Một số nét về tư pháp quốc tế của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
DẪN ĐỀ
Luật tư pháp là tổng thể các quy phạm pháp luật được áp dụng cho các chủ thể tư;
luật công pháp là tổng thể các quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức bộ máy nhà
nước và các cơ quan nhà nước, quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau và giữa
các cơ quan nhà nước với các chủ thể tư.
Luật tư pháp chia thành:
Tư pháp quốc tế và
Tư pháp quốc nội.
II. TƯ PHÁP QUỐC TẾ
Trong phạm vi biên giới lãnh thổ của mình, mỗi quốc gia được toàn quyền xác định
các quy định áp dụng đối với công dân nước mình. Không có khó khăn gì đặt ra nếu
công dân mỗi quốc gia chỉ sinh sống trong phạm vi quốc gia đó. Nhưng trên thực tế,
từ thời Cổ đại, con người đã thích đi du lịch và thực hiện các cuộc hành trình mạo
hiểm, và cùng với sự phát triển của các phương tiện giao thông, du lịch cũng ngày
càng phát triển.
Ở tất cả các nước, đều tồn tại các mối quan hệ giữa những người có quốc tịch khác
nhau. Đối với các quan hệ này, phải áp dụng các quy định pháp luật nào? Trong
trường hợp một người Lào kết hôn với một người Việt Nam tại Lào thì áp dụng pháp
luật nước nào để xác định các điều kiện kết hôn về hình thức và về nội dung? Đó là
pháp luật của Lào, Việt Nam, Thái Lan hay pháp luật của cả hai hay ba nước đó?
Đây là vấn đề xung đột pháp luật.
Một người đàn ông Pháp kết hôn với một người phụ nữ Trung Quốc tại Lào. Người này
rời Lào đến Việt Nam sinh sống và muốn ly hôn. Trong trường hợp này, đương sự phải
khởi kiện ra tòa án nào?
Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết việc ly hôn? Đương sự phải khởi kiện ra tòa án
Lào, tòa án Trung Quốc, tòa án Việt Nam hay tòa án Pháp?
7 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2762 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số nét về tư pháp quốc tế của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ NÉT VỀ TƯ PHÁP QUỐC TẾ CỦA CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
I. DẪN ĐỀ
Luật tư pháp là tổng thể các quy phạm pháp luật được áp dụng cho các chủ thể tư;
luật công pháp là tổng thể các quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức bộ máy nhà
nước và các cơ quan nhà nước, quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau và giữa
các cơ quan nhà nước với các chủ thể tư.
Luật tư pháp chia thành:
Tư pháp quốc tế và
Tư pháp quốc nội.
II. TƯ PHÁP QUỐC TẾ
Trong phạm vi biên giới lãnh thổ của mình, mỗi quốc gia được toàn quyền xác định
các quy định áp dụng đối với công dân nước mình. Không có khó khăn gì đặt ra nếu
công dân mỗi quốc gia chỉ sinh sống trong phạm vi quốc gia đó. Nhưng trên thực tế,
từ thời Cổ đại, con người đã thích đi du lịch và thực hiện các cuộc hành trình mạo
hiểm, và cùng với sự phát triển của các phương tiện giao thông, du lịch cũng ngày
càng phát triển.
Ở tất cả các nước, đều tồn tại các mối quan hệ giữa những người có quốc tịch khác
nhau. Đối với các quan hệ này, phải áp dụng các quy định pháp luật nào? Trong
trường hợp một người Lào kết hôn với một người Việt Nam tại Lào thì áp dụng pháp
luật nước nào để xác định các điều kiện kết hôn về hình thức và về nội dung? Đó là
pháp luật của Lào, Việt Nam, Thái Lan hay pháp luật của cả hai hay ba nước đó?
Đây là vấn đề xung đột pháp luật.
Một người đàn ông Pháp kết hôn với một người phụ nữ Trung Quốc tại Lào. Người này
rời Lào đến Việt Nam sinh sống và muốn ly hôn. Trong trường hợp này, đương sự phải
khởi kiện ra tòa án nào?
Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết việc ly hôn? Đương sự phải khởi kiện ra tòa án
Lào, tòa án Trung Quốc, tòa án Việt Nam hay tòa án Pháp?
Đây là vấn đề xung đột thẩm quyền xét xử.
