Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty xây dựng Sông Đà 11

Muốn tồn tại và phát triển được trước sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường hiện nay, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Tại công ty xây dựng sông Đà 11, vốn lưu động là nguồn vốn quan trọng nhất phục vụ trực tiếp quá trình kinh doanh, lưu chuyển vật tư, hàng hoá và thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn hoạt động. Vì vậy việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh phải luôn đặt trong viêc nâng cao công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn lưu động, đây chính là mục tiêu cơ bản của chi nhánh.

pdf100 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2431 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty xây dựng Sông Đà 11, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp luôn tồn tại các khoản vốn trong thanh toán đó là các khoản phải thu và các khoản phải trả, quản lý tốt các khoản này thì hiệu quả sử dụng vốn sẽ tăng, doanh nghiệp sẽ chủ động trong việc chi trả các khoản nợ đến hạn, hay đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn để tài trợ cho quá trình sản xuất kinh doanh được thường xuyên liên tục, hiệu quả sử dụng vốn trong thanh toán được biểu hiện qua hai chỉ tiêu cơ bản đó là: 3.2.1 Vòng quay các khoản phải thu. Từ số liệu cuả bảng 9 cho thấy, tình hình thu hồi công nợ của chi nhánh trong năm 2001 nhìn chung là không tốt, cụ thể số vòng quay các khoản phải thu của chi nhánh năm 2001 thấp hơn so với năm 2000, năm 2000 số vòng quay các khoản phải thu là 4,3 vòng, nhưng sang đến năm 2001 số vòng quay các khoản phải thu chỉ còn 4,02 vòng, giảm 0,28 vòng. Điều này chứng tỏ hiệu quả công tác thu hồi các khoản nợ của chi nhánh là chưa tốt. Hơn nữa, số dư các khoản công nợ phải thu ở thời điểm cuối niên độ của chi nhánh trong hai năm 2000 và 2001 vẫn còn rất cao (năm 2000 là 7.431.614.000đ chiếm 23,7% trên tổng vốn lưu động, năm 2001 là 8.630.395.000đ tương ứng với tỷ lệ 25,2% trên tổng vốn lưu động). Do đó khi số vòng quay các khoản phải thu giảm sẽ làm cho số vốn bị khách hàng chiếm dụng tăng cụ thể trong năm 2001 số vốn này đã tăng tới 16,1% so với cùng kỳ năm 2000. Như vậy trong thời gian tới chi nhánh cần phải chú trọng hơn nữa tới việc thu hồi các khoản phải thu tránh tình trạng ứ đọng vốn trong thanh toán làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động. 3.2.2 Kỳ thu tiền bình quân. Là một chỉ tiêu đo thời gian của vòng quay các khoản phải thu, nên khi vòng quay các khoản phải thu giảm thì số ngày bình quân trên một vòng quay sẽ tăng. Năm 2001 kỳ thu tiền bình quân của chi nhánh tăng 5,9 ngày so với năm 2000, đưa số ngày cần thiết cho một lần thu hồi công nợ bình quân từ 84,9 ngày năm 2000 nên 90,8 ngày năm 2001, việc kéo dài kỳ thu tiền bình quân sẽ làm số vốn lưu động bị khách hàng chiếm dụng tăng. Hiện nay ở chi nhánh để thu hồi được một khoản phải thu, trung bình chi nhánh phải mất 3 tháng một khoản thời gian rất lớn, đành rằng chi nhánh là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản có thời gian thi công và thu hồi vốn dài hơn các loại hình doanh nghiệp sản xuất khác nhưng thời gian thu hồi công nợ lớn hơn nhiều so với quy chuẩn chung của ngành (*).1 Là một điều không tốt, trong thời gian tới chi nhánh cần nghiên cứu, áp dụng các biện pháp cần thiết để đẩy nhanh tốc độ thu hồi công nợ như: nghiên cứu kỹ khả năng tài chính của khách hàng trước khi ký kết hợp đồng hoặc sử dụng giá chiết khấu trong thanh toán nhằm làm giảm các khoản nợ phải thu, giảm tình trạng vốn bị chiếm dụng trong kinh doanh. 3.3 Hiệu quả sử dụng vốn vật tư hàng hoá. Vốn vật tư hàng hoá là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn lưu động, nên hiệu quả sử dụng vốn vật tư hàng hoá có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng và hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung. Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn vật tư hàng hoá được thể hiện thông qua số vòng luân chuyển và số ngày bình quân một vòng luân chuyển vốn vật tư hàng hoá của chi nhánh. Năm 2001 số vòng quay của vốn vật tư hàng hoá tăng 0,03 vòng so với cùng kỳ năm 2000, lên đã làm cho số ngày luân chuyển bình quân của một vòng quay vốn vật tư hàng hoá giảm đi 4,3 ngày. Đưa số ngày cần thiết cho một vòng quay vốn vật tư hàng hoá giảm từ 231 ngày năm 2000 xuống còn 226,7 ngày *1 Quy chuẩn xây dựng Việt Nam, Ban hành theo quyết định số 682/BXD – CSXD ngày 14/12/1996 và quyết định số 439/BXD – CSXD ngày 25/9/1997 của Bộ trưởng Bộ xây dựng thì số ngày cần thiết để thu hồi các khoản thanh toán sau bàn giao công trình là từ 45 ngày đến 60 ngày, trong các trường hợp đặc biệt không vượt quá 90 ngày sau bàn giao công trình”. năm 2001. Đây là một kết quả tốt, để thấy được ảnh hưởng của nó đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tôi giả sử rằng số vòng quay của vốn vật tư hàng hoá vẫn như năm 2000, thì để đạt được doanh thu theo giá vốn (giá vốn hàng bán) như năm 2001 chi nhánh cần phải đầu tư: 34.740.938.000  1,58 = 21.987.936.000đ Như vậy, nhờ tốc độ luân chuyển tăng nên mà năm 2001 chi nhánh đã tiết kiệm được một khoản vật tư là: 21.987.936đ - 21.521.436.000 = 466.500.000. Đây là một kết quả khả quan chi nhánh cần phát huy, khai thác trong thời gian tới. 4. Khả năng thanh toán của chi nhánh. Như đã trình bày ở chương 1 các hệ số này đo lường khả năng đáp ứng các ràng buộc pháp lý về tài chính của doanh nghiệp (nghĩa là thanh toán các khoản nợ ngắn hạn). Khi doanh nghiệp có đủ tiền, doanh nghiệp sẽ tránh được việc vi phạm các ràng buộc pháp lý về tài chính và vì thế tránh được nguy cơ chịu các áp lực về tài chính. Khả năng thanh toán của chi nhánh tốt hay xấu ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động của chi nhánh.Bởi vậy để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động không thể không đánh giá tình hình và khả năng thanh toán của chi nhánh. Khả năng thanh toán của chi nhánh được thể hiện qua một số chỉ tiêu như khả năng thanh toán hiện thời, khả năng thanh toán nhanh và khả năng thanh toán tức thời ở bảng sau. Bảng 10: Khả năng thanh toán của chi nhánh trong 2 năm 2000 và 2001. ĐVT: 1000đ T T Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch 2000/2001 Số tiền TL% 1 Tổng tài sản lưu động 31.307.152 34.247.549 2.940.549 9,4 - Tài sản bằng tiền 2.123.593 2.270.632 147.039 6,9 - Các khoản phải thu 7.431.614 8.630.395 1.198.781 16,1 - Hàng lưu kho 20.219.534 21.521.436 1.301.902 6,4 - Tài sản lưu động khác 1.532.411 1.825.086 292.675 19,2 2 Tổng nợ ngắn hạn 27.494.610 28.779.453 1.284.843 4,7 * Hệ số thánh toán hiện thời 1,14 1,19 0,05 4,3 * Hệ số thanh toán nhanh 0,4 0,44 0,04 10 * Hệ số thanh toán tức thời 0,077 0,079 0,002 2,6 Nguồn tính toán từ số liệu của bảng CĐKT năm 2000 và 2001. 