LỜI MỞ ĐẦU
Văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám 1945 là một thời kỳ mới của lịch sử văn học dân tộc. Nó vừa có những đột biến lại vừa là sự tiếp nối với thời kỳ văn học từ đầu thế kỷ XX đến 1945. Trên đại thể, thời kỳ văn học từ sau 1945 đã đi qua hai giai đoạn lớn: từ 1945 đến 1975 và từ sau 1975.
Đại thắng mùa xuân năm 1975 cũng khép lại một giai đoạn văn học và mở ra một chặng đường mới. Đứng trước đòi hỏi đổi mới và phát triển nền văn học tương ứng với những biến đổi của lịch sử - xã hội, và trong đời sống tinh thần của con người, tất yếu nảy sinh nhu cầu nhìn lại, đánh giá lại văn học thời kỳ đã qua. Từ cuối những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ trước, nhất là trong những năm khởi đầu công cuộc đổi mới, văn học cách mạng giai đoạn 1945-1975 đã được xem xét, đánh giá lại về nhiều phương diện và ở nhiều hiện tượng cụ thể. Nhờ đó, nhận thức về giai đoạn văn học này đã có nhiều biến đổi và những bước tiến mới. Tuy nhiên, có không ít vấn đề được nêu lên, bàn thảo, nhưng chưa được giải quyết thấu đáo. Việc có nhiều ý kiến khác nhau, nhiều cách đánh giá không giống nhau về một vấn đề, một hiện tượng văn học phải được xem là chuyện bình thường trong một môi trường văn hóa tinh thần có tính dân chủ. Nhưng điều không bình thường là ở chỗ, nhiều ý kiến mang nặng những định kiến chủ quan, không dựa trên những căn cứ khoa học, không phải là kết quả của việc nghiên cứu thấu đáo. Ở thời điểm hiện nay, khi bước vào thế kỷ XXI, rất cần có sự đánh giá khách quan, công bằng và toàn diện về di sản văn học giai đoạn 1945-1975, vị trí của nó trong văn học Việt Nam thế kỷ XX và rút ra những bài học cho sự phát triển văn học ở chặng đường tiếp theo.
1.2. Từ sau tháng 4-1975, văn học Việt Nam chuyển dần sang một giai đoạn mới. Mười năm đầu (1975-1985) là thời kỳ chuyển tiếp và từ 1986 trở đi, văn học có những chuyển động mạnh mẽ cùng với công cuộc đổi mới đất nước. Đã 30 năm kể từ tháng 4-1975, nền văn học phát triển trong những điều kiện xã hội - lịch sử và văn hóa - tư tưởng có nhiều khác biệt so với giai đoạn trước, bởi vậy nền văn học cũng có diện mạo và quy luật vận động khác trước. Mặc dù giai đoạn văn học từ sau 1975 vẫn đang tiếp diễn, nhưng 30 năm là một quãng thời gian đủ để có thể nhận diện, khái quát những đường nét chính của bức tranh văn học sử một giai đoạn. Phê bình văn học trong vài mươi năm qua đã có những đóng góp không nhỏ vào đời sống văn học, trước hết là ở việc giới thiệu, đánh giá các hiện tượng văn học mới. Nhưng những công trình có tính bao quát về văn học Việt Nam từ sau 1975 thì vẫn còn thiếu. Đã đến lúc cần có những công trình nghiên cứu về lịch sử văn học của 30 năm qua, chỉ ra tiến trình và những quy luật vận động của nó, những đặc điểm cơ bản của giai đoạn văn học này và khẳng định những thành tựu đã đạt được.
Văn học Việt Nam từ sau 1975 đã được đưa vào chương trình văn học nhà trường các cấp và sẽ ngày càng có mặt nhiều hơn trong các sách giáo khoa phổ thông, giáo trình Đại học. Vì thế, rất cần có những công trình văn học sử làm nền tảng cho việc biên soạn sách giáo khoa và cho việc tìm hiểu, phân tích các hiện tượng văn học cụ thể được đưa vào nhà trường.
Từ những lý do nêu trên chúng tôi chọn đề tài "Một số vấn đề của lịch sử văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám 1945" nhằm góp phần vào việc biên soạn những công trình về lịch sử văn học Việt Nam từ sau 1945 theo tinh thần đổi mới.
Báo cáo dài 45 trang:
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Đề xuất quan điểm tiếp cận và đánh giá giai đoạn văn học từ sau cách mạng tháng Tám 1945 và từ sau 1975.
- Nghiên cứu một số vấn đề chung của lịch sử văn học giai đoạn 1945-1975 với cái nhìn mới. Cụ thể là các vấn đề: quan niệm nghệ thuật về con người, sự vận động và những đặc điểm của các thể loại chính (thơ, văn xuôi).
- Tìm hiểu tiến trình vận động của văn học Việt Nam từ sau 1975, bước đầu khái quát những đặc điểm cơ bản của giai đoạn văn học này, những đổi mới trên nét lớn của các thể loại văn học.
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
5
Dẫn nhập: Xác định quan điểm tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945
5
Phần một: Một số vấn đề của lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975
12
I.