Trong trường hợp con được sinh ra ở nước ngoài thì con có quốc tịch của cha mẹ hay
của nước nơi sinh. Đây là vấn đề quốc tịch.
Ở Lào, quyền của người nước ngoài được quy định như thế nào?
Người nước ngoài có được tự do đến Lào không? Có quyền hành nghề hoặc hoạt động
thương mại như công dân Lào không? Có được mua bất động sản không? Đây là vấn
đề điều kiện về người nước ngoài.
Mỗi quốc gia có các quy định riêng về tư pháp quốc tế. Đôi khi các quy định này xuất
phát từ các điều ước quốc tế.
Luật tư pháp quốc tế hay luật tư pháp quốc nội là tổng thể các quy phạm pháp luật
hiện hành của một quốc gia được áp dụng cho các chủ thể tư (các cá nhân [như ông
A, cô C] và các pháp nhân [như Nhà nước Lào, thành phố Viêng-Chăn, thủ đô của
Lào...])
Luật tư pháp của Lào là tổng thể các quy phạm pháp luật hiện hành ở nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào, được áp dụng cho các chủ thể tư (cá nhân, pháp nhân).
Luật tư pháp quốc nội được chia thành:
luật thương mại;
luật lao động;
luật dân sự;
….
tương ứng với các lĩnh vực hoạt động của con người.
Luật thương mại áp dụng cho hoạt động thương mại.
Luật lao động áp dụng cho quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động.
Ngành luật quan trọng nhất trong hệ thống luật tư pháp là luật dân sự.
Các cá nhân (nam và nữ) sinh ra, kết hôn, lập gia đình và chết.
Các chủ thể tư (cá nhân và pháp nhân) có một khối tài sản bao gồm các tài sản
hữu hình và các tài sản vô hình, các tài sản có và các tài sản nợ.
Quần áo, xe máy, xe ô tô… là các tài sản hữu hình thuộc sở hữu của một người nào
đó.
Quyền sở hữu văn học, nghệ thuật, quyền sở hữu công nghiệp, sản nghiệp thương mại
là các tài sản vô hình.
Quyền sở hữu công nghiệp là quyền khai thác độc quyền sáng chế mà một số người đã
sáng tạo ra.
Thơ, kịch, sáng chế là những sáng tạo tinh thần, những vật trừu tượng, không có hình
thù và là những tài sản vô hình.
Tài sản có và tài sản nợ trong khối tài sản:
Tài sản có là các tài sản hữu hình và vô hình,
Tài sản nợ là các nghĩa vụ, các khoản nợ của một người.
Trong trường hợp con nhận thừa kế của cha thì phải nhận cả các tài sản có và các tài
sản nợ, phải thực hiện nghĩa vụ và thanh toán các khoản nợ của cha.
Bên cho thuê có nghĩa vụ cho bên thuê sử dụng nhà trong thời hạn xác định trong hợp
đồng thuê nhà. Nếu bên cho thuê chết sau khi ký hợp đồng được 1 năm thì người thừa
kế của người đó có nghĩa vụ nêu trên cho đến khi hết thời hạn hợp đồng cho thuê nhà.
Nghĩa vụ này thuộc phần tài sản nợ trong khối tài sản của bên cho thuê.
Các cá nhân chung sống với nhau thì tất yếu phải có quan hệ với nhau. Đó là các quy
định điều chỉnh việc sinh ra, tồn tại và mất đi của con người. Đó là các quy định điều
chỉnh quan hệ giữa các cá nhân với nhau.
Tình trạng của một cá nhân không chỉ được xem xét trong quan hệ với quốc gia, mà
còn được xem xét trong quan hệ với gia đình, tùy thuộc vào việc cá nhân đó đã kết
hôn, chưa kết hôn, ly hôn, con trong giá thú, con ngoài giá thú hay con nuôi. Các
quyền và nghĩa vụ của người đó trong quan hệ với các thành viên khác của gia đình và
với người thứ ba. Theo các quy định pháp luật hiện hành của Lào, quốc tịch được xác
lập theo huyết thống. Người nước ngoài kết hôn với người Lào cũng được cấp quốc tịch
Lào.
Dưới đây, tác giả phát triển một số nội dung sau:
Hộ tịch;
Hôn nhân;
Ly hôn;
Quan hệ cha mẹ và con;
Nuôi con nuôi;
Quốc tịch;
Thừa kế;
Di chúc và;
Phá sản.
