Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh

Nó đã nhanh chóng được đưa vào ứng dụng nhằm thay thế dần các vật liệu truyền thống như kim loại, thủy tinh, gỗ, giấy, vải, da Nhờ có các đặc tính ưu việt về độ bền, nhẹ, các sản phẩm nhựa đã từng bước xâm nhập vào tất cả các lĩnh vực cuộc sống. Ngày nay, thật khó có thể hình dung sự thiếu vắng của các vật dụng bằng nhựa trong tiện nghi đời sống con người. Một nghiên cứu đã được tiến hành cho thấy 70% vật dụng con người sử dụng đều có xuất xứ từ nhựa. Ở nước ta, ngành công nghiệp nhựa là ngành công nghiệp non trẻ, mới thực sự phát triển từ khi nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Trong suốt 10 năm sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất (1975) ngành nhựa Việt Nam không phát triển. Nếu năm 1975 là năm đầu tiên sau khi thống nhất sản lượng của ngành nhựa đạt 50 ngàn tấn/năm thì 14 năm sau đó (1989) sản lượng của ngành cũng chỉ đạt 50 ngàn tấn. Ngành công nghiệp nhựa thựa sự khởi sắc và có tốc độ tăng trưởng cao trong 10 năm cuối cùng của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI. Tốc độ tăng trưởng luôn đạt 25 đến 30%/năm. Mặt khác, Việt Nam đã gia nhập AFTA, để có thể cạnh tranh nổi với các nước trong khu vực và thế giới, đòi hỏi ngành nhựa Việt Nam phải có những bước tiến mới cả về sản phẩm, công nghệ, trình độ cán bộ công nhân viên của ngành, về giá cả sản phẩm, hình thức tiêu thụ, Vì lý do trên mà chúng tôi đã chọn đề tài “MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHỰA VIỆT NAM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH” làm đề tài nghiên cứu của mình. Mục đích chính của luận văn là phân tích, đánh giá thực trạng của các doanh nghiệp nhựa Việt Nam và kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhựa Việt Nam trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, làm cơ sở cho các doanh nghiệp và Nhà nuớc định hướng chiến lược phát triển cho các doanh nghiệp nhựa tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cho cả ngành nhựa Việt Nam nói chung. Sự phân bố sản xuất của ngành nhựa tại Việt Nam bao gồm khoảng 75% tập trung tại Thành phố Hồ Chí Minh do đó đề tài này chỉ xin đề cập đến hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp nhựa Việt Nam đóng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu dựa trên các kiến thức của các môn học kinh tế đặc biệt là chuyên ngành Quản Trị Kinh Doanh, dựa trên số liệu thống kê, báo cáo của Hiệp hội nhựa ở Thành phố Hồ Chí Minh và những dự báo tình hình nhu cầu về sản phẩm nhựa trong những năm tới. Nội dung chính của luận văn sẽ bao gồm ba chương như sau: - Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và chiến lược cạnh tranh - Chương 2: Phân tích và đánh giá thực trạng của doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh - Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh

pdf74 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2936 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giải khát có gas, nước trái cây bổ dưỡng hiện còn rất ít, khoảng 20 triệu lít/năm, nước ngọt có gas và không gas khoảng 450 triệu lít/năm cũng sẽ có mức tăng trưởng từ 12% - 18%/năm. Dự tính đến năm 2005 mức tiêu thụ nước quả trên thị trường nội địa sẽ đạt 120 triệu lít/năm. - Đối với ngành dầu ăn: Hiện nay mức sử dụng dầu ăn của Việt Nam mới đạt trên dưới 3kg/người (200.000 tấn/năm). Dự kiến trong 10 năm tới mức tiêu thụ dầu ăn sẽ tăng gấp 4 lần so với hiện nay. Các loại chai nhựa đựng thực phẩm (thay thế chai thủy tinh) đã bước đầu thâm nhập thị trường và phát triển vững chắc như các ngành nước mắm, rượu cồn, magi, tương ớt, tương cà, các loại gia vị, …hàng năm cũng sử dụng không dưới 50 triệu chai nhựa các loại. - Đối với các loại thuốc bảo vệ thực vật: Trong 5 năm gần đây, ở Việt Nam đã đẩy mạnh xu hướng thay thế chai thủy tinh bằng chai nhựa nhằm giảm thiểu ô nhiễm và tai nạn trong canh tác nông nghiệp. Với 40.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật 49 được dùng trên đồng ruộng hàng năm, số lượng thuốc nước cần dùng là khoảng 26.000 tấn thì lượng bao bì nhựa dùng hàng năm không dưới 10.000 tấn. - Đối với ngành mỹ phẩm và chất tẩy rửa: Hiện nay lượng bao bì nhựa dùng cho nhu cầu này khoảng 30.000 tấn đã tăng đáng kể trong những năm vừa qua và mức độ tăng trong 10 năm tới không dưới 20%/năm do mức sống được tăng cao thì nhu cầu làm đẹp và sạch cũng sẽ tăng tương ứng. - Đối với ngành dược phẩm: Hiện nay, bao bì dược rất đa dạng và phong phú, ngoài loại bao bì võ nang cứng, nang mềm, tá dược, … thì loại bao bì chai lọ nhựa bao bì mềm để đựng thuốc viên và nước là một nhu cầu lớn với hàng trăm loại mẫu mã và kích cỡ khác nhau. 5 năm qua mức tiêu thụ dùng thuốc đạt tăng trưởng khoảng 20% - 25%, năm 2005 mức bình quân này sẽ tăng lên gấp đôi và sau 2005 mức tăng trưởng là 25%/năm. - Đối với ngành công nghiệp sản xuất thuốc lá: Đến năm 2005, sản lượng thuốc lá đạt 3 tỷ bao và đến năm 2010 đạt 3,2 tỷ bao. Trong đó, sản lượng thuốc lá đầu lọc chiếm tỷ trọng trên 98% sản lượng chung, tỷ trọng thuốc lá đầu lọc bao cứng chiếm 90% sản lượng đầu lọc. Nhu cầu BOPP cho ngành thuốc lá ước tính là 1.500 tấn/năm (nguồn Mitsu Việt Nam). Quy hoạch phát triển của một số ngành kinh tế xã hội là khách hàng chính của ngành bao bì nhựa. Đơn vị tính: tấn Sản phẩm 2005 Tốc độ dự kiến phát triển (%/năm) 2010 Tốc độ dự kiến phát triển (%/năm) 2015 Bao bì đơn lớp và đa lớp 310.000 15 650.000 10 1.046.000 Bao dệt PP 180.000 9,2 280.000 20 700.000 Bao bì rỗng 250.000 18,3 580.000 15 1.234.000 Các loại két nhựa 40.000 11,8 70.000 10 120.000 Tổng cộng 780.000 15,2 1.580.000 3.100.000 Bảng 14: Dự báo nhu cầu bao bì nhựa giai đoạn tới năm 2005 - 2015 50 20 320 620 920 1220 1520 1820 T ổn g sả n lư ợn g (n gà n tấ n) 1 2 3 Năm Các loại két nhựa Bao bì rỗng Bao dệt PP Bao bì đơn lớp và đa lớp 2005 2010 2015 Đồ thị 10: Dự báo nhu cầu bao bì nhựa giai đoạn tới năm 2005 và 2015 d/ Sản phẩm nhựa kỹ thuật cao: - Sản phẩm cho ngành công nghiệp chế tạo ô tô, xe máy: Ngoài việc tiếp tục sản xuất yên xe máy, thỏa mãn nhu cầu lắp ráp xe máy như thời gian qua, trong giai đoạn tới có khả năng bước đầu cung cấp nệm cho công đoạn sản xuất ghế ô tô lắp ráp trong nước. Các chi tiết khác của xe ô tô sẽ ở mức nghiên cứu hoặc sản xuất thử. Mức độ phát triển của sản phẩm này không cao, khoảng 10% - 15%/năm. - Sản phẩm nhựa composite: Vật liệu composite đã phát triển trên thế giới vài chục năm nay và ngày càng có nhiều ứng dụng rộng rãi. Ở Việt Nam, ngành composite chỉ dưới 10 tuổi, còn non trẻ cả về kỹ thuật và ứng dụng. Hiện nay, mức tiêu thụ composite ở Việt Nam dự kiến