Quan niệm nghệ thuật về con người và đặc điểm của sự thể hiện con người trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975
12
II.
Thơ 1945 - 1975: tiến trình, thành tựu, khuynh hướng
19
III.
Sự vận động và thành tựu của các thể loại văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975
26
Phần hai: Một số vấn đề của lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn từ sau 1975
31
I.
Tiến trình vận động của văn học Việt Nam từ sau 1975
31
II.
Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam giai đoạn từ sau 1975
33
III.
Nhìn chung về sự đổi mới của văn xuôi sau 1975
35
IV.
Nhìn chung về diện mạo và sự đổi mới của thơ sau 1975
39
V.
Sơ lược về tình hình và thành tựu của lý luận, phê bình văn học từ sau 1975
40
KẾT LUẬN
43
TÀI LIỆU THAM KHẢO
44
45 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4933 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số vấn đề của lịch sử văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hời kỳ này là con người trong sự thống nhất riêng - chung. Trong văn học kháng chiến chống Pháp, hầu như chưa đặt vấn đề cái riêng của con người, hoặc nếu có nói đến cuộc sống riêng, số phận của một cá nhân nào đó thì cũng là để cụ thể hóa cái chung của dân tộc, giai cấp. Quan niệm con người hài hòa, thống nhất riêng - chung và đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích cá nhân đã chi phối các chủ đề chính yếu, các nhân vật chính và cả việc lựa chọn, xây dựng các cốt truyện tiêu biểu của văn học thời kỳ này, nhất là trong mảng sáng tác về đề tài cuộc sống hiện tại. Cố nhiên, quan niệm về sự thống nhất này cũng có tính biện chứng, cái riêng không phải là "hòa tan" trong cái chung, trong ý thức cộng đồng như ở văn học kháng chiến, và con người đi tới sự thống nhất riêng - chung cũng thường phải trải qua đấu tranh tự vượt lên mình. (Riêng - chung của Xuân Diệu, ánh sáng và Phù sa của Chế Lan Viên, Cái sân gạch của Đào Vũ...).
Một hướng khẳng định sự thống nhất riêng - chung trong văn học lúc này là sự thể hiện những cuộc đổi đời của con người trong xã hội mới, miêu tả sự biến đổi số phận và tính cách của nhân vật trong hoàn cảnh xã hội tốt đẹp, trong môi trường tập thể. (Trời mỗi ngày lại sáng của Huy Cận, Mùa lạc của Nguyễn Khải, Quê hương của Nguyễn Địch Dũng...).
Quan niệm có phần một chiều và xuôi chiều về sự thống nhất riêng - chung, lý tưởng hóa môi trường tập thể trong văn học thời kỳ này đã hạn chế việc khai thác nhiều phương diện về đời tư và thế sự của con người, nhiều nhân vật rơi vào sơ lược, công thức, ít có cá tính.
3. Con người trong văn học mời năm cả nước chống Mỹ (1964-1975)
Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học chống Mỹ cứu nước là sự tiếp tục của quan niệm con người trong văn học hai mươi năm trước đó, nhưng được phát triển tập trung vào một hướng lớn và đi tới đỉnh cao của nó là quan niệm con người sử thi. Đó là con người có lý tưởng cao cả về độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, ý thức sâu sắc về tầm vóc lịch sử và ý nghĩa thời đại của cuộc chiến đấu chống Mỹ của dân tộc. Trong thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên, con người luôn sống với những vấn đề có ý nghĩa thời đại, với tinh thần và ý chí của cả dân tộc. Con người ấy dù ở vị trí nào cũng sống với những lý tưởng lớn lao, những tầm "vĩ mô" trong ý thức về dân tộc, thời đại, lịch sử. Con người đó đối diện với thời gian "hai mươi thế kỷ" của dân tộc, và phóng mình lên những tầm cao của không gian để nhìn "nam bắc tây đông", hỏi cả "mặt trời đỏ dậy" để tự hào "cả năm châu chân lý đang nhìn theo" (Tố Hữu).
Cùng với tầm cao nhận thức, lý tưởng, con người của văn học chống Mỹ là con người của ý chí lớn, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Lý tưởng và nhận thức đã trở thành ý chí và hành động, mỗi con người được thể hiện như là đại diện trọn vẹn cho sức mạnh và quyết tâm của nền văn học thời kỳ này, là ý thức về lịch sử và sự gắn bó với quê hương, đất nước.