4.1 Hệ số thanh toán hiện thời . Kết quả hệ số thanh toán hiện thời cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn (phải thanh toán trong một năm hay 1 chu kỳ kinh doanh) của chi nhánh là khả quan, cả hai năm 2000 và 2001 hệ số này đều lớn hơn 1 và năm 2001 tăng cao hơn năm 2000 là 4,3%, đưa hệ số thanh toán hiện thời của chi nhánh tăng từ 1,14 năm 2000 lên 1,19 năm 2001. Có được kết quả này là do năm 2001 vốn lưu động được đầu tư tăng thêm 2,940.397.000đ với tốc độ tăng 9,4%, còn tổng nợ ngắn hạn chỉ tăng 1.284.843.000đ tương ứng với tỷ lệ tăng 4,7%. Như vậy, cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều tăng nhưng tốc độ tăng của tài sản lưu động nhanh hơn tốc độ tăng của nợ ngắn hạn, nên khả năng thanh toán hiện thời của chi nhánh năm 2001 đã tăng cao hơn so với năm 2000. Tuy nhiên hệ số thanh toán hiện thời chỉ có ý nghĩa rất bao quát và chủ yếu nói lên tình hình tài trợ của tài sản lưu động cho các khoản nợ ngắn hạn của chi nhánh chứ chưa thực sự phản ánh chính xác về khả năng thanh toán của chi nhánh. Ngoài ra, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản bộ phận chi phí sản xuất kinh doanh dở dang (hàng lưu kho) tuy là một bộ phận cấu thành của tài sản lưu động, nhưng đó thường mới chỉ là tính toán chủ quan của chi nhánh chứ chưa chắc chắn đã được chủ đầu tư chấp nhận thanh toán. Vì vậy, khi phân tích khả năng thanh toán của chi nhánh, ta cần phân tích thêm các chỉ tiêu cụ thể hơn như hệ số thanh toán nhanh và hệ số thanh toán tức thời. 4.2 Hệ số thanh toán nhanh. Như đã trình bày ở chương 1, hệ số thanh toán nhanh đo lường mức độ đáp ứng nhanh của vốn lưu động trước các khoản nợ ngắn hạn. Trong tài sản lưu động của doanh nghiệp hiện có thì vật tư hàng hoá có tính thanh khoản thấp nhất. Vì vậy khi xác định hệ số thanh toán nhanh người ta đã trừ phần hàng tồn kho ra khỏi tài sản đảm bảo thanh toán nhanh. Với nguyên tắc như vậy, kết quả tính toán từ bảng 10 cho thấy trong năm 2001 hệ số thanh toán nhanh của chi nhánh đã khả quan hơn so với năm 2000, với tốc độ tăng 10% đã đưa hệ số thanh toán nhanh của chi nhánh tăng từ 0,4 năm 2000 lên 0,44 năm 2001. Xét về mặt lý thuyết, hệ số này thường lấy tiêu chuẩn bằng 1 để so sánh nên có thể thấy chi nhánh đang gặp khó khăn trong việc giải quyết công nợ đến hạn. Tuy nhiên, do đặc thù riêng trong ngành xây dựng cơ bản thì chỉ tiêu này có thể chấp nhận được. Để cải thiện hệ số thanh toán nhanh, ban quản trị tài chính chi nhánh đã cố gắng tăng tài sản lưu động nhanh hơn và hạn chế tương đối tốc độ tăng của nợ ngắn hạn. Trong năm 2001 mặc dù hàng tồn kho vẫn tăng 1.301.902.000 nhưng lại giảm về tỷ trọng (năm 2000 chiếm 64,6% trên tổng tài sản lưu động, thì năm 2001 chỉ còn 62,8%) nên đã làm lượng tài sản có tính thanh khoản cao tăng nhanh, chính vì vậy mà hệ số thanh toán nhanh của chi nhánh được cải thiện. 4.3 Hệ số thanh toán tức thời . Chỉ tiêu này với ý nghĩa cứ một đồng công nợ ngắn hạn thì hiện tại doanh nghiệp có bao nhiêu đơn vị tiền tệ tài trợ cho nó, nếu chỉ tiêu này cao phản ánh khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp là tốt, nếu chỉ tiêu này mà thấp thì khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp là chưa tốt. Với nguyên tắc như vậy hệ số thanh toán tức thời được xác định bằng công thức: Với chi nhánh, chỉ tiêu này được thể hiện thông qua tính toán ở bảng 10 cho thấy, năm 2001 chỉ tiêu này được cải thiện với tốc độ tăng 2,6% so với cùng kỳ năm 2000, nhưng ngay cả khi đã được cải thiện thì tỷ số này vẫn còn rất thấp (0,079 năm 2001 và 0,077 năm 2000). Đây là tình trạng đáng báo động, chỉ số này quá thấp là điều rất nguy hiểm. Vì theo lý thuyết chỉ số này sẽ đạt mức an toàn khi nó bằng từ 0,5 đến 1. Để cải thiện hệ số thanh toán tức thời chi nhánh có thể chuyển đổi một số tài sản lưu động khác sang hình thức “khoản đầu tư ngắn hạn” như trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc, cổ phiếu… vì khi tính hệ số thanh toán tức thời người ta đã cộng các khoản này vào cùng với tiền mặt, vì coi nó có tính thanh khoản tương đương tiền mặt. Nhưng hiện nay, chi nhánh vẫn chưa đầu tư vào các loại này, đây cũng là tình trạng chung của nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Các khoản đầu tư ngắn hạn không chỉ có ích về tính thanh khoản mà chúng còn đem lại một nguồn thu nhập đáng kể nếu chi nhánh đầu tư hiệu quả, chi nhánh nên nghiên cứu đầu tư vào khoản mục này, đặc biệt với những khoản tiền nhàn rỗi. Hiện nay thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động, chi nhánh cũng cần có đội ngũ nhân lực có kiến thức để có thể phân tích đầu tư hiệu quả vào thị trường này. Biết rằng việc duy trì tiền mặt ở mức quá cao sẽ làm hiệu quả đầu tư thấp do tính không sinh lời của chúng, song nếu duy trì ở mức quá thấp sẽ khiến chi nhánh gặp khó khăn trong thanh toán tức thời, bị động về tài chính, bỏ nỡ nhiều cơ hội kinh doanh. Qua phân tích nhóm chỉ tiêu thanh toán cho thấy tình hình thanh toán của chi nhánh còn gặp nhiều khó khăn, các nhà quản trị tài chính chi nhánh cần theo dõi thường xuyên các khoản nợ đến hạn, đồng thời có chính sách đầu tư tài chính ngắn hạn hợp lý sao cho có thể chuyển đổi các tài sản lưu động thành tiền một cách nhanh nhất, sẵn sàng đáp ứng các khoản nợ đến hạn của chi nhánh. Tiền mặt HTT = Đồng thời kết hợp với chính sách kế hoạch hoá nguồn tiền mặt, tích cực thu hồi các khoản phải thu. Quản lý chặt nguồn tài chính, có như vậy chi nhánh mới có khả năng đứng vững và phát triển trên thị trường. iV. Đánh giá chung về công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động của chi nhánh trong hai năm 2000 và 2001. Trong quá trình kinh doanh của một doanh nghiệp, đạt được hiệu quả kinh doanh là một vấn đề hết sức phức tạp, nó không chỉ đơn thuần được kiến tạo từ một yếu tố hay một lĩnh vực cụ thể mà đó là sự kết tinh của tất cả các yếu tố trong quá trình kinh doanh xẩy ra với doanh nghiệp và mục tiêu cuối cùng mà tất cả các doanh nghiệp đều hướng tới đó là kinh doanh có hiệu quả. Để đạt được mục tiêu này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để một đồng vốn doanh nghiệp bỏ vào trong kinh doanh phải mang lại hiệu quả cao nhất và khả năng sinh lời cao nhất. Song, là một doanh nghiệp nhà nước, hoạt động trong lĩnh vực xây lắp, phải đối mặt với nhiều khó khăn thử thách trên thị trường. Trong những năm qua với sự cố gắng nỗ lực của ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên, chi nhánh đã đạt những thành tích nhất định cụ thể là: 1. Những kết quả đạt được : Những thành tựu nổi bật trong sản xuất kinh doanh của chi nhánh được thể hiện qua hai năm 2000 và 2001 là: Một là: Quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của chi nhánh ngày càng được mở rộng thể hiện ở sự gia tăng về cả giá trị lẫn tỷ trọng tổng tài sản và nguồn vốn, doanh thu và lợi nhuận. Điều này cho thấy sự phát triển mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực hoạt động, sự định hướng đúng đắn trong quá trình kinh doanh của chi nhánh. Hai là: Chi nhánh đã thành công trong việc huy động vốn, mặc dù vốn huy động chủ yếu là vốn vay ngắn hạn, nhờ vậy mà quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục. Ba là: Cơ cấu vốn của chi nhánh là tương đối hợp lý, vốn lưu động chiếm một tỷ trọng lớn và tăng đều qua các năm, vốn cố định chiếm một tỷ trọng nhỏ và có xu hướng giảm dần. Điều này là phù hợp với một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp. Bốn là: Tình hình tài chính và khả năng thanh toán của chi nhánh liên tục được cải thiện qua các năm, Điều này cũng giúp cho chi nhánh có được mối quan hệ, hợp tác lâu dài với ngân hàng, các đối tác làm ăn… tạo uy tín và vị trí vững chắc trong nền kinh tế. Ngoài ra, trong những năm trở lại đây chi nhánh liên tục làm ăn có lãi, hoàn thành tốt mọi chỉ tiêu kế hoạch và luôn là ngọn cờ đầu trong công ty xây dựng Sông Đà 11. Mặc dù hiệu quả sử dụng vốn, sản xuất kinh doanh của chi nhánh chưa theo kịp tốc độ huy động và sử dụng tài sản hoạt động sản xuất kinh doanh, song sự mở rộng vẫn đem lại sự tăng trưởng trong doanh thu cũng như lợi nhuận cho chi nhánh, điều đó được thể hiện ở việc tăng doanh thu trong năm 2001 với số tuyệt đối là 3.103.073.000đ ứng với tỷ lệ tăng 8,2%, thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước tăng 434.875.000đ tương ứng với tỷ lệ 42,8%, đời sống của cán bộ công nhân viên được tăng cao, uy tín của chi nhánh không ngừng được mở rộng trên thị trường. Có được những thành quả trên là nhờ vào sự năng động sáng tạo của ban lãnh đạo chi nhánh cùng sự cố gắng nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên trong chi nhánh đặc biệt là phòng kinh tế kỹ thuật đã thực hiện tốt vai trò quản lý sử dụng tài sản và cung cấp thông tin cho ban lãnh đạo chi nhánh. Bên cạnh những ưu điểm trên, công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động tại chi nhánh vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục. 2.Những vấn đề tồn tại: Thứ nhất: Việc đảm bảo khả năng thanh toán của chi nhánh chưa thực sự tốt, ngoài hệ số thanh toán hiện thời mang tính khái quát còn các hệ số thanh toán nhanh, hệ số thanh toán tức thời (hệ số thanh toán bằng tiền) là những chỉ tiêu chi tiết hơn đều chưa đạt được mức tối ưu. Điều này tiềm ẩn rủi ro mất khả năng thanh toán, nếu như chi nhánh vấp phải những biến động lớn của thị trường. Thứ hai: Thực trạng công tác quản lý và phân tích hiệu quả sử dụng vốn ở chi nhánh còn nhiều bất cập, do thực hiện giao khoán nên các nguồn lực được giao trực tiếp cho các đội trưởng tự chịu trách nhiệm cung ứng nguyên vật liệu, thuê nhân công, giám sát thi công, trong khi ở các đội lại không có nhân viên kế toán và bộ phận quản lý công trường do chi nhánh bổ nhiệm. Do vậy không ai dám chắc rằng sẽ không có những gian lận, khai khống, sử dụng vốn sai mục đích… còn các nhà quản trị tài chính lại chưa tiến hành kiểm tra giám sát một cánh thường xuyên liên tục được. Thứ ba: Việc quản lý và sử dụng các khoản mục của vốn lưu động còn nhiều vướng mắc, điển hình như số vòng quay các khoản phải thu năm 2001 giảm 0,28 vòng, so với cùng kỳ năm 2000, làm số vốn bị ứ đọng trong khâu thanh toán tăng mạnh (tăng 16,1% so với năm 2000) do vậy đã làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của chi nhánh. Thứ tư: Trong công tác thanh toán còn nhiều vướng mắc ở thủ tục thanh quyết toán, lập hồ sơ và thẩm định công trình. Vì phần lớn các công trình mà chi nhánh thi công đều có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cấp, nên các bản nghiệm thu, bàn giao, thanh quyết toán đều có giám sát, kiểm tra thẩm định của các cơ quan chủ quản hoặc cơ quan cấp vốn cho bên chủ đầu tư. nên khi gặp sự không thống nhất giữa các cơ quan này thì việc thanh quyết toán sẽ bị đình lại cho đến khi có sự thống nhất của các cơ quan này thì việc thanh toán mới được tiếp tục. Thứ năm: Hiện nay, việc giao khoán các công trình, hạng mục công trình cho các tổ đội xây dựng còn mang tính chất “chia phần”, phương thức đấu thầu chưa được áp dụng rộng rãi dẫn đến phát sinh nhiều tiêu cực trong khâu giao và nhận thầu, chưa gắn liền được lợi ích vật chất của người lao động với chất lượng và tiến độ thi công, chưa phát huy được tính chủ động sáng tạo và khai thác tiềm năng sẵn có của đơn vị thi công về mọi mặt. Tóm lại, công tác tổ chức sử dụng vốn lưu động tại chi nhánh đã đạt được những thành quả nhất định, đặc biệt trong bối cảnh khó khăn hiện nay càng có ý nghĩa rất quan trọng, tạo tiền đề vững chắc cho chi nhánh hoàn thành thắng lợi kế hoạch sản xuất kinh doanh trong giai đoạn đầu tiên của thiên niên kỷ mới. Tuy nhiên, để đạt được điều đó chi nhánh cần từng bước tháo gỡ tất cả những khó khăn vướng mắc trên, đặc biệt trong khâu huy động, quản lý, sử dụng vốn lưu động và tạo được niềm tin, động lực trong lao động cho cán bộ công nhân viên, cũng như uy tín với khách hàng, nhà cung cấp, các tổ chức tín dụng của chi nhánh. Chương III Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty xây dựng số 18 chi nhánh Hà nội. I. Mục tiêu và định hướng phát triển của chi nhánh trong thời gian tới. 1. Mục tiêu: Để theo kịp với đà phát triển chung của nền kinh tế, cũng như xu hướng phát triển của ngành xây dựng, chi nhánh đã xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh trong thời gian tới với