LỜI MỞ ĐẦU
Bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, “bị” quốc tế đánh giá là một trong những nước nghèo nhất thế giới.
Mặc dù những năm cuối của thế kỷ XX, đặc biệt dưới tác động của công cuộc đổi mới hơn một thập niên trở lại đây, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển đáng mừng với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm tương đối cao (6-7%, đứng thứ hai sau Trung Quốc), đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể. Nhưng do xuất phát điểm quá thấp, vốn là một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, cộng với điều kiện tự nhiên ít thuận lợi, thiên tai thường xuyên xảy ra, hơn nữa trong lịch sử phát triển của đất nước, dân tộc ta luôn phải chống giặc ngoại xâm, đặc biệt là các cường quốc hùng mạnh như Pháp, Mỹ, đã gây tổn thất rất lớn, kéo sự phát triển của nước ta lùi lại hàng thế kỷ. Do vậy tới nay, bộ mặt kinh tế-xã hội của nước ta chưa được mấy sáng sủa, tỷ lệ đói nghèo còn cao (đến 7/1998, theo Tổng cục thống kê, cả nước còn 17,4% hộ đói nghèo, nhưng theo tính toán của Ngân hàng thế giới(WB) thì con số đó còn cao hơn nhiều). Mặt khác, đến nay vẫn còn 80% dân số và trên 70% lực lượng lao động của cả nước sống ở khu vực nông thôn và như vậy, vấn đề nguồn nhân lực, vật lực, tiềm năng đất đai, điều kiện tự nhiên nước ta gắn với vùng nông thôn rộng lớn. Tuy nhiên, chúng ta chưa chú trọng đầu tư phát triển một cách thoả đáng đối với khu vực nông thôn dẫn tới sự phát triển không đồng đều giữa khu vực nông thôn và thành thị, giữa miền núi và đồng bằng. Kết quả tất yếu là số hộ đói nghèo tập trung phần lớn ở địa bàn nông thôn (trên dưới 90%), và con số ấy càng cao hơn đối với địa bàn nông thôn miền núi, trong đó cao nhất là các tỉnh miền núi phía Bắc (xem phụ lục 1).
Cái đói cái nghèo phản ánh từ những cái cụ thể nhất là miếng cơm manh áo. Khi mà những nhu cầu cơ bản của con người chưa được đáp ứng thì họ, những con người “một nắng hai sương” ấy không thể lo nghĩ về vấn đề lớn những lao hơn, đó là góp phần xây dựng đất nước Việt Nam ta tươi đẹp hơn, giàu mạnh hơn. Nói theo khía cạnh khác, muốn đất nước ta phát triển, tăng trưởng bền vững, vấn đề thứ nhất là xoá đói giảm nghèo. Một chính trị gia đã nói: “Sự nghèo đói, dối nát, bệnh tật của một quốc gia còn tệ hại hơn cả nỗi nhục mất chủ quyền”, và trên thế giới này, không ai lại muốn sống trong “sự sỉ nhục”. Chính vì vậy, nhân dân Việt Nam, những người con cháu Lạc Hồng, đã, đang và sẽ ngày một quyết tâm hơn phấn đấu xây dựng một đất nước giàu mạnh, “xã hội chủ nghĩa”, có khả năng sánh vai với các cường quốc năm châu như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Xoá đói giảm nghèo không những là một chủ trương sâu rộng của Đảng và nhà nước mà còn là một vấn đề nhạy cảm và phức tạp, nên nội dung trong chuyên đề này không thể đề cập được hết những vấn đề đặt ra. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của các thầy cô đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này và trên tinh thần thực sự cầu thị, em rất mong nhận được sự đánh giá, phê bình của các thầy cô.
MỤC LỤC
Lời mở đầu Trang
Phần I: Mấy vấn đề lý luận về đói nghèo.
1. Khái niệm đói nghèo và chuẩn mực đói nghèo
2. Sự tác động của đói nghèo tới phát triển kinh tế - xã hội
3.Những nguyên nhân chính dẫn đến đói nghèo
3.1 Do xa cách
3.2. Áp lực về nhân khẩu và lao động
3.3 Thiếu nguồn lực
3.4 Do những rủi ro, thiên tai, địch hoạ
3.5 Do tham nhũng
4. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về xóa đói giảm nghèo ở khu vực miền núi
Phần II: Vài nét về tình hình nghèo đói ở các tỉnh miền núi phía Bắc
1. Tình hình cơ bản ở các tỉnh miền núi phía Bắc có ảnh hưởng tới đói nghèo
2. Khái quát tình hình nghèo đói ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Phần 3: Một số giải pháp xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Những quan điểmPhương hướngMột số giải pháp xoá đói giảm nghèo
3.1. Tăng trưởng kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững
3.2. Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo
3.3. Công tác qui hoạch, định hướng phát triển
3.4. Tạo điều kiện thích hợp đi đôi với giảm thiểu rủi ro và tổn thương cho các hộ nghèo tự vươn lên xóa đói giảm nghèo
3.5. Giải pháp thúc đẩy hộ nghèo phát triển sản xuất
44 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7583 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bộ phận người nghèo ở nông thôn sống bằng nghề nông hiệu quả không cao. Vấn đề tiêu thụ nông sản lại có nhiều khó khăn, “khi được mùa thì mất giá, khi được giá thì mất mùa” trong khi giá các yếu tố đầu vào của sản xuất nông nghiệp vẫn tăng cao làm giảm nguồn thu nhập chính của người nông dân. Cùng với tác động của giá cánh kéo giữa hàng hoá nông nghiệp và hàng hoá công nghiệp nên đời sống của người nông dân khó được cải thiện. Những nghịch lý này làm cho khả năng tích luỹ vốn thấp. Trước thực trạng thiếu vốn của người nông dân, Nhà nước đã có những chính sách tín dụng ưu đãi nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Có một nghịch lý là vốn ngân hàng cho người nghèo vay còn nhiều mà các hộ nghèo vẫn phải đi vay mượn của tư nhân, phải chịu cảnh vay nặng lãi. Xuất phát từ thực tế là nhu cầu vay thường có tính chất đột xuất (chủ yếu là nhu cầu phi sản xuất) và không phù hợp với cơ chế vay vốn của ngân hàng. Do vậy, không ít hộ đã phải bán lúa non để lo lót các khoản chi tiêu bắt buộc. Thực tế nghiệt ngã ấy đã đẩy họ vào cuộc sống nghèo đói hơn. Còn về vấn đề cho vay vốn sản xuất, ở nhiều nơi người dân (nhất là người dân nghèo có trình độ dân trí thấp, thiếu hiểu biết) không dám sử dụng vốn cho vay của Nhà nước vì một lí do đơn giản “sợ không trả nợ được Nhà nước”.
3.4 Do những rủi ro, thiên tai, địch hoạ:
Đây là nguyên nhân làm cho người dân từ không nghèo trở thành nghèo, đã nghèo lại càng nghèo. Những rủi ro hay những tai hoạ đột xuất như: lũ lụt, hạn hán, mất mùa, hoả hoạn, ốm đau… làm cho họ cùng quẫn, không còn khả năng lao động, tạo ra thu nhập hay xây dựng lại cơ nghiệp ban đầu. Đối với người nghèo, họ ít có khả năng phòng tránh và khi xảy ra hoàn cảnh của họ càng thảm hại hơn. Còn đối với người giàu, người khá giả họ có sẵn dự trữ khi thiếu đói, mất mùa và đầu tư trở lại vào vụ sản xuất mới nhằm gỡ lại sự mất mát, cuộc sống cũng sớm được ổn định. Còn người nghèo họ chỉ biết trông chờ vào trợ cấp hoặc nguồn vốn vay. Nhưng nhiều người còn tự ti, suy nghĩ nông cạn không dám vay vì sợ rủi ro lại đến thì gánh nặng nợ nần chồng chất hơn. “Cái khó bó cái khôn” là vậy, đã nghèo thì càng dễ bị sự thiếu thốn và rủi ro chi phối đời sống.
3.5 Do tham nhũng:
Tham nhũng tác động gián tiếp một cách tiêu cực đối với tình cảnh của những nông hộ đói nghèo khiến họ khó vượt qua, thậm chí là tăng thêm đói nghèo, ảnh hưởng lớn tới kết quả thực hiện các mục tiêu của chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo. Những kẻ tham nhũng đã dùng chức quyền, lợi thế của mình để ăn chặn nhiều khoản vốn tài trợ, vốn ngân hàng phục vụ người nghèo, vốn cho vay ưu đãi với lãi suất thấp hay không lấy lãi, vốn dự án, vốn các chương trình lồng ghép để xoá đói giảm nghèo.