Với quan niệm về con người anh hùng toàn vẹn, văn học thời chống đế quốc Mỹ chú trọng mô tả con người ở các phương diện ý thức - tư tưởng, ý chí và niềm tin, cả ở hành động anh hùng và cũng rất chú ý khắc họa đời sống tình cảm, vẻ đẹp tâm hồn ở họ. Lòng nhân ái, đức hi sinh, sự thủy chung, trong sáng, trọn vẹn trong cả tình cảm riêng và tình cảm chung, đó là những phẩm chất tâm hồn cao đẹp, giàu tính lý tưởng luôn được chú ý tô đậm ở mọi hình tượng con người sử thi trong văn học thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
Con người sử thi trong văn học thời kỳ này với hai phương diện nổi bật là chủ nghĩa anh hùng và vẻ đẹp tâm hồn, là một đóng góp của văn học vào việc khám phá và thể hiện con người, đề cao sức mạnh và vẻ đẹp của con người Việt Nam. Về phương thức điển hình hóa, chủ yếu là theo lối xây dựng những hình tượng khái quát tập hợp, mỗi con người được thể hiện là đại diện trọn vẹn cho nhận thức, ý chí và sức mạnh của dân tộc, của thế hệ, thậm chí của thời đại. Trong giới hạn của quan niệm con người sử thi, cố nhiên văn học thời kỳ này không tránh khỏi tính phiến diện, tính đơn giọng điệu khi thể hiện cuộc sống và con người trong chiến tranh. ở nhiều tác phẩm, nhân vật anh hùng mang đậm màu sắc lý tưởng hóa, cách xây dựng nhân vật theo hướng khái quát, tập hợp, kết tinh những phẩm chất chung của cộng đồng nhiều khi dẫn đến tình trạng thiếu cá tính, ít sinh động của những hình tượng nhân vật ấy.
Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học giai đoạn 1945-1975 có cơ sở từ trong đời sống xã hội - chính trị của đất nước, từ hiện thực chiến tranh và cách mạng, đồng thời cũng thể hiện trình độ ý thức, mức độ phát triển của nền văn học.
II. Thơ 1945-1975: tiến trình, thành tựu, khuynh hướng
Trong phần này, chúng tôi tìm hiểu một trong những thể loại phát triển mạnh và có nhiều thành tựu nhất trong nền văn học cách mạng giai đoạn 1945-1975
1. Tiến trình và những thành tựu của các chặng đường thơ
Thơ 1945-1975 đã đi qua các chặng đường sau:
Những năm đầu cách mạng và trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954), 10 năm hòa bình sau cuộc kháng chiến chống Pháp (1955-1964) và 10 năm kháng chiến chống Mỹ (1964-1975).
Dưới đây chúng tôi sẽ không trình bày lại diễn biến tình hình sáng tác thơ trong từng chặng đường nói trên (Xin xem cụ thể ở bài viết trong phần Phụ lục kèm theo), mà chỉ nêu tóm tắt những đặc điểm chính của thơ ở mỗi chặng đường.
1.1. Thơ thời kỳ đầu cách mạng và trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954)
Cách mạng thành công đã đem lại nguồn cảm hứng mới mẻ cho thơ. Trong hơn một năm đầu sau cách mạng tháng Tám, thơ ca tràn đầy cảm hứng lãng mạn trong niềm hân hoan trước cuộc "tái sinh mầu nhiệm" của đất nước và dân tộc, trong niềm "vui bất tuyệt" của độc lập, tự do. Bước vào cuộc kháng chiến, đứng trước một hiện thực lớn lao nhưng cũng gần gũi, bởi đó là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, thơ cũng phải có những biến đổi từ cái nhìn đến cách cảm, từ chất liệu đến ngôn ngữ. Trong mấy năm đầu kháng chiến, nổi lên những xu hướng chính trong thơ như sau:
- Xu hướng khai thác cảm hứng lãng mạn anh hùng, mà đại biểu xuất sắc nhất là Quang Dũng. Thơ Quang Dũng có cốt cách trượng phu hào hùng, lại vừa bộc lộ một tâm hồn tinh tế, hào hoa, đa cảm, một hơi thơ vừa cổ kính vừa hiện đại. Ngoài Quang Dũng, còn có thể kể Trần Mai Ninh với Nhớ máu, Hữu Loan với Đèo cả, Chính Hữu với Ngày về.
- Xu hướng tìm tòi đổi mới thơ theo hướng hiện đại, mà đại diện là thơ Nguyễn Đình Thi. Thơ Nguyễn Đình Thi trong những năm đầu kháng chiến là một hiện tượng rất đáng chú ý, mở ra một hướng tìm tòi cách tân cho thơ. ý thức tìm tiếng nói nghệ thuật mới của thời đại cùng với một quan niệm có tính hiện đại về thơ tất yếu dẫn Nguyễn Đình Thi tìm đến lối thơ tự do không vần hoặc ít vần. Đáng tiếc là những cách tân của Nguyễn Đình Thi đã không được thừa nhận, thậm chí bị phê phán gay gắt tại Hội nghị tranh luận văn nghệ năm 1949 ở Việt Bắc, do đó nó không có cơ hội để tiếp tục phát triển, ít ra là trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
- Đại chúng hóa là xu hướng mà nhiều nhà thơ đã tìm đến ngay từ những năm đầu của cuộc kháng chiến và nó sớm trở thành khuynh hướng chủ đạo trong thơ ca giai đoạn này. Tố Hữu là một trong những người mở đầu cho xu hướng này bằng một loạt bài thơ được viết ngay sau chiến thắng Việt Bắc cuối năm 1947. Không kể các nhà thơ xuất hiện trong phong trào quần chúng, ngay cả các nhà thơ thuộc thế hệ Thơ Mới cũng lần lượt trước sau được thu hút vào xu hướng đại chúng hóa của thơ kháng chiến (Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Tế Hanh, Anh Thơ, Nguyễn Bính...).