là 5.000 tấn/năm. - Màng mỏng và giả da: + Màng mỏng: Tiềm năng tiêu thụ màng mỏng ở nội địa và xuất khẩu trong vài năm tới còn tăng, khoảng 16%, sản lượng tăng này tập trung vào các sản phẩm chất lượng cao cấp như: màng trong suốt, màng siêu mỏng, màng thổi khí, màng khổ rộng cho sản xuất muối ăn, nuôi trồng thủy sản. + Giả da: Sản lượng tiêu thụ giả da ở thị trường nội địa tăng đều qua các năm với tỷ lệ khoảng 20%/năm. Theo số liệu nhập khẩu và sản xuất giả da, ta thấy hiện nay đây là mặt hàng có nhu cầu khá cao trên thị trường để gia công hàng xuất khẩu, tuy nhiên các nhà sản xuất trong nước lại chưa nắm bắt được. Theo đà phát 51 triển, do chính sách đẩy mạnh xuất khẩu và tăng hàm lượng nguyên vật liệu sản xuất trong nước, nếu có sự liên kết và phối hợp chặt chẽ giữa nhà sản xuất và các đơn vị gia công hàng gia dụng xuất khẩu đặc biệt là ngành da giày thì tốc độ tăng trưởng mặt hàng này trong sản xuất và tiêu thụ có thể tăng trưởng cao hơn nữa. Vì giả da phục vụ cho ngành da giày là chính, định hướng phát triển cho ngành giả da phải căn cứ vào sự phát triển của ngành gia dày. Theo báo cáo quy hoạch phát triển ngành da giày Việt Nam đến năm 2010, dự kiến trong giai đoạn 2005 – 2010 mức tăng trưởng của sản phẩm giả da khoảng 22%/năm. 3.1.1.3. Dự báo về tình hình ngành nhựa trong nước Chủ yếu là sản phẩm nhựa gia dụng và bao bì nhựa, dự đoán nhu cầu thị trường xuất khẩu như sau: a/ Nhựa gia dụng: Đối với các sản phẩm gia dụng cũng còn nhiều tiềm năng, không chỉ nhắm vào các nước chậm phát triển ở lân cận như Lào, Campuchia mà còn cần được quan tâm đẩy mạnh tiếp thị ở các quốc gia công nghiệp như các nước Âu Châu, Bắc Mỹ, Nga, Nhật, … do khả năng cạnh tranh về chi phí lao động sản xuất ở Việt Nam còn thấp. Cơ cấu các mặt hàng nhựa gia dụng xuất khẩu tập trung vào hai loại là đồ nhựa gia dụng và giày dép nhựa. Kim ngạch xuất khẩu của sản phẩm nhựa gia dụng trong năm 2000 đạt 140 triệu USD, dự đoán xuất khẩu sản phẩm nhựa gia dụng trong những năm tới như sau: Đơn vị tính: triệu USD Sản phẩm nhựa gia dụng xuất khẩu Năm 2000 Tốc độ tăng trưởng Năm 2010 Tốc độ tăng trưởng Năm 2015 Đồ nhựa gia dụng 100 310 500 Dày dép nhựa 40 125 264 Tổng cộng 140 11,5%/năm 435 10%/năm 764 Bảng 15: Dự đoán kim ngạch xuất khẩu nhựa gia dụng đến năm 2010 - 2015 Xét về sản phẩm tiêu dùng có sử dụng chi tiết nhựa, ngoài sản phẩm nhựa gia dụng được dùng trực tiếp còn cần kể tới các sản phẩm tiêu dùng có kết cấu 52 gồm một phần là các chi tiết nhựa. Đối với các loại sản phẩm này thì hiện nay có xu hướng gia tăng đáng kể nhu cầu các sản phẩm tiêu dùng có các chi tiết phụ tùng bằng nhựa như đồ dùng điện, điện tử gia dụng (TV, cassette, máy giặt, quạt điện, …) xe gắn máy, ô tô, …(mà trong phân loại được xếp vào nhóm các sản phẩm nhựa phục vụ các ngành công nghiệp khác), theo dự đoán tỉ lệ tăng trưởng của nhóm sản phẩm nhựa phục vụ ngành công nghiệp này sẽ gia tăng nhanh từ 18% - 20%/năm trong thập niên tới. b/ Bao bì nhựa Theo chủ trương của Nhà nước, nền kinh tế nước ta trong thời gian tới hướng vào xuất khẩu nên khả năng xuất khẩu gián tiếp của bao bì nhựa rất là lớn. Hiện nay, các nước phát triển đang bỏ dần các công nghệ làm bao bì nhựa do không có hiệu quả kinh tế cao tại các nước này. Chính điều này đã mở ra một tiềm năng lớn xuất khẩu trực tiếp bao bì nhựa. Trong nhóm mặt hàng bao bì nhựa thì bao bì mềm đơn lớp, đa lớp và bao dệt PP có khả năng xuất khẩu cao do có đặc điểm không cồng kềnh khi vận chuyển so với bao bì rỗng và két nhựa. Mục tiêu đến năm 2010, ngành bao bì nhựa xuất khẩu ước tính đạt 435 triệu USD. 3.1.1.4. Dự báo nguồn nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp nhựa Đơn vị tính: ngàn tấn Nguyên liệu 2000 2005 2010 2015 PE 300 686 1.300 2.093 Trong đó: LDPE 70 137 130 209 LLDPE 60 206 620 837 HDPE 170 343 650 1.047 PP 300 600 1.032 1.700 PVC 160 300 530 853 PS 33 66 116 186 Màng BOPP 15 30 60 - Chất dẻo DOP 24 48 77 107 Bảng 16: Dự báo nhu cầu sử dụng nguồn nguyên liệu cho ngành nhựa Việt Nam 3.1.2. Mục tiêu và phương hướng phát triển ngành nhựa Thành phố Hồ Chí Minh 3.1.2.1. Quan điểm phát triển ngành công nghiệp nhựa TP Hồ Chí Minh 53 Trong bối cảnh chung, ngành nhựa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và vùng phụ cận đã có những bước tiến vững chắc, phát huy tính năng động sáng tạo trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành nhựa, đảm bảo phục vụ đầy đủ thị trường trong nước và hội nhập thị trường quốc tế, tiếp tục phát huy vị trí trung tâm ngành nhựa cả nước. Quan điểm phát triển ngành công nghiệp nhựa TP Hồ Chí Minh như sau: - Phát triển ngành công nghiệp nhựa theo hướng hiện đại, đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Từng bước điều chỉnh cơ cấu đầu tư nhằm đảm bảo tính cân đối toàn ngành. - Phát triển phải khai thác triệt để thế mạnh về các nguồn lực. Tận dụng các nguồn vốn trong nước và tranh thủ vốn nước ngoài để hiện đại hóa ngành. - Phát triển công nghệ luôn gắn kết với việc phát triển năng lực nghiên cứu triển khai và xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển ngành. - Phát triển ngành gắn với phát triển ổn định lâu dài các ngành công nghiệp khác và phù hợp với quy hoạch phát triển công nghiệp của cả nước theo vùng lãnh thổ. - Phát triển ngành nhựa gắn với việc bảo vệ môi trường và tiết kiệm các nguồn tài nguyên, nhiên vật liệu. 3.1.2.2. Mục tiêu phát triển ngành công nghiệp nhựa Thành phố Hồ Chí Minh Những chỉ tiêu phát triển cơ bản của ngành nhựa Việt Nam trong thời kỳ 2005 – 2015 như sau: * Về tổng sản lượng nhựa toàn quốc và cơ cấu sản phẩm: Phấn đấu đưa tốc độ tăng trưởng hàng năm trong những năm tới bảo đảm tối thiểu là 15% để sau 5 năm đạt sản lượng gấp đôi sản lượng của 5 năm trước. Năm Sản lượng (kg) Chỉ số chất dẻo/người So sánh 2000 950.000 12 1996/2000 tăng hơn 2 lần 2005 2.100.000 20 2005/2000 tăng gần 2 lần 2010 4.200.000 40 2010/2005 tăng gần 2 lần 2015 8.400.000 80 2010/2015 tăng gần 2 lần 54 Bảng 17: Mục tiêu tăng trưởng sản lượng của ngành nhựa Việt Nam 2000-2015 * Về doanh thu toàn ngành: - Năm 2005 : 3,0 tỷ USD (tương đương 45.000 tỷ đồng) - Năm 2010 : 6,3 tỷ USD (tương đương 95.500 tỷ đồng) - Năm 2015 : 13 tỷ USD (tương đương 200.000 tỷ đồng) 0 2 4 6 8 10 12 14 D oa nh th u (t ỷ U SD ) 1 2 3 Năm Doanh thu (tỷ USD) 2005 2010 2015 Đồ thị 11: Dự báo doanh thu ngành nhựa từ năm 2005-2015 * Tỷ lệ sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước: - Năm 2005 : 30% nhu cầu tức 700.000 tấn - Năm 2010 : 50% nhu cầu tức 2.100.000 tấn - Năm 2010 : 70% nhu cầu tức 5.800.000 tấn 3.2. NHÓM GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP NHỰA TP HỒ CHÍ MINH NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH 3.2.1. Mở rộng thị trường tiêu thụ Ngành nhựa Việt Nam là ngành công nghiệp trẻ rất giàu tiềm năng, trong quá trình hợp tác hội nhập quốc tế, cần có những giải pháp tối ưu để khắc phục những hạn chế và phát huy lợi thế, tăng khả năng cạnh tranh để trở thành ngành công nghiệp có đóng góp lớn vào phát triển kinh tế của đất nước ta trong thời gian tới. Các chính sách và giải pháp về thị trường chủ yếu tập trung theo hướng mở rộng thị trường tiêu thụ. 55 3.2.1.1. Đối với thị trường trong nước Có thể xem đây là yếu tố quyết định sự thành bại đối với sự phát triển của ngành nhựa Thành phố Hồ Chí Minh cũng như ngành nhựa cả nước nói chung. Nếu các doanh nghiệp không nắm bắt được nhu cầu của thị trường thì không những chúng ta không thể mở rộng ra thị trường nước ngoài mà còn có khả năng bị hàng hóa nhựa nước ngoài xâm nhập đặc biệt khi hàng rào thuế quan được dỡ bỏ. Thông qua nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp mới phát hiện các chi tiết của sản phẩm cần cải tiến, các sản phẩm nào thích hợp với nhu cầu thị trường và xu hướng của thị trường trong thời gian tới để có thể đứng vững trong cạnh tranh trên thị trường. Để nắm vững các thông tin về thị trường các doanh nghiệp sản xuất nhựa tại Thành phố Hồ Chí Minh cần phải có một chương trình cụ thể cho việc nghiên cứu thị trường. Đồng thời phải có kế hoạch đầu tư ngân sách cho việc nghiên cứu thị trường. - Thứ nhất, coi trọng thị trường nội địa với 80 triệu dân, với các lứa tuổi khác nhau và nhiều vùng khác nhau. Bên cạnh việc đáp ứng các nhu cầu sử dụng các sản phẩm nhựa của các ngành công nghiệp: giao thông vận tải, cấp thoát nước, nông nghiệp, thủy sản, thực phẩm, mỹ phẩm, các doanh nghiệp trong khu chế xuất – khu công nghiệp để có kế hoạch cung cấp sản phẩm hoặc đầu tư sản xuất các sản phẩm nhựa mới cung cấp theo nhu cầu. Đặc biệt, chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm với mẫu mã phong phú, hạn chế tối đa việc nhập khẩu các sản phẩm chuyên ngành. - Thứ hai, phải có chương trình liên kết các doanh nghiệp trong việc cũng cố và phát triển thị trường. Chương trình này được thực hiện theo các liên kết ngang và liên kết dọc nhằm tạo ra hệ thống cung ứng và sản xuất tối ưu, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đảm bảo sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu vào. - Thứ ba, cần có chương trình xây dựng và quảng bá thương hiệu cho doanh nghiệp và cho sản phẩm của doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh trên thị trường trong nước và quốc tế bằng cách tham gia trưng bày sản phẩm hàng hóa trong “Nhà Việt Nam” ở các nước. - Thứ tư, các doanh nghiệp cần xây dựng được chiến lược tổng thể, phát triển theo từng giai đoạn trong đó cần phải xác định rõ thị trường cơ bản cần chiếm lĩnh (trong và ngoài nước) và phải xác định rõ mặt hàng chủ lực trong từng giai đoạn, tương ứng với từng thị trường (các mặt hàng chính này quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và toàn ngành). 56 3.2.1.2. Đối với thị trường xuất khẩu - Trước tiên, duy trì và mở rộng thị trường truyền thống đồng thời không ngừng phát triển và tìm kiếm thị trường mới ở nước ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu. Tăng cường công tác tiếp thị, nắm bắt thông tin, tiếp cận với các bạn hàng trực tiếp, giảm dần các khâu trung gian nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Thứ hai, cải tiến hệ thống phân phối tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu ở các thị trường, mục tiêu ở nước ngoài. Hệ thống này phải được các doanh nghiệp nhựa Việt Nam và các doanh nghiệp nước ngoài liên kết thực hiện với mục tiêu là phân phối theo nhu cầu của thị trường mục tiêu, phân phối linh hoạt, tính cạnh tranh cao, cung cấp hàng hóa đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, trong thực tế, hệ thống này chỉ thực sự phát huy tác dụng khi nước ta trở thành thành viên của WTO. - Thứ ba, các doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh phải biết tận dụng các chương trình xúc tiến thương mại của nhà nước trong các chuyến đi khảo sát thị trường, mở phòng trưng bày, website, tham quan triển lãm hội chợ để phát triển thị trường xuất khẩu. Đối với các nhóm sản phẩm, ngoài mục tiêu ngắn hạn là giữ vững thị phần trong nước và thay thế nhập khẩu, còn nhằm mục đích lâu dài là cạnh tranh trên thị trường nước ngoài. Đối với sản phẩm hiện nay đã có thị trường xuất khẩu như: Túi siêu thị, áo mưa, bình xịt, giày dép nhựa giả da, bao bì, nhựa gia dụng, …cần củng cố và duy trì ổn định, đồng thời quan hệ thêm với các khách hàng nước ngoài để mở rộng thị trường tiêu thụ, bên cạnh đó cần nghiên cứu nhu cầu và thị hiếu của thị trường nước ngoài để sản xuất sản phẩm mới đáp ứng theo yêu cầu Ngoài ra, xây dựng các bước tiếp cận, xâm nhập và chiếm lĩnh đối với từng thị trường. Có các giải pháp cạnh tranh (về giá cả, chất lượng, phương thức thanh toán, chủng loại mặt hàng, …). Nâng cao sức cạnh tranh là điều kiện tiên quyết để phát triển nhanh công nghiệp nhựa và hội nhập quốc tế có hiệu quả. Ngoài ra, cần tăng khả năng tiếp thị, các dịch vụ hậu mãi sau bán hàng đồng thời thiết lập các liên kết thích hợp với những tập đoàn sản xuất lớn trên thế giới. 3.2.2. Cải tiến mẫu mã và nâng cao chất lượng sản phẩm Mẫu mã là yếu tố đập vào mắt khách hàng đầu tiên, nhất là những sản phẩm nhựa gia dụng thì mẫu mã rất quan trọng. Hai sản phẩm giống hệt nhau về chức năng, về chất lượng và giá cả, … thì khi mua chắc chắn khách hàng sẽ chọn sản phẩm có mẫu mã đẹp. 57 Các doanh nghiệp nhựa Việt Nam phải thường xuyên nghiên cứu những sản phẩm trên thị trường và thị hiếu của người tiêu dùng để có kế hoạch thay đổi mẫu mã phù hợp. Chất lượng của sản phẩm cũng đóng vai trò rất quan trọng cho việc thành bại trên thị trường. Các doanh nghiệp nhựa Việt Nam cần phải có sản phẩm vừa có chất lượng cao nhưng giá thành thấp, phế phẩm ít. Muốn được thế, các doanh nghiệp cần phải: - Tổ chức kiểm tra sản phẩm thường xuyên. - Biến việc kiểm tra chất lượng sản phẩm là của mọi người chứ không phải là của phòng kỹ thuật hoặc phòng kiểm tra chất lượng sản phẩm. - Đào tạo cán bộ thường xuyên để theo kịp công nghệ mới. - Mở rộng phạm vi áp dụng hệ thống tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO 9000 trong các doanh nghiệp nhựa Việt Nam. 3.2.3. Đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị sản xuất Công nghệ thiết bị trong ngành nhựa được cập nhật tiến bộ khoa học kỹ thuật thế giới rất nhanh, theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa mẫu mã, tăng