Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xúc tiến thương mại trong lĩnh vực xuất khẩu của chính phủ cho các doanh nghiệp Đà Nẵng

Nền kinh tế của thế giới đang từng ngày từng giờ phát triển nhanh như vũ bão, cùng với nó là sự xuất hiện ngày càng nhiều các thị trường xuất khẩu mới, các tổ chức xuất khẩu mới. Thế giới chúng ta đang phải trải qua một giai đoạn hết sức gay go khi đang có dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ, lương thực và có dấu hiệu bị chững lại sau một thời gian dài phát triển quá nóng, nhu cầu thì ngày càng nhiều nhưng việc đáp ứng thì lại có hạn Cấu trúc của bài gồm có ba phần: Chương I: Tổng quan về hoạt động Xúc Tiến thương mại trong lĩnh vực xuất khẩu Chương II: Thực trạng hoạt động xúc tiến xuất khẩu của chính phủ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng năm 2007 Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu của chính phủ cho các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

doc85 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2535 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xúc tiến thương mại trong lĩnh vực xuất khẩu của chính phủ cho các doanh nghiệp Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị trường, độ sẵn sàng về kỹ thuật, mức độ hài lòng doanh nghiệp, và mức độ sáng tạo. Với VN, yếu tố thể chế được xếp thứ 74, cơ sở hạ tầng 83, kinh tế vĩ mô 53, y tế và giáo dục phổ thông 56, giáo dục đại học xếp thứ 90, hiệu quả thị trường 73, độ sẵn sàng về công nghệ 85. Ở hai chỉ số còn lại, VN lần lượt xếp thứ 86 và 75. Trong khối ASEAN, VN chỉ xếp trên Cambodia (xếp thứ 103). Singapore vẫn dẫn đầu về năng lực cạnh tranh trên toàn khối, tiếp theo lần lượt là Malaysia (26), Thái Lan (35), Indonesia (50), Philippines (71). WEF không xếp hạng Brunei, Lào và Myanmar. Đối với trong nước: 10 chỉ số thành phần được tiến hành điều tra của PCI năm 2007 bao gồm: Chi phí gia nhập thị trường; tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất; tính minh bạch và tiếp cận thông tin; chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước; chi phí không chính thức; ưu đãi đối với DNNN (môi trường cạnh tranh); tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh; chính sách phát triển kinh tế tư nhân; đào tạo lao động; thiết chế pháp lý. 10 tỉnh đứng đầu các chỉ số thành phần Chỉ số thành phần Tỉnh Điểm số Gia nhập thị trường Tiếp cận đất đai Tính minh bạch Chi phí thời gian Chi phí không chính thức Ưu đãi với DNNN Tính năng động Chính sách phát triển kinh tế tư nhân Đào tạo lao động Thiết chế pháp lý Quảng Trị Long An Lào Cai Hà Tây Hưng Yên, Tiền Giang Bình Dương Bình Dương TPHCM Đà Nẵng Bắc Kạn 9,49 7,71 8,56 8,18 7,71 8,29 9,20 8,73 8,34 6,57 Hình 2.5 Danh sách 10 tỉnh đứng đầu về các chỉ số thành phần Thứ tư, công tác chỉ đạo điều hành hoạt động XTXK của nhà nước còn kém hiệu quả. Từ khi thực hiện đổi mới nền kinh tế, Đảng và nhà nước đã đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn về phát triển kinh tế-xã hội, mở rông mối quan hệ đối ngoại, phát triển XK. Tuy nhiên cũng cần phải nhìn nhận rằng công tác tổ chức thực hiện đường lối, chính sách và pháp luật của nhà nước chưa nghiêm, kém hiệu lực, hiệu quả. Sự lãnh đạo, chỉ đoạ, điều hành của nhà nước có phần thiếu nhanh nhạy, chưa thật sự chủ động chớp lấy thời cơ, Chức năng quản lý, điều hành của nhà nước ở các cấp chưa được phân định rành mạch và phát huy đầy đủ. Chưa có sự thống nhất trong nhân thức và thông suốt trong thực hiện hoạt động XTXK, làm cho việc hoạch định chủ trương, chính sách và thể chế hoá về XTXK thiếu dứt khoát, chậm trễ. Thêm vào đó công tác cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết cả về xây dựng và hoàn thiện thể chế, kiện toàn bộ máy, nâng cao năng lực và làm trong sạch đội ngũ các bộ tổ chức. Thứ năm, tác động khách quan của môi trường kinh doanh quốc tế. Trong thời gian qua, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và thắng lợi lớn, tạo được nhiều thuận lợi cho XK nhưng cũng tạo ra không ít khó khăn cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước như cuộc khủng hoảng kinh tế vào năm 1998-1999, tình hình trượt dốc của nền kinh tế thế giới vào năm 2001-2002 và mới đây là những dự đoán về sự khủng hoảng về lương thực và tiền tệ trên thế giới trong giai đoạn 2007-2008. Chương 3: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu của chính phủ cho các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Những thay đổi, tác động của nó đối với hoạt động XTXK ở Việt Nam nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng Những bối cảnh và thách thức mới đối với hoạt động XTXK Tự do hoá thương mại theo WTO Việt Nam đã gia nhập WTO và là thành viên AFTA... điều này cho phép nước ta có nhiều lựa chọn khi mở cửa thương mại quốc tế... Trên cơ sở tình hình thương mại Việt Nam và những điều kiện mới trong quá trình hội nhập mà chúng ta có thể lựa chọn hoặc kết hợp các mô hình, điều này ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước cũng như ảnh hưởng rất lớn đến công tác hoạch định chính sách của từng địa phương trong cả nước vì mỗi mô hình đều có những điểm mạnh điểm yếu của nó tác đông trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp. Do đó cần phải nhận thức một cách đúng đắn để có thể chọn ra một giải pháp hữu hiệu nhất cho sự pháp triển của các doanh nghiệp nói chung và cho cả đất nước nói riêng. Các mô hình: Tiến hành tự do hoá đơn phương. Để làm được điều này thì phải bãi bỏ hoàn toàn tất cả các loại thuế thương mại xuất nhập khẩu và trợ cấp. Đây là điều mà Việt Nam có thể làm được mà không cần đàm phán với các nước. Tuy nhiên lại gây ra khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước không cạnh tranh được với các doanh nghiệp của nước ngoài vì các doanh nghiệp của chúng ta chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, năng lực sản xuất còn thấp. Đi theo hướng hài hoà hoá thuế suất. Trong đó tất cả các mức thuế của Việt Nam giảm đi hay tăng lên nhưng vẫn đảm bảo mức bình quân hiện tại (khoảng 11,9% cho các loại hàng nhập khẩu). Điều này có một lợi ích đáng kể khi giải toả được nỗi lo giảm nguồn thu ngân sách do cải cách thuế. Cách tiếp cận này được nhiều nhà kinh tế ưa chuộng vì nó loại bỏ được sư méo mó giữa hàng hoá nhập khẩu khác nhau về nguồn gốc và chủng loại. Tuy nhiên nó có thể làm tăng một số loại thuế và giữ nguyên sự bất cập về giá đối với một số hàng hoá và dịch vụ. Đàm phán các hiệp định song phương với các đối tác. Theo mô hình này thì những nước đang phát triển nếu đạt được thoả thuận với các nước phát triển lớn được coi là có lợi nhất. Tự do hoá khu vực. Theo mô hình này, Việt Nam và các nước sẽ mở rộng khu vực mậu dịch tự do AFTA với các nước Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Khả năng này đã được các nước ASEAN thảo luận và bước đầu thực thi. Nhưng hạn chế ở đây là Nhật Bản chưa là thành viên của bất kỳ nhóm thương mại ưu đãi nào. Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh của rất nhiều nền kinh tế ASEAN mà lợi thế chung vẫn là lao động dồi dào và giá rẻ. Tự do hoá đa phương. Chính sách đi theo mô hình này đề cập tới một thoả thuận chung của WTO trong thời gian tới. Tuy nhiên, do các thành viên WTO không đạt được thỏa thuận nào trong vòng đàm phán ở Hồng Kông năm 2005. Vì vậy, đến nay vẫn chưa có một điều khoản rõ ràng nào. Giả định được đưa ra là giảm 50% thuế xuất nhập khẩu, trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ trong nước của tất cả các thành viên. Tự do hoá toàn cầu, hướng tới cắt giảm thuế 100% cho tất cả các nước và khu vực. Qua nghiên cứu, các chuyên gia cho rằng, hầu hết các kịch bản, không kể kịch bản hài hoà hoá, đều dẫn đến gia tăng xuất khẩu. Tăng trưởng xuất khẩu có thể là một điều gây ngạc nhiên trong kịch bản thứ nhất vì chính sách ở đây sẽ không dẫn đến việc cải thiện thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, khi nhập khẩu dễ dàng thì xuất khẩu cũng sẽ được thúc đẩy để đảm bảo cán cân thương mại. Qua phân tích của các chuyên gia, mô hình tự do hoá thương mại toàn cầu sẽ tốt nhất cho các doanh nghiệp Việt Nam. Mô hình này sẽ làm tăng xuất khẩu khoảng 8,6 tỷ USD và tối đa hoá được phúc lợi hàng năm. Tuy nhiên, việc đạt được tự do hoá thương mại toàn cầu nằm ngoài sự kiểm soát của bất cứ một quốc gia nào và khó có thể xảy ra trong tương lai gần. Trong trường hợp này, so sánh với các mô hình khác có thể thấy, khi chưa thực hiện tự do hoá đa phương, Việt Nam có thể thực hiện tự do đơn phương nhưng điều này có nhiều hạn chế và gây ra bất lợi cho Việt Nam về trước mắt. Do các doanh nghiệp khó có thể thích ứng nhanh với cách thực hiện này. Trong khi đó, nếu áp dụng mô hình hài hoà thuế suất sẽ tạo ra phúc lợi xã hội và sự chuyển dịch không đáng kể trong nền kinh tế. Đồng thời giúp tăng thu khoảng trên 50%. Trong trường hợp này thứ tự ưu tiên các mục tiêu của chính phủ sẽ là yếu tố quyết định sự lựa chọn. Tự do hoá song phương bao gồm tự do hoá với Liên minh châu Âu sẽ gặp phải một vấn đề rắc rối vì EU dường như chịu thiệt từ mô hình này và có thể sẽ không tham gia. Mô hình thực tế nhất là tự do hoá khu vực và tự do hoá đa phương, tự do hoá khu vực sẽ mang lại lợi ích xuất khẩu nhưng tự do hoá đa phương cho lợi ích phúc lợi lớn hơn. Và đây không phải là mô hình loại trừ lẫn nhau. Cả hai hình thức tự do thương mại này đều có thể cùng xảy ra. Xu hướng thị trường mới Trong năm 2007, trong điều kiện bị cạnh tranh gay gắt, nhưng thị trường xuất khẩu của Đà Nẵng đã mở rộng đến 95 quốc gia và vùng lãnh thổ. Một mặt gia tăng thị phần XK tại các thị trường truyền thống như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan mặt khác đẩy mạnh XTXK vào các thị trường Đông Nam Á ( như Inđonexia, Myanma, Singapore), Tây Á-Trung Đông (Isarel, Syria), các thị trường EU mới(Czech, Romania, Bungary). Việc thúc đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường Tây Á và Nam Mỹ đang là xu hướng mới cho các doanh nghiệp xuất khẩu ở thành phố, do tính chất ổn định của các thị trường này về nhu cầu, hệ thống kiểm soát không chặt chẽ và giá cả tương đối phù hợp. Ten vung XuÊt KhÈu(2007) Cïng Kú (2006) So S¸nh (%) §«ng B¾c ¸ 130,679.91 116,445.81 +1,12 §«ng Nam ¸ 35,285.86 31,008.06 +1,14 T©y ¸-Trung §«ng 3,016.86 1,937.84 +1,56 Z C¸c níc ch©u ¸ kh¸c 19.95 326.36 -0,06 EU 96,150.94 78,664.81 +1,22 EU (míi) 3,561.74 3,695.03 -.96000 Z C¸c Nuíc Ch©u ¢u Kh¸c 34,237.28 24,624.57 +1,39 B¾c Mü 133,897.54 110,394.27 +1,21 Nam Mü 6,516.08 3,592.91 +1,81 Trung Mü 1,309.12 1,054.52 +1,24 Ch©u óc 2,784.30 6,973.26 -0,40 B¾c Phi 1,922.71 110.40 +17,42 Nam Phi 419.42 1,793.74 -0,23 Trung Phi 212.63 33.50 +6,35 ZZ ThÞ truêng kh¸c 22,682.26 14,255.57 +1,59 Hình 3.1 Kim ngạch xuất khẩu theo thị trường Thương mại điện tử Kể từ lần đầu tiên xuất hiện trang web thương mại năm 1994, thương mại điện tử đã nhanh chóng lan rộng ra trên toàn thế giới, trở thành phương tiện truyền thông, bán hàng và marketing, thậm chí làm thay đổi diện mạo của nhiều lĩnh vực kinh doanh. Thương mại điện tử được định nghĩa đơn giản là kinh doanh dựa trên kỹ thuật điện tử. Thương mại điện tử bao gồm việc chia sẻ các thông tin kinh doanh được tiêu chuẩn hoá, cấu trúc và phi cấu trúc qua các phương tiện điện tử như: thư hay thông điệp điện tử, công nghệ World Wide Web, trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) và nhận dữ liệu tự động. Theo các kết quả nghiên cứu về TMĐT cho tới nay, TMĐT sẽ mang lại những đột phá lớn về hiệu quả và tăng khả năng hội nhập thị trường trong và ngoài nước bởi thương mại điện tử tác động đến mộ trong bốn kênh của hoạt động kinh doanh hiện đại đó là kênh thông tin. Nghiên cứu mới đây của tập đoàn Giga information Group Inc đã chỉ ra rằng tổng mức tiết kiện chi phí kinh doanh do sử dụng thương mại điện tử đạt từ 17 tỷ USD năm 1998 đã tăng lên 1250 tỷ USD năm 2002. Tuy nhiên theo khảo sát thực tế của Viện tin học Doanh nghiệp tại Đà Nẵng, đa số doanh nghiệp ở Đà Nẵng chủ yếu là vừa và nhỏ nên việc triển khai kinh doanh thương mại điện tử còn rất hạn chế. Có đến 63,1% doanh nghiệp thừa nhận không sử dụng dịch vụ nào qua mạng máy tính. Số doanh nghiệp tại Đà Nẵng có website là 18,8%, nhưng phần lớn chỉ mang tính chất giới thiệu, chưa dùng vào mục đích quản lý, điều hành và khai thác kinh doanh, và chỉ có 2% website phục vụ cho thương mại điện tử. Vì vậy, công tác này cần phải được sự đầu tư đúng mực của nhà nước và các doanh nghiệp, cũng theo kết quả khảo sát cho thấy rằng đầu tư của doanh nghiệp nặng về phần cứng, thiếu đầu tư cho giải pháp tổng thể nên có tới 85,5% doanh nghiệp ứng dụng CNTT chỉ để phục vụ cho công tác văn phòng. Trong các phần mềm được các doanh nghiệp sử dụng, phần mềm kế toán chiếm 57%; phần mềm quản lý khách sạn và nhà hàng 1,5%; phần mềm quản lý nhà cung cấp 7,4%; phần mềm quản lý khách hàng 11,4%; phần mềm quản lý nhân sự và tiền lương 14%; phần mềm quản lý công văn tài liệu 4,1% và phần mềm khác 4,6%. Hiện nay, có gần 80% doanh số TMĐT được thực hiện thông qua giao dịch giữa các doanh nghiệp (B2B). Giao dịch này được thực hiện dưới nhiều hình thức buôn bán trực tuyến các hàng hoá và dịch vụ đến việc tạo ra liên minh thông tin giữa các hãng/công ty. Lợi