Vậy chúng ta suy ngẫm gì? Và phải làm gì cho những người “một nắng hai sương” đương đói nghèo khi đồng vốn chính sách xóa đói giảm nghèo đã và đang bị một số cán bộ lợi dụng chiếm đoạt?
Tổng hợp về nguyên nhân đói nghèo của các hộ gia đình, kết quả của một cuộc điều tra như sau:
Thiếu vốn: 70 - 80%.
Đông con: 50 - 60%.
Thiếu kinh nghiệm: 40 - 50%
Thiếu ruộng, việc làm: 20 - 30%
Rủi ro, ốm đau: 10 - 15%
Thiếu lao động, neo đơn: 6 - 15%
Lười lao động, chi tiêu lãng phí: 5 - 6%
Mắc tệ nạn xã hội: 2 - 3%.
Như vậy, theo kết quả điều tra các nguyên nhân thiếu vốn, đông con, thiếu kinh nghiệm được xét là quan trọng, phổ biến nhất.
4. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về xóa đói giảm nghèo ở khu vực miền núi:
Xoá đói - giảm nghèo là một trong những chính sách lớn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Ngay từ khi nước ta mới giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định nghèo đói cũng là một thứ “giặc” như giặc dốt, giặc ngoại xâm nên đã đưa ra mục tiêu phấn đấu làm sao để nhân dân thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn, việc làm, đời sống hạnh phúc.
“Làm cho người nghèo thì đủ ăn,
Người đủ ăn thì khá, giàu
Người khá, giàu thì giàu thêm”
Thực hiện tư tưởng đó của Người, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện cho người nghèo và xóa đói giảm nghèo đã trở thành một trong những chương trình mục tiêu quốc gia thực hiện trên phạm vi cả nước.
Các tỉnh, xã, miền núi, vùng cao, vùng sâu, và vùng xa là nơi có tỉ lệ hộ nghèo đói cao nhất. Một trong các nguyên tắc đầu tư của Nhà nước về xóa đói giảm nghèo là tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Chính vì vậy, khu vực các tỉnh miền núi trong đó có các xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc miền núi và biên giới, vùng sâu, vùng xa được xác định là một trọng tâm của xóa đói giảm nghèo. Đây cũng là khu vực có rất nhiều khó khăn khi thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo nhưng còn có ý nghĩa rất lớn về an ninh, chính trị và quốc phòng. Chính phủ đã quyết định một chương trình riêng về xóa đói giảm nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn trong khu vực này là chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa (gọi tắt là chương trình 135).
Các hoạt động của chương trình xóa đói giảm nghèo tại các tỉnh miền núi:
Ngày 23/7/1998, chính phủ phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo thời kì 1998 - 2000. Từ đó tới nay có nhiều chính sách và dự án được thực hiện trong phạm vi cả nước có liên quan, tác động tới các tỉnh miền núi như:
Chính sách hỗ trợ về y tế.
Chính sách hỗ trợ về giáo dục.
Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn.
Chính sách an sinh xã hội, trợ giúp các đối tượng yếu thế.
Chính sách hỗ trợ người nghèo về nhà ở.
Chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Dự án hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở các xã nghèo.
Dự án tín dụng ưu đãi hộ nghèo.
Dự án định canh định cư và xây dựng các vùng kinh tế mới.
Dự án hướng dẫn người nghèo cách làm ăn, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư.
Dự án đào tạo cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo và cán bộ các xã nghèo.
Dự án hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề.
Một số kết quả đáng ghi nhận ở các tỉnh miền núi:
Khi nói tới đói nghèo, người ta thường nghĩ tới mức thu nhập thấp. Nhưng thực tế đói nghèo không chỉ đơn giản là mức thu nhập thấp mà còn là sự thiếu khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng, công trình thuỷ lợi. Vì vậy, trong 5 năm (1996 - 2000) Nhà nước đã chú trọng đầu tư 6500 công trình cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo. Tính tới cuối năm 2000, ở khu vực miền núi đã có trên 90% xã có đường ô tô tới trung tâm xã, trên 90% xã có trường tiểu học, trên 70% có trường trung học cơ sở, 98% xã có trạm xá, 80% xã có công trình thuỷ lợi nhỏ, 70% xã có tỉ lệ hộ được sử dụng nước sạch trên 50%, 75% xã có nguồn điện sinh hoạt tới trung tâm xã, 70% xã có chợ hoặc chợ trung tâm cụm xã được xây dựng (xem thêm phụ lục 2). Ngoài ra còn mua và cấp thẻ BHYT cho người nghèo, khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo; thực hiện miễn giảm học phí, miễn giảm các khoản đóng góp, cấp sách giáo khoa cho học sinh nghèo.
Một trong những khó khăn xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi là tình trạng du canh du cư. Đến cuối năm 2000, các chương trình đã hỗ trợ đời sống cho 20.000 hộ đồng bào dân tộc ĐBKK, hỗ trợ định canh định cư cho trên 118.000 hộ và sắp xếp ổn định cuộc sống cho 23.543 hộ di dân tự do.
Cái gốc để xóa đói giảm nghèo chính là phát triển sản xuất, tạo nên việc làm và tăng thu nhập cho các hộ gia đình. Đối với miền núi, khó khăn nhất chính là xoá bỏ tập quán canh tác cũ, hướng dẫn người nghèo cách làm ăn và tổ chức tốt công tác khuyến nông thông qua các mô hình trình diễn theo phương thức “cầm tay chỉ việc”. Các dự án khuyến nông, khuyến lâm với vai trò tích cực của các tổ chức đoàn thể (Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh…) đã góp phần giúp hộ nghèo làm quen dần với phương thức canh tác mới, sử dụng giống cây, con mới, tạo điều kiện để họ sử dụng vốn vay ưu đãi có hiệu quả hơn.
Kết quả tổng hợp của các chính sách dự án là tỉ lệ hộ đói nghèo giảm khá nhanh trong 5 năm từ 1996 - 2000 trung bình mỗi năm là 2%, hầu hết các tỉnh miền núi có tỉ lệ hộ nghèo đói giảm bình quân hàng năm cao hơn trung bình cả nước.
Trên đây là những kết quả lớn thể hiện quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước trong công cuộc chiến đấu - tấn công đói nghèo. Song, đến nay vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại, kết quả đạt được còn mong manh chưa bền vững. Theo thống kê thì chương trình xóa đói giảm nghèo tiến triển chậm, chưa đạt kết quả mong muốn so với hệ thống chính sách đã có và lượng vốn đã bỏ ra. Chẳng hạn, chủ trương bình quân đề ra mỗi năm giảm 300.000 hộ đói nghèo nhưng trong 5 năm qua bình quân mỗi năm mới giảm được 240.000 hộ (đạt 80% so với chỉ tiêu so với đề ra). Về hệ thống cơ sở hạ tầng tuy đã được cải thiện song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất nông nghiệp hàng hoá và nâng cao đời sống nhân dân nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Đường giao thông còn kém, đặc biệt đi lại khó khăn trong mùa mưa, hệ thống thuỷ lợi phần lớn là công trình tạm và trên thực tế mới đáp ứng được một phần yêu cầu sản xuất lúa, các cây trồng khác chủ yếu là nhờ nước trời. Số trạm y tế đạt tiêu chuẩn chỉ đạt 46%. Cơ sỏ trường lớp tuy được tăng cường nhưng vẫn nghèo nàn, thiếu… (một thực trạng đáng lo ngại là nhiều nơi chỉ chạy theo thành tích số lượng các công trình mà quên mất chỉ tiêu chất lượng của chúng). Và nhin chung, sản xuất nông nghiệp còn mang nặng tính tự cấp tự túc, manh múm, nhỏ lẻ, phương thức canh tác lạc hậu, năng suất lao động thấp. Tình trạng phá rừng làm nương rẫy vẫn xảy ra rất nghiêm trọng, gây tác hại lớn về môi trường sinh thái. Hiện tượng di dân tự do nội vùng vào các tỉnh Tây Nguyên vẫn chưa được giải quyết triệt để. Một bộ phận dân cư vùng sâu, vùng xa tiếp tục cuộc sống du canh du cư.