tính thẩm mỹ, tăng năng suất lao động, kiểm soát quy trình tự động, giảm tiêu hao điện năng, giảm định mức tiêu hao nguyên liệu trong sản xuất, giảm tỷ lệ phế phẩm trong sản xuất. Bất kỳ một ngành sản xuất công nghiệp nào, trình độ công nghệ ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, chất lượng, giá thành và sự phát triển của ngành. Chính vì vậy, tất cả các nước, muốn đẩy nhanh sự phát triển của ngành công nghiệp đều phải quan tâm hàng đầu tới việc đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng năng suất lao động. Tốc độ đổi mới về công nghệ sản xuất của ngành nhựa phụ thuộc rất nhiều vào việc nghiên cứu và chuyển giao công nghệ của ngành và phụ thuộc vào các ngành công nghiệp khác như chế tạo máy, hóa dầu, hóa chất, tự động hóa. Các chính sách phát triển khoa học công nghệ của ngành nhựa như sau: - Tăng chi phí cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của ngành nhựa bằng cách cho phép các doanh nghiệp được trích 2% doanh thu cho công tác nghiên cứu triển khai và đầu tư bổ sung thêm trang thiết bị và nâng cao năng lực các phòng nghiên cứu, phòng thí nghiệm gắn với sản xuất, phối 58 hợp với các cơ sở khác trong và ngoài ngành, nghiên cứu phục vụ mục tiêu phát triển ngành - Nên đầu tư nhiều loại công nghệ tùy thuộc vào từng nhóm sản phẩm nhựa khác nhau: + Đối với sản phẩm như nhựa gia dụng do kỹ thuật sản xuất đơn giản thì nên chọn công nghệ sử dụng nhiều lao động giúp cho ngành tiết kiệm được vốn, tận dụng được những điều kiện sẵn có, giải quyết được lao động dư thừa của xã hội. + Đối với sản phẩm kỹ thuật cao (như màng mỏng PVC, giả da PVC, vải tráng nhựa PVC, giả da PU) đòi hỏi độ chính xác cao, chất lượng tốt nên lựa chọn công nghệ cao vì công nghệ cao không chỉ giúp ta rút ngắn dần khoảng cách và trình độ công nghệ của ngành với các nước tiên tiến trên thế giới mà còn giúp ngành nhựa sản xuất được nhiều mặt hàng có chất lượng, giá trị cao đáp ứng được yêu cầu đa dạng của các ngành kinh tế kỹ thuật khác trong nước và xuất khẩu, tạo thế cạnh tranh. Điều quan trọng là phải chọn đúng được công nghệ đang cần và đầu tư đón đầu đúng hướng. Phải tận dụng, phát huy ngay được công nghệ mới đầu tư, tổ chức tiếp thu và làm chủ được các công nghệ nhập bằng cách đào tạo mới và đạo độ ngũ cán bộ kỹ thuật (gởi đi nước ngoài đào tạo). Để nhập công nghệ cần: - Các doanh nghiệp cần có sự chọn lựa kỹ càng, chủ động tìm kiếm hoặc thông qua công ty tư vấn. Chỉ nhập thiết bị mới và công nghệ với khoảng cách không xa quá về trình độ so với công nghệ hiện đại của ngành. Tổ chức tốt các đơn vị thẩm định, kiểm tra khi nhập công nghệ. - Các doanh nghiệp phải tổ chức tốt đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật tiếp thu tốt các công nghệ nhập để tổ chức sản xuất ổn định, tiến tới làm chủ được công nghệ nhập. Có thể tự sản xuất một số phụ tùng thay thế để phát huy hết công suất của thiết bị và khả năng của công nghệ để tạo ra sản phẩm có giá trị cao. - Những doanh nghiệp có vốn nhiều có thể nhập thiết bị công nghệ cao để sản xuất mặt hàng cao cấp, đồng thời lại chuyển giao các thiết bị, công nghệ hiện tại cho một số cơ sở nhỏ để củng cố, cải tiến nâng cao thành công nghệ nội tạo ra thị trường chuyển giao công nghệ sôi động liên tục trong toàn ngành. - Các doanh nghiệp đặc biệt chú ý công nghệ xử lý bảo vệ môi trường. Bởi vì vấn đề bảo vệ môi trường là một vấn đề lớn cần có sự phối hợp nhiều ngành và tiến hành đồng bộ trên từng khu cụm công nghiệp nhựa cụ thể thông qua các chính sách lớn của Nhà nước. Nhà Nước cần quy hoạch các đơn vị sản xuất nhựa tập trung vào một khu vực nhằm hạn chế độc hại do sản xuất nhựa gây ra có thể ảnh 59 hưởng đến sức khỏe của mọi người, hoặc là đề ra các biện pháp buộc nhà sản xuất phải đóng thuế rác dựa trên sản lượng sản xuất ra, phải tự bỏ chi phí để thu hồi nhựa phế thải tái chế lại, cao hơn nữa là đưa phế liệu vào dây chuyền hóa dầu để tái tạo các sản phẩm hóa dầu mới. - Các doanh nghiệp cần nhanh nhạy trong việc ứng dụng những thành tựu của thế giới về các loại vật liệu nhựa mới có khả năng tự phân hủy, các loại nhựa sinh học, nhằm hạn chế tối đa ô nhiễm môi trường như các loại bao bì trên cơ sở tinh bột hoặc màng từ polyninylalcol đã và đang được nghiên cứu và bước đầu đưa vào sử dụng như túi áo đựng sản phẩm áo sơ mi may sẵn xuất qua thị trường Nhật Bản được làm từ màng polyvinylalcol, … - Các doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh nên liên kết, hợp tác để đầu tư thực hiện các hoạt động nghiên cứu và phát triển nhằm tăng chất lượng nghiên cứu, ứng dụng và giảm chi phí tránh việc nghiên cứu bị trùng lập. Nên thành lập các dịch vụ kỹ thuật nghiên cứu – phát triển theo hình thức liên doanh trong nước và nước ngoài tại Việt Nam, nhằm giúp các doanh nghiệp nhỏ trong việc đổi mới và nâng cấp công nghệ. 3.2.4. Tăng cường đầu tư và vốn kinh doanh Căn cứ trên suất đầu tư bình quân cho một tấn sản phẩm nhựa với công nghệ hiện đại và với chỉ số chất dẻo bình quân đầu người Việt Nam vào năm 2010 là 40 kg/người (theo “Quy hoạch tổng thể phát triển ngành nhựa Việt Nam đến 2010” của Bộ Công Nghiệp) và 2015 là 80 kg/người thì đòi hỏi phải có kế hoạch đầu tư rất lớn nhằm đạt được các mục tiêu dự báo. Hướng chính của việc đầu tư nhằm: - Tăng năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài. Theo danh mục các ngành hàng ưu tiên xuất khẩu của ngành, thực hiện việc liên doanh giữa các doanh nghiệp lớn trong nước và các công ty nước ngoài, hoặc các công ty cổ phần với sự tham gia cổ phần không hạn chế của các công ty nước ngoài nhằm thu hút đầu tư trực tiếp và gián tiếp, tri thức khoa học và kinh nghiệm quản lý, kinh doanh nhằm khai thác thị trường xuất khẩu trên cơ sở công nghệ thiết bị hiện đại, quy mô vốn lớn, tạo ra các sản phẩm có tính cạnh tranh cao trong thị trường. - Đổi mới một cách cơ bản cơ cấu sản phẩm hiện có đi theo hướng mở rộng cơ cấu sản phẩm phục vụ công nghiệp, xây dựng nông nghiệp và sản phẩm kỹ thuật cao vì đây là những ngành hàng sản xuất đòi hỏi kỹ thuật và công nghệ sản xuất phức tạp. 60 - Đầu tư thêm các doanh nghiệp mới nhằm đáp ứng nhu cầu hoặc hướng tới một sản phẩm mới hoàn toàn nhằm thay thế hàng nhập khẩu, đồng thời nhanh chóng tiếp nhận kỹ thuật sản xuất và công nghệ sản xuất tiên tiến để sánh vai kịp các nước trong khu vực nhất là quá trình gia nhập của nước ta AFTA đang đến gần. - Các doanh nghiệp cần đầu tư vào các nhà máy hoặc máy móc thiết bị nhằm mở rộng viêc sử dụng các chủng loại nguyên liệu khác nhau. Hiện nay chúng ta chỉ tập trung vào sử dụng các loại nguyên liệu chính là PVC, PE, PS, PP. Trong khi đó nguyên liệu nhựa