ích của TMĐT đối với hoạt động kinh doanh nói chung thể hiện trên các mặt: Tăng năng suất của các doanh nghiệp do đạt hiệu quả cao hơn trong việc quản lý mua sắm và lượng dự trữ ( việc kiểm kê hàng hoá không cần giấy tờ, tiết kiệm một số lượng lớn vốn lưu động,..). Tăng năng suất do cải thiện được hệ thống kênh phân phối trong và ngoài nước. Tiết kiệm được chi phí thực hiện các giao dịch bán lẻ qua mạng. Tăng nhanh khả năng phổ biến và tiếp thu công nghệ,... Tới Từ Người tiêu dùng Doanh nghiệp Chính phủ Người tiêu dùng C2C Email Các quảng cáo được phân loại C2B Đặt hàng trực tuyến theo catalogue điện tử C2G Nộp bản khai thuế thu nhập bằng hình thức điện tử Doanh nghiệp B2C Dịch vụ trực tuyến trên mạng B2B Các hợp đồng bán hàng, hợp đồng vận tải, chứng từ thanh toán. B2G Khai báo hải quan,... Chính phủ G2C Dịch vụ trực tuyến trên trang web G2B Trả lời của hải quan,.. G2G Thống nhất các số liệu thống kê, thuế VAT,.. Hình 3.2 Ma trận cấu trúc thương mại điện tử Đối với các nước đang phát triển và chuyển đổi nền kinh tế, những nước đang bị bất lợi lớn do không tiếp cận được hoặc do ít tiếp cận được các nguồn thông tin thì thương mại điện tử càng mang lại những lợi ích đặc biệt ngoài những lợi ích chung như trên những lợi ích này bắt nguồn từ: Giảm bớt các rào cản đối với việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh chất lượng cao dẫn đến khả năng tiếp cận các dịch vụ này dễ dàng và hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp nhỏ có thể tiến hành quản cáo trực tuyến tới khách hàng tiềm năng ở khắp nới trên thế giới trong khi nếu sử dụng các phương tiện truyên thống để thực hiện hoạt động này thì phải mất rất nhiều thời gian và tiền bạc mà hiệu qủa có thể không được như ý muốn. Tăng cường khả năng tiếp cận các mắc xích trong hệ thống cung ứng. TMĐT tuy có những lợi thế to lớn như vậy nhưng việc khai thác những lợi thế của thương mại điện tử không phải dễ dàng, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển và các nước chuyển đổi nền kinh tế nơi còn thiếu năng lực thương mại điện tử còn thiếu nhiều về các yếu tố cấu thành nên thương mại điện tử. Điều quan trọng là phải có các biện pháp đồng bộ để ứng dụng và phát triển nhanh TMĐT. 1.2. Những thách thức mới từ môi trường kinh doanh quốc tế đối với xuất khẩu và XTXK của Việt nam và thành phố Đà Nẵng Những thay đổi của môi trường kinh doanh quốc tế một mặt tạo ra những cơ hội mới cho hoạt động XK và XTXK của đất nước nhưng mặt khác lại đặt ra những thách thức lớn hơn cho sự phát triển XK cho từng vùng và cho cả nước. Những thách thức chính có thể kể tới là: Sự hài hoà nhu cầu các chương trình xúc tiến xuất khẩu Đó là việc đảm bảo sự phù hợp và hiệu quả giữa các chương trình XTXK nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội xuất khẩu trước mắt và các chương trình xúc tiến xuất khẩu nhằm khuyến khích nền vằn hoá xuất khẩu quốc gia về lâu dài. Các nhà xây dựng chiến lược xuất khẩu quốc gia thường có cách tiếp cận XTXK sâu rộng hơn theo hướng tập trung sự hỗ trợ của nhà nước vào các sản phẩm có thể trước mắt nhưng chưa xuất khẩu được nhưng về lâu dài sẽ là những sản phẩm đóng góp chính vào phát triển xuất khẩu của đất nước. Trái với cách nhìn của giám đốc các doanh nghiệp xuất khẩu muốn sự hỗ trợ của nhà nước tập trung vào việc giúp doanh nghiệp tận dụng các cơ hội đang có, hay giúp họ vượt qua những khó khăn trước mắt để họ xuất khẩu được. Phân định rõ các yêu cầu: Các nhà hoạch định chiến lược XK quốc gia phải phân định rõ đầu là nhu cầu của khu vực kinh doanh đối với các dịch vụ XTXK và đâu là sự cần thiết trước mắt của các doanh nghiệp đối với dịch vụ xúc tiến này. Trong khi từng nhà quản lý doanh nghiệp hoặc nhà kinh doanh xuất khẩu cụ thể thường chỉ quan tâm đến một dịch vụ XTXK cá biệt nào đó mà họ cần. Trong khi các nhà hoạch định chiến lược xuất khẩu quốc gia lại phải quan tâm hơn tới những vấn đề chung bao trùm cả cộng đồng kinh doanh; nhìn thấy những điểm yếu chung của cộng đồng xuất khẩu mà từng doanh nghiệp có khi không có hoặc không nhận ra. Thường thì các doanh nghiệp ít quan tâm tới các dịch vụ XTXK mà họ cho là không giúp gì cho họ nhưng thực tế tác động làm thay đổi cơ cấu tổ chức và giúp nâng cao năng lực quản lý của doanh nghiệp để doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh lâu dài. Để phân định rõ nhu cầu và yêu cầu đối với các dịch vụ XTXK, các nhà hoạch định chiến lược xuất khẩu quốc gia nên lựa chọn cách tiếp cận đa dạng đối với các dịch vụ này dựa trên. Các mục tiêu phát triển xuất khẩu cần đạt được. Nhu cầu hiện tại của khu vực kinh doanh đối với các dịch vụ xúc tiến và hỗ trợ xuất khẩu. Các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh về lâu dài. Tăng cường khả năng thích ứng của doanh nghiệp với sự thay đổi của môi trường kinh doanh để đảm bảo năng lực cạnh tranh. Trong thời đại cách mạng thông tin và truyền thông ngày nay, người mua hầu như tiếp cận được mọi thông tin cần thiết về các nguồn cung cấp tiềm năng ở khắp nơi vì vậy các nhà xuất khẩu ngày nay ngoài các yếu tố như giá cả, sản phẩm còn phải tính đến các yếu tố khác như xây dựng hệ thống phân phối trực tuyến, đặt hàng trực tuyến,...Năng lực đáp ứng nhu cầu khách hàng của doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào khả năng thích ứng, sự mềm dẻo và linh hoạt, việc thông tin và giao hàng an toàn nhanh chóng, dễ dàng và thuận tiện,... Lựa chọn doanh nghiệp: Cần phải xác định từng loại doanh nghiệp phù hợp với từng mức hỗ trợ, đối với các doanh nghiệp lớn thì chỉ cần hỗ trợ ở một mức nhất định, còn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì cần có sự quan tâm hơn. Mức quy định đối với các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là: các doanh nghiệp đạt hiệu quả có kim ngạch xuất khẩu nhỏ hơn 200.000 USD sẽ được hỗ trợ tối đa 50% chi phí cho các hoạt động nhưng tổng mức hỗ trợ không quá 30 triệu đồng Việt Nam /1 lần tham dự hội chợ, các doanh nghiệp đạt hiệu quả có kim ngạch xuất khẩu từ 200.000 USD trở lên sẽ được hỗ trợ tối đa 50% chi phí cho các hoạt động nhưng tổng mức hỗ trợ không quá 50 triệu đồng Việt Nam /1 lần tham dự hội chợ. Ngoài ra các nhà hoạch định xuất khẩu quốc gia còn cần thiết kế các chương trình xúc tiến đặc biệt để tạo ra các nhà xuất khẩu mới. Mức quy định này tại thành phố Đà Nẵng là hỗ trợ tối đa 50% chi phí cho các hoạt động đối với các doanh nghiệp chưa ký kết được hợp đồng hoặc chưa có kim ngạch xuất khẩu Tăng cường năng lực xuất khẩu: Trên thực tế thì, năng lực sản xuất và cung ứng hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế vì vậy phải có cách