Từ những năm 1950, 1951 trở đi, thơ kháng chiến chủ yếu phát triển theo hướng đại chúng hóa, với phong trào thơ ca quần chúng được phát triển rộng khắp. Những năm cuối cuộc kháng chiến, nhu cầu khái quát lịch sử đã làm nảy nở một số bài thơ có khuynh hướng trữ tình sử thi (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Ta đi tới, Việc Bắc của Tố Hữu, Quê hương Việt Bắc và Đất nước của Nguyễn Đình Thi).
1.1.2. Những đặc điểm về nội dung và hình thức nghệ thuật của thơ thời kỳ kháng chiến chống Pháp
- Thơ kháng chiến tập trung biểu hiện những tình cảm cộng đồng và tinh thần công dân mà bao trùm là tình yêu nước, với những biểu hiện phong phú, thấm sâu vào mọi mặt trong đời sống của con người kháng chiến.
- Tập trung thể hiện hình ảnh quần chúng nhân dân qua hình tượng cái "Tôi" trữ tình quần chúng và các nhân vật trữ tình trong thơ. ở nhiều bài thơ, tác giả sử dụng phương thức trữ tình nhập vai các nhân vật quần chúng để nói được một cách trực tiếp tình cảm, ý nghĩ của quần chúng, bằng ngôn ngữ và giọng điệu của chính họ.
- Đổi mới chất liệu thơ theo hướng mở rộng và tăng cường chất liệu của đời sống hiện thực, chủ yếu là hiện thực lao động, chiến đấu, sinh hoạt của quần chúng nhân dân. Điều đó phản ánh sự biến đổi trong quan niệm thẩm mỹ của thơ ca và cũng là của thời đại. Cái đẹp gắn liền với đời sống hiện thực hàng ngày của quần chúng nhân dân, trong cái bình dị, quen thuộc.
- Những đổi mới về nội dung nêu trên đã kéo theo sự biến đổi về ngôn ngữ, giọng điệu, về thể thơ. Thơ kháng chiến tiếp tục hướng đưa câu thơ về gần với điệu nói, nhưng là tiếng nói hàng ngày của đông đảo quần chúng. Khẩu ngữ, phương ngữ, địa danh, cả lời đối thoại đã có mặt khá phổ biến trong thơ cùng với những từ ngữ quân sự, chính trị, những cách xưng hô thể hiện mối quan hệ mới của con người trong đời sống cách mạng. Việc đưa nhiều chất liệu đời sống và ngôn ngữ hàng ngày vào thơ đã làm cho thơ kháng chiến trở nên chắc khỏe, sinh động, giàu tính hiện thực. Giọng điệu và nhịp điệu của thơ cũng biến đổi rõ rệt để phù hợp với nội dung cảm xúc mới, với tình điệu và nhịp điệu của cuộc sống cách mạng và kháng chiến. Về thể thơ, cùng với việc sử dụng rộng rãi các thể thơ dân gian, dân tộc như lục bát, bốn chữ, năm chữ, thì thơ tự do cũng được dùng phổ biến và bên cạnh đó là lối thơ hợp thể - xen kẽ giữa thơ tự do với thơ cách luật.
1.2. Thơ trong mười năm sau cuộc kháng chiến chống Pháp
- Sự mở rộng đề tài, chủ đề và nội dung cảm hứng trong thơ, bám sát và đáp ứng những nhu cầu đã trở nên đa dạng và cao hơn trước trong đời sống tinh thần, tình cảm của con người ở thời kỳ sau chiến tranh và bước vào xây dựng cuộc sống mới. Cùng với cảm hứng về cuộc sống mới, về sự hồi sinh của đất nước, về miền Nam và đấu tranh thống nhất, thơ cũng đã khai thác cảm hứng lịch sử, mà chủ yếu là về cuộc kháng chiến chống Pháp và lịch sử đấu tranh cách mạng.
- Sự đa dạng hóa các dạng thức của cái "tôi" trữ tình. Một trong những dấu hiệu rõ ràng nhất của sự mở rộng và phát triển ấy là sự hiện diện trở lại của cái "tôi" riêng tư, mang bản sắc cá thể, nhưng luôn được đặt trong sự thống nhất với cái chung. Cái tôi tiểu sử với những kỷ niệm và ấn tượng riêng củ nhà thơ được huy động để làm sâu sắc, thấm thía hơn về những vấn đề, những tình cảm chung như tình cảm với miền Nam, lòng biết ơn và sự gắn bó với nhân dân, với kháng chiến và cách mạng. Cuộc sống trong thời bình cũng xuất hiện những nhu cầu và vấn đề của đời sống riêng tư, cá nhân, mà trước hết là khát vọng tình yêu, hạnh phúc, là những niềm vui, nỗi buồn trong đời sống cá nhân của mỗi người. Thơ tình yêu đã hiện diện trở lại như một lẽ tự nhiên trong thơ của nhiều tác giả thuộc các thế hệ khác nhau. Sự khẳng định cuộc sống mới còn được thể hiện qua chủ đề về sự hồi sinh của những cuộc đời đau khổ, những tâm hồn khô héo trong cuộc đời cũ, đã tìm thấy con đường đi từ "thung lũng đau thương ra cánh đồng vui" (Chế Lan Viên). Thơ Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận đã biểu hiện hành trình của cái tôi nhà thơ "từ chân trời của một người đến chân trời của mọi người" (E luya).