này trên thế giới đã có vài chục loại. Theo thống kê tổng vốn đầu tư cho phát triển ngành nhựa trong 10 năm qua khoảng 2 tỷ USD, trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khoảng 1,3 tỷ USD, các doanh nghiệp trong nước đầu tư khoảng 0,7 tỷ USD. Riêng Tổng Công ty Nhựa Việt Nam giai đoạn 1996 – 2000 có tổng vốn đầu tư khoảng 134 tỷ đồng, trong đó hầu hết là vốn vay chiếm 62,2%, còn lại là vốn tự bổ sung, không sử dụng vốn ngân sách. Thời gian qua vốn đầu tư nhằm hiện đại hóa thiết bị sản xuất, đầu tư mới các khu công nghiệp, trong đó tỷ trọng đầu tư cho thiết bị 57%, cho nhà xưởng khoảng 35,5%. Trong quy hoạch phát triển ngành tới 2015 nhu cầu vốn đầu tư cho các dự án phát triển của các chuyên ngành là rất lớn. Nhu cầu vốn đầu tư tới 2010 với tổng vốn đầu tư: 3.854 triệu USD. Giai đoạn Vốn đầu tư hiện có (tỷ USD) Vốn đầu tư tăng thêm (tỷ USD) Tổng vốn đầu tư cho ngành (tỷ USD) Chỉ số chất dẻo bình quân đầu người (kg/đầu người) 2001 - 2005 2,21 0,488 2,698 23 2005 – 2010 2,69 2,810 5,509 46 2010 - 2015 5,51 7,200 10 80 Bảng 18: Dự kiến tổng vốn đầu tư cho từng giai đoạn Để huy động được lượng vốn rất lớn như trên nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư đòi hỏi phải phối hợp đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau như sau: - Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi để thu hút nhanh và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong và ngoài nước. Ưu tiên khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài và cả nhà đầu tư trong nước đầu tư vào các dự án sản xuất nguyên liệu 61 trong nước. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài bằng cách giảm thuế trong những năm đầu của dự án một cách hợp lý nhằm thu hút đầu tư 100% vốn nước ngoài và vốn liên doanh vào lĩnh vực sản xuất nguyên liệu cho ngành nhựa. Đây là những bước quan trọng đầu tiên nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp nhựa Việt Nam phát triển. - Nhà nước phải có chính sách ưu đãi về vốn cho các dự án mang tính chiến lược. Đối với các dự án sản xuất nguyên liệu, nhà nước cho vay vốn đầu tư dài hạn tới 15 năm với lãi suất ưu đãi như đối với ngành cơ khí và được hưởng ân hạn 3 – 5 năm. - Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo cán bộ kỹ thuật cho ngành thông qua các chương trình hỗ trợ hợp tác với nước ngoài. Về nguồn vốn đầu tư theo chúng tôi đề nghị một số biện pháp nhằm huy động một số nguồn như sau: - Vốn trong nước: Dự kiến huy động trong nước 60-65%. Từ các nguồn vốn ưu đãi đầu tư (từ ngân sách Nhà nước), vốn đóng góp của các cổ đông, vốn tự có của doanh nghiệp, các nguồn vốn khác để đầu tư cơ sở hạ tầng, nhà xưởng và một phần vốn lưu động tạo môi trường thu hút các nhà đầu tư nước ngoài cùng hợp tác phát triển ngành. - Vốn đầu tư nước ngoài: Dự kiến thu hút 35-40%, phần vốn này chủ yếu đầu tư máy móc thiết bị. Cần tập trung cho các dự án có quy mô lớn, sản phẩm có chất lượng cao và thời gian thu hồi vốn nhanh. - Nguồn vốn ODA: Ưu tiên dành nguồn vốn này cho các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng để sản xuất nguyên liệu trong nước, các dự án về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong ngành. - Các nguồn vốn khác: Huy động các nguồn vốn khác cho đầu tư phát triển ngành nhựa như vốn nhàn rỗi trong dân, vốn của các đối tác đầu tư, vốn của các nhà đầu tư trong nước, vốn của các Việt kiều. Ngoài ra, thu hút thêm vốn đầu tư trong nước thông qua việc đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp Nhà nước bằng các hình thức như cổ phần hóa, cho thuê, bán, 62 khoán để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, vốn của các thành phần kinh tế. Tiến hành cổ phần hóa một số doanh nghiệp nhà nước nhất là đối với một số doanh nghiệp không chiếm tỷ trọng lớn của ngành. Giai đoạn 2005 - 2010 Giai đoạn 2010 – 2015 Nguồn vốn Tỷ trọng (%) Giá trị (1.000USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (1.000 USD) 1. Vốn cổ phần 15 421.500 15 1.080.000 2. Vốn tự có của doanh nghiệp 10 281.000 20 1.440.000 3. Tín dụng trả chậm 5 140.500 5 360.000 4. Cho thuê tài chính 25 702.500 10 720.000 5. Tín dụng ngân hàng 10 281.000 20 1.440.000 6. Tín dụng ưu đãi nước ngoài 5 140.500 10 720.000 7. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 25 702.500 15 1.080.000 8. Quỹ đầu tư mạo hiểm 5 140.500 5 360.000 Bảng 19: Dự kiến tỷ trọng và giá trị các nguồn vốn đến 2015 3.2.5. Một số giải pháp phát triển nguồn nguyên liệu Hiện nay ngành nhựa Việt Nam mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nguyên liệu phục vụ cho ngành, còn lại phải nhập khẩu của nước ngoài. Với nguồn nguyên liệu phải nhập khẩu chiếm tới 90% thì ngành nhựa thực sự là phát triển rất bấp bênh, không có tính bền vững, rủi ro lớn. Để thực sự trở thành một ngành kinh tế mạnh trong nền kinh tế, ngành nhựa cần phát triển nguồn nguyên liệu cho mình. Đây không chỉ đơn thuần cần sự nỗ lực của ngành mà cần có sự phối hợp của 63 nhiều ngành có liên quan đặc biệt là ngành dầu khí và hóa chất. Công nghiệp hóa dầu Việt Nam đầy triển vọng trên cơ sở công nghiệp dầu khí không ngừng gia tăng. Chính vì vậy, chiến lược sản xuất nguyên liệu nhựa tại Việt Nam là có cơ sở. Song khả năng tài chính thực thi thì hạn chế. Đây là một thách thức đối với ngành nhựa vì không đủ vốn đầu tư xây dựng nhà máy và một loạt các vấn đề khác như thuế, môi trường, … Tuy nhiên, tất cả các thách thức này có thể tạo cơ hội phát triển nhanh hơn khi có sự hỗ trợ từ Chính phủ và liên kết sản xuất liên ngành các Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam, Tổng Công ty Hóa Chất Việt Nam và Tổng Công ty Nhựa Việt Nam. Ngành nhựa Việt Nam nói chung và ngành nhựa TP Hồ Chí Minh nói riêng cần phải xây dựng các nhà máy sản xuất nguyên liệu nhựa trong nước. Mặt khác, phải liên kết với các công ty nước ngoài nhằm tận dụng trình độ khoa học công nghệ, kỹ thuật sản xuất cũng như kinh nghiệm quản lý của họ. * Cần xây dựng một số xí nghiệp sản xuất nguyên liệu: Hiện nay, hàng năm ngành nhựa Việt Nam nhập khẩu hàng chục loại nhựa khác nhau, nhưng chủ yếu là nhựa PVC, nhựa PP, PE, PS, nhựa Melamin, nhựa Phenol, nhựa Acrylic, nhựa ABS, EVA, …Hóa chất như dầu DOP, TDI, MDI, PPG, PEG, các loại dung môi hữu cơ, keo dán, mực in, chất mầu, …Các loại bán thành phẩm như màng BOPP, OPP, …Các loại phụ gia như chất độn và các hóa chất chuyên dùng khác. Về số lượng hàng năm gia tăng rất nhanh. Để đáp ứng được yêu cầu trên thì phải xây dựng hàng chục nhà máy, điều này không thể thực hiện ngay. Vì vậy, trong 10 năm từ nay đến 2015, chúng ta cần phải xây dựng các nhà máy sản xuất một số nguyên liệu cho