chính sách, biện pháp hỗ trợ, khuyến khích các nhà sản xuất kinh doanh trong nước tiếp thu những tri thức mới để nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu và công tác đào tạo, phát triển năng lực công nghệ của nước ta còn nhiều vấn đề cần phải xem xét. Xây dựng mạng lưới. Các nhà hoạch định chiến lược xuất khẩu quốc gia, khi xác định các yêu cầu và nội dung của công tác XTXK luôn đứng trước thách thức phải xây dựng các chiến lược đồng bộ, có sự bổ sung hoàn chỉnh lẫn nhau, tạo ra mạng lưới liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trong một ngành then chốt. Hạ thấp chi phí giao dịch xuất khẩu: Các chi phí như chi phí thông tin viễn thông, chi phí cấp giấy chứng nhận chất lượng, chi phí vận tải, chi phí giao dịch tài chính,...là những chi phí liên quan trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp giảm được những chi phí này một cách tối ưu sẽ làm cho doanh nghiệp càng thuận lợi hơn trong việc xuất khẩu hàng hoá vào những thị trường trọng điểm, thị trường tiềm năng. Theo tính toán, chi phí giao dịch thương mại đang chiếm từ 7 - 10% doanh số hoạt động của doanh nghiệp, chi phí này sẽ được rút giảm nếu ứng dụng tốt hệ thống thương mại điện tử (ở Đà Nẵng các doanh nghiệp ứng dụng hệ thống này chỉ chiêm 37%). Tăng tốc quốc tế hoá của các doanh nghiệp nội địa Quốc tế hoá có lẽ là vấn đề còn yếu kém nhất của các doanh nghiệp, quốc tế hoá thể hiện trên nhiều phương diện cả về mặt nhận thức lẫn hành động, do vậy nếu muốn phát triển XK thì cần phải thay đổi nhận thức của doanh nghiệp trước tiên vì nó tác động trực tiếp đến khả năng sản xuất của doanh nghiệp. Thiết lập các mối quan hệ chiến lược: Đa số các doanh nghiệp quen với việc thực hiện từng hợp đồng tạm thời trước mắt mà quên đi các lợi ích về lâu dài, do đó rất dễ bị vướng mắc nhiều vấn đề phát sinh trong mỗi lần thực hiện và không bền vững dẫn đến việc thực hiện rời rạc hoặc không có khả năng khi gặp những hợp đồng lớn dẫn đến bỏ qua nhiều cơ hội kinh doanh. Khuyến khích đầu tư nước ngoài: Việc xúc tiến đầu tư nước ngoài có tầm quan trọng đặc biệt đối với hoạt động xuất khẩu vì đầu tư nước ngoài được coi là yếu tố chủ chốt để phát triển năng lực xuất khẩu đạt tiêu chuẩn cạnh tranh quốc tế. Đầu tư nước ngoài có thể mở ra các thị trường xuất khẩu mới và xúc tác chuyển giao công nghệ và thông tin.Chính vì vậy mà vai trò của FDI đối với xuất khẩu chiếm một vị trí quan trọng trong việc tạo dựng năng lực sản xuất, năng lực công nghệ, cạnh tranh, đóng góp một cách đáng kể vào dòng luân chuyển vốn của quốc gia,... Các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường XK do chính phủ đề ra trong năm 2008 tại thành phố Đà Nẵng: Định hướng và giải pháp để thực hiện kế hoạch xuất khẩu 2008 tại thành phố Đà Nẵng: Tập trung thúc đẩy những mặt hàng xuất khẩu chủ lực có kim ngạch lớn có đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng XK, cụ thể như:dệt may, thuỷ sản, nông lâm sản,.. Nông lâm sản: Theo dự báo về sản lượng và giá thị trường có tăng hoặc đứng ở mức cao, nhóm sản phẩm này tiếp tục gặp thuận lợi. Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu cafe (đã xuất sang 30 nước) và có chiến lược giữ vững bạn hàng (thị trường kỳ hạn và các bạn hàng chính : Thuỵ Sĩ, Đức, Mỹ,..). Chú ý khai thác thị trường Trung Quốc đối với các loại nông sản như sắn lát, bột sắn,...Khai thác triệt để hiệp định thương mại hàng hoá khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc. Tranh thủ các hợp đồng của chính phủ và tổng công ty lương thực miền Nam để đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Trung Quốc, Indonesia,... Thuỷ sản: Với những cảnh báo của thị trường nhập khẩu về dư lượng thuốc kháng sinh trong thuỷ sản là những việc cần giải quyết dứt điểm, cần có sự kiểm soát chặt chẽ từ khâu thu mua, nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng lại niềm tin đối với phía Nhật Bản. Tích cực đa dạng hoá danh mục các sản phẩm qua chế biến như: các loại thuỷ sản ăn liền, thuỷ sản chế biến sẵn, đóng gói, nhằm tạo sự lựa chọn đa dạng cho khách hàng. Bên cạnh các thị trường truyền thống như Mỹ, EU, Hong Kong cần chú ý các thị trường Hàn Quốc ( hiệp định thương mại hàng hoá khu vực mậu dịch tự do ASEAN_Hàn Quốc) đẩy mạnh các thị trường Nga, Trung Đông, Nam và Trung Mỹ. Dệt may: Đây là mặt hàng năng lực sản xuất của thành phố khá ổn định và có chất lượng, tuy nhiên dưới áp lực cạnh tranh với sản phẩm của Trung Quốc, Ấn Độ và phải chịu cơ chế giám sát của Hoa Kỳ, do đó cần phải có sự phối hợp giữa Doanh nghiệp với các cơ quan để kiểm soát chống chuyển tải hàng dệt may bất hợp pháp vào Hoa Kỳ, thực hiện đúng quy chế C/O. Chủ động đa dạng hoá thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu vào Hà Lan, Nhật Bản, Đức, Pháp,...gia tăng thị phần tại các thị trường khác (đã xuất khẩu qua 51 quốc gia nhưng giá trị còn thấp) không nên tập trung quá vào thị trường Hoa Kỳ, giảm tải tăng trưởng nóng đối với các mặt hàng thuộc diện giám sát vào thị trường này. Chuyển dần từ việc gia công sản phẩm sang bán thành phẩm. Hàng giày dép: Nhóm này xuất sang 40 quốc gia; các doanh nghiệp cần tập trung sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế, được thị trường Bắc Mỹ ưa chuộng như:giầy thể thao, giày da nam nữ, dép trong nhà,...Chuyển đổi linh hoạt các chủng loại hàng xuất khẩu vào thị trường EU, khai thác thị trường có nhu cầu lớn như Canada, Brazil, Mexico, các nước Nam Mỹ và đông Âu. Hàng thủ công mỹ nghệ- đò gỗ nội thất: Nhóm đồ gỗ đã xuất sang 16 quốc gia, tuy nhiện giá trị chưa cao; nhóm TCMN có đa dạng hơn về chủng loại sản phẩm kết hợp giữa mây, tre, lá, thuỷ tinh, kim loại sang hơn 40 quốc gia. Cần đẩy hoạt động XTXK, quảng bá sản phẩm qua hội chợ triển lãm và qua internet. Tăng cường mối quan hệ và hoạt động có hiệu quả trong hiệp hội gỗ và lâm sản; Hiệp hội TCMN và cục xúc tiến để liên kết đầu mối nhập khẩu và cung ứng gỗ nguyên liệu, hỗ trợ về XTXK. Nhóm điện, điên tử: Các sản phẩm này chủ yếu của các doanh nghiệp FDI nên rất ổn định về thị trường xuất khẩu và có giá trị gia tăng cao, xu hướng có kim ngạch xuất khẩu lớn. Nhóm xuất khẩu dịch vụ: Tập trung phát triển các dịch vụ thu ngoại tệ như du lịc, tài chính, ngân hàng, viễn thông, xuất khẩu lao động. Phối hợp với các ngành thúc đẩy các dự án dịch vụ thu ngoại tệ nhằm phát triển XK dịch vụ. Về chính sách thị trường xúc tiến thương mại: Năm 2008 đề xuất bổ sung, sửa đổi chính sách xúc tiến thương mại, phát triển thị trường theo định hướng của thành phố (dùng tiền thưởng XK để thực hiện XTTM) nhằm mục tiêu duy trì ổn định thị phần tại các thị