Thưa Quý vị đại biểu,
Hộ tịch
Văn bản hộ tịch là văn bản nhằm chứng minh chắc chắn tình trạng của các cá nhân.
Các văn bản này được ghi vào sổ đăng ký công khai do cán bộ hộ tịch quản lý. Số này
phục vụ nhiều mục đích (thống kê, lập danh sách cử tri, lập danh sách thanh niên thực
hiện nghĩa vụ quân sự...).
Kết hôn
Kết hôn là một thỏa thuận dân sự trang trọng theo đó nam và nữ thỏa thuận chung
sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau và nuôi dạy con cái. Pháp luật của nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào quy định nguyên tắc một vợ một chồng vì gia đình là
tế bào quan trọng nhất của xã hội.
Việc kết hôn xác lập các nghĩa vụ giữa vợ chồng với nhau, nghĩa vụ chung thủy, nghĩa
vụ chăm sóc, giúp dỡ lẫn nhau...
Theo Luật số 07/90/APS ngày 29 tháng 11 năm 1990 về hôn nhân và Nghị định của
Thủ tướng Chính phủ số 198/PM ngày 19 tháng 12 năm 1994 về hôn nhân giữa công
dân Lào với công dân nước ngoài.
Điều 2 Nghị định này quy định công dân nước ngoài là người có quốc tịch nước khác
đến Lào tạm trú hoặc thường trú để làm việc hoặc tiến hành những hoạt động cụ thể
và rời khỏi Lào sau khi kết thúc công việc. Trong thời gian cư trú tại Lào, người đó chịu
sự quản lý của Bộ Ngoại giao hoặc cơ quan hữu quan.
Luật hôn nhân và Nghị định nêu trên được áp dụng đối với các trường hợp công dân
Lào kết hôn với công dân nước ngoài tại Lào trừ các quy định của Luật và Nghị định
trái với các điều ước quốc tế mà Lào đã ký kết hoặc tham gia. Trong trường hợp này,
áp dụng điều ước quốc tế (điều 3 Nghị định).
Theo điều 4 của Nghị định, những người muốn kết hôn với nhau phải nộp hồ sơ bao
gồm các giấy tờ, tài liệu sau:
đơn xin kết hôn;
sơ yếu lý lịch;
giấy chứng nhận nơi cư trú;
giấy chứng minh thư hoặc bản phô-tô hộ chiếu hoặc tài liệu khác;
giấy chứng nhận tình trạng độc thân;
giấy chứng nhận y tể;
phiếu số 3;
ảnh (mỗi người), cỡ 4x6;
giấy chứng nhận tình hình tài chính đối với công dân nước ngoài;
giấy cam kết của công dân nước ngoài về việc bảo đảm cho vợ quay trở lại nước
mình trong trường hợp ly hôn, nếu vợ muốn;
ý kiến của Đại sứ quán hoặc Lãnh sự quán của nước liên quan đối với công dân
nước ngoài, được gửi qua Bộ Ngoại giao Lào;
ý kiến của công an tỉnh, thành phố Viêng-chăn;
ý kiến của Sở Tư pháp tỉnh, thành phố Viêng-chăn.
(cán bộ hộ tịch cấp tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm đối với các tài liệu nêu tại các
điểm 12 và 13).
Đối với công dân Lào làm việc trong lĩnh vực liên quan đến bí mật quốc gia mà muốn
kết hôn với công dân nước ngoài thì phải có ý kiến của thủ trưởng cấp trên (điều 5).
Điều 6 của Nghị định quy định các giấy tờ, tài liệu tiếng nước ngoài phải được dịch
sang tiếng Lào và được chứng nhận hợp lệ.
Hồ sơ xin kết hôn của công dân Lào với công dân nước ngoài phải được nộp cho cán bộ
hộ tịch của tỉnh, thành phố, kèm theo một khoản lệ phí 30.000 Kip (mức lệ phí này
hiện nay không còn phù hợp vì quá thấp) được nộp cho Kho bạc trung ương hoặc Kho
bạc tỉnh, thành phố (điều 7).
Cán bộ hộ tịch phải nghiên cứu hồ sơ xin kết hôn trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày
nhận được hồ sơ.