PHẦN II: VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH NGHÈO ĐÓI Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC
1. Tình hình cơ bản ở các tỉnh miền núi phía Bắc có ảnh hưởng tới đói nghèo:
Miền núi phía Bắc được xác định gồm 11 tỉnh Đông Bắc (Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Lào Cai, Phú Thọ, Bắc Giang, Yên Bái) và 3 tỉnh Tây Bắc (Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình) với 45 huyện trung du và 99 huyện vùng cao bao trùm trên diện tích 100.964 km2, trong đó diện tích miền núi khoảng 89.000 km2 (chiếm 27% lãnh thổ quốc gia và 88,15% lãnh thổ vùng). Dân số theo cuộc tổng điều tra dân số 1/4/1999 là 11.053.030 người trong đó trên dưới 5 triệu người là đồng bào của 30 dân tộc thiểu số. Mật độ dân số là 109 người/ km2 (Đông Bắc: 135 người/ km2, Tây Bắc: 62 người/ km2; thấp nhất là Lai Châu: 35 người/ km2) thấp hơn nhiều so với mật độ bình quân cả nước (232 người/ km2). Dân cư nông thôn chiếm 83,5 % dân số toàn vùng với 1,8 triệu hộ sản xuất nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Quy mô hộ bình quân khoảng 5 nhân khẩu với 2 - 3 lao động. Đất nông nghiệp bình quân đầu người 1.182 m2 bằng 96,2% so với toàn quốc (1.229 m2).
Về điều kiện tự nhiên, 65% diện tích vùng có độ cao từ 200 m trở lên, 14% có độ cao khoảng 100 m. Trừ một số ít lưu vực giữa núi và các thung lũng sông, địa hình phần lớn bị chia cắt bởi độ dốc lớn. Hơn 50% vùng cao có các sườn dốc trên 20 độ, do đó khó khăn cho việc xây dựng đường sá, đường điện, các công trình hạ tầng cơ sở khác cũng như việc việc duy tu bảo dưỡng chúng. Khí hậu khắc nghiệt, nhiệt độ trong ngày thường thay đổi lớn (thường đêm và sáng sớm trời lạnh đặc biệt đối với những vùng cao) gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt đông sản xuất cũng như sinh hoạt của người dân. Mưa nhiều, tập trung nên thường gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp, giao thông và hệ thống thuỷ nông, các ruộng bậc thang hàng năm bị xói mòn mạnh, ước tính hàng năm mất 150 - 350 tấn/ ha (trong khi diện tích đất bằng hạn chế, nông dân muốn canh tác phải làm trên nương rẫy, ruộng bậc thang trên sườn dốc). Đây cũng là một lí do dẫn tới hiện trạng chặt phá rừng để sản xuất nông nghiệp làm tăng diện tích đất trống đồi núi trọc. Tuy nhiên mưa phân bố không đều nên mặc dù có những nơi mưa nhiều bị úng ngập, nhưng cũng có nhiều nơi chịu hạn hán nghiêm trọng (nhất là vào mùa khô), có nơi người dân phải đi lấy nước xa 15 - 20km. Đất feralit đỏ vàng là phổ biến, đất nghèo dinh dưỡng chiếm tỉ lệ cao, thiếu vi lượng đối với cây trồng nên thường gây bệnh bướu cổ (do thiếu iốt).
Rừng bị tàn phá nghiêm trọng. Diện tích chiếm trên 11ha trong 16ha ở miền Bắc, nhưng trong vòng 20 năm trở lại đây nó đã bị khai thác và tàn phá kiệt quệ để lại nhiều vùng đất nghèo nàn về sinh thái và kinh tế. Nhiều loại lâm thổ sản và động vật quí có nguy cơ tuyệt chủng. Đất thì bị xói mòn dẫn tới biến đổi môi trường sinh thái, xảy ra nhiều thiên tai (như lở đất, lũ quét…) gây nhiều khó khăn trong sản xuất và đời sống.
Về hệ thống hạ tầng cơ sở phục vụ sản xuất và đời sống còn nghèo nàn, lạc hậu, nhìn chung thấp kém nhất so với các vùng trong cả nước (xem phụ lục II). Giao thông kém phát triển, nhất là các đường lên bản, lên xã. Các hạ tầng cơ sở khác như đường điện, trạm bưu điện, nước sạch, trường học, thị tứ, trụ sở UBND… được chú ý và cải thiện song còn nhiều hạn chế. Tất cả những yếu kém trên của hệ thống hạ tầng cơ sở là một nguyên nhân quan trọng của sự kém phát triển các ngành công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ…
Về kinh tế của vùng trong những năm qua tuy có phát triển và đạt được những kết quả nhất định, song vẫn còn ở mức độ thấp chủ yếu là khai thác tự nhiên, kém năng động, chưa chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá. Nông nghiệp vẫn được xem là ngành kinh tế giữ vị trí hàng đầu với tỉ lệ GDP ngành là 41,3% giá trị tổng sản phẩm toàn vùng, trong đó 7/14 tỉnh chiếm tỉ trọng trên 50% (cao nhất là Bắc Kạn: 63,1%), 6/14 tỉnh chiếm tỉ trọng từ 36,8% đến dưới 50%, chỉ riêng Quảng Ninh tỉ trọng nông nghiệp trong GDP là 9,4%. Trong khi đó, bình quân toàn quốc tỉ trọng nông nghiệp chỉ chiếm 26% trong cơ cấu GDP. Về hoạt động thương mại, thiếu thị trường trao đổi: bình quân 37% xã có chợ (riêng Lai Châu: 11%, Sơn La: 19%, Hoà Bình: 28%). Ở những nơi có chợ, mặt hàng trao đổi cũng rất nghèo nàn. Nhiều nhà không có khả năng sản xuất ra bất cứ thứ gì mang tính chất hàng hoá ra chợ sau vụ mùa. Ở nhiều thị trường đã hình thành thường không ổn định, giá thu mua còn rẻ không bù đắp được chi phí sản xuất dẫn tới đời sống người dân không được đảm bảo, sản xuất bị đình đốn, hiện tượng chặt phá cây trông diễn ra khá phổ biến trong những năm vừa qua như chặt chè, trồng sắn, …
Về lực lượng sản xuất còn thấp kém, công cụ thô sơ, trình độ tổ chức và quản lí sản xuất ở mức độ thấp, chủ yếu mang tính gia đình, tự cung tự cấp, lao động theo tập quán và kinh nghiệm cổ truyền. Hơn nữa, đa phần trình độ dân trí còn thấp, một số không ít còn lạc hậu, mê tín và bảo thủ gây trở ngại khi tiếp nhận những công nghệ mới, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, do vậy một tất yếu là năng suất lao động quá thấp.
2. Khái quát tình hình nghèo đói ở các tỉnh miền núi phía Bắc:
Theo số liệu thống kê năm 1999, tỉ lệ hộ nghèo đói của các tỉnh miền núi phía Bắc là 40,63% gấp 1,44 lần so với tỉ lệ hộ nghèo đói bình quân cả nước (28,21%) và cao nhất so với các vùng miền khác. Nhìn chung, tình hình nghèo đói ở đây đã có sự chuyển biến đáng kể cả tuyệt đối lẫn tương đối. Điều đó được biểu hiện qua số liệu về hộ đói nghèo như sau:
Năm 1992: 799.500 hộ.
Năm 1996: 695.503 hộ (giảm so với năm 1992 là 103.997 hộ, tốc độ giảm bình quân là 3,25%/năm).
Năm 1998: 570.445 hộ (giảm so với năm 1996 là 125.058 hộ, tốc độ giảm bình quân là 9%/năm).
Đây thực sự là những kết quả đáng mừng và đáng khích lệ trong công cuộc xoá đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Tuy nhiên chúng ta không thể không suy ngẫm trước thực trạng về đời sống đói nghèo ở đây và nỗi lo vẫn còn nhiều. Năm 1999, thu nhập bình quân một người một tháng là 210.000 đồng trong khi chi tiêu là 193.020 đồng. Suy ra khả năng tích luỹ bình quân của mỗi người một tháng là 16.980 đồng và một năm là 203.760 đồng. Với số tiền tích luỹ ít ỏi như vậy không biết đến bao giờ những hộ nghèo đói mới cải thiện được cuộc sống. Một trong những nỗi lo của các nhà chức trách hiện nay là khoảng cách giàu nghèo ở thành thị cũng như nông thôn đang có xu hướng giãn ra nhanh chóng. Và một vấn đề cần đặc biệt quan tâm đối với các tỉnh miền núi phía Bắc là phần lớn hộ đói nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số.
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC.
Những quan điểm:
Công cuộc xoá đói giảm nghèo phải dựa trên nguyên tắc “không phát chẩn, không làm thay” mà tìm nguồn lực, tạo điều kiện cho người nghèo để từ đó họ có thể sản xuất, kinh doanh, tăng thu nhập, tự mình vươn lên vượt qua đói nghèo.
Sản xuất quyết định đời sống, sản xuất càng phát triển thì đời sống xã hội càng cao và ngược lại. Vì vậy, phát triển sản xuất, tăng thu nhập của các hộ nông dân là vấn đề cốt lõi để xóa đói giảm nghèo. Đồng thời hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội nông thôn.