trường trọng điểm, có sức mua lớn. - Tập trung xây dựng 50 gian hàng của các doanh nghiệp trên cổng giao tiếp thương mại điện tử của thành phố Đà Nẵng. - Quan tâm xuất khẩu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, nhất là trong việc đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, coi đây là nguồn lực đột phá để đẩy mạnh xuất khẩu thành phố trong năm 2008 và những năm đến. Về thị trường trong nước Quy hoạch tổng thể mạng lưới thương mại trên địa bàn thành phố đến năm 2020. Tăng cường công tác quản lý nhà nước theo quy hoạch trên địa bàn thành phố. - Thực hiện quy hoạch hệ thống mạng lưới chợ theo quyết định 167/QĐ-UB. Xã hội hoá, kêu gọi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thương mại trên địa bàn thành phố: các trung tâm thương mại, siêu thị, chợ. Tăng cường hoạt động giám sát các chợ của ban quản lý chương trình phát triển chợ thành phố Đà Nẵng. - Tổ chức và phối hợp tổ chưc tốt các hội chợ triển lãm trên địa bàn thành phố, thúc đẩy hoạt động khuyến mãi bán hàng tăng sức mua cảu người dân. - Đẩy nhanh và hiện đại hoá phương thức và công nghệ kinh doanh thương mại phát triển theo hướng văn minh hiện đại, tăng chường công tác quản lý của nhà nước đối với loại hình kinh doanh siêu thị- trung tâm thương mại. Từng bước tiếp cận thương mại điện tử, thanh toán bằng thẻ tín dụng. - Tổ chức lại mạng lưới bán lẻ, đầu tư xây dựng lại các chợ theo chương trình phát triển chợ theo quy hoạch. Tiếp tục giải toả, sắp xếp lại các chợ theo quy hoạch. Tiếp tục chuẩn đầu tư, nâng cấp các chợ.:chợ mới, chợ hàn, chợ cồn, chợ đầu mối theo mô hình chợ vệ sinh, an toàn thực phẩm. - Hỗ trợ tạo mọi điều kiện nhằm thúc đẩy nhanh sự liên kết và hình thành những công ty bán lẻ trên thị trường thành phố, phát triẻn hệ thống phân phối hàng hoá hnư các tổ chức dịch vụ về vận tải, kho hàng, tài chính, bảo hiểm,...để tăng cường chuyên môn hoá và chất lượng dịch vụ. - Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường nhất là chống hàng lậu, hàng giả lưu thông trên thị trường. Tăng cường công tác xúc thương khẩu hội nhập quốc tế Phối hợp triển khai và phổ biến cho doanh nghiệp các thủ tục, luật pháp quốc tế. Thực hiện chương trình xúc tiến TM năm 2008 trong đó tập trung vào các thị trường trọng điểm cho các sản phẩm chủ lực và tiềm năng. Phối hợp với các ngành tập trung xây dựng thương hiệu cho 2 sản phẩm thuộc các sản phẩm chủ lực của thành phố. Triển khai khuyến khích các doanh nghiệp làm hàng lưu niệm và quà tặng về thành phố Đà Nẵng : chương trình du lịch mùa hè, hội chợ hàng việt Nam chất lượng cao,...triễn lãm ở trong và ngoài nước. Khai thác có hiệu quả trung tâm hội chợ triển lãm Đà Nẵng, tổ chức hội chợ quốc tế tại Đà Nẵng và tiến đến tổ chức hội chợ quốc tế thường niên. Nâng cao chất lượng tổ chức các hội chợ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Thông qua các cuộc hội chợ triển lãm tại Đà Nẵng để mời gọi doanh nghiệp đầu tư, mở chi nhánh, văn phòng đại diện, đại lý,...tại Đà Nẵng. Tham mưu xây dựng hệ thống dịch vụ trên tuyến hành lan kinh tế Đông Tây ( gồm các nước trong tuyến). Đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá về thương mại Đà Nẵng với các tổ chức và doanh nghiệp quốc tế. Thực hiện nghị quyết 16/NQ-CP. Triển khai chương trình hành động của thành phố sau khi gia nhập WTO. Tăng cường đào tạo nâng cao chất lượng lao động thương mại Tăng cường phối hợp tố chức các khoá đào tạo về kinh tế đối ngoại, nghiệp vụ thương mại, nâng cao nhận thức, hiểu biết về các định chế thương mại quốc tế (WTO,ASEAN,FTA,...)cho cán bộ và doanh nghiệp. Hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài của chính phủ mà thành phố đã ban hành, tiến hành đồng thời gải quyết nhanh chóng các thủ tục hành chính giúp nhà đầu tư giảm chi phí, hỗ trợ và tạo điều kiện cho các nàh đầu tư tiếp cận nguồn vốn tín dụng, ưu đãi để mở rộng sản xuất. Phối hợp với các ngành tham mưu thành phố thực hiện tốt việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế cho các mặt hàng chủ lực: thuỷ sản, may mặc, da giày, lốp ôtô, sản phẩm mỹ nghệ,...của thành phố. Khuyến khích phát triển hệ thống thiết kế thời trang, mẫu mã và tổ chức giới thiệu sản phẩm thời trang mới tại hội chợ nhằm khuyếch trương trong nước và xuất khẩu. Thiết lập các mối liên kết vùng nhằm phát triển nguồn nhiên liệu, phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, vận tải quá cảnh. Tiếp tục phối hợp với các tỉnh bạn liên kết vùng kinh tế trong điểm nhằm thu hút hàng hoá, nguyên liệu trong vùng để chế biến xuất khẩu. Phối hợp với các tỉnh miền Trung liên kết thành một thị trường lớn và tiêu thụ sản phẩm. Tăng cường hợp tác với các tỉnh trong và ngoài nước nhằm phát triển hành lang kinh tế Đông Tây; hợp tác phát triển các tiểu vùng sông Mêkông và hành lan kinh tế phía Bắc với Trung Quốc.. trong lĩnh vực thương mại. Một số giải pháp chung của chính phủ trong việc đẩy mạnh hoạt động XTXK trong tình hình mới. Các doanh nghiệp đã từng sử dụng dịch vụ xúc tiến thương mại (XTTM) đều cho rằng, chất lượng dịch vụ còn ở mức trung bình và tính chuyên nghiệp chưa cao. Theo các DN, hầu hết các hoạt động XTXK thường tập trung vào việc duy trì, tìm kiếm và mở rộng khách hàng/thị trường để bán hàng hoá mà doanh nghiệp có chứ chưa gắn liền với hoạt động phân phối sản phẩm để tạo ra những sản phẩm độc đáo của riêng mình. Sự bất cập này dẫn đến những tình trạng thị trường nước ngoài mới có danh mà không có thực, sự có mặt của hàng hoá Việt Nam còn mỏng, không vững chắc, không ít trường hợp không duy trì được thị  trường. Hiện nay cả nước mới có 50 địa phương thành lập được Trung tâm XTTM, 14 địa phương còn lại chưa có Trung tâm XTTM mà chỉ có bộ phận chuyên trách cấp phòng đảm nhiệm công tác này tại các Sở Thương mại hoặc Sở Thương mại Du lịch. Các hoạt động XTTM nhất là xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu vẫn bao gồm các hoạt động tình thế tập trung như hội chợ triển lãm, các đoàn khảo sát thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, đại đa số các tổ chức thương mại cũng như các doanh nghiệp không có chiến lược hoặc kế hoạch XTTM cụ thể. Nếu có thì những chiến lược và kế hoạch này cũng không được thực hiện một cách đầy đủ. Do vậy, không ít hoạt động XTTM không có mục tiêu cụ thể, tiến hành một cách bị động, không được chuẩn bị rõ ràng, không có trọng tâm và trọng điểm hoặc chưa gắn với những mặt hàng. Yếu kém này đã làm cho công tác XTTM không hiệu quả. Vậy, điều mà các doanh nghiệp mong chờ nhất hiện nay là một hệ thống XTTM chuyên nghiệp, mạnh từ trung ương tới địa phương, trong đó lấy đối tượng