Cái tôi trữ tình sử thi xuất hiện từ cuối kháng chiến chống Pháp vẫn được tiếp tục phát triển trong những bài thơ có nội dung khái quát lịch sử, mà tiêu biểu là tập Gió Lộng của Tố Hữu.
- Những phong cách riêng đã xuất hiện và được khẳng định, làm phong phú và đa dạng cho tiếng nói chung và diện mạo của nền thơ. Hiện tượng đáng chú ý nhất là sự trở lại đồng thời tự đổi mới của nhiều phong cách thơ đã định hình từ phong trào thơ mới: Huy Cận, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Tế Hanh, Lưu Trọng Lư. Phong cách của một số nhà thơ thuộc thế hệ kháng chiến cũng được ổn định và rõ nét hơn. Một số cây bút trẻ mới xuất hiện sau 1954 cũng bộc lộ được nét riêng, hứa hẹn trở thành những phong cách thơ làm phong phú thêm cho diện mạo của cả nền thơ.
1.3. Thơ trong mười năm kháng chiến chống Mỹ (1965-1975)
Những điểm cơ bản tạo nên đặc trưng thi pháp thơ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ và cũng là những đóng góp của thơ thời kỳ này cho tiến trình thơ Việt Nam hiện đại:
1.3.1. Thơ kháng chiến chống Mỹ đã đưa loại hình thơ cách mạng đến giai đoạn phát triển cao, mà đặc điểm nổi bật là sự kết hợp sử thi với trữ tình, tạo thành khuynh hướng trữ tình sử thi. Thơ đã sáng tạo được nhiều hình tượng cao đẹp về Tổ quốc, về con người Việt Nam trong thời đại kháng chiến chống Mỹ - con người mang tư tưởng, ý chí, tầm vóc, tình cảm của cả dân tộc. Đồng thời những vấn đề chung của thời đại cũng được thể hiện qua sự trải nghiệm của mỗi cá nhân nhà thơ hoặc của một thế hệ. Thơ thời kỳ này phát triển mạnh xu hướng chính luận, nhưng không xa rời bản chất trữ tình của thể loại.
1.3.2. Về cái tôi trữ tình, thơ kháng chiến chống Mỹ tập trung xây dựng hai hình tượng: Cái "tôi" sử thi và cái "tôi" thế hệ trẻ. Đó là hai dạng thức làm phong phú thêm cho hình tượng cái "tôi" của thơ Việt Nam hiện đại. Cái "tôi" sử thi tạo cho nhà thơ tâm thế trữ tình cao rộng với tư cách phát ngôn cho cả dân tộc, đất nước, nhân dân. Cái tôi ấy có thể cất lên lời kêu gọi, mệnh lệnh, hô hào, cổ vũ, hoặc lời khẳng định đầy tự hào về dân tộc, về cuộc chiến đấu. Cái tôi thế hệ trẻ là một đóng góp quan trọng, nổi bật của các nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
1.3.3. Cùng với xu hướng tăng cường tính chính luận, chất triết lý, thơ chống Mỹ đặc biệt chú trọng mở rộng chất liệu thơ từ hiện thực đời sống. Tính chính luận thường được bổ sung bằng chất suy tưởng triết lý. Ưu thế nổi trội của các nhà thơ trẻ là ở sự gia tăng chất liệu đời sống, mở rộng khả năng cho thơ chiếm lĩnh thực tại bộn bề, phong phú và đa dạng của hiện thực chiến tranh.
1.3.4. Thơ kháng chiến chống Mỹ đã thúc đẩy xu hướng tự do hóa hình thức thơ lên một bước mới. Tự do hóa được thể hiện ở nhiều cấp độ: lời thơ tổ chức câu thơ và kết cấu bài thơ, thể thơ.
2. Những khuynh hướng chính trong sự vận động của thơ Việt Nam 1945-1975
Dưới đây là những khuynh hướng trên cái nhìn bao quát cả giai đoạn thơ, nói cách khác, là những hướng tìm tòi trong sự vận động của cả nền thơ.
2.1. Tăng cường chất liệu hiện thực đời sống và yếu tố tự sự nhằm gia tăng tính hiện thực cho thơ, đưa thơ về gần với đời sống dân tộc, nhân dân
Xu hướng tăng cường chất liệu hiện thực cuộc sống đã khởi đầu từ thơ kháng chiến chống Pháp, được tiếp tục trong thơ về lao động và xây dựng cuộc sống mới trong những năm hòa bình và được đẩy mạnh trong thơ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Nhìn chung chất liệu hiện thực đưa vào thơ không chỉ ngày càng đa dạng, phong phú hơn mà còn được chọn lọc, nâng cao hơn bằng sự phát hiện những ý nghĩa sâu sắc, giá trị độc đáo và điển hình của mỗi chi tiết, hình ảnh. Đồng thời, đó cũng là quá trình khắc phục dần hiện tượng đưa hiện thực đời sống vào thơ một cách xô bồ, thiếu chọn lọc, ngoại giới lấn át nội tâm, biểu hiện của một quan niệm thiên lệch, sùng bái hiện thực khách quan mà coi nhẹ vai trò của chủ thể trong sáng tạo nghệ thuật.