ngành mà tập trung chủ yếu vào 4 loại nguyên liệu là: PVC, PE, PP và PS. Và cũng chỉ đáp ứng một phần nhu cầu trong nước. Cụ thể tới năm 2005 phải đáp ứng được 30% nhu cầu trong nước tức là 700.000 tấn và tới 2015 đáp ứng được 70% nhu cầu tức 5.880.000 tấn Để có những sản phẩm cho ngành nhựa, ngành hóa dầu phải đi từ hai loại nguyên liệu chính là naphta và khí (metal, etan, LPG, …). Do đó, để sớm đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế quốc dân trong đó có ngành nhựa thì ngành hóa dầu nên thực hiện song song hai phương hướng phát triển trong thời gian tới: - Trên cơ sở khai thác khí của ngành công nghiệp hóa dầu cần phải xây dựng các nhà máy tách khí e tan để từ đó xây dựng các nhà máy sản xuất etylen, propylene, … là những loại nguyên liệu trong việc sản xuất các nguyên liệu như PE, PP, PVC, ... - Mặt khác, trên cơ sở nhu cầu bức thiết của ngành nhựa, chúng ta không nên chờ đến khi có sản phẩm hóa dầu của Việt Nam mà nên có kế hoạch đón đầu 64 bằng cách nhập nguyên liệu trung gian để sản xuất một số nguyên liệu thiết yếu như nhựa PVC, PE, PS, hóa dẻo DOP. * Cần liên kết với các công ty nước ngoài: - Nhà nước cần tạo môi trường kinh doanh và đầu tư tại Việt Nam có thể đảm bảo được sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng cho các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới. - Phải lôi kéo cho được sự đầu tư của các tập đoàn dầu khí đa quốc gia và xuyên quốc gia ngành nhựa lớn trên thế giới như: Exxon Mobil, Shell, BP-Amoco, Formosa, Dow-UCC, Petronas, … Hiện tại, các nước trong khu vực đã thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất nguyên liệu nhựa như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc, … trên cơ sở tạo ra lợi thế cạnh tranh cho đầu tư quy mô lớn, công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, theo thống kê của Liên đoàn nhựa các nước ASEAN, sản xuất nguyên liệu nhựa cho nhu cầu của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương hiện nay, cung chỉ đáp ứng được 80% cho cầu. Đây chính là cơ hội cho việc đầu tư sản xuất nguyên liệu nhựa tại Việt Nam không chỉ nhằm đáp ứng cho nhu cầu nội địa mà cả cho xuất khẩu. 3.2.6. Phát huy khả năng quản lý và nguồn nhân lực * Về khả năng quản lý: Mặc dù là ngành công nghiệp mới, non trẻ nhưng trong hơn 15 năm đổi mới vừa qua, ngành nhựa đã có những đóng góp đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sản phẩm của ngành đã đáp ứng được nhu cầu sử dụng trong nước về nhựa gia dụng, vật liệu xây dựng bằng nhựa và các loại bao bì bằng nhựa và phần nào nhựa kỹ thuật cao, nhựa phục vụ cho các ngành kinh tế kỹ thuật khác. Quản lý Nhà nước đối với ngành đã được Chính phủ giao cho Bộ Công nghiệp theo nghị định 74/CP ngày 1 tháng 11 năm 1996 (quyết định số 1189/QĐ-TCCB). Tổng Công ty Nhựa Việt Nam vừa có chức năng sản xuất kinh doanh như một DNNN vừa tham mưu cho Bộ về các cơ chế, chính sách phát triển ngành nhựa, vừa là đầu mối xây dựng chiến lược phát triển ngành. Từ khi thành lập đến nay, Tổng Công ty đã không ngừng phát triển. Hiện tại vốn nhà nước của Tổng Công ty đã đạt 326 tỷ đồng trên tổng số 1.676,7 tỷ đồng. Hàng năm nộp 65 ngân sách nhà nước trên 200 tỷ đồng. Mặc dù theo quyết định 58/2002/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ thì Tổng Công ty không thuộc các ngành và lĩnh vực nhà nước quản lý. Song đứng ở góc độ ngành kinh tế kỹ thuật do DNNN làm chủ đạo nên chuyển Tổng Công ty hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con. Như vậy, qua phân tích thực trạng của các doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh, chúng tôi thấy rằng cần thực hiện một số giải pháp sau nhằm nâng cao khả năng quản lý của các doanh nghiệp: - Thứ nhất, tận dụng được sức mạnh tổng hợp giữa vai trò của Hiệp hội nhựa Thành phố, Hiệp hội nhựa Việt Nam và các doanh nghiệp. Cần đẩy mạnh hơn nữa vai trò của Hiệp hội nhựa thành những đối trọng trong việc vận động xây dựng chính sách của ngành. Hiệp hội Nhựa gồm đại diện các doanh nghiệp có hiểu biết toàn diện về năng lực, trình độ, hiện trạng sản xuất kinh doanh cũng như những thách thức đối với ngành mình. Do đó nên chăng Tổng Công ty nhựa Việt Nam và Hiệp hội sẽ đưa ra các nghiên cứu khả thi và đề xuất các chính sách hỗ trợ, phát triển để Chính phủ đánh giá, thẩm định và phê chuẩn. Như vậy mối quan hệ giữa Hiệp hội ngành nghề và Chính phủ giống như quan hệ giữa người đi vay và ngân hàng.Để nhận được khoản vay dài hạn mà ở đây là chính sách có lợi cho ngành mình. Hiệp hội nhựa phải chứng minh được thông qua nghiên cứu khả thi tiềm năng phát triển của ngành để thuyết phục Chính phủ. Bản thân trong các nghiên cứu, kiến nghị bảo hộ của các Hiệp hội đưa ra phải chỉ rõ yêu cầu Nhà nước bảo hộ trong bao lâu và kết quả dự kiến đạt được khi hết giai đoạn bảo hộ ra sao, lộ trình và chiến lược phát triển trong môi trường cạnh tranh sau khi chấm dứt bảo hộ như thế nào v.v… - Thứ hai, cần tổ chức lại hệ thống thống kê báo cáo tách phần thống kê ngành nhựa thành một chuyên mục riêng, không nên để mục thống kê cao su, chất dẻo như hiện nay làm cho việc điều tra số liệu, đánh giá hoạt động của ngành nhựa thiếu chính xác dẫn đến việc lập kế hoạch chiến lược phát triển ngành kém tính khả thi. - Thứ ba, nên thành lập trung tâm đào tạo, tư vấn kỹ thuật và thông tin tiếp thị chuyên ngành. Trung tâm này có thể trực thuộc Tổng Công ty Nhựa Việt Nam hoặc hoạt động độc lập như một thành viên trong Hiệp hội Nhựa Việt Nam. - Thứ tư, cần thành lập trung tâm nghiên cứu, kiểm định chất lượng sản phẩm của ngành nhựa với trang thiết bị đầy đủ mang tính phòng thí nghiệm quốc gia đảm bảo kiểm định được chất lượng hàng nhựa theo tiêu chuẩn quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho việc hội nhập khu vực và thế giới của ngành. - Thứ năm, xây dựng các chương trình đào tạo về quản lý nhằm đào tạo cán bộ quản lý kế cận. 66 Về phía Chính phủ, Bộ, Ngành cần thiết lập và duy trì quan hệ tương tác với doanh nghiệp và Hiệp hội ngành nghề một cách chặt chẽ và chủ động hơn. Vai trò của các Bộ, Ngành trong tương lai nên tập trung vào việc tạo lập môi trường thể chế, chính sách để hỗ trợ sản xuất kinh doanh trong nước; phối hợp với các cơ quan nghiên cứu và căn cứ trên nghiên cứu khả thi của bản thân ngành nhựa để nhận diện những lĩnh vực phát triển trọng tâm của ngành trong từng giai đoạn cụ thể. * Về nguồn nhân lực: Đặc điểm của ngành nhựa là sử dụng ít lao động nhưng lại đòi hỏi lao động phải có sức khỏe và có trình độ tay nghề vì hầu hết dây chuyền thiết bị sử dụng trong sản xuất là các dây chuyền mang tính chuyên môn tự động hóa cao. Như vậy, để nâng