thiếu xót nhất định. Rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến chân thành của quý Thầy, Cô, các chuyên gia và
các bạn đọc quan tâm.
72
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lưu Trọng Bình (1994), Hàng nhựa Việt Nam đã chiếm lĩnh thị trường
nội địa nhưng cần có chiến lược phát triển, Tạp chí Thông tin kinh tế kỹ
thuật vật tư.
2. Bộ Công Nghiệp (2004), Quy họach tổng thể phát chiến ngành nhựa Việt
Nam đến năn 2010.
3. Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (2000),
Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp, NXB Chính trị quốc gia.
4. Nguyễn Quốc Chính (1994), Chất lượng sản phẩm – nhân tố chính quyết
định sự phát triển của nhựa Bình Minh, Tạp chí công nghiệp nhẹ.
5. David D. Smith, Danny R. Rubin, Bobby G. Bizzell (2000), Chiến lược và
chính sách kinh doanh, NXB TP Hồ Chí Minh.
6. PGS-TS Nguyễn Thị Liên Diệp (1998), Chiến lược và Chính sách kinh
doanh, NXB Thống kê.
7. Lê Quang Doãn (1993), Vài nét về việc cung cấp nguyên liệu cho ngành
nhựa, Tạp chí công nghiệp nhẹ.
8. Don Taylor, Jeanne Smalling Archer (2004), Để cạnh tranh với những
người khổng lồ, NXB Thống kê.
9. Fred R. David (2003), Khái luận về quản trị chiến lược, NXB Thống kê.
10. Hiệp hội nhựa TP Hồ Chí Minh (2004), Quá trình phát triển – Bài học
kinh nghiệm 1998 – 2002.
11. Hiệp hội nhựa Việt Nam (2000), Chiến lược phát triển ngành nhựa Việt
Nam đến năm 2010.
12. Hiệp hội nhựa Việt Nam (2003, 2004), Chất dẻo Việt Nam.
13. TS Nguyễn Mạnh Hùng (2003), Kinh tế xã hội Việt Nam 2002, Kế hoạch
2003 – Tăng trưởng và hội nhập, NXB Thống kê.
73
14. TS Nguyễn Hữu Lam (1998), Quản trị chiến lược phát triển vị thế cạnh
tranh, NXB Thống kê.
15. Michael E. Porter (1996), Chiến lược cạnh tranh, NXB Khoa học và kỹ
thuật.
16. Michael Hammer và James Champy (2002), Tái lập công ty, NXB TP Hồ
Chí Minh.
17. Sở Công Nghiệp TP Hồ Chí Minh (2004), Chương trình mục tiêu phát
triển ngành nhựa – cao su TP Hồ Chí Minh giai đoạn 2001-2005.
18. Từ Quang Thạch (1993), Đầu tư phát triển qui mô lớn sản phẩm bao PP
phục vụ công nghiệp ximăng và xuất khẩu gạo, Tạp chí công nghiệp nhẹ.
19. Tôn Thất Nguyễn Thiêm (2004), Thị trường, chiến lược, cơ cấu: Cạnh
tranh về giá trị gia tăng, định vị và phát triển doanh nghiệp, NXB TP Hồ
Chí Minh.
20. GS-TS Nguyễn Văn Thường (2005), GS-TS Nguyễn Kế Tuấn (2005), Kinh
tế Việt Nam năm 2004 –Những vấn đề nổi bật, NXB Lý luận chính trị.
21. GS-TS Nguyễn Văn Thường (2004), Một số vấn đề kinh tế - xã hội Việt
Nam thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia.
22. Tổng Cục Thống Kê (2003), Niên giám thống kê.
23. Viện Nghiên Cứu Quản Lý Kinh Tế TW (2004), Nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia, NXB Giao thông vận tải.
74
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhựa việt nam tại thành phố hồ chí minh.pdf