Phát triển sản xuất gắn chặt với nâng cao sức khỏe và dân trí. Ba yếu tố đó kết hợp với nhau, thúc đẩy lẫn nhau và hỗ trợ cho nhau ngày một phát triển hơn. Bởi vậy, đồng thời với các giải pháp phát triển sản xuất, cần chú ý nâng cao trình độ khoa học kĩ thuật cho các chủ hộ và các lao động ở những hộ nghèo, tạo điều kiện cho con em họ được học hành. Chú ý chăm sóc sức khoẻ cho họ làm cho họ tự tin hơn, làm việc có hiệu quả hơn.
Về tạo và sử dụng các yếu tố nguồn lực:
Trên cơ sở phân loại nguyên nhân nghèo mà có những chính sách thích hợp, làm sao khi giao ruộng đất cho họ phải khai thác hết hiệu quả của đất.
Cần khai thác tối đa mọi nguồn vốn (vốn tự có, vốn vay, trợ cấp nhân đạo,…) để cấp cho người nghèo dưới nhiều hình thức phong phú (trực tiếp cấp, thông qua các chương trình, dự án…) đồng thời có những biện pháp hỗ trợ cần thiết để người nghèo sử dụng một cách có hiệu quả đồng vốn.
Sức lao động vốn là tài sản lớn của người nghèo nhưng nhìn chung chất lượng còn thấp, khả năng cạnh tranh kém. Do đó, cần giúp họ có cơ hội tiếp cận với công việc bằng cách tạo thêm việc làm ở nông thôn (kể cả nghề nông, công nghiệp và dịch vụ). Đồng thời có những biện pháp thích hợp để nâng cao chất lượng nguồn lao động như: phổ cập tiểu học, trung học cơ sở, chương trình khuyến nông, chương trình chăm sóc sức khoẻ, xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống, tăng phúc lợi xã hội…
Xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất như điện, đường giao thông, thuỷ lợi… kết hợp với trang bị những kĩ thuật khác cũng là hình thức trang bị vốn cho người nghèo.
Vai trò của Nhà nước:
Xoá đói giảm nghèo là một vấn đề đòi hỏi sự đóng góp nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, các tổ chức quốc tế, các tổ chức quần chúng, trong đó vai trò của Nhà nước đặc biệt quan trọng. Nhà nước cần ban hành hệ thống chính sách mới như chính sách tín dụng, chính sách thị trường tiêu thụ sản phẩm, chính sách đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, chính sách thuế, chính sách khuyến nông… để khuyến khích nông dân giảm nghèo, làm giàu.
Phương hướng:
Phương hướng chung là không ngừng phát triển sản xuất kinh doanh, gắn chương trình giải quyết việc làm với xóa đói giảm nghèo. Hướng trọng tâm là chuyển đổi cơ cấu kinh tế gắn với bố trí cơ cấu lao động hợp lí, khai thác triệt để tiềm năng đất đai bằng mở rộng diện tích, thâm canh tăng vụ, thay đổi cơ cấu mùa vụ, thay đổi cơ cấu giống cây trồng vật nuôi để thu được giá trị kinh tế cao trên một đơn vị diện tích. Từng bước nâng cao tỉ trọng cây công nghiệp, sản phẩm chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề dịch vụ nhằm tăng thu nhập, nâng cao đời sống. Vấn đề có tính chất quyết định là khuyến khích mọi nhà, mọi người chăm lo phát triển kinh tế hộ gia đình, kết hợp một cách biện chứng giữa sức vận động của từng cá nhân người nghèo với sự hỗ trợ của cộng đồng và sự tác động của chính sách Nhà nước để họ có điều kiện tự chủ vươn lên thoát khỏi cảnh đói nghèo.
Trên cơ sở phân tích tỉ lệ hộ nghèo và nguyên nhân dẫn tới đói nghèo, xin đề xuất phương hướng cụ thể như sau:
Có đủ việc làm cho các hộ nông dân nghèo bằng các hình thức
Cấp thêm ruộng đất đi đôi với điều chỉnh quĩ ruộng đất cho phù hợp với khả năng và nguyện vọng sản xuất của họ.
Tạo thêm việc làm bằng định canh định cư, tách hộ, lập vườn và chấm dứt tập quán chăn nuôi thả rông (đối với người dân tộc).
Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động thông qua việc mở rộng diện tích, thâm canh tăng vụ và phát triển những ngành nghề phụ, tiêu thụ công nghiệp, dịch vụ.
Trang bị kiến thức cho người nghèo, bao gồm:
Khoa học kĩ thuật sản xuất nông nghiệp.
Kiến thức về dân số, kế hoạch hoá gia đình.
Kiến thức về thị trường, marketing.
Đầu tư cho người nghèo một số vốn cần thiết ban đầu bao gồm cả cho vay với lãi suất thấp, liên doanh liên kết, đặc biệt đối với người nghèo trong vùng gặp nhiều rủi ro, đột xuất cần được cứu trợ kịp thời.
Nhấn mạnh vào trọng tâm giải quyết triệt để tình trạng đói kinh niên, xoá bỏ hiện tượng tái đói tái nghèo. Có như vậy mới đảm bảo giảm thực sự vững chắc tỉ lệ hộ nghèo đói. Ngoài ra, phát triển kinh tế hộ nghèo không tách khỏi sự phát triển chung cả vùng như tăng cường xây dựng các cơ sở hạ tầng, nâng cao trình độ dân trí, đổi mới hình thức quản lý nông thôn, tăng cường sự hoạt động của các tổ chức xã hội, quần chúng, nghề nghiệp,…
Một số giải pháp xoá đói giảm nghèo:
3.1. Tăng trưởng kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững:
Cơ sở của giải pháp này dựa trên logic biện chứng là muốn giúp đỡ, hỗ trợ có hiệu quả người nghèo đói thì Nhà nước phải có đủ nguồn lực, vật chất trong tay. Điều đó chỉ có thể thực hiện được khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững. Tất nhiên, ngoài nguồn lực tích luỹ từ nguồn kinh tế ta còn có các nguồn lực hỗ trợ, ủng hộ của quốc tế nhưng nó chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ lại mang tính tức thời nên ta không thể trông chờ vào những nguồn lực ấy. Thực tiễn những năm qua đã chứng minh nhờ kinh tế phát triển mà Nhà nước có đủ tài chính để mở rộng các dự án, chương trình xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ cho hàng ngàn xã khó khăn, phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. Trên cơ sở đó những người nghèo có cơ hội vươn lên thoát khỏi đói nghèo.
Nhìn rộng ra, đây là giải pháp cơ bản không thể thiếu được trong việc xử lý vấn đề đói nghèo ở một quốc gia. Mặc dù điều kiện chính trị - xã hội có thể là khác nhau nhưng qui luật chung là khi kinh tế phát triển thì tỉ lệ người nghèo giảm theo, cơ hội hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng kinh tế của mỗi người tăng lên. Điều này càng thể hiện rõ nét hơn ở Việt Nam, ở đâu kinh tế phát triển, ngành nghề và hoạt động kinh tế đa dạng, sôi nổi, việc làm đầy đủ thì ở đó số hộ nghèo đói giảm nhanh, số hộ giàu tăng lên và bộ mặt xã hội của cộng đồng thay đổi nhanh chóng.
Giải pháp này cũng hoàn toàn hợp lí khi xét trên một phạm vi không gian hẹp hơn. Có nghĩa là, muốn xoá đói giảm nghèo ở một vùng (hoặc tỉnh, huyện, xã) nào đó thì cần phải thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của vùng (hoặc tỉnh, huyện, xã) đó. Tuy nhiên ta phải luôn xác định rõ tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với công bằng xã hội, nhất là hạn chế sự phân hoá giàu nghèo.