cao nguồn nhân lực cho ngành nhựa Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh đòi hỏi phải thực hiện một số giải pháp đồng bộ như sau: - Để đáp ứng nguồn lao động cho sự phát triển của ngành cần phối hợp với các đơn vị có chức năng đào tạo để hình thành các kế hoạch đào tạo cụ thể, đáp ứng nhu cầu của ngành nhựa, chủ yếu trong đào tạo dài hạn, nhằm đáp ứng một trình độ nhất định: Công nhân lành nghề, cao đẳng, đại học, chủ yếu bằng nguồn đào tạo trong nước. - Mặt khác, tổng Công ty nhựa cần phối hợp với các doanh nghiệp trong ngành lập quỹ học bổng tài trợ cho các học sinh trung học học nghề, sinh viên ở các trường Đại học làm các đề án nghiên cứu phục vụ cho ngành. - Các doanh nghiệp có thể liên kết với các trường đại học mở các khóa đào tạo ngắn hạn, bồi dưỡng lý thuyết nâng cao tay nghề, hoặc có thể gởi kỹ sư, chuyên gia đi đào tạo ở nước ngoài. Cần có kế hoạch đào tạo cả 3 trình độ công nhân, cán bộ kỹ thuật chuyên ngành (cao đẳng, đại học) với 3 loại hình triển khai đồng thời như sau: + Hệ tập trung tại trường (5 năm): tuyển chọn học sinh từ các kỳ thi quốc gia, nhằm đào tạo những kỹ sư có trình độ khoa học cơ bản, trình độ chuyên môn về lý thuyết và thực hành giỏi, có tiềm năng tự đào tạo và bồi dưỡng để trở thành lực lượng cán bộ KHKT nòng cốt của ngành. + Hệ tại chức (5 năm): tuyển chọn từ cán bộ kỹ thuật trung học, công nhân viên chức đã tốt nghiệp phổ thông trung học và đã qua kinh nghiệm thực tế sản xuất để đào tạo thành những kỹ sư, cán bộ kỹ thuật giỏi thực hành, có năng lực quản lý tốt, có trình độ khoa học nhất định. 67 + Hệ cao đẳng (3,5 năm): tuyển chọn học sinh đã tốt nghiệp phổ thông để đào tạo thành những kỹ thuật viên có trình độ. Bên cạnh hệ đào tạo chính quy cần hình thành Trung tâm bồi dưỡng, đào tạo nghề trực thuộc các Hiệp hội Nhựa. Các trung tâm hoạt động với sự tài trợ của các doanh nghiệp và có nhiệm vụ phối hợp với các đơn vị có khả năng (trường, viện, tổng công ty, …) đồng thời các trung tâm cũng tổ chức các khóa đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ đương chức theo yêu cầu của ngành, yêu cầu của các doanh nghiệp, chương trình luôn cập nhật kiến thức và phổ biến thông tin mới nhất trong và ngoài nước cho các học viên. - Về nghiên cứu: Thành lập trung tâm nghiên cứu đầu ngành. Tuyển chọn các kỹ sư tốt nghiệp ra trường loại khá, giỏi, các kỹ sư đang công tác tại cơ sở sản xuất có năng lực nghiên cứu đa dạng về các cơ sở nghiên cứu của ngành. Có hệ số tiền lương cao hơn giữa các kỹ sư làm công tác nghiên cứu và công việc khác. Tổ chức đào tạo lại, đào tạo bổ sung và nâng cao cho đội ngũ làm công tác nghiên cứu triển khai bằng các hình thức: thực tập sinh, đào tạo chuyên đề, đào tạo thạc sỹ. 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHỰA VIỆT NAM 3.3.1. Hoàn thiện một số chính sách phát triển kinh tế - Nhà nước cần phải điều chỉnh vốn đầu tư nước ngoài vào một số ngành hợp lý mang tính kích thích phát triển sản xuất trong nước như nên đầu tư vào những ngành mà doanh nghiệp Việt Nam chưa có khả năng đầu tư. - Kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ, thiết bị mới cho ngành nhựa nhằm góp phần nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhựa Việt Nam. - Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ nguồn nhân lực cho doanh nghiệp nhựa bằng cách hỗ trợ cho các trường Đại học, Cao đẳng kinh phí, điều kiện để đào tạo cán bộ kỹ thuật, chuyên ngành nhựa, tăng lượng tuyển sinh vào Đại học cho các ngành này. Lập thêm ngành gia công, chế biến nhựa trong các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. 3.3.2. Chính sách hỗ trợ vốn nhằm đổi mới thiết bị công nghệ 68 - Nên thành lập các quỹ đầu tư phát triển hỗ trợ cho các doanh nghiệp được vay vốn. Nhà nước nên có chính sách cho vay ưu đãi cho công tác thay đổi công nghệ, thiết bị máy móc và nghiên cứu sản phẩm mới ở các doanh nghiệp nhựa Việt Nam. - Nhà nước nên xây dựng các nhà máy chế tạo thiết bị cho ngành nhựa quy mô lớn có khả năng chế tạo các thiết bị trong nước, ứng dụng công nghệ mới để thực hiện kiểm soát chất lượng quá trình và tăng năng suất lao động nhằm thực hiện chưong trình nâng cấp, hiện đại hóa ngành nhựa. - Nhà nước nên có chính sách tăng thời gian khấu hao cơ bản lên nhằm khuyến khích đầu tư dài hạn phát triển của các doanh nghiệp nhựa đồng thời cũng nhằm làm giảm giá thành sản phẩm góp phần tăng khả năng cạnh tranh. Kiến nghị tăng khấu hao cơ bản lên là 12-15 năm. - Nhà nước tăng cường quản lý sự phát triển công nghệ trên cơ sở khuyến khích nâng cao hàm lượng công nghệ hiện có. Có bộ phận hướng dẫn doanh nghiệp chọn lựa công nghệ mới. - Nhà nước cần hỗ trợ cho doanh nghiệp về vốn để nghiên cứu và phát triển. - Tạo một mạng truyền thông tin nhanh chóng giữa nhà nước với doanh nghiệp để các chính sách của nhà nước đến tay doanh nghiệp dễ dàng và kịp thời. - Có chế độ khen thưởng những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, cho phá sản những doanh nghiệp kém hiệu quả. * Đối với sản xuất cơ khí khuôn mẫu: - Các dự án đầu tư cho sản xuất khuôn mẫu ngành nhựa cũng cần được ưu tiên đầu tư như đối với sản xuất nguyên liệu vì đây cũng là cơ sở hạ tầng cho ngành nhựa. Thu hút vốn liên doanh vào lĩnh vực này. - Sản xuất cơ khí khuôn cho ngành nhựa cần được hưởng vay vốn ưu đãi như đối với ngành cơ khí; vay tín dụng ưu đãi với lãi suất 3% thời gian 12 năm, ân hạn 5 năm (theo quyết định số QĐ 67/2000 Bộ Công nghiệp). * Đối với các dự án sản xuất các sản phẩm khác: 69 - Đối với các dự án sản xuất sản phẩm tiêu dùng và phục vụ các ngành công nghiệp khác có thể sử dụng các hình thức huy động vốn như vốn cổ phần, vốn vay hoặc hỗ trợ từ các đối tác (vốn góp bằng hiện vật, máy móc thiết bị,…). - Đối với các dự án sản xuất sản phẩm xuất khẩu được phép sử dụng vốn từ Quỹ hỗ trợ phát triển và được hưởng ưu đãi đầu tư. - Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước vay ưu đãi đầu tư và vay vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh. - Điều chỉnh thời hạn vay vốn đầu tư 7-10 năm đối với các doanh nghiệp trong ngành để có điều kiện hoàn trả vốn vay. 3.3.3. Chính sách hỗ trợ một số mặt hàng sản xuất trong nước - Hướng doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào các ngành chủ lực bằng các chính sách khuyến khích sản xuất như giảm thuế, giá thuê đất tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực, các ngành chủ lực như sản xuất nguyên liệu nhựa, các sản phẩm nhựa kỹ thuật cao. - Đánh thuế cao vào những mặt hàng nhập khẩu mà trong nước có thể sản xuất được. - Có chính sách kiên quyết chống những loại mặt hàng nhựa nhập lậu vào nước ta cả về nguyên liệu nhựa. 3.3.4. Hoàn thiện chính sách quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm - Khuyến khích các doanh nghiệp có thương hiệu, động viên doanh nghiệp đăng ký quyền sở hữu công nghiệp và có chế độ bảo vệ quyền này cho doanh nghiệp yên tâm hoạt động và được hoạt động một cách an toàn. - Thực hiện biện pháp chống hàng nhái, hàng giả một cách triệt để nhằm bảo vệ các doanh nghiệp sản xuất. 3.3.5. Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư những ngành hàng mới Những ngành hàng sản phẩm công nghiệp kỹ thuật cao xuất hiện ở nước ta mới vài năm gần đây, giá thành của sản phẩm còn cao, nhà nước nên có chế độ 70 khuyến khích ưu đãi về thuế để doanh nghiệp đủ sức cạnh tranh về giá để người tiêu dùng mua được sản phẩm dễ dàng. - Cần có chính sách ưu tiên cho các nhà đầu tư trong nước tại các vùng cần chuyển dịch cơ cấu phát triển ngành. Cần phải có cơ chế chính sách tạo môi trường thuận lợi cho hình thành khu công nghiệp tập trung ngành nhựa. - Cần gấp rút ban hành danh mục các khu vực ưu tiên đầu tư. Ban hành danh mục những chủng loại sản phẩm khuyến khích đầu tư và những chủng loại sản phẩm không khuyến khích đầu tư cũng như cấm đầu tư. - Đối với các dự án lớn, cần quy định một tỷ lệ tối thiểu xuất khẩu là 20- 30% để có điều kiện tiếp cận thị trường nước ngoài và tạo ngoại tệ cho đất nước. - Nhà nước cho phép Hiệp hội nhựa Việt Nam thành lập một tổ chức tư vấn đầu tư, được quyền có ý kiến và tham gia vào việc xem xét các dự án có liên quan trực tiếp đến ngành nhựa. Những mặt hàng khuyến khích đầu tư nước ngoài: - Sản xuất nguyên liệu cho ngành nhựa. - Hàng nhựa kỹ thuật cao và vật liệu mới từ nhựa (vật liệu composite). - Đầu tư xây dựng các nhà máy thu mua nhựa, xử lý nhựa phế thải. Đây là lĩnh vực tương đối nhạy cảm đòi hỏi Nhà Nước cần phải có chính sách nhất quán giúp các doanh nghiệp yên tâm trong quá trình đầu tư. Theo chúng tôi, Nhà Nước cần cho phép ngay việc xây dựng các nhà máy tái chế phế liệu nhựa do hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp muốn đầu tư vào lĩnh vực này nhưng chưa được phép nên đã chuyển hướng đầu tư ra nước ngoài đặc biệt trong giai đoạn hiện nay do giá dầu, giá nguyên liêu nhựa liên tục tăng. 71 KẾT LUẬN Ngành nhựa trên địa bàn TP Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung trong giai đoạn sắp tới (2005-2015) đang có nhiều cơ hội để phát triển, nhưng không ít mối đe dọa và điểm yếu cần phải vượt qua. Quá trình cạnh tranh khốc liệt không chỉ giữa các doanh nghiệp nhựa Việt Nam với nhau mà còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp nước ngoài cũng như hàng nhập khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp nhựa Việt Nam phải không ngừng nâng năng lực cạnh tranh của mình. Trên cơ sở tổng hợp các nghiên cứu về mặt lý luận và phân tích thực trạng của các doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh trong thời gian qua, luận văn đã đề ra một số giải pháp cần phải thực hiện nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh. Đồng thời, tác giả luận văn đề xuất một số kiến nghị về chính sách nhà nước nhằm tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện những giải pháp kiến nghị. Ngành nhựa Việt Nam cũng rất mong được sự quan tâm của Chính phủ và các ngành kinh tế hữu quan trong việc phát triển của ngành. Với những mục tiêu chung của nền kinh tế Việt Nam phát triển tới năm 2015, các sản phẩm nhựa sẽ có vai trò đóng góp xứng đáng với vị trí của mình, góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong những nước phát triển trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Những vấn đề nghiên cứu còn rất mới mẻ, phức tạp, trình độ hạn chế của tác giả nên luận văn này không tránh khỏi những thiếu xót nhất định. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến chân thành của quý Thầy, Cô, các chuyên gia và các bạn đọc quan tâm. 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lưu Trọng Bình (1994), Hàng nhựa Việt Nam đã chiếm lĩnh thị trường nội địa nhưng cần có chiến lược phát triển, Tạp chí Thông tin kinh tế kỹ thuật vật tư. 2. Bộ Công Nghiệp (2004), Quy họach tổng thể phát chiến ngành nhựa Việt Nam đến năn 2010. 3. Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (2000), Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp, NXB Chính trị quốc gia. 4. Nguyễn Quốc Chính (1994), Chất lượng sản phẩm – nhân tố chính quyết định sự phát triển của nhựa Bình Minh, Tạp chí công nghiệp nhẹ. 5. David D. Smith, Danny R. Rubin, Bobby G. Bizzell (2000), Chiến lược và chính sách kinh doanh, NXB TP Hồ Chí Minh. 6. PGS-TS Nguyễn Thị Liên Diệp (1998), Chiến lược và Chính sách kinh doanh, NXB Thống kê. 7. Lê Quang Doãn (1993), Vài nét về việc cung cấp nguyên liệu cho ngành nhựa, Tạp chí công nghiệp nhẹ. 8. Don Taylor, Jeanne Smalling Archer (2004), Để cạnh tranh với những người khổng lồ, NXB Thống kê. 9. Fred R. David (2003), Khái luận về quản trị chiến lược, NXB Thống kê. 10. Hiệp hội nhựa TP Hồ Chí Minh (2004), Quá trình phát triển – Bài học kinh nghiệm 1998 – 2002. 11. Hiệp hội nhựa Việt Nam (2000), Chiến lược phát triển ngành nhựa Việt Nam đến năm 2010. 12. Hiệp hội nhựa Việt Nam (2003, 2004), Chất dẻo Việt Nam. 13. TS Nguyễn Mạnh Hùng (2003), Kinh tế xã hội Việt Nam 2002, Kế hoạch 2003 – Tăng trưởng và hội nhập, NXB Thống kê. 73 14. TS Nguyễn Hữu Lam (1998), Quản trị chiến lược phát triển vị thế cạnh tranh, NXB Thống kê. 15. Michael E. Porter (1996), Chiến lược cạnh tranh, NXB Khoa học và kỹ thuật. 16. Michael Hammer và James Champy (2002), Tái lập công ty, NXB TP Hồ Chí Minh. 17. Sở Công Nghiệp TP Hồ Chí Minh (2004), Chương trình mục tiêu phát triển ngành nhựa – cao su TP Hồ Chí Minh giai đoạn 2001-2005. 18. Từ Quang Thạch (1993), Đầu tư phát triển qui mô lớn sản phẩm bao PP phục vụ công nghiệp ximăng và xuất khẩu gạo, Tạp chí công nghiệp nhẹ. 19. Tôn Thất Nguyễn Thiêm (2004), Thị trường, chiến lược, cơ cấu: Cạnh tranh về giá trị gia tăng, định vị và phát triển doanh nghiệp, NXB TP Hồ Chí Minh. 20. GS-TS Nguyễn Văn Thường (2005), GS-TS Nguyễn Kế Tuấn (2005), Kinh tế Việt Nam năm 2004 –Những vấn đề nổi bật, NXB Lý luận chính trị. 21. GS-TS Nguyễn Văn Thường (2004), Một số vấn đề kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia. 22. Tổng Cục Thống Kê (2003), Niên giám thống kê. 23. Viện Nghiên Cứu Quản Lý Kinh Tế TW (2004), Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, NXB Giao thông vận tải. 74

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfMột số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhựa việt nam tại thành phố hồ chí minh.pdf
Luận văn liên quan