2.2. Tăng cường tính chính luận, chất triết lý, suy tưởng trong thơ
Gắn bó mật thiết với vận mệnh của dân tộc và cách mạng, thơ không thể xa rời đời sống chính trị của đất nước trên những vấn đề cốt yếu và vì vậy tính chính luận đã trở thành một đặc điểm khá phổ biến trong thơ giai đoạn 1945-1975. Tính chính luận được bổ sung và nâng cao bằng những suy tưởng, triết lý, sức mạnh trí tuệ bổ sung cho nhiệt tình công dân và tinh thần chiến đấu. Chế Lan Viên là nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng triết lý, suy tưởng, coi trọng sức mạnh của trí tuệ trong thơ. Thơ đối với Chế Lan Viên không chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh là "khám phá sự vật ở cái bề chưa thấy, ở cái bề sâu, bề sau, ở cái bề xa". Khuynh hướng này không chỉ có ở các nhà thơ lớp trước, mà còn thu hút nhiều cây bút thuộc thế hệ thơ trẻ, bởi nó đáp ứng một đòi hỏi trong đời sống tinh thần của thời đại: Nhu cầu nhận thức, giải đáp những vấn đề tư tưởng của con người và đời sống xã hội.
2.3. Về hình thức nghệ thuật, trong thơ giai đoạn 1945-1975, nổi lên hai xu hướng chính: kế thừa các hình thức thơ ca dân gian, dân tộc và tự do hóa hình thức thơ.
*
* *
Thơ 1945-1975 là một giai đoạn trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam. Nó kế thừa những thành tựu hiện đại hóa thơ ca ở giai đoạn trước, nhưng không thể coi đó chỉ là sự nối dài của hình thức thơ mới. Thơ 1945-1975 đã tạo được diện mạo riêng với những đặc trưng thi pháp của loại hình thơ cách mạng hiện đại, góp phần làm phong phú cho nền thơ dân tộc thế kỷ XX. Trong những giới hạn và điều kiện của lịch sử, thơ giai đoạn này với cả những thành tựu và hạn chế của nó, vẫn là một phần không thể thiếu của di sản thơ ca dân tộc.
III. Sự vận động và thành tựu của các thể loại văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1945-1975
Một trong những thành tựu nổi bật của quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX là sự hình thành và phát triển hết sức mau lẹ của các thể loại văn xuôi tự sự hiện đại, đặc biệt là trong khoảng 15 năm từ 1930-1945. Từ sau cách mạng tháng Tám 1945, trong những điều kiện mới của lịch sử và văn học, trên cơ sở những thành tựu hiện đại hóa văn xuôi ở giai đoạn trước, các thể loại văn xuôi đã vận động như thế nào, có diện mạo ra sao và đạt được những thành tựu gì? Nhiều công trình nghiên cứu trước đây đã đề cập những vấn đề này ở mức độ khác nhau, nhưng vẫn cần làm rõ hơn từ góc nhìn thể loại. Trong phần này, chúng tôi cố gắng xem xét diện mạo và đặc điểm thể loại của văn xuôi 1945-1975 ở từng chặng đường.
1. Văn xuôi 1945-1954
1.1. Sự chuyển hướng mạnh mẽ về nội dung thể tài và loại hình nhân vật
- Từ thể tài thế sự, đời tư trong văn xuôi trước 1945 đã chuyển sang thể tài lịch sử dân tộc, tập trung thể hiện hiện thực cách mạng và kháng chiến, trên quan điểm dân tộc và nhân dân. Đây cũng là nội dung thể tài bao trùm cả nền văn học giai đoạn 1945-1975, với những đề tài và chủ đề cụ thể ở từng thời kỳ nhỏ.
- Nhân vật quần chúng trở thành nhân vật trung tâm, chính diện của các thể loại văn xuôi. Nhân vật này đã xuất hiện trong buổi đầu của nền văn xuôi mới, nhưng càng ngày càng được phát hiện và miêu tả phong phú, đa dạng, chân thực. Nhân vật quần chúng được lựa chọn và miêu tả theo quan niệm con người và những nguyên tắc thể hiện con người của văn học 1945-1954 (đã nêu ở phần I)
1.2. Về mặt thể loại, ở thời kỳ này có sự nổi trội và lấn át của thể ký. Do ưu thế nhanh nhạy, đáp ứng tốt yêu cầu nêu gương kịp thời, lại phù hợp với hoàn cảnh co hẹp của thời chiến nên thể ký (bút ký, ký sự, truyện ký, tùy bút) đã phát triển mạnh và chất ký thâm nhập cả vào các thể loại truyện - cả truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết.
1.3. Về nghệ thuật trần thuật, có sự chuyển dịch điểm nhìn và giọng điệu của người trần thuật hòa nhập vào điểm nhìn và giọng điệu của nhân vật quần chúng, tạo nên tính thống nhất một giọng và một điểm nhìn của tác phẩm.
1.4. Về kết cấu: Kết cấu trần thuật thường theo dòng sự kiện với cốt truyện đơn tuyến và chủ yếu là loại cốt truyện sự kiện, ít có cốt truyện tâm lý, kết cấu hình tượng được phân tuyến rõ rệt (địch - ta, chính diện - phản diện).
1.5. Hình thành một số mô-tip chủ đề và mô-tip cốt truyện đặc trưng ví dụ: từ bị áp bức đến thức tỉnh, vùng dậy, trưởng thành trong đấu tranh, gác tình riêng vì nhiệm vụ chung v.v..
Nhìn chung, văn xuôi thời kỳ 1945-1954 chưa để lại được nhiều tác phẩm xuất sắc, tuy đã tạo nên một diện mạo mới với những đặc điểm mới phù hợp với yêu cầu của thời đại cách mạng, kháng chiến. Sự kế thừa những thành tựu hiện đại hóa văn xuôi giai đoạn trước là có chọn lọc và chỉ ở một số phương diện.
2. Văn xuôi 1955-1964
2.1. Sự mở rộng và đa dạng về đề tài, chủ đề
- Ba đề tài chính: kháng chiến chống Pháp, quá khứ lịch sử trước cách mạng tháng Tám, hiện thực cuộc sống mới ở miền Bắc. Đề tài kháng chiến có nhiều thành công hơn cả, đã tái hiện nhiều mặt, nhiều sự kiện của hiện thực cuộc kháng chiến ở nhiều địa bàn, đồng thời xây dựng được những hình tượng nhân vật có giá trị điển hình, xử lý tốt hơn mối quan hệ giữa yêu cầu tái hiện sự kiện lịch sử và xây dựng nhân vật. ở đề tài về cuộc sống mới, có sự bổ sung bằng thể tài thế sự, đời tư (như các vấn đề quan hệ gia đình, khát vọng hạnh phúc, sự đổi đời của những con người có nhiều thiệt thòi, bất hạnh). Nhưng các nội dung thế sự, đời tư luôn được đặt trong quan hệ chặt chẽ với hiện thực cách mạng, là một cách khẳng định cuộc sống mới theo xu hướng vận động tích cực của cách mạng.
2.2. Sự phát triển khá đều, đạt tới độ trưởng thành của các thể văn xuôi, nhất là truyện ngắn và tiểu thuyết
- Truyện ngắn được mùa với số lượng khá lớn các tập truyện ngắn và nhiều cây bút có sở trường về thể loại này. Truyện ngắn khá đa dạng về bút pháp và phong cách, về kết cấu. Truyện ngắn trữ tình phát triển, nhất là trong thể tài thế sự - đời tư. Truyện ngắn gần với ký vẫn tiếp tục tồn tại và có sự pha trộn các yếu tố khác (như chất phong tục, chất trữ tình). Xuất hiện một số truyện ngắn luận đề, chính luận (như Tầm nhìn xa, Hãy đi xa hơn nữa của Nguyễn Khải).
- Tiểu thuyết khá phong phú về số lượng, đa dạng về đề tài. Có hai kiểu loại chính: tiểu thuyết là câu chuyện cuộc đời của một hoặc một vài nhân vật và loại tiểu thuyết toàn cảnh hay tiểu thuyết có quy mô sử thi. ở loại thứ nhất, cốt truyện thường chỉ có một tuyến, (dù thời gian được kể có thể dài) xoay quanh một hoặc một nhóm nhân vật chính (ví dụ: Đất nước đứng lên, Một truyện chép ở bệnh viện, Trước giờ nổ súng, Đi bước nữa, Cái sân gạch). ở loại thứ hai, tác phẩm bao quát khung cảnh xã hội rộng lớn, nhiều tuyến cốt truyện đan xen, nhiều biến cố lịch sử được tái hiện, hệ thống nhân vật đông đảo ở nhiều tầng lớp xã hội với những số phận và con đường đi khác nhau (như bộ Cửa biển của Nguyên Hồng, Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng).
- Các thể ký và tùy bút vẫn phát triển, tuy không còn vai trò nổi trội và xâm nhập vào các thể loại khác như trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
2.3. Nghệ thuật trần thuật và nghệ thuật xây dựng nhân vật đã có bước tiến rõ rệt. Kết cấu trần thuật và điểm nhìn trần thuật đã linh hoạt, đa dạng hơn trước. Bên cạnh loại kết cấu theo chuỗi sự kiện, biến cố bên ngoài thì kết cấu tâm lý, theo diễn biến và xung đột nội tâm đã được chú ý hơn - nhất là ở truyện ngắn. Trong xây dựng nhân vật, những nguyên tắc điển hình hóa của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đã chi phối khá rõ.