3.2. Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo:
Như đã trình bày trong những năm gần đây, Nhà nước đã giành nhiều kinh phí, tài chính, để đầu tư cho người nghèo, xã nghèo, vùng nghèo. Các chương trình, dự án ấy luôn được người dân hoan nghênh và hưởng ứng. Tuy nhiên, có lúc có nơi các chương trình được thực hiện thiếu đồng bộ và kém hiệu quả. Vấn đề nổi cộm là tình trạng tham nhũng, xà xẻo một phần tài chính từ cấp trung ương đến địa phương. Kết quả là người nghèo, xã nghèo bị cắt giảm một phần quyền lợi mà lẽ ra họ được hưởng. Để hạn chế hiện tượng tiêu cực và nâng cao hiệu quả của chương trình, dự án Nhà nước cần tập trung nhiều hơn vào các biện pháp xem xét kĩ khả năng tổ chức, triển khai của các đơn vị được giao và thường xuyên theo dõi đáng giá kết quả triển khai để phát hiện sớm những lệch lạc, sai trái, kịp thời ngăn chặn.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy cách kiểm tra tốt nhất là Nhà nước, chính quyền các cấp cần công khai hoá kế hoạch đầu tư, vốn tài chính của các dự án và tạo điều kiện để người nghèo có thể tham gia nhiều hơn vào quá trình triển khai, đồng thời hướng dẫn họ kiến thức quản lý, bảo trì các công trình đã được xây dựng để phục vụ cho lợi ích của chính họ. Bên cạnh đó, đưa ra các tiêu chí cụ thể về kết quả làm cơ sở cho việc rà soát, đánh giá các dự án đã và sẽ triển khai, so sánh chúng với nhau để rút ra những kinh nghiệm và bài học cần thiết. Đồng thời không ngừng bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ xóa đói giảm nghèo cũng như cán bộ ở các xã nghèo, đây là một giải pháp then chốt mang tính quyết định
Việc tham khảo, học tập kinh nghiệm tổ chức, triển khai các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo ở các nước có nhiều thành công như: Hàn Quốc, Malaixia…cũng vô cùng quan trọng và cần thiết. Chẳng hạn, theo kinh nghiệm Hàn Quốc về hỗ trợ các xã nghèo phát triển là cung cấp cho họ các điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu để họ tự triển khai theo sự tính toán và bàn bạc của toàn cộng đồng, các chuyên gia xóa đói giảm nghèo chỉ làm chức năng tư vấn hướng dẫn và quản lí. Nhà nước đưa ra tiêu chuẩn về hiệu quả triển khai dự án, xã nào làm tốt thì tiếp tục được hỗ trợ, xã nào yếu kém thì bị cắt giảm, từ đó tạo ra không khí thi đua và cố gắng trong việc triển khai các dự án giữa các xã...
3.3. Công tác qui hoạch, định hướng phát triển:
Trước hết, qui hoạch càng chi tiết và có tính khả thi sẽ tạo ra sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Từ đó có cơ chế cởi mở, thu hút vốn đầu tư vào từng địa phương nhằm phát huy các thế mạnh tiềm tàng, phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, có qui hoạch rõ ràng sẽ giúp cho mọi địa phương và các hộ gia đình tránh được tình trạng phát triển kinh tế chạy theo phong trào một cách dập khuôn máy móc như những năm vừa qua dẫn đến hiệu quả thấp và rủi ro cao, kết cục sản phẩm làm ra ứ thừa, không tìm được thị trường tiêu thụ dẫn tới chặt đốn những cây đã trồng (thậm chí chưa hoặc mới cho thu hoạch) gây lãng phí và nhiều hậu quả khác.
Xuất phát từ thực tế, sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp ít thích ứng với sự thay đổi thất thường của giá cả thị trường, bởi vậy không thể phát triển một nền nông nghiệp toàn diện và bền vững mà lại thiếu qui hoạch linh hoạt (hay qui hoạch cũng cần được thay đổi để phù hợp với “thời cuộc”) có tính đến sự biến động của thị trường tiêu thụ chung và dài hạn.
Mỗi xã có những đặc thù riêng của mình, vì vậy cần phải dựa trên những định hướng lớn của huyện, tỉnh…để xây dựng những phương án, bố trí cơ cấu cây, con, ngành nghề phù hợp. Từ đó, hình thành nên cơ cấu sản xuất và cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá một cách hợp lí.
3.4. Tạo điều kiện thích hợp đi đôi với giảm thiểu rủi ro và tổn thương cho các hộ nghèo tự vươn lên xóa đói giảm nghèo:
Trước hết, cần giải quyết những nhu cầu thiết yếu nhất như ăn, ở… Đối với các tỉnh miền núi phía Bắc, an toàn lương thực được coi là mục tiêu quan trọng hàng đầu vì trên thực tế đất nông nghiệp ở đây ít, chất lượng lại thấp nên nếu năm nào được mùa lắm cũng chỉ đủ ăn. Vì con người (nhất là trong điều kiện sản xuất lạc hậu, thủ công) có thể coi như một cái máy sản xuất, chỉ khi nạp năng lượng, nhiên liệu mới có thể hoạt động được nhưng nếu như nạp quá ít cũng như ăn uống thiếu chất, thường ở trong tình trạng đói thì sức khỏe sẽ không tốt, thường mệt mỏi và năng suất làm việc không cao. Vì vậy, Nhà nước cần có những biện pháp nhằm đảm bảo tái sản xuất sức lao động cho các hộ đói nghèo. Có thể thực hiện các biện pháp tức thời như trợ cấp (cả hiện vật lẫn giá trị). Đối với địa bàn miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa cần khuyến khích người dân sản xuất lương thực tại chỗ vì vấn đề vận chuyển lương thực có nhiều khó khăn, hạn chế. Muốn tăng sản lượng lương thực có hai hướng quảng canh và thâm canh. Nếu mở rộng diện tích dễ dẫn tới phá rừng, vì vậy chính quyền sở tại cần có những biện pháp hỗ trợ như thu hẹp diện tích trên nương, mở rộng diện tích dưới ruộng, khai hoang ruộng nước và xây dựng ruộng bậc thang. Đồng thời không ngừng phổ biến kiến thức, kinh nghiệm sản xuất để tăng năng suất, sản lượng trên một đơn vị diện tích gieo trồng, thực hiện phương châm chiến lược “làm lương thực phải giữ rừng, làm lương thực để giữ rừng”.
Về vấn đề nhà ở, hiện nay tỉ lệ nhà ở dột nát, xiêu vẹo, tranh tre nứa lá, ẩm thấp…còn chiếm tỉ lệ khá cao trong tổng số hộ đói nghèo (Tây Bắc: 73,4%; Đông Bắc: 58,99%). Sinh hoạt trong những ngôi nhà đó, con người sẽ dễ gặp rủi ro như bệnh tật, sức khoẻ yếu, khả năng phòng tránh thiên tai kém…tác động một cách gián tiếp tới hoạt động sản xuất của hộ. Mặt khác, có nhà ở vững chắc sẽ giúp cho các hộ dân (đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số) sống tập trung, yên ổn làm ăn thoát khỏi tập tục du canh du cư…Hiện nay, Nhà nước đã có nhiều chính sách, chương trình nhà ở hỗ trợ cho hộ nghèo nhưng đây vẫn là vấn đề bức xúc ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước, đặc biệt là ở những xã đặc biệt khó khăn. Trong việc thực hiện chính sách nhà ở, cần lưu ý bình xét hộ nào được ưu tiên hỗ trợ, hộ nào hỗ trợ trước, hộ nào hỗ trợ sau từ thôn bản, xóm làng đến xã phường có sự tham gia giám sát của các đoàn thể quần chúng và tránh tình trạng nhà của người nghèo lại “đẹp” hơn nhà của bà con hàng xóm xung quanh hoặc lại quá “tồi” để rồi sau một thời gian sử dụng lại xuống cấp và phải hỗ trợ thêm để cải tạo, vi phạm nguyên tắc “chỉ hỗ trợ một lần” mà chính sách chung đã đề ra.
Nâng cao trình độ hiểu biết về sản xuất kinh doanh và cơ chế thị trường cho các hộ nghèo bằng các biện pháp khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Có chính sách ưu tiên trong giáo dục, dạy nghề. Trước mắt, phải gấp rút xoá tình trạng mù chữ trong số con em các hộ nghèo đói, đồng thời tổ chức dạy nghề (ưu tiên đối với người dân tộc). Để làm được điều đó, Nhà nước phải xem xét tình hình cụ thể ở từng cộng đồng người nghèo để đầu tư cơ sở vật chất, xoá tình trạng xã trắng, bản trắng về trường tiểu học cơ sở, nâng cấp các trung tâm, cơ sở dạy nghề, chú trọng các nghề thiết thực, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, nông thôn miền núi như trồng trọt, chăn nuôi, bảo vệ cây trồng vật nuôi, chế biến nông, lâm sản…Để thu hút và tạo điều kiện cho các em học sinh nghèo có điều kiện học tập, không những phải miễn học phí cho các em mà còn miễn mọi khoản đóng góp và ưu tiên cho các em mượn sách giáo khoa để học. Không ngừng tìm ra những mẫu hình kinh tế hộ sản xuất kinh doanh giỏi, thoát nghèo để tạo ra những tấm gương thuyết phục, khuyến khích tinh thần cho các hộ nghèo vì thông thường do phương thức sản xuất nhỏ, trình độ văn hoá thấp thì các thành tựu khoa học kĩ thuật mới đã rất khó đến với họ. Hơn nữa, họ lại là những người có tính bảo thủ, thiếu tinh thần học hỏi, không dám nghĩ, dám làm.