Nếu chấp nhận hồ sơ, cán bộ hộ tịch tỉnh, thành phố phải triệu tập đương sự đến để
đăng ký kết hôn tại phòng hộ tịch tỉnh, thành phố nơi nộp hồ sơ (điều 8).
Theo điều 9 của Nghị định, đối với trường hợp công dân Lào kết hôn với người Lào tỵ
nạn, thì cũng áp dụng Luật hôn nhân và Nghị định này.
Trong trường hợp công dân Lào kết hôn với công dân nước ngoài ở ngoài lãnh thổ của
Lào thì áp dụng pháp luật của quốc gia liên quan nhưng phải có sự đồng ý của Đại sứ
quán hoặc Lãnh sự quán Lào tại nước liên quan.
Trong trường hợp không có Đại sứ quán hoặc Lãnh sự quán thì phải có ý kiến của Bộ
Ngoại giao Lào.
Nếu việc kết hôn đó phù hợp với pháp luật của nước liên quan thì Đại sứ quán hoặc
Lãnh sự quán Lào có thể tiến hành đăng ký kết hôn (điều 10 Nghị định).
Điều 11 Nghị định nêu rõ Luật hôn nhân gia đình của Lào áp dụng đối với các trường
hợp công dân Lào kết hôn với người nước ngoài hoặc người không có quốc tịch cư trú
tại Lào.
Ly hôn
Trong pháp luật Lào, ly hôn có thể được định nghĩa là sự chấm dứt hôn nhân khi vợ
chồng còn sống theo quyết định của tòa án (không còn tồn tại chế độ đồng thuận ly
hôn). Ly hôn là biện pháp chế tài trong trường hợp vợ hoặc chồng phạm lỗi đối với
người kia: ví dụ chồng bỏ nhà có sự đồng ý hoặc không có sự đồng ý của vợ. Những
căn cứ ly hôn được quy định cụ thể trong Luật hôn nhân gia đình: ngoại tình, bị kết án
hình sự, chồng không tuân thủ nghĩa vụ chăm sóc gia đình, vợ không tuân thủ nghĩa
vụ sống chung, chồng hoặc vợ bỏ nhà đi tu hành...
Quan hệ cha mẹ và con
Quan hệ cha mẹ và con là quan hệ pháp luật (cha và con, mẹ và con). Quan hệ này có
thể là quan hệ trong giá thú, ngoài giá thú hoặc nuôi con nuôi.
Nuôi con nuôi
Theo quy định của Luật hôn nhân gia đình của Lào, bất cứ người thành niên nào muốn
nhận người chưa thành niên làm con nuôi thì phải có sự đồng ý của cha và mẹ hoặc
cha hoặc mẹ còn sống hoặc nếu không còn ai, của người quản lý của người được xin
làm con nuôi.
Nếu người xin nhận con nuôi đã kết hôn thì chỉ được xin con nuôi khi có sự đồng ý của
vợ hoặc chồng của mình.
Người xin nhận con nuôi phải là người thành niên.
Theo chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp số 69/MJ ngày 4 tháng 4 năm 1994, hồ sơ xin
con nuôi phải gồm 10 loại giấy tờ, tài liệu như: đơn xin nhận con nuôi, văn bản chứng
nhận hoàn cảnh gia đình của người xin nhận con nuôi và các giấy tờ, tài liệu khác.
Hồ sơ được nộp cho người đứng đầu địa phương xem xét trong thời hạn không quá 1
tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ. Nếu các điều kiện cần thiết được đáp ứng, việc
nuôi con nuôi được cán bộ hộ tịch đăng ký trong thời hạn 3 ngày.
Ở nước ngoài, nếu người xin nhận con nuôi không phải là công dân Lào mà muốn xin
trẻ em Lào làm con nuôi thì phải có sự cho phép của Đại sứ quán hoặc Lãnh sự quán
Lào ở nước sở tại và phải áp dụng pháp luật của nước đó.
Trong pháp luật Lào, con nuôi có các quyền và nghĩa vụ như con đẻ...
Quốc tịch
Theo điều 9 của Luật hôn nhân gia đình, quốc tịch Lào được xác lập theo các căn cứ
sau :
do sinh ra;
được nhập quốc tịch Lào;
được trở lại quốc tịch Lào (trước đây đã từ bỏ quốc tịch Lào);
các căn cứ quy định từ điều 11 đến điều 14 Luật hôn nhân gia đình, ví dụ:
o trẻ em có cha và mẹ là công dân Lào và sinh ra ở Lào hoặc ở nước ngoài thì
có quốc tịch Lào;
o trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Lào thì có quốc tịch Lào nếu:
- được sinh ra ở Lào;
- được sinh ra ở ngoài lãnh thổ Lào và vào thời điểm đó, cha hoặc mẹ hoặc cả
cha và mẹ đang cư trú tại Lào.