khách hàng của mình là các doanh nghiệp làm trung tâm, XTTM phải hướng vào thị trường và sản phẩm cụ thể, phương thức triển khai phải chuyên nghiệp, sáng tạo. Cục XTTM  đã đưa ra 7 giải pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động XTTM, hỗ trợ DN tăng cường sức cạnh tranh trong điều kiện hội nhập sâu rộng vào WTO như hiện nay: Một là: đổi mới cơ chế chính sách, trước hết về tài chính, vừa huy động được nhiều nguồn tài lực cho XTTM, vừa động viên những người tâm huyết với sự nghiệp XTTM. Sớm ra đời Quỹ XT thương mại – đầu tư – du lịch thay cho Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Hai là: hoàn thiện hệ thống XTTM, tạo ra sự liên kết, phối hợp giữa các Tổ chức XTTM, vừa đảm bảo hài hoà lợi ích của mỗi thành viên vừa phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống. Trước mắt, ban hành văn bản pháp lý quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, bộ máy của tổ chức XTTM địa phương, để hoàn chỉnh mô hình này. Ba là: trên cơ sở khảo sát tổng thể hiện trạng về cơ sở hạ tầng cho XTTM, sẽ điều tra khảo sát và xây dựng các dự án hài hoà trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của toàn quốc cũng như của địa phương. Tập trung tài lực xây dựng các Trung tâm HCTL, Trung tâm tổ chức Hội nghị và Sự kiện, Sàn giao dịch…, ngang tầm khu vực và thế giới. Bốn là: tăng cường công tác đào tạo nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác XTTM đạt chuẩn quốc tế về kỹ năng XTTM, ngoại ngữ, làm nguồn cội để đảm bảo ngày càng nâng cao tính chuyên nghiệp của hoạt động này. Năm là: hoàn thiện xây dựng chiến lược về XTTM, trong đó xây dựng thị trường, mặt hàng trọng điểm, thị trường, mặt hàng tiềm năng. Mỗi tổ chức XTTM cần có hồ sơ cơ bản, được cập nhật tình hình về từng thị trường, sẵn sàng tư vấn cho các DN. Sáu là: phát triển ứng dụng công nghệ điện tử, tăng cường năng lực khai thác, tiếp nhận, phân tích, xử lý, dự báo thông tin trong lĩnh vực sản xuất, lưu thông, đặc biệt ở các Sở Thương mại, các tổ chức XTTM địa phương. Nâng cao khả năng nhận biết sớm các rào cản, kịp thời giải toả trên nguyên tắc công bằng trong thương mại quốc tế. Bảy là: không ngừng mở rộng hợp tác với các Tổ chức XTTM quốc tế, tranh thủ sự trợ giúp kỹ thuật, tài lực, đào tạo nguồn lực, chia xẻ kinh nghiệm. Trong đó, cơ chế chính sách được đặc biệt nhấn mạnh, Chính phủ đang có chủ trương thành lập Quỹ  XTTM - Đầu tư – Du lịch thay thế cho Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Các khoản chi cho chương trình XTTM quốc gia sẽ lấy từ Quỹ này. Hệ thống tổ chức theo hướng chuyên nghiệp – năng động - hiệu quả cũng sẽ đặc biệt được chú trọng. Hơn nữa, để tận dụng tối đa các cơ hội tham gia XTTM cho doanh nghiệp, đồng thời tránh tổ chức trùng lặp các hoạt động, các cơ quan XTTM địa phương cần gửi danh mục kế hoạch hoạt động hằng năm và dài hạn về Cục XTTM để tổng hợp thành danh sách các hoạt động XTTM trên cả nước. Danh mục này được đăng trên website của Cục XTTM để các cơ quan và doanh nghiệp cùng tham khảo. Bên cạnh đó, một giải pháp không kém phần quan trọng được Cục XTTM đặt ra là tiến hành khảo sát, quy hoạch nhằm đánh giá thực trạng hệ thống hạ tầng kỹ thuật XTTM trên cả nước, sớm chỉ ra cần phải đầu tư những cơ sở hạ tầng nào, ở đâu, quy mô và mức độ đầu tư đến đâu, khi nào cần đầu tư…. Ngoài ra, việc tăng cường  công tác đào tạo, nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác XTTM; tăng cường liên kết lẫn phối hợp giữa các cơ quan XTTM, hiệp hội, doanh nghiệp; chú trọng công tác hoạch định, xây dựng chiến lược dài hạn về công tác  XTTM; phát triển ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động XTTM… Giải pháp cụ thể đẩy mạnh hoạt động XTXK của chính phủ cho các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Nhóm giải pháp về tổ chức, quản lí Nhìn vào bộ máy tổ chức, quản lí của cục XTTM ở Đà Nẵng chúng ta đều có thể nhìn thấy rằng có quá nhiều các cấp quản lý trung gian trong bộ máy, tuy nhiên các cấp quản lý này lại rời rạc không bám sát vào công việc của từng bộ phận mà chỉ có trách nhiệm điều hành, phân bổ các nguồn tài lực và thông báo nghị quyết của chính phủ cho các bộ phận hoạt động, điều này sẽ dẫn đến một tình trạng rằng do có quá nhiều cấp quản lý nên công việc trở nên loãng, một số người thì quá tất bật với nhiệm vụ được giao phó còn một số người thì quá nhàn rỗi. Thêm vào đó bộ máy quản lý, sẽ trở nên lỏng lẻo, không kích thích được từng cá nhân trong từng bộ phận làm việc, dẫn đến tình trạng nghi kị, ghen ghét công việc lẫn nhau. Do vậy, theo kiến nghị của tôi chúng ta nên bỏ bớt các cấp quản lý như thay vì có hai phó giám đốc chúng ta có thể bỏ bớt một mà thay vào đó là bộ phận kiểm soát viên hoạt động bao trùm lên tất cả các bộ phận, có trách nhiệm giám sát, theo dõi hiệu quả làm việc của từng bộ phận kể cả đối với cấp cao nhất. Mặt khác trong bộ máy tổ chức của chúng ta ở cách tổ chức các bộ phận có thừa mà cũng có thiếu, thừa là thừa quá nhiều các cấp quản lý như đã nói ở trên nhưng lại thiếu trầm trọng các phòng nghiên cứu và cung cấp thông tin hỗ trợ cho các doanh nghiệp cả ở trong nước và quốc tế. Có thể nói rằng nhiệm vụ chính của các cơ quan XTTM chính phủ là cung cấp thông tin và hỗ trợ các doanh nghiệp cả ở trong và ngoài nước, tuy nhiên trong các bộ phận của cục XTTM Đà Nẵng chúng ta lại không cho thấy được điều này. Nên nhớ rằng đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tìm kiếm thông tin hay cần sự hỗ trợ thì họ luôn mong muốn được nhận một cách dễ dàng nhất với chi phí thấp nhất, trong thời gian sớm nhất và điều cần thiết trước hết là họ biết chỗ mà họ có thể tìm được những thông tin đó là ở dâu. Tuy nhiên với cách tổ chức như hiện nay thì việc đựơc những thông tin này ở Đà Nẵng nói riêng và Việt nam nói chung là quá khó khăn. Bạn không thể để cho một khách hàng hay một nhà đầu tư lớn cứ phải chạy đi chạy lại từ phòng này qua phòng khác để tìm kiếm các thông tin về giá cả, thị trường, sức mua, dân số, quy mô,..., có nghĩa là các văn phòng của Việt nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng hiện nay quá rời rạc, mỗi phòng giữ một thông tin khác nhau và muốn có một thông tin chung hoàn chỉnh về khoảng thời gian nào đó thì luôn nhận được một lời hứa hẹn “lúc nào có chúng tôi sẽ liên lạc sau”. Vô hình chúng ta đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội để phát triển kinh tế của thành phố và còn làm mất lòng tin của nhiều doanh nghiệp. Ở Việt Nam hiện nay chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài còn nhiều sự chênh lệch, do vậy chúng ta có thể thành lập phòng hỗ trợ kinh doanh quốc tế dành cho các nhà đầu tư nước ngoài và phòng hỗ trợ kinh doanh trong nước dành cho các doanh nghiệp trong nước, và các máy móc ở đây nên được kết nối với tất cả các bộ phận cung cấp thông tin để có thể cho ra các kết quả thông tin một cách kịp thời và dầy đủ nhất. Như đã nói ở trên, công nghệ là cái mà chúng ta cần có nhất trong thời điểm hiện nay, nhất là khi Việt Nam đã gia nhập WTO và chịu sự tác động trực tiếp của thị trường thế giới. Với một nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam thì ngoài việc nghiên cứu chúng ta cần phải học hỏi công nghệ của các nhà đầu tư nước, ý nghĩa học hỏi ở dây không có nghĩa là rập khuôn máy móc mà là cải tiến, cách tân, đổi mới do vậy sự cần thiết phải có các bộ phận như nghiên cứu hoặc hợp tác quốc tế là rất quan trọng. Hiện nay ở Việt Nam, mỗi tỉnh thành thiết lập quan hệ với nước ngoài đều có một văn phòng đại diện ở nơi đó. Như Đà Nẵng đã thiết lập văn phòng đại diện với các tỉnh Phukhet, Densavanh ở Thái Lan, Quảng Tây (Trung Quốc), Savanakhet ở Lào, Tokyo (Nhật Bản),...tuy nhiên việc thiết lập các văn phòng như thế này chẵng những không đáp ứng được nhu cầu thông tin trong nước, duy trì những mối quan hệ thương mại lỏng lẻo mà còn làm phát sinh nhiều vấn đề về chi phí, năng lực và nhân sự. Do vậy giải pháp mà tôi đưa ra là: Đối với những nước có các văn phòng giành cho nước ngoài như hiệp hội các nước đang phát triển ở Nhật Bản, chúng ta có thể tham gia vào với tư cách là một nhà đầu tư hay một thị trường xuất khẩu, đối với những nước không có các văn phòng này nhưng lại có các tổ chức giành cho các doanh nghiệp nước ngoài, chúng ta cũng có thể tham gia nếu được phép, còn đối với những nước không cho phép có sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài thì có thể trao đổi, kết hợp với một vài văn phòng đại diện của các nước khác hoặc các tỉnh khác trong cùng một nước, ví dụ như: văn phòng đại điện Đà Nẵng kết hợp với văn phòng đại diện của tp Hồ Chí Minh tại Tokyo (Nhật Bản); hay thường xuyên trao đổi, đặt quan hệ với văn phòng đại điện của Seun (Hàn Quốc) đang đóng tại Tokyo chẳng hạn. Bằng cách này chúng ta có thể học hỏi rất nhiều từ nước bạn, thu thập được rất nhiều thông tin về tình hình các nước, và cũng có thể tìm thấy được một bạn hàng mới. Ngoài ra, chúng ta cần phải có một sự đầu tư đúng mức trong việc áp dụng hệ thống thông tin thương mại điện tử, để có thể đáp ứng một cách nhanh chóng và kịp thời cho các doanh nghiệp cần hỗ trợ. Hiện này, cục XTTM ở Đà Nẵng tuy đã có trang web riêng nhưng nội dung ở các trang web hỗ trợ của cục còn quá nghèo nàn và chưa có phần giải đáp thắc mắc trực tuyến cho người sử dụng dịch vụ. Các thông tin, số liệu thống kê trên các trang web này không mang tính cập nhật thường xuyên mà chỉ là những thông tin cũ, không giúp ích được gì nhiều cho các nhà đầu tư mới vào Đà Nẵng. Giao diện của trang web không mang tính chuyên nghiệp, chưa có phần tìm kiếm thông tin nên gây khó khăn cho người đọc trong việc tìm kiếm những thông tin mà họ quan tâm. Vì vậy, việc xây dựng các hệ thống thông tin thương mại điện tử như: website, các văn phòng dịch vụ thông tin điện tử, cổng thông tin kết nối với các tỉnh thành khác,...theo tôi cũng cần phải được quan tâm lưu ý. Nhóm giải pháp về các dịch vụ hỗ trợ: Trong các loại hình dịch vụ hỗ trợ thì dịch vụ đào tạo là loại hình cần phải lưu tâm nhiều nhất và có nhiều sai sót nhất. Do công tác này còn chưa gắn với thực tế mà chỉ được xây dựng dựa trên nền tảng lý thuyết đã cũ kỹ và thường là đào tạo không theo đúng chuyên môn của từng ngành. Một điều đáng buồn là, các cuộc tập huấn của chính phủ thường quy định số người tham gia ở mỗi doanh nghiệp, thậm chí ở một số các hội nghị còn có tình trạng điểm danh, do có quá ít doanh nghiệp đến tham dự. Theo tôi kết quả của vấn đề này là do chúng ta chưa có một chương trình cụ thể cho các buổi tập huấn, các cuộc hội thảo, hội nghị. Lẽ ra trước khi diễn ra các cuộc hội thảo này chúng ta phải công bố nội dung sẽ được bàn đến cho các doanh nghiệp hay các cơ quan nhà nước quan tâm được biết, việc làm này cần phải có sự giúp dỡ của các giáo sư, các giảng viên tham gia trong chương trình, và phải nêu rõ hội nghị, hội thảo đó do ai chủ trì, vì mục đích gì, nhằm đến đối tượng nào và ai sẽ là người thuyết giảng. Mặt khac do những chính sách hỗ trợ XK và khuyến khích xuất khẩu ở nước ta cong chưa được áp dụng một cách hiệu quả. Mức hỗ trợ còn quá thấp lại không linh đông, chưa hỗ trợ được gì nhiều cho các doanh nghiệp. Nhất là trong tình hình hiện nay, luôn có sự biến động về giá cả thị trường làm cho giá của các mặt hàng, nguyên liệu cũng tăng theo gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của doanh nghiệp. Do đó, đối với thành phố Đà Nẵng, để có thể hỗ trợ một cách tốt nhất cho các doanh nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu chúng ta có thể thành lập các quỹ hỗ trợ xuất khẩu riêng của thành phố, nguồn kihn phí của quỹ được thu theo một tỷ lệ nhất định trong trị giá nhập khẩu (ví dụ như ở Thái Lan tỷ lệ này là 0,5%)và tốt nhất là các quỹ này nên có sự liên kết với các ngân hàng hoạt động trên địa bàn thành phố, để có thể hỗ trợ cho DN một cách nhanh chóng và hiệu quả. Ngoài ra, thành phố có thể thành lập các kênh hỗ trợ qua điện thoại hoặc qua website. Các kênh thông tin này sẽ được kết nối trực tiếp với các bộ phận hỗ trợ thông tin cho DN. Nhóm giải pháp về xúc tiến, khuyến khích xuất khẩu Trong những thời gian gần đây, thành phố Đà Nẵng cũng đã có nhiều chương trình nhằm khuyến khích thu hút các DN tham gia XK. Như mở các hội chợ triễn làm trong nước và quốc tế, cử các phái đoàn tham gia thị sát thị trường nước ngaòi. Tuy nhiên, do có sự hạn chế về nguồn vốn và năng lực quản lý nên các chương trình này còn chưa được hiệu quả lắm. Đôi khi các chuyến đi thị sát trở thành một chuyến du lịch cho các thành viên trong đoàn, còn các buổi hội chợ triễn lãm thì lại thưa thớt khách tham dự lẫn các doanh nghiệp hoặc các mặt hàng trưng bày không có gì mới mẻ. Do vậy, đối với việc tổ chức các buổi hội chợ, triễn lãm chúng ta nên giới thiệu thông báo với các doanh nghiệp trước đó một khoảng thời gian dài, để doanh nghiệp có sự chuẩn bị. Đồng thời yêu cầu các DN tham gia phải lập danh mục hàng hoá sẽ được trưng bày, có thể hỗ trợ một phần chi phí và thông tin cho các doanh nghệp tham gia và nên có các giám sát viên thường xuyên túc trực ở các sự kiện này. Ngoài ra, để tạo ra dấu ấn riêng cho các sản phẩm của thành phố chúng ta có thể trích một phần kinh phí tổ chức các cuộc thi thiết kế mẫu mã. Có một