mục tiêu là nâng cao doanh thu, mở rộng thị trường, giảm bớt các khoản phải thu, phải trả nhằm nâng cao lợi nhuận của chi nhánh. Cụ thể trong giai đoạn 2001 – 2005 chi nhánh dự kiến phấn đấu mức doanh thu tăng trưởng bình quân hàng năm từ 12% - 15% so với năm trước, lợi nhuận tăng 15% – 20% mỗi năm. Năm 2002 là năm thứ 2 của giai đoạn 5 năm 2001 – 2005. Đây là năm có ý nghĩa chiến lược trong việc thực hiện thành công kế hoạch 5 năm, cũng như tạo ra động lực và dấu ấn mạnh mẽ trong phát triển kinh tế xã hội để bước vào thể kỳ 21. Chỉ tiêu kế hoạch cụ thể của chi nhánh năm 2002 như sau: Doanh thu: Dự kiến doanh thu đạt 44 tỷ đồng Lợi nhuận: Dự kiến lợi nhuận đạt 2,3 tỷ đồng Nộp ngân sách: Dự kiến nộp ngân sách 2,2 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đầu người: 1triệu/người/tháng. Các năm tiếp theo (2003 – 2005) chi nhánh tiếp tục khai thác triệt để các tiềm năng của đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, sức cạnh tranh, tiếp tục thực hiện mục tiêu ổn định và phát triển bền vững. 2. Định hướng: Để đạt được các mục tiêu đã đề ra, định hướng phát triển của chi nhánh trong thời gian tới là: * Về thị trường: Chi nhánh tiếp tục mở rộng thị trường, tìm kiếm và tham gia đấu thầu các công trình và hạng mục công trình của mọi thành phần đầu tư, tập trung khai thác những thị trường hiện tại như Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng… tiếp cận những thị trường tiềm năng như Hà Tây, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Bắc Giang… * Về sản xuất: Cơ cấu sản xuất xây lắp chiếm 85% giá trị sản xuất kinh doanh, trong đó xây dựng các công trình công nghiệp và dân dụng chiếm 75% giá trị xây lắp, xây dựng các công trình giao thông, cấp thoát nước, trạm biến áp chiếm 25% giá trị xây lắp. - Thương mại- Dịch vụ chiếm 15% giá trị sản xuất kinh doanh, trong đó kinh doanh nguyên vật liệu phục vụ ngành xây dựng chiểm 60% giá trị thương mai-dịch vụ, doanh thu cung cấp dịch vụ chiếm 40% giá trị Thương mại–dịch vụ. * Về nguồn nhân lực: Chi nhánh tiến hành đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên để đáp ứng đòi hỏi khắc khe của thị trường, không ngừng nâng cao chất lượng công trình. Thêm vào đó chi nhánh chủ trương trẻ hoá đội ngũ cán bộ, kết hợp sự năng nổ, nhiệt tình sáng tạo của tuổi trẻ với kinh nghiệm của các thế hệ đi trước nhằm tạo ra động lực mới cho sự phát triển bền vững của chi nhánh. * Về quản lý các nguồn lực tài chính: Với phương châm đáp ứng đủ cho nhu cầu, tự chủ cao trong quản lý, tiết kiệm trong sử dụng, góp phần sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của chi nhánh. Ngoài ra chi nhánh cũng đang nghiên cứu các biện pháp thúc đẩy sản xuất kinh doanh, nhất là lĩnh vực kinh doanh nhà ở chung cư cao tầng một lĩnh vực mới mẻ đầy hứa hẹn. II. Một số kiến nghị. Trong những năm qua, qúa trình hoạt động kinh doanh của chi nhánh đã đạt được một số thành tích đáng khích lệ. Đạt được kết quả này là nhờ vào sự nỗ lực và cố gắng trong công việc của toàn thể cán bộ công nhân viên trong chi nhánh, song bên cạnh những thành tích đã đạt được, chi nhánh vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục. Trên cơ sở thực trạng của chi nhánh tôi xin mạnh rạn đề xuất một số giải pháp đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại chi nhánh như sau: 1. Tăng cường công tác quản trị. Hiện nay ở chi nhánh, việc quản lý và sử dụng vốn lưu động chủ yếu được thực hiện ở các tổ đội xây lắp, vì phần lớn các công trình, hạng mục công trình đều được giao khoán trực tiếp cho các tổ đội tự chịu trách nhiệm cung ứng, thi công. Đối với các nhà quản trị việc đánh giá và phân tích công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động còn chưa được coi trọng, để quản lý chặt chẽ hơn nữa, hàng năm chi nhánh nên tiến hành phân tích đánh giá công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Việc phân tích đánh giá nên được phân tích thông qua các khoản mục cấu thành nên vốn lưu động qua đó sẽ biết được tỷ trọng của từng loại, mức đóng góp của từng loại vào doanh thu, vào lợi nhuận… từ đó xác định được nguyên nhân của sự biến động và đưa ra được các quyết định quản lý để phát huy hoặc hạn chế những ảnh hưởng của từng nhân tố nhằm đạt được lợi ích tốt nhất cho chi nhánh trong kỳ tiếp theo. Hơn nữa, thực hiện tốt các chức năng này, các nhà quản trị doanh nghiệp có thể chủ động đưa ra các giải pháp nhằm tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng và hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung. Góp phần tăng cường khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững trên thị trường. 2. Nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính. Hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh. Do vậy sẽ có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như: chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng… mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau. Phân tích tài chính mà trọng tâm là phân tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu tài chính đặc trưng thông qua một hệ thống các Phương pháp, công cụ và kỹ thuật phân tích, giúp người sử dụng thông tin từ các góc độ khác nhau vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp khái quát, lại vừa xem xét một cách chi tiết tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp để nhận biết, phán đoán và đưa ra các quyết định tài chính phù hợp. Thực tế hiện nay, tại chi nhánh Hà Nội công tác phân tích tài chính chưa được chú trọng, chẳng hạn như chi nhánh chưa dự đoán các dòng tiền ra vào doanh nghiệp, chưa phân tích các chỉ tiêu tài chính một cách đầy đủ, cụ thể… Việc phân tích tài chính chỉ được thực hiện khi có yêu cầu của ban giám đốc chi nhánh hay lãnh đạo công ty. Do vậy, các nhà quản trị tài chính cần phải tiến hành phân tích và đánh giá tình hình tài chính theo định kỳ hoặc thường xuyên, chứ không nên chỉ thực hiện khi có yêu cầu của ban lãnh đạo hay trước khi lập báo cáo tài chính năm. Điều này sẽ giúp các nhà lãnh đạo thấy được khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp mình từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn và kịp thời, không ngừng nâng cao giá trị và khả năng cạnh tranh của chi nhánh trên thị trường. Hơn nữa, việc phân tích hoạt động tài chính là một công việc không chỉ đòi hỏi trình độ chuyên môn cao mà còn tốn rất nhiều công sức. Do vậy, để nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính chi nhánh nên thường xuyên đào tạo và tuyển chọn cán bộ tài chính có năng lực, nhiệt tình trong công việc nhằm trang bị những kiến thức vững vàng trong kinh doanh cho họ. Đồng thời, lãnh đạo chi nhánh cũng phải quan tâm đến điều kiện sống và làm việc của đội ngũ này, động viên kịp thời thoả đáng. 3. Kế hoạch hoá nguồn vốn. Vốn là điều kiện tiên quyết không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường, do đó việc chủ động xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng vốn lưu động là biện pháp cần thiết, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở doanh nghiệp. Thực tế công tác quản lý, tổ chức huy động và sử dụng vốn lưu động ở chi nhánh cho thấy còn nhiều tồn tại, hạn chế như đã nêu ở chương 2, do đó ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở chi nhánh. Vậy để đảm bảo cho việc sử dụng vốn lưu động đạt hiệu quả cao thì khi lập kế hoạch huy động và sử dụng vốn lưu động chi nhánh cần quan tâm, chú ý một số vấn đề sau: Một là: Chi nhánh cần xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết tối thiểu, từ đó có biện pháp phù hợp huy động vốn đáp ứng cho nhu cầu này, tránh tình trạng thừa vốn gây lãng phí hoặc thiếu vốn ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của chi nhánh, đồng thời đảm bảo vốn huy động được quyền kiểm soát. Hai là: Sau khi xác định nhu cầu vốn lưu động, chi nhánh cần xác đinh số vốn lưu động thực có của mình, số vốn thừa (thiếu) từ đó có biện pháp huy động đủ số vốn thiếu hoặc đầu tư số vốn thừa hợp lý từ đó giảm thấp nhất chi phí sử dụng vốn lưu động, mặt khác có thể đưa số vồn thừa vào sử dụng, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Ba là: Mỗi khoản vốn cần có định hướng sử dụng hợp lý: Đối với các khoản vốn chiếm dụng là nguồn vốn chủ yếu của chi nhánh, đến ngày 31/12/2001 khoản này chiếm 65,8% trên tổng vốn lưu động của chi nhánh (nguồn: Bảng 4, chương 2). Đây là một con số rất lớn, một mặt thoả mãn nhu cầu sử dụng vốn của chi nhánh, mặt khác đòi hỏi chi nhánh phải có kế hoạch quản lý, sử dụng, hoàn trả theo thời gian cụ thể nhất quán, khả thi, nhằm phát huy tính linh hoạt của nguồn vốn này, tránh tình trạng bị động trong hoàn trả vốn sẽ gây phát sinh nhiều chi phí cho chi nhánh. Đối với khoản vốn vay ngắn hạn, tại thời điểm 31/12/2001 nguồn vốn này chiếm 19,2% trên tổng vốn lưu động tương ứng với số tiền 6.030.877.000đ (nguồn: Bảng 4, chương 2). Nguồn vốn vay tương đối thoả mãn nhu cầu sử dụng trong năm. Tuy nhiên, chi nhánh cần lập kế hoạch huy động và sử dụng theo từng kỳ khác nhau, có kế hoạch vay trả theo từng thời điểm. Bốn là: Căn cứ vào kế hoạch huy động và sử dụng vốn lưu động cần điều chỉnh cho phù hợp với thực tế của chi nhánh. Trong thực tế, chi nhánh có thể phát sinh những nghiệp vụ gây thừa vốn hoặc thiếu vốn, do đó chi nhánh cần phải chủ động cung ứng kịp thời, sử dụng vốn thừa hợp lý để đảm bảo sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả. Việc lập kế hoạch huy động và sử dụng vốn nhất thiết phải dựa vào phân tích chỉ tiêu kinh tế tài chính của kỳ trước kết hợp với dự tính tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tăng trưởng trong kỳ tới và những dự đoán về nhu cầu của thị trường. 4. Quản lý và sử dụng các khoản mục của nguồn vốn lưu động hữu hiệu hơn. Vốn lưu động của chi nhánh bao gồm vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán, vốn vật tư hàng hoá và vốn lưu động khác, chi nhánh cần quản lý hữu hiệu hơn đối với các khoản mục này. 4.1 Quản lý và sử dụng vốn bằng tiền. Trong công tác quản lý vốn bằng tiền ở chi nhánh, chi nhánh vẫn chưa lập kế hoạch tiền mặt, đây chính là hạn chế cơ bản trong việc xác định lượng dự trữ tiền mặt hợp lý. Vì vậy việc xác định mức tồn quỹ tối thiểu và lập kế hoạch tiền mặt là rất cần thiết đối với chi nhánh. Chi nhánh cần phải lập bảng thu-chi ngân quỹ và so sánh giữa thu và chi bằng tiền để tìm nguồn tài trợ nếu thâm hụt ngân quỹ, hoặc đầu tư ngắn hạn nếu dư thừa ngân quỹ, trong đó có tính đến số dư bằng tiền đầu kỳ và cuối kỳ tối ưu. Chứ không nên chỉ gửi các khoản tiền dư thừa vào ngân hàng như hiện nay vì tỷ lệ sinh lời của nó là rất thấp gây ra sự kém hiệu quả trong sử dụng vốn bằng tiền tại chi nhánh. Có rất nhiều hình thức đầu tư ngắn hạn khác nhau có khả năng sinh lời cao mà chi nhánh có thể lựa chọn như cho vay, đầu tư chứng khoán, góp vốn liên doanh… Tuy nhiên, một trong những hình thức đầu tư thường được sử dụng đó là đầu tư chứng khoán có tính thanh khoản cao đặc biệt là trong điều kiện hiện này khi thị trường chứng khoán Việt Nam đã đi vào hoạt động và gặt hái được những thành công nhất định. Khi cần thiết chi nhánh có thể chuyển đổi những chứng khoán này ra tiền mặt. Khi lập kế hoạch tiền mặt chi nhánh nên lưu ý những vấn đề sau: - Xác định mức số dư tiền mặt phù hợp - Thu thập và sử dụng tiền mặt một cách có hiệu quả. - Đầu tư tiền mặt dư thừa vào chứng khoán khả thị (khả mại). Ba yếu tố trên nếu được kết nối với qui mô, kế hoạch sản xuất kinh doanh của chi nhánh ở từng thời kỳ nhất định sẽ góp phần quản lý tốt vốn bằng tiền, chi nhánh sẽ tránh được ứ đọng hay thiếu hụt vốn, đưa khả năng sử dụng vốn lưu động của chi nhánh nên cao. 4.2 Quản lý vốn trong thanh toán. Quản lý tốt vốn trong thanh toán sẽ làm tăng tốc độ luân chuyển của vốn lưu động, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, làm tăng doanh thu và lợi nhuận cho chi nhánh. Đồng thời, điều này còn tạo uy tín và thế đứng vững vàng cho chi nhánh trên thị trường trên cơ sở thiết lập các mối quan hệ tốt đẹp với bạn hàng, hạn chế khoản vốn bị chiếm dụng đến mức thấp nhất. Tuy nhiên, việc quản lý các khoản phải thu, phải trả cũng cần đảm bảo sao cho phù hợp lợi ích giữa các bên với nhau. Để thúc đẩy tốc độ thu hồi công nợ, chi nhánh cần chú ý đến các vấn đề sau: 4.2.1 Tìm hiểu rõ thực trạng nguồn vốn của các công trình mà chi nhánh thi công. Tại chi nhánh Hà Nội cũng như nhiều công ty xây dựng khác, các công trình có nguồn vốn đầu tư khác nhau sẽ ảnh hưởng tới tiến độ thi công và có quá trình thanh quyết toán khác nhau. Đối với các công trình có vốn ngân sách nhà nước cấp thì quá trình thanh quyết toán phải chờ kết quả thẩm định giá trị khối lượng công việc hoàn thành bàn giao của các cơ quan có thẩm quyền, sau đó quá trình thanh toán còn có thể bị chậm chễ do chờ chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước hay các bộ ngành… Theo kinh nghiệm thực tế thi công qua các năm tại chi nhánh Hà Nội, thì thường các công trình có nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước được thanh toán nhanh nhất, sau đó là các công trình do ngân sách nhà nước cấp phục vụ sử dụng kinh doanh, chậm chế nhất là các công trình có vốn từ ngân sách nhà nước dành cho phúc lợi dân sinh. Việc tìm hiểu nguồn gốc nguồn vốn đầu tư cho các công trình mà chi nhánh trúng thầu như trên sẽ giúp cho chi nhánh đề ra được phương án thi công phù hợp, phương án huy động vốn cho việc khởi đầu thi công cũng như kế hoạch thu hồi vốn sau này. 4.2.2 Thực hiện tốt công tác hoàn thiện hồ sơ quyết toán. Hồ sơ quyết toán là cơ sở đầu tiên trong quá trình thu hồi vốn của mỗi công ty xây dựng, nên dù có cần qua thẩm định hay không thì ngay từ bước khởi đầu này chi nhánh cũng cần thực hiện tốt công tác hoàn thiện hồ sơ quyết toán với chủ đầu tư. Đối với các công trình có nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp thì ngoài việc hoàn thiện hồ sơ quyết toán thì chi nhánh còn nên thống nhất với chủ đầu tư về cơ quan thẩm định công trình, tránh tình trạng sau khi thi công và hoàn thiện hồ sơ quyết toán song chi nhánh xin thẩm định tại một cơ quan còn chủ đầu tư lại xin thẩm định tại một cơ quan khác… Ngoài ra chi nhánh còn có thể lựa chọn phương án thống nhất với chủ đầu tư thẩm định từng hạng mục công trình, làm đến đâu kiểm tra đến đó tránh tình trạng phá đi làm lại. 4.2.3 Nhất quán chính sách thu hồi công nợ. Ngoài việc tìm hiểu nguồn gốc vốn đầu tư và hoàn thiện hồ sơ quyết toán thì chính sách tín dụng khách hàng là khâu quan trọng quyết định sự thành công của hai giải pháp trên, cụ thể là: * Đối với khách hàng mới, ít uy tín: Chi nhánh cần yêu cầu khách hàng có thế chấp, ký cước bảo lãnh, bảo đảm thanh toán của ngân hàng hay một tổ chức có tiềm lực về tài chính. Trên cơ sở hợp đồng đã ký kết, nếu vi phạm sẽ phạt theo lãi suất quá hạn đã thoả thuận trong hợp đồng. * Với khách hàng truyền thống, khách hàng lớn, có uy tín: áp dụng hình thức thanh toán trả chậm đến 30 ngày, tối đa là 60 ngày sau khi hoàn thành thủ tục bàn giao công trình xây lắp và 30 ngày nếu là cung cấp các sản phẩm, dịch vụ. * Khách hàng trong nội bộ công ty: Xác định dư nợ thường xuyên với thời hạn thanh toán không quá 30 ngày đối với sản phẩm hàng hoá dịch vụ, không quá 60 ngày đối với sản phẩm xây lắp, thường xuyên đối chiếu bù trừ công nợ đối với các khoản nợ đến hạn. Ngoài ra, chi nhánh cần tính toán tỷ lệ chiết khấu trong thanh toán để khuyến khích khách hàng thanh toán sớm. Thực tế tại chi nhánh Hà Nội, việc quản lý các khoản phải thu, phải trả, nhất là đối với các khoản quá hạn chưa được phân tích đánh giá một cách chính xác. Việc lập dự phòng chưa dựa trên cơ sở phân độ rủi ro dự tính, số liệu chi tiết phản ánh trên sổ kế toán chưa chính xác. Chi nhánh cần đối chiếu xem xét các khoản nợ quá hạn có đúng là khó đòi hay không và đánh giá chính xác các khoản nợ khó đòi đã bị xoá sổ. 4.3 Tăng cường công tác quản lý và sử dụng hàng lưu kho. Khoản mục này nhìn chung được chi nhánh quản lý tương đối tốt. Song cũng còn một số vấn đề cần giải quyết sau: Một là: hàng lưu kho trong năm 2001 tuy có giảm về tỷ trọng nhưng vẫn còn chiếm tỷ lệ cao, năm 2000 chiếm 64,6% trên tổng vốn lưu động tương ứng số tiền 20.219.534.000 đ, năm 2001 chiến 62,8% tổng số vốn lưu động với số tiền 21.521.436.000đ (nguồn: Bảng 3 chương 2). Chi nhánh cần lưu ý quản lý khoản mục này nhằm hạn chế những thất thoát trong khâu dự trữ, giảm chi phí bảo quản, đảm bảo thu hồi lượng vốn ứ đọng này. Hai là: Nguyên vật liệu là khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong giá thành xây lắp nên chi nhánh cần phải quan tâm nhiều hơn nữa, để tăng cường tính kiểm tra, giám đốc vật tư, phòng kế toán chi nhánh cần bố trí nhân viên thường xuyên theo dõi chi phí vật tư tại các đội công trình, phòng kinh tế kỹ thuật cần bố trí cán bộ quản lý có kinh nghiệm về tổ chức, giám sát thi công tại công trường hỗ trợ các đội trưởng về kỹ thuật, quản lý xây lắp và lập kế hoạch thi công. Ba là: Trong thi công đôi khi chi nhánh phải ngừng thi công do phải chờ chỉnh sửa thiết kế, để có thể phần nào khắc phục thiệt hại trong trường hợp này, trước khi thi công chi nhánh cần yêu cầu chủ đầu tư khảo sát thiết kế thật kỹ lưỡng. Bên cạnh đó chi nhánh cần đưa ra những điều khoản cam kết thoả thuận cụ thể về trách nhiệm vật chất đối với việc làm chậm tiến độ thi công, lấy đó làm căn cứ yêu cầu chủ đầu tư có trách nhiệm bồi thường đối với những tổn thất do ngừng thi công gây ra. Bốn là: Đối với sản phẩm kinh doanh dở dang: Các công trình, hạng mục công trình sau khi đã khởi công xây dựng chi nhánh nên tập trung nhân lực, vật lực để đẩy nhanh tốc độ thi công, phấn đấu bàn giao cho chủ đầu tư đúng và trước thời hạn của hợp đồng. Với những công trình đã hoàn thành, chi nhánh cần đẩy mạnh khâu xúc tiến thẩm định để sớm được bàn giao cho chủ đầu tư. Tránh tình trạng công trình đã hoàn thành mà chưa được thẩm định bàn giao, làm ứ đọng vốn, tăng chi phí bảo quản, lãng phí nhân công, vật tư. 5. Quản lý chi phí phát sinh và thiệt hại trong sản xuất. Chúng ta đều biết rằng tình trạng lãng phí thất thoát vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản đang là vấn đề bức xúc đối với nhà nước, hiện nay con số đó vào khoản 15% - 25% thậm chí còn có thể lên tới 30% hoặc hơn nữa. Thực trạng này đến nay vẫn chưa có một cơ quan nào tổng kết, đánh giá một cách tương đối chính xác mức độ thất thoát này. Tình trạng lãng phí thất thoát này do cả nguyên nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan gây nên. Đối với chi nhánh, khi phát sinh các khoản lãng phí, thất thoát này thì trách nhiệm đầu tiên thuộc về các đội thi công đã không tổ chức giám sát chặt chẽ, khi phát sinh lại không lập biên bản hoặc có lập thì không chi tiết đầy đủ nhằm xác định khối lượng phá đi làm lại để từ đó có căn cứ xác định nguyên nhân là do thay đổi thiết kế hay do chủ quan của người thực hiện gây nên mà có biện pháp bồi thường hoặc tăng chi phí hoạt động. Đối với các khoản thiệt hại do khách quan gây ra như mưa, bão… làm hư hại công trình, tạm ngừng thi công, hỏng hóc máy móc, nguyên vật liệu… thì chi nhánh cần có biện pháp phòng ngừa nhằm hạn chế tới mức thấp nhất các khoản thiệt hại. Tóm lại, để khắc phục được các khoản chi phí phát sinh và thiệt hại trong sản xuất, chi nhánh cần tăng cường công tác quản lý và biện pháp phòng ngừa vì nó là một trong những nguyên nhân làm tăng chi phí, giảm lợi nhuận. 6. Hoàn thiện công tác giao khoán. Trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý kinh doanh, một đặc điểm nổi bật hiện nay trong phương thức quản lý của các doanh nghiệp xây lắp là thực hiện khoán sản phẩm xây lắp. Trong kinh doanh xây lắp công trình, hình thức trả lương theo thời gian không còn phù hợp nữa, những năm gần đây các doanh nghiệp xây lắp thường áp dụng hình thức khoán sản phẩm.Đây là một hình thưc quản lý hợp lý tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ thi công công trình, tăng năng xuất lao động, tiết kiệm vật tư, tiền vốn và hạ giá thành sản phẩm. Phương thức khoán sản phẩm trong xây lắp công trình tạo điều kiện gắn liền lợi ích vật chất của người lao động với chất lượng và tiến độ thi công, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Mặt khác xác định rõ trách nhiệm vật chất trong công tác xây lắp đối với từng tổ đội và cá nhân người lao động, trên cơ sở đó phát huy tính chủ động sáng tạo và khai thác tiềm năng sẵn có của đơn vị thi công về mọi mặt. Hiện nay, trong kinh doanh xây lắp công trình có nhiều hình thức khoán khác nhau, nhưng chủ yếu tập trung vào hai hình thức sau: - Hình thức khoán gọn công trình. - Hình thức khoán theo khoản mục chi phí. Với chi nhánh Hà Nội, như đã trình bày ở chương 2. Hiện nay, hàng năm việc giao khoán thường mang tính chất “chia phần”, phương thức đấu thầu chưa được áp dụng rộng rãi dẫn đến phát sinh nhiều tiêu cực trong khâu giao và nhận thầu xuất, phát từ thực trạng này, tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng quy chế giao khoán khoa học và hợp lý, để vừa đẩy mạnh tiến độ thi công công trình với chất lượng tốt, vừa đảm bảo giải quyết hợp lý các mối quan hệ về lợi ích kinh tế. Thứ nhất: Việc giao khoán sản phẩm xây lắp, phải dựa trên cơ sở của hợp đồng kinh tế giữa các bên giao nhận khoán, giữa chi nhánh và tổ đội sản xuất thi công. Khi ký kết hợp đồng giao nhận khoán phải xem xét kỹ các điều khoản ghi trong hợp đồng, dự toán chi phí công trình, phương án thi công, thời gian khởi công và hoàn thành… Dự toán công trình phải lập theo đúng các quy định đã được Bộ xây dựng ban hành. Thứ hai: Khi cần thiết có thể tiến hành điều chỉnh hợp đồng, việc điều chỉnh hợp đồng phải căn cứ vào bản điều chỉnh dự toán, bản điều chỉnh dự toán phải được lập trên cơ sở có xác nhận của một ban điều tra thực tế. Thứ ba: Về phân phối thu nhập: vấn đề phân phối thu nhập là vấn đề trọng tâm trong việc xác định các điều khoản giao nhận khoán công trình xây lắp. Đồng thời là vấn đề then chốt trong việc giải quyết tốt mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa các bên giao nhận khoán. Các mối quan hệ về phân phối thu nhập có thể giải quyết theo các phương thức sau: -Thuế thu nhập doanh nghiệp do chi nhánh nộp. -Lợi tức phải bao gồm cả đơn vị nhận khoán. -Doanh thu đơn vị nhận khoán là giá khoán được thanh toán. - Cuối niên độ kế toán chi nhánh có thể quyết toán và phân phối trở lại cho các tổ đội một phần lãi định mức, lãi ngoài kế hoạch, phần còn lại dùng để trích lập các quỹ, nộp ngân sách, nộp cấp trên (nếu có). Thứ tư: Về trách nhiệm, việc xác định quy chế khoán phải dựa trên cơ sở phân tách rõ trách nhiệm và quyền lợi của các bên giao nhận khoán, căn cứ vào chức năng nhiệm vụ các bên, tránh tình trạng “khoán trắng” hơn nữa chi nhánh cần phải có trách nhiệm giám sát tình hình thi công để đảm bảo chất lượng và tiến độ thi công công trình. Thứ năm: Phương pháp xác định giá khoán: trên cơ sở giá dự toán công trình, chi nhánh phải xây dựng giá giao khoán công trình cho các tổ đội. Về nguyên tắc giá dự toán công trình phải lớn hơn giá giao khoán. Như vậy, việc xây dựng quy chế khoán và xác định giá khoán ở chi nhánh là vấn đề cần được nghiên cứu , nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý thi công và giao nhận khoán tại chi nhánh hiện nay, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng và hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung. 7. Một số giải pháp khác. Ngoài những giải pháp trên, chi nhánh có thể tiến hành một số biện pháp khác như: - Chi nhánh phải luôn tự đánh giá về khả năng, nguồn lực của mình, phải biết phát huy hết năng lực của cán bộ công nhân viên, nâng cao tinh thần trách nhiệm của mọi người trong công việc, luôn gắn quyền lợi của mỗi cá nhân với lợi ích tập thể, qui định rõ ràng chế độ khen thường, kỷ luật. - Chi nhánh nên thường xuyên đào tạo và tuyển chọn cán bộ có năng lực và trách nhiệm cao với công việc, nhằm trang bị những kiến thức vững vàng trong kinh doanh cho họ. Có như vậy chi nhánh mới ngày càng phát triển hơn, kinh doanh có hiệu quả hơn, thu được nhiều lợi nhuận hơn. - Thường xuyên hoặc định kỳ kiểm tra, giám đốc tình hình thực hiện các kế hoạch của chi nhánh nhằm đạt tới mục tiêu chung. Tóm lại, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động sử dụng vốn lưu động của chi nhánh còn tồn tại nhiều điểm cần khắc phục, khai thác triệt để những thuận lợi nhằm đem lại hiệu quả cao cho hoạt động sử dụng vốn của chi nhánh. Để các biện pháp nêu trên thực sự có tác động mạnh mẽ cần thiết phải thực hiện các Phương pháp này đồng bộ, thống nhất, nếu chỉ sử dụng đơn lẻ một biện pháp sẽ không thể giải quyết những khó khăn của chi nhánh. 8. Một số kiến nghị với nhà nước và cơ quan cấp trên. Công ty xây dựng Sông Đà 11– chi nhánh Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước được thành lập theo quyết định của Trọng tài kinh tế Thành phố Hà Nội và Hội đồng quản trị Tổng Công ty xây dựng, với chức năng chủ yếu là xây lắp các công trình dân dụng và công nghiệp. Trong thời gian qua, chi nhánh đã gặt hái được nhiều thành công góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được trong quá trình phát triển vẫn còn một số khó khăn tồn tại mà chi nhánh cần được giải quyết để chi nhánh ngày càng phát triển hơn, đạt được nhiều thành công hơn trong tương lai. Để làm được điều đó, ngoài sự nỗ lực phấn đấu của bản thân chi nhánh cũng cần sự giúp đỡ của nhà nước và cơ quan cấp trên để hỗ trợ và tạo điều kiện cho chi nhánh trong những năm tới cụ thể là: 8.1 Kiến nghị với nhà nước. Với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường được thể hiện thông qua việc điều tiết hoạt động kinh tế ở tầm vĩ mô. Nhà nước là nguồn hướng dẫn, kiểm soát và điều tiết hoạt động các doanh nghiệp trong mọi thành phần kinh tế, thông qua các chính sách pháp luật và các biện pháp kinh tế. Nhà nước tạo môi trường và hành lang cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và hướng các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp đi theo quỹ đạo của chính sách kinh tế vĩ mô. Chính sách kinh tế của nhà nước đối với các doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định hướng phát triển sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, thị trường xây dựng của Việt Nam hiện nay đang hình thành một cách tự phát, các doanh nghiệp chưa có sự hiểu biết rõ về thị trường xây dựng và cách vận hành của nó. Thị trường hoạt động thiếu công bằng: hối lộ để thắng thầu, bán thầu rồi tìm cách nâng giá quyết toán… Do vậy nhà nước cần phát huy vai trò chủ đạo của mình bằng cách: - Nhà nước tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy, nghiên cứu điều chỉnh bổ sung và ban hành mới hệ thống văn bản pháp quy gồm: luật xây dựng, các pháp lệnh liên quan đến xây dựng, các chế độ chính sách về giá cả, tài chính, chính sách thuế, tính dụng, chính sách hỗ trợ đầu tư, xây dựng thị trường đấu thầu bình đẳng, tăng cường công tác kiểm tra, hoàn thiện phương thức đầu tư xây dựng cơ bản, cải cách thủ tục, phân cấp rõ ràng trong việc thực hiện dự án đầu tư. - Công tác giải phóng mặt bằng chậm gây ứ đọng vốn, nhân lực, ách tắc trong khâu đền bù, một số công trình vừa xây dựng vừa giải phóng mặt bằng gây chậm tiến độ dẫn đến hiệu quả hoạt động thấp hoặc lỗ, do vậy công tác giải phóng mặt bằng cần phải tiến hành trước khi mời thầu. - Bên cạnh đó chi nhánh cần có sự hỗ trợ của nhà nước về vốn vay với lãi suất ưu đãi, điều này sẽ đảm bảo cho chi nhánh luôn chủ động về vốn, mở rộng đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất tạo đà phát triển bền vững trước khi nước ta ra nhậm AFTA vào năm 2006. - Giảm bớt một số thủ tục trong quá trình thẩm định, bàn giao, thanh quyết toán công trình, cần quy định những cơ quan chuyên trách về việc kiểm tra, thẩm định công trình, với mỗi công trình chỉ cần một cơ quan kiểm tra. 8.2 Kiến nghị với công ty xây dựng Sông Đà. - Công ty cần phân định rõ ràng và hợp lý quyền hạn, nghĩa vụ đối với đơn vị cấp dưới, việc phân công nhiệm vụ phải dựa trên chức năng hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình thực tế của chi nhánh, điều hoà vốn một cách hợp lý. - Công ty nên để chi nhánh tự chủ hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, huy động vốn và đầu tư tài sản, liên doanh, liên kết. - Đối với những dự án lớn do công ty giao, công ty cần có chính sách hỗ trợ về vốn, nguồn lực khác, để chi nhánh chủ động trong thi công. - Tiếp tục chỉ đạo và hỗ trợ chi nhánh trong việc mở rộng thị trường trong nước, đồng thời tổ chức sắp xếp lại chi nhánh cho phù hợp với tình hình chung của đất nước trong quá trình phát triển, để có thể thực hiện được theo đúng định hướng phát triển của chi nhánh vươn lên trở thành doanh nghiệp có vị thế vững mạnh trên thị trường xây lắp của Việt Nam. * Với tổng công ty: Tổng công ty nên thành lập một bộ phận chịu trách nhiệm về xây dựng các chỉ tiêu chung cho tổng công ty và ngành để các đơn vị thành viên có mốc để so sánh từ đó có thể đề ra chiến lược phát triển phù hợp cho từng đơn vị cụ thể. Kết luận Muốn tồn tại và phát triển được trước sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường hiện nay, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Tại công ty xây dựng sông Đà 11, vốn lưu động là nguồn vốn quan trọng nhất phục vụ trực tiếp quá trình kinh doanh, lưu chuyển vật tư, hàng hoá và thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn hoạt động. Vì vậy việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh phải luôn đặt trong viêc nâng cao công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn lưu động, đây chính là mục tiêu cơ bản của chi nhánh. Việc sử dụng vốn lưu động có hiệu quả sẽ nâng cao được mức doanh thu, mức lợi nhuận đạt được trên tổng vốn lưu động và đẩy mạnh được tốc độ chu chuyển vốn lưu động, đảm bảo cho sự bảo toàn và phát triển vốn. Đồng thời nó sẽ làm tăng sức mạnh về tài chính, tăng cường uy tín cho chi nhánh trên thị trường, là cơ sở nâng cao mức sống cho cán bộ công nhân viên, tạo điều kiện thúc đẩy sự nỗ lực, cố gắng và trách nhiệm trong công việc. Trong thời gian trực tiếp khảo sát thực tế tại chi nhánh Hà Nội, với những kiến thức đã được trang bị trên ghế nhà trường cúng với sự quan tâm giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn –Nguyễn Thu Hà và tập thể cán bộ công nhân viên phòng hành chính tổng hợp, phòng kinh tế kỹ thuật của công ty, tôi xin đề xuất một số ý kiến chủ yếu nhằm nâng cao công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn lưu động Công ty như sau: - Tăng cường công tác quản trị. - Nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính. - Kế hoạch hoá nguồn vốn. - Quản lý sử dụng các khoản mục của nguồn vốn lưu động hữu hiệu hơn. - Quản lý chi phí phát sinh và thiệt hại trong sản xuất. - Hoàn thiện công tác giao khoán. - Và một số giải pháp khác. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình tài chính doanh nghiệp, Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân 2. Giáo trình phân tích và lập dự án đầu tư TS - Đặng Kim Nhung - Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân 3. Giáo trình luật kinh tế - Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân 4. Đọc, lập, phân tích tài chính PGS - TS Ngô Thế Chi, TS Vũ Công Ty, Nhà xuất bản thống kê, tháng 6/2001. 5. Quản trị tài chính doanh nghiệp, giáo trình Trường Đại học Kinh tế quốc dân. 6. Phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng, Trường Đại học xây dựng 1998. 7. Hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp thương mại, TS Nguyễn Văn Công nhà xuất bản tài chính 2002. 8. Essentials of financial management George E. Pirches. The University of Kansas. 1990 9. Các bảng báo cáo tài chính, thuyết minh báo cáo tài chính của công ty xây dựng Sông Đà 11 10. Thời báo kinh tế, báo đầu tư, báo nhà thầu xây dựng, xây dựng và một số báo, tạp chí khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf1007031_5033.pdf
Luận văn liên quan