Trong trường hợp trẻ được sinh ra ở ngoài lãnh thổ Lào và cha mẹ đang cư trú ở ngoài
lãnh thổ Lào thì quốc tịch của trẻ do cha mẹ quyết định.
Trường hợp cha hoặc mẹ là công dân Lào và người kia là người không quốc tịch thì con
được coi là công dân Lào mà không căn cứ vào nơi sinh (điều 11).
Trẻ sinh ra ở Lào mà cha mẹ là người không quốc tịch, cư trú tại Lào thì có thể có
quốc tịch Lào nếu cha mẹ có yêu cầu (điều 12).
Trẻ được tìm thấy ở Lào mà không rõ cha mẹ là ai thì được coi là công dân Lào.
Nếu trẻ được tìm thấy dưới 18 tuổi và có chứng cứ xác định cha mẹ là công dân nước
ngoài thì trẻ được coi là công dân nước ngoài kể từ ngày sinh (điều 13).
Điều 14 Luật hôn nhân gia đình quy định:
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp
175
Các điều kiện để công dân nước ngoài hoặc người không quốc tịch trở thành công dân
Lào
Công dân nước ngoài hoặc người không quốc tịch có thể được nhập quốc tịch Lào nếu
có yêu cầu và nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau:
trên 18 tuổi vào ngày có yêu cầu nhập quốc tịch;
chưa từng vi phạm Hiến pháp và pháp luật của Lào;
nói, viết và đọc được tiếng Lào;
chứng minh được khả năng hòa nhập xã hội và văn hóa Lào, hiểu biết và thực
hành các truyền thống tốt đẹp của Lào;
có sức khỏe tốt, không mắc bệnh truyền nhiễm và nguy hiểm, không sử dụng
ma túy;
chưa từng bị kết án tù;
góp phần vào việc bảo vệ và phát triển Tổ quốc Lào;
không gây tổn thất cho Tổ quốc Lào;
Đã cư trú liên tục ở Lào trong thời gian trên 10 năm trước khi có yêu cầu nhập
quốc tịch Lào.
Đối với người có kiến thức chuyên môn ở cấp chuyên gia, thời hạn này có thể ngắn
hơn.
Thừa kế
Theo Luật thừa kế của Lào, thừa kế là sự chuyển giao tài sản, quyền và nghĩa vụ của
người chết cho người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc (điều 2).
Theo điều 6 của Luật thừa kế, người thừa kế là con trai, con gái (con trong giá thú,
con ngoài giá thú, con nuôi), chồng hoặc vợ còn sống. Nếu người để lại di sản không
có con, không có vợ, chồng thì thứ tự thừa kế được xác định như sau:
trực hệ: cha mẹ, ông bà;
bàng hệ: anh chị em ruột, cô dì chú bác...;
Nhà nước hoặc cá nhân, tổ chức khác do Luật quy định.
Di chúc
Theo Luật thừa kế, mọi công dân có quyền tặng cho hoặc chuyển giao tài sản, lập di
chúc tặng cho hoặc chuyển giao tài sản của mình cho một hoặc nhiều người khác.
Luật này quy định các điều kiện hạn chế tặng cho hoặc chuyển giao tài sản, hình thức
di chúc, di chúc miệng, di chúc bằng văn bản, sửa đổi hoặc hủy bỏ di chúc, thực hiện
di chúc (ở Bộ Tư pháp Lào, có Vụ Công chứng, ở tỉnh và thành phố Viêng-chăn, có
phòng công chứng thuộc Bộ Tư pháp).
Phá sản
Luật phá sản của Lào được công bố bởi Sắc lệnh của Chủ tịch nước số 52/RDP ngày 5
tháng 11 năm 1994. Luật này gồm 6 chương: chương 1/các quy định chung, chương
2/yêu cầu giải quyết phá sản, chương 3/ xem xét yêu cầu giải quyết phá sản ….
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số nét về tư pháp quốc tế của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.doc