điều mà thành phố Đà Nẵng còn rất yếu kém đó là công tác quảng cáo và thông tin quần chúng. Như việc diễn ra cuộc thi bắn pháo hoa quốc tế vào tháng trước, công tá thông tin của chúng ta rất chậm chạp, đến gần sát ngày thi mà mọi thông tin vẫn còn rất mù mờ gây rối loạn cho công tác tổ chức, xắp xếp và nhiều vấn đề khác. Vì vậy nên thành lập một ban tuyên truyền riêng của thành phố có trách nhiệm giới thiệu, quảng bá hình ảnh về sản phẩm, các ngành, các sự kiện nổi bật của thành phố. KẾT LUẬN Việc đề ra các giải pháp trên dựa theo những phân tích về những điểm mạnh yếu của thành phố trong công tác XTTM nói chung và XTXK nói riêng, dựa trên sự so sánh với các hoạt động này ở Thái Lan và Nhật Bản và có ý kiến chủ quan của người thực hiện đề tài này. Một số giải pháp trong bài được đề ra dưới sự đóng góp ý kiến của một số nhân viên đang làm việc trong các cơ quan chính phủ tại sở Công Thương Thành phố Đà Nẵng nhằm làm sáng rõ một vài vấn đề trong công tác quản lý, tổ chức, hỗ trợ và khuyến khích XTXK trong các cơ quan của chính phủ tại thành phố, đồng thời đưa ra một số nhận xét về chủ quan của một số nhân viên trong các doanh nghiệp đã từng được hỗ trợ nên mong rằng những giải pháp này có thể giúp ích cho việc nhìn nhận về vấn đề XTXK ở thành phố Đà Nẵng một cách rõ ràng hơn, xúc tích hơn, đầy đủ hơn và có thể gợi trong người đọc một hướng giải quyết khác tốt hơn chẳng hạn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt Xúc tiến xuất khẩu của chính phủ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ - Nhà xuất bản lao động –xã hội Hà Nội 2003 Báo cáo xây dựng kế hoạch ngành thương mại - Sở thương mại thành phố Đà Nẵng Giới thiệu thị trường nước ngoài – Bộ thương mại, Cục xúc tiến thương mại 2003 Cam kết cắt giảm thuế quan trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN - TrungQuốc - uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế 2006 Tiếng Anh NHÂN XÉT CỦA CƠ QUAN THỰC TẬP MỤC LỤC Chương1: Tổng quan về hoạt động Xúc Tiến thương mại trong lĩnh vực xuất khẩu Khái niệm, vị trí, vai trò của xúc tiến xuất khẩu Khái niệm xúc tiến xuất khẩu Khái niệm xúc tiến thương mại Xúc tiến thương mại và xúc tiến xuất khẩu Xúc tiến xuất khẩu và Marketing xuất khẩu Xuất khẩu và xúc tiến xuất khẩu Phân loại hoạt động xúc tiến xuất khẩu Xúc tiến xuất khẩu quốc tế Xúc tiến xuất khẩu quốc gia Xúc tiến xuất khẩu ở doanh nghiệp Vai trò của hoạt động XTXK Vị trí của hoạt động xúc tiến xuất khẩu XTXK chính phủ và mạng lưới XTXK quốc gia XTXK của chính phủ Định nghĩa, mục đích, đối tượng của xúc tiến xuất khẩu chính phủ Vị trí và vai trò của xúc tiến xuất khẩu chính phủ Nội dung hoạt động xúc tiến xuất khẩu chính phủ Quản lí nhà nước về xúc tiến xuất khẩu Trực tiếp thực hiện các hoạt động xúc tiến xuất khẩu XTXK của các tổ chức hỗ trợ thương mại Phối hợp hoạt động xúc tiến xuất khẩu với các cơ quan chính phủ và các doanh nghiệp trong mạng lưới xúc tiến thương mại Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, thuận lợi hoá thương mại và xúc tiến xuất khẩu cho khách hàng có yêu cầu. Xây dựng năng lực chuyên môn xúc tiến xuất khẩu Đào tạo nguồn nhân lực cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu XTXK ở các doanh nghiệp Các thể chế thương mại toàn cầu và các tổ chức XTTM quốc tế Tổ chưc thương mại thế giới (WTO) Trung tâm thương mại quốc tế (ITC) Phòng thương mại quốc tế (ICC) Các tổ chức hỗ trợ thương mại quốc tế khác Thực tiễn XTXK của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm 4.1.Nhật Bản Nhu cầu xúc tiến xuất khẩu ở Nhật Bản Tổ chức ngoại thương Nhật Bản (JETRO) Các biện pháp chính sách xúc tiến xuất khẩu của chính phủ Nhật Bản 4.2.Hàn Quốc Nhu cầu xúc tiến xuất khẩu ở Hàn Quốc Những biện pháp chính sách và thành tựu của chính phủ Hàn Quốc Thái Lan Bài học kinh nghiệm. Chương 2: Thực trạng hoạt động xúc tiến xuất khẩu của chính phủ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng năm 2007 Khái quát tình hình xuất khẩu trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Vài nét sơ lược về sở thương mại thành phố Đà Nẵng Nhiệm vụ và quyền hạn của sở thương mại 2.1.1 Về công tác quy hoạch, kế hoạch và tổ chức thị trường: 2.1.2 Về công tác phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện pháp luật về thương mại 2.1.3 Về công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát thị trường: 2.1.4 Về công tác đào tạo: Tổ chức bộ máy Công tác XTXK của chính phủ cho các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Thực trạng XTXK của chính phủ 3.1.1 Chính phủ với việc tạo dựng, hoàn thiện môi trường kinh doanh theo cơ chế thị trường Chinh phủ với việc xây dựng chiến lược, quy hoạch XTXK Chính phủ và công tác điều phối hoạt động XTXK Hợp tác XTXK của chính phủ Chính phủ với việc hỗ trợ các doanh nghiệp XTXK Quỹ hỗ trợ XK của nhà nước Các dịch vụ hỗ trợ cụ thể dành cho doanh nghiệp Công tác XTXK của chính phủ cho các doanh nghiệp Việt Nam Những tồn tại, hạn chế trong hoạt động XTXK của chính phủ Những hạn chế trong hoạt động XTXK 4.1.1 Những hạn chế trong nhận thức về XTXK Những hạn chế trong công tác quản lí Những hạn chế trong các dịch vụ hỗ trợ Những tồn tại trong hoạt động XTXK và nguyên nhân của nó Chương 3: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu của chính phủ cho các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Những thay đổi và tác động của nó đối với hoạt động XTXK ở Việt Nam nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng. Những bối cảnh mới trong thương mại quốc tế. Tự do hoá thương mại theo WTO Xu hướng thị trường mới Thương mại điện tử Những thách thức mới từ môi trường kinh doanh quốc tế đối với xuất khẩu và XTXK của Việt nam và thành phố Đà Nẵng Các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường XK do chính phủ đề ra trong năm 2008 tại thành phố Đà Nẵng 2.1 Định hướng và giải pháp để thực hiện kế hoạch xuất khẩu 2008 tại thành phố Đà Nẵng: Về thị trường trong nước Tăng cường công tác xúc thương khẩu hội nhập quốc tế Tăng cường đào tạo nâng cao chất lượng lao động thương mại Hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh Thiết lập các mối liên kết vùng nhằm phát triển nguồn nhiên liệu, phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, vận tải quá cảnh. Một số giải pháp chung của chính phủ trong việc đẩy mạnh hoạt động XTXK trong tình hình mới Giải pháp cụ thể đẩy mạnh hoạt động XTXK của chính phủ cho các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số giải pháp nhằm đẩy mạnh xúc tiến thương mại trong lĩnh vực xuất khẩu của chính phủ cho các doanh nghiệp đà nẵng.doc
Luận văn liên quan