Phát triển cơ sở hạ tầng, đây là cách thiết thực giúp đỡ người nghèo có điều kiện giao lưu, tiếp cận thị trường, khoa học kĩ thuật. Hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu cần được chú trọng đầu tư gồm: đường ô tô tới trung tâm xã, điện, trạm xá, trường học (cấp I, cấp II), chợ nông thôn, nước sạch, thuỷ lợi nhỏ. Hệ thống cơ sở hạ tầng và khả năng kinh tế của mỗi địa phương có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Hệ thống cơ sở hạ tầng có phát triển thì mới tạo điều kiện cho phát triển kinh tế, nâng cao dân trí và mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân. Ngược lại, có phát triển kinh tế thì mới có tiềm lực để mở rộng, nâng cấp các công trình. Trong số các cơ sở hạ tầng cần đặc biệt ưu tiên cho hệ thống giao thông nông thôn (bao gồm các đường liên huyện, liên xã, đường từ huyện xuống các xã, đường từ xã xuống các thôn xóm…).
Cần đẩy mạnh, phát huy hơn nữa phong trào người dân cùng bàn, cùng làm, cùng kiểm tra (thường ở những vùng trung du, thị trấn, thị tứ, điều kiện kinh tế khá hơn thì phong trào tốt còn ở những vùng núi, vùng sâu, vùng xa thì phong trào còn yếu). Người dân tự bàn bạc, thống nhất từ dự toán kinh phí đóng góp, huy động nhân công, giám sát công trình, giám sát chi tiêu và tổ chức duy tư bảo dưỡng. Nhà nước chủ yếu hỗ trợ, tư vấn về mặt kĩ thuật và hỗ trợ một phần kinh phí và nguyên liệu. Song song với phát triển cơ sở hạ tầng, cần sớm hình thành qui hoạch mạng lưới các thị trấn, thị tứ nông thôn.
Tăng cường hơn nữa các biện pháp hỗ trợ về y tế, bảo đảm cho người nghèo tiếp cận thuận lợi các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe như: tiếp tục mở rộng thực hiện chính sách miễn giảm viện phí đối với người nghèo, tổ chức tiêm phòng bệnh, nâng cao nhận thức về các loại bệnh (phổ biến ở nông thôn miền núi), nguyên nhân gây bệnh, cách phòng và chữa bệnh, tuyên truyền về dịch bệnh, đầu tư hỗ trợ thuốc chữa bệnh, tăng cường cán bộ y tế (phấn đấu tới năm 2005 bình quân một xã có một bác sĩ đa khoa), có bộ phận chuyên trách theo dõi tình hình sức khoẻ cho các hộ nghèo.
Thực hiện tốt chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình. Cần tổ chức học tập, tuyên truyền cho nhân dân, đặc biệt là hộ nghèo về kế hoạch phát triển dân số, sinh đẻ có kế hoạch, không sinh con thứ ba, không đẻ quá dày để đảm bảo nuôi dạy con tốt, con khoẻ và đặc biệt là giải thích rõ tác hại của đẻ dày, đẻ nhiều, xoá bỏ những quan niệm cổ hủ.
3.5. Giải pháp thúc đẩy hộ nghèo phát triển sản xuất:
Hỗ trợ và cho vay vốn:
Cho vay vốn hộ nghèo đói vừa qua vẫn chưa thật hiệu quả. Nhiều địa phương chỉ chạy theo thành tích thiên về định lượng (số lượt hộ vay, số vốn giải ngân…) mà không đi vào thực chất của vấn đề hiệu quả xoá đói giảm nghèo nên bình quân khoản vay của một hộ còn nhỏ, chưa thực sự giúp các hộ nghèo tạo đà bứt phá để vươn lên. Bên cạnh đó, tình trạng vay để ăn tiêu, cho vay nhưng không sử dụng… vẫn còn khá phổ biến, đặc biệt ở những vùng trình độ dân trí chung của các hộ đó còn thấp.
Thực tế cho thấy sự khác biệt rõ nét ở những địa phương biết gắn việc cho hộ nghèo vay vốn hay hỗ trợ vật chất với hướng dẫn sản xuất, tư vấn sử dụng vốn vay như thế nào cho có hiệu quả. Chẳng hạn, việc hỗ trợ cây, con giống nếu có hướng dẫn kĩ thuật (biện pháp về trồng, chăm sóc…) sẽ cho thu hoạch tốt, còn nếu không kết quả sẽ không như mong muốn. Theo quan điểm này, suy rộng ra nếu bản thân hộ nghèo biết cách làm ăn, có phương án làm ăn thật sự nhưng khó khăn ở khoản vốn ban đầu thì “vốn đến với người nghèo như nước đến với người khát”. Điều đó có nghĩa là, nhu cầu vay vốn phải được xuất phát từ hộ nghèo đói và lúc đó vốn vay mới có hi vọng phát huy đủ tính năng tác dụng. Như vậy, để vốn vay được sử dụng một cách có hiệu quả thì công tác khuyến nông, hướng dẫn kế hoạch làm ăn phải đi trước một bước. Các nhà khoa học phải thực sự “làm bạn với nhà nông” để dẫn dắt họ cách trồng trọt, chăn nuôi, chăm sóc và bảo vệ. Một biện pháp khác là mở các lớp đào tạo ngắn hạn hay dài hạn cho các chủ hộ và người trong độ tuổi lao động và có kiểm tra sau khoá học rồi cấp giấy chứng nhận. Giấy chứng nhận này có thể được xét làm một điều kiện để cho vay vốn kinh doanh. Thêm vào đó, người cho vay phải thực sự coi mỗi một món vay như là một “dự án” nhỏ để xóa đói giảm nghèo, có mục tiêu đề ra, có qui trình thực hiện và đánh giá kết quả đạt được… Để làm được điều đó, trước mắt các cơ quan hữu quan phải thống nhất tại các mối tài chính hỗ trợ cho người nghèo, tránh xé lẻ, chắp vá, hỗ trợ món nào ra món nấy để kiểm tra chất lượng sử dụng vốn. Từ đó có những biện pháp điều chỉnh thích hợp.
Khắc phục tình trạng giá nông sản giảm, nâng cao thu nhập của người nông dân:
Được mùa lớn nhưng thu nhập của người nông dân giảm sút là một nghịch lí và nghịch lí đó càng trầm trọng hơn khi giá hàng hoá và dịch vụ phi lương thực, thực phẩm vẫn tăng. Thu nhập giảm do hai nguyên nhân chính: Giá các yếu tố đầu vào như phân bón, vật tư nông nghiệp, các dịch vụ làm đất, tưới tiêu, bảo vệ thực vật tăng trong khi giá nông sản lại khó tăng, thậm chí có xu hướng giảm. Thu nhập giảm dẫn tới sức mua giảm, đó chính là nguyên nhân trực tiếp làm cho thị trường nông thôn vốn đã trầm lắng lại càng bị thu hẹp, kinh tế xã hội nông thôn chậm phát triển. Vì vậy, cần có một số biện pháp khắc phục tình trạng trên như:
Ổn định giá phân bón, vật tư nông nghiệp và dịch vụ đầu vào để nông dân yên tâm đầu tư thâm canh chiều sâu, tăng năng suất chất lượng cây trồng, vật nuôi thông qua công tác chọn tạo giống có chất lượng cao ở các nước (trong đó chú trọng các giống đặc sản của từng vùng) và nhập nội những bộ giống tốt có khả năng thích nghi và phát triển.
Có chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp chế biến nông sản nhằm nâng cao chất lượng, tăng thời gian bảo quản, tạo ra những mẫu mã, bao bì đẹp phù hợp với nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng. Đồng thời, không ngừng xây dựng và phát triển các thương hiệu cho hàng hoá nông sản.
Về lưu thông và tiêu thụ nông sản, cần tổ chức lại mạng lưới thu mua nông sản theo hướng thuận tiện, nhanh chóng và hợp lí. Khắc phục tình trạng tranh mua, tranh bán, ép cấp ép giá nhất là các vùng sản xuất hàng hoá tập trung phục vụ chế biến và xuất khẩu như mía đường, cà phê, chè, trái cây… Đảm bảo hài hoà lợi ích giữa nông dân với các doanh nghiệp thương mại.
Thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nông sản và vật tư nông nghiệp cũng như các trang trại, các hộ nông dân theo hướng giảm lãi suất, đơn giản hoá các thủ tục và tăng vốn cho vay trung và dài hạn.
Tìm đầu ra cho thị trường nông sản:
Đây vẫn là một vấn đề thời sự gây nhiều khó khăn cho người nông dân. Thị trường nông sản ế ẩm, không tiêu thụ được hay không tìm được thị trường thì người chịu thiệt hại nặng nề nhất luôn là người nông dân, nó có thể làm cho người khá giả làm ăn lớn trở nên nợ nần chồng chất, các hộ nông dân thì suy kiệt. Ngược lại, nếu có thị trường ổn định thì đời sống người nông dân sẽ dễ dàng được cải thiện.
Thị trường tiêu thụ nông sản không ổn định và bị động do chưa xây dựng được chiến lược thị trường nông sản, việc tổ chức tiếp thị không theo kịp tốc độ tăng trưởng của sản xuất hàng hoá nên chưa hướng dẫn có hiệu quả đối với sản xuất. Ngược lại nhiều doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp trong nước không bám sát, gắn bó với yêu cầu thị trường cả về số lượng và chất lượng. Sức cạnh tranh nhiều nông sản phẩm Việt Nam trên thị trường còn thấp. Do đó cần tăng cường công tác marketing đối với hàng hoá nông sản.
Cho đến nay, hàng hoá nông sản ở nước ta chủ yếu được tiêu thụ dựa trên những quan hệ vốn đã có từ xưa, các hoạt động marketing để trợ giúp việc tiêu thụ nông sản hầu như chưa được quan tâm đầu tư. Số đông người sản xuất dù với khối lượng sản phẩm lớn đều thiếu thông tin thị trường nên thường xảy ra tình trạng sản xuất theo phong trào. Chính vì vậy, không ít hộ nông dân đã phải gánh chịu nhiều hậu quả là, sản phẩm làm ra không biết bán cho ai, hay bán rẻ như cho, không bù đắp được chi phí (hoặc không có lãi) đành chuyển hướng sản xuất. Để đưa nông nghiệp Việt Nam chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá trong điều kiện cạnh tranh thị trường, nhằm khai thác có hiệu quả lợi thế vốn có của Việt Nam về đất đai, khí hậu thì công tác marketing cần đặc biệt lưu ý những vấn đề sau:
Mỗi địa phương (từ cấp xã trở lên đối với những vùng chuyên canh, sản xuất lớn), cần tổ chức một nhóm cán bộ marketing đã qua đào tạo hay bồi dưỡng kiến thức chuyên môn một cách bài bản. Nhóm cán bộ này sẽ làm nhiệm vụ tìm hiểu, nghiên cứu thị trường để cung cấp thông tin và tư vấn cho người sản xuất điều chỉnh cơ cấu cây trồng, vật nuôi sao cho có lợi nhất. Đồng thời, họ cũng là cầu nối cung cấp thông tin về tình hình sản xuất, chất lượng sản phẩm đến các đầu mối tiêu thụ sao cho khi có sản phẩm thì người sản xuất và khách hàng nhanh chóng gặp gỡ nhau, tiêu thụ kịp thời.
Chính quyền, Hội nông dân địa phương cùng phối hợp với các cơ quan hữu quan của Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tổ chức các cuộc thi, triển lãm giới thiệu sản phẩm nông nghiệp hàng năm của từng vùng. Khuyến khích các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, truyền hình trung ương và địa phương, các tờ báo phổ thông dành những góc quảng cáo giới thiệu các sản phẩm của người nông dân.
Đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá:
Nhìn chung cơ cấu sản xuất của các nông hộ (nhất là nông hộ đói nghèo) chủ yếu vẫn hướng và phục vụ nhu cầu của bản thân hộ. Một số nông hộ tuy đã mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu sản xuất, mở ra nhiều ngành nghề nhưng lại rất manh múm và phân tán với qui mô nhỏ bé. Với tiềm năng phát triển nông nghiệp đa dạng, ngành nghề dịch vụ còn lớn, cần phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn một cách khẩn trương và có hiệu quả. Hơn nữa, nhằm khai thác tiềm năng đất đai, giải quyết việc làm, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh với mục đích tăng năng suất đất đai, tăng năng suất lao động, tăng thu nhập cho từng nông hộ (trong đó có hộ đói nghèo).
Nội dung chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn có thể theo hướng sau:
+ Đối với nông nghiệp:
Bên cạnh việc ổn định sản xuất lương thực, cần phát triển các loại cây trồng có ưu thế cạnh tranh trên thị trường và còn nhiều tiềm năng phát triển như: cây công nghiệp (chè, cà phê chè, đậu tương…), cây ăn quả (vải thiều, nhãn, mơ, mận, đào, lê…). Đồng thời chú trọng đến thế mạnh của vùng cao để phát triển các sản phẩm ôn đới đặc biệt có lợi thế hiện nay, chẳng hạn hoa công nghệ cao (Sa Pa - Lào Cai) .
Về chăn nuôi: Đẩy mạnh chăn nuôi lợn đáp ứng nhu cầu nội tiêu và xuất khẩu. Nâng cao chất lượng thịt bò, phát triển đàn bò sữa, tạo khả năng sản xuất sữa trong nước, thay thế nhập khẩu. Đẩy mạnh chăn nuôi gia cầm để lấy thịt và trứng, phát triển chăn nuôi thả vườn chất lượng cao.
Về lâm nghiệp: Tập trung phát triển rừng kinh tế, phục vụ chương trình cấy và chế biến gỗ, đưa ngành sản xuất lâm nghiệp trở thành ngành quan trọng.
+ Đối với công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp:
Khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống như: dệt thổ cẩm, rượu truyền thống, chế biến nông lâm sản, cơ khí, vật liệu xây dựng…
Mở rộng một số ngành nghề mới như: gia công may mặc, điện tử…
+ Đối với dịch vụ - thương mại:
Xây dựng các cụm kinh tế thương mại, tạo môi trường cho sự phát triển các ngành dịch vụ trong nông thôn gắn với các tuyến kinh tế trên các vùng sinh thái và thu hút các sản phẩm của các vùng phụ cận tạo điều kiện cho sự giao lưu kinh tế trong vùng, gắn qui hoạch giao thông với qui hoạch kinh tế - thương mại. Đẩy mạnh phát triển du lịch, nhất là du lịch sinh thái.
Một số giải pháp khác cần được nghiên cứu kĩ hơn và ứng dụng để tạo thêm việc làm góp phần xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc như: điều chỉnh bổ sung ruộng đất cho hộ nghèo có lao động, di dân và xây dựng vùng kinh tế mới, phát triển kinh tế trang trại, xuất khẩu lao động, xây dựng những vùng kinh tế thanh niên…
Phụ lục I: Phân bố nghèo đói theo các vùng ở Việt Nam năm 1998.
Vùng
Nguời nghèo ở các vùng so với các nước (%)
Tỷ lệ dân cư (%)
Dân số
(triệu người)
Miền núi phía Bắc
28
17,8
13,5
Đồng bằng sông Hồng
15
19,6
14,9
Bắc Trung Bộ
18
13,8
10,5
Duyên hải Nam Trung Bộ
10
10,7
8,1
Tây Nguyên
5
3,7
2,8
Đông Nam Bộ
3
12,8
9,7
Đồng bằng sông Cửu Long
21
21,6
16,3
Cả nước
100
100
75,8
(Nguồn: Việt Nam - tấn công nghèo đói. Báo cáo phát triển của Việt Nam tháng (12/1999).
Phụ lục II:Một vài số liệu về hệ thống cơ sở hạ tầng phân theo vùng.
1.Tỉ lệ xã thuộc khu vực nông thôn có trường tiểu học (1998 - 2000).
1998
1999
2000
Cả nước
99
98,7
98,9
Đồng bằng sông Hồng
99,5
99,9
99,9
Đông Bắc + Tây Bắc
97,8 + 97,1
97,5 + 95,8
98 + 96,6
Bắc Trung Bộ
99,8
99,6
99,4
Duyên hải Nam Trung Bộ
98,4
97,4
97,4
Tây Nguyên
97,7
97,2
97,6
Đông Nam Bộ
99,7
100
100
Đồng bằng sông Cửu Long
100
99,6
99,8
2.Tỉ lệ xã thuộc khu vực nông thôn có trường trung học cơ sở (1999 - 2000).
1999
2000
Cả nước
83,3
85,3
Đồng bằng sông Hồng
99,5
99,6
Đông Bắc + Tây Bắc
79,2 + 67,5
81,8 + 71,3
Bắc Trung Bộ
88
90,7
Duyên hải Nam Trung Bộ
70,1
70,2
Tây Nguyên
70
76,4
Đông Nam Bộ
73,5
75,0
Đồng bằng sông Cửu Long
82,4
84
3.Tỉ lệ xã thuộc khu vực nông thôn có trạm xá (1999 - 2000).
1999
2000
Cả nước
98,0
98,7
Đồng bằng sông Hồng
99,9
99,9
Đông Bắc + Tây Bắc
96,5 + 99,4
96,6 + 100
Bắc Trung Bộ
97,5
99,7
Duyên hải Nam Trung Bộ
97
97,1
Tây Nguyên
96
97
Đông Nam Bộ
99,3
99
Đồng bằng sông Cửu Long
98,3
99,3
4.Tỉ lệ xã thuộc khu vực nông thôn có điện (1998 - 2000).
1998
1999
2000
Cả nước
82,9
85,8
89,1
Đồng bằng sông Hồng
99,4
99,9
99,8
Đông Bắc + Tây Bắc
70,2 + 50,9
75,1 + 54,6
80,5 + 59,8
Bắc Trung Bộ
85,9
88,4
91,1
Duyên hải Nam Trung Bộ
74,3
79,9
85,9
Tây Nguyên
63,9
67,4
76,0
Đông Nam Bộ
93,2
97,3
98,3
Đồng bằng sông Cửu Long
93,3
95,5
98,3
5.Tỉ lệ xã thuộc khu vực nông thôn có đường ô tô tới trung tâm xã (1998 - 2000).
1998
1999
2000
Cả nước
91,6
92,9
94,6
Đồng bằng sông Hồng
99,6
99,9
99,9
Đông Bắc + Tây Bắc
89,9 + 84,6
94,1 + 85,4
96,5 + 89,2
Bắc Trung Bộ
94,8
94,7
96,3
Duyên hải Nam Trung Bộ
96,2
93,8
93,9
Tây Nguyên
97,1
97,6
97,4
Đông Nam Bộ
99,5
99,3
99,7
Đồng bằng sông Cửu Long
73,2
75,3
79,9
KẾT LUẬN
Đói nghèo là hiện tượng xã hội có tính lịch sử và phổ biến đối với mọi quốc gia, dân tộc. Sang đầu thế kỉ 21, trên hành tinh chúng ta vẫn còn hơn 1,5 tỉ người sống trong tình trạng đói nghèo. Đó là một trong những trở ngại trầm trọng nhất, một thách thức gay gắt đối với sự phát triển của thế giới hiện đại. Khắc phục hiện tượng này, đang là mối lo toan thường xuyên của các quốc gia ở mọi khu vực khác nhau trên Trái đất. Nó cũng đòi hỏi cộng đồng quốc tế nâng cao hơn nữa những nỗ lực chung của các chính phủ, thúc đẩy những hoạt động hợp tác phối hợp nhiều lĩnh vực, trước hết là lĩnh vực kinh tế - xã hội để cùng nhau giải quyết có hiệu quả vấn đề có tính toàn cầu này. Đối với nước ta, một đất nước luôn hướng tới phồn thịnh về kinh tế, lành mạnh về xã hội, kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội thì xóa đói giảm nghèo là một vấn đề thời sự, bức xúc hiện nay.
Trên cơ sở nhận thức về tầm quan trọng của vấn đề xóa đói giảm nghèo, em đã chọn đề tài này và mong muốn được tìm hiểu sâu hơn về vấn đề xóa đói giảm nghèo nói chung và ở các tỉnh vùng núi phía Bắc nói riêng. Tuy nhiên, do trình độ và thời gian có hạn nên em không thể phân tích kĩ những vấn đề đặt ra mà chủ yếu trình bày dưới dạng lý luận chung. Mặc dù có nhiều cố gắng song không thể không có những chỗ thiếu sót, chưa hợp lý, em rất mong nhận được sự đánh giá, phê bình của thầy. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy đã hướng dẫn tận tình để em có thể hoàn thành đề án này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng CSVN, Nxb Chính trị Quốc gia, 2001.
2, Hướng dẫn kế hoạch làm ăn cho hộ nông dân nghèo đói để xóa đói giảm nghèo, PGS - TS Lê Trọng, Nxb Văn hoá dân tộc, 2000.
3, Một số phương pháp tiếp cận và phát triển nông thôn, Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, Nxb Nông nghiệp, 2002.
4, Nông nghiệp và nông thôn - Những cảm nhận và đề xuất, Đào Công Tiến, Nxb Nông nghiệp, 2003.
5, Xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Hà Quế Lâm,Nxb Chính trị Quốc gia, 2002.
6, Nghèo đói và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, TS Chu Tiến Quang và tập thể tác giả, Nxb Nông nghiệp, 2001.
7, Kỷ yếu khoa học - Nghiên cứu kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn 1996 - 2002, Nxb Nông nghiệp, 2002.
8, Nông nghiệp Việt Nam - 61 tỉnh và thành phố, Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, Nxb Nông nghiệp, 2001.
9, Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay, Nguyễn Thị Hằng - Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, 1997.
10, Kỷ yếu diễn đàn phát triển bền vững miền núi Việt Nam, Ủy ban Dân tộc, Nxb Nông nghiệp, 2003.
11, Đầu xuân bàn về chuẩn mực hộ nghèo, Vũ Văn Toán, Tạp chí Lao động và Xã hội số tháng 2/2001.
12, Bước tiến mới của sự nghiệp xóa đói giảm nghèo, Nguyễn Thị Hằng - Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, số tháng 4/2001.
13, Phát triển kinh tế nông thôn - Cơ hội cho người nghèo vươn lên, Thục Trinh, Tạp chí Thông tin kinh tế số 13 tháng 7/2001.
14, Liên kết “4 nhà” - Động lực phát triển nông nghiệp hàng hoá, Vũ Trọng Khải, Tạp chí Nông nghiệp và phát triển Nông thôn số 1/2003.
15, Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân ở các tỉnh miền núi, vùng cao phía Bắc, Tiến sĩ Trần Quốc Khánh, Tạp chí Kinh tế và phát triển số 34/2000.
16, Một số vấn đề nghèo đói ở vùng đồng bào dân tộc ít người và miền núi Việt Nam trong 10 năm gần đây, Nguyễn Trọng Xuân, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 262 tháng 3/2000.
17, Xóa đói giảm nghèo và nỗ lực của người nghèo, Hoàng Thu Hương, Tạp chí Lao động và Xã hội số tháng 6/2001.
18, Tổ chức sản xuất ở các tỉnh miền núi, vùng cao phía Bắc nước ta - Thực trạng và giải pháp, GS.TS Nguyễn Đình Hương - PGS.TS Mai Ngọc Cường, Tạp chí Kinh tế và phát triển số 34/2000.
19, Tiêu thụ nông sản cho nông dân - Những vấn đề cần giải quyết khi Quyết định 80/TTG, Phạm Văn Biên, Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn số 8/2003.
20, Cần có sự hỗ trợ của Nhà nước cho nông dân trước những bất lợi về giá cả thị trường hiện nay, Ngô Anh Ngà, Tạp chí Nông thôn mới số 96 (Kì 1 tháng 7/2003).
MỤC LỤC
Lời mở đầu Trang
Phần I: Mấy vấn đề lý luận về đói nghèo.
1. Khái niệm đói nghèo và chuẩn mực đói nghèo
2. Sự tác động của đói nghèo tới phát triển kinh tế - xã hội
3.Những nguyên nhân chính dẫn đến đói nghèo
3.1 Do xa cách
3.2. Áp lực về nhân khẩu và lao động
3.3 Thiếu nguồn lực
3.4 Do những rủi ro, thiên tai, địch hoạ
3.5 Do tham nhũng
4. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về xóa đói giảm nghèo ở khu vực miền núi
Phần II: Vài nét về tình hình nghèo đói ở các tỉnh miền núi phía Bắc
1. Tình hình cơ bản ở các tỉnh miền núi phía Bắc có ảnh hưởng tới đói nghèo
2. Khái quát tình hình nghèo đói ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Phần 3: Một số giải pháp xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Những quan điểm
Phương hướng
Một số giải pháp xoá đói giảm nghèo
3.1. Tăng trưởng kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững
3.2. Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo
3.3. Công tác qui hoạch, định hướng phát triển
3.4. Tạo điều kiện thích hợp đi đôi với giảm thiểu rủi ro và tổn thương cho các hộ nghèo tự vươn lên xóa đói giảm nghèo
3.5. Giải pháp thúc đẩy hộ nghèo phát triển sản xuất
Kết luận
Phụ lục I
Phụ lục II
Tài liệu tham khảo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số giải pháp xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc.doc