2.4. Trong văn xuôi thời kỳ này đã hình thành những dòng phong cách và phong cách cá nhân. Đây có thể xem là một dấu hiệu phát triển của văn xuôi và nền văn học nói chung
3. Văn xuôi những năm cả nước chống Mỹ 1965-1975
3.1. Cũng như toàn bộ nền văn học, bước vào thời kỳ cả nước chống Mỹ, các thể loại văn xuôi chuyển mạnh sang khuynh hướng sử thi. Thời kỳ này đã đạt đến sự phát triển mạnh mẽ và đầy đủ của loại hình văn xuôi sử thi.
3.2. Văn xuôi sử thi được xác định trước hết ở nội dung, đề tài, chủ đề và cảm hứng chủ đạo mang tính sử thi. Phản ánh cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước ở cả hai miền Nam, Bắc, văn xuôi tập trung vào chủ đề khẳng định con đường đứng lên chiến đấu, giải phóng của dân tộc và nhân dân như là chân lý của thời đại, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng qua những tấm gương tập thể và cá nhân anh hùng, khẳng định sức mạnh của ta và niềm tin vào chiến thắng. Cảm hứng nổi trội là cảm hứng anh hùng, với sự kết hợp thống nhất các phạm trù cái anh hùng, cái cao cả, cái đẹp. Cái bi bị loại trừ. Về nội dung thể tài, có sự độc tôn của thể tài lịch sử dân tộc, những nội dung thế sự và đời tư nếu có thì cũng bị thu hút vào nội dung lịch sử dân tộc.
3.3. Nhân vật sử thi là loại hình nhân vật phổ biến và đặc trưng của văn xuôi sử thi. Các nhân vật, mà tiêu biểu là nhân vật anh hùng, đều mang trong mình lý tưởng chiến đấu và khát vọng chung của dân tộc, đại diện cho ý chí, quyết tâm, sức mạnh, phẩm chất của nhân dân và dân tộc. Đó cũng còn là những con người có đời sống tâm hồn, tình cảm trong sáng, cao đẹp mà nổi bật là lòng nhân ái, thủy chung. Các nhân vật sử thi trong văn xuôi thường được xây dựng theo hướng điển hình khái quát hóa, nhiều khi là lý tưởng hóa.
3.4. Nghệ thuật trần thuật, kết cấu, giọng điệu cũng có những đặc điểm tương ứng với nội dung sử thi của văn xuôi đã nêu ở trên. Người trần thuật thường đặt mình ở tầm nhìn lịch sử để đặt mỗi sự kiện, con người trong tác phẩm vào vị trí và tương quan với lịch sử, với thời đại, biến cái hiện tại thành lịch sử. Điểm nhìn trần thuật luôn có một khoảng cánh sử thi với đối tượng miêu tả, tạo nên tâm thế sùng kính, ngưỡng mộ và giọng điệu trang trọng, ngợi ca, tự hào. Kết cấu tác phẩm thường được tổ chức và triển khai theo các xung đột cơ bản mang tính thời đại, theo sự phát triển của chuỗi biến cố mà nhân vật được đặt vào để thử thách và bộc lộ mọi phẩm chất, tính cách.
3.5. Các thể loại văn xuôi có sự phát triển khá toàn diện. Truyện ngắn vẫn là một thể có nhiều thành công với nhiều phong cách truyện ngắn đã hình thành rõ nét. Tiểu thuyết sử thi không thiên về quy mô toàn cảnh và cũng có nhiều dạng khác nhau, có sự bổ sung bằng các yếu tố trữ tình, chính luận, hoặc màu sắc phiêu lưu. Thể ký lại phát triển mạnh, nhất là thể truyện ký từng có lúc được đề cao quá mức, nhưng dù sao cũng không có vị thế lấn át các thể loại khác như trong văn xuôi thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
*
* *
Văn xuôi 1945-1975 là một giai đoạn trong tiến trình phát triển của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, với những đặc điểm và thành tựu riêng đã để lại dấu ấn đáng ghi nhớ không chỉ trong giai đoạn lịch sử đương thời mà chắc chắn những kinh nghiệm, thành tựu và cả những hạn chế của nó còn góp phần vào sự phát triển của văn học Việt Nam từ sau năm 1945.
Phần hai
Một số vấn đề của lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn từ sau 1975
Từ sau tháng 4/1975 đến nay, cùng với bước chuyển lớn của lịch sử đất nước, văn học Việt Nam đã trải qua chặng đường 30 năm với những biến đổi sâu sắc và toàn diện. Mặc dù giai đoạn văn học này vẫn còn đang tiếp diễn, nhưng 30 năm đã là thời gian đủ để nhận diện và khái quát những đặc điểm cơ bản, quy luật vận động và thành tựu đổi mới của nền văn học.
I. Tiến trình vận động của văn học Việt Nam từ sau 1975
Nhìn trên đại thể, văn học Việt Nam từ sau 1975 đến nay đã đi qua ba chặng đường có sự tiếp nối và biến đổi.
1. Từ 1975 đến 1985 là thời kỳ chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh sang văn học thời hậu chiến. Tính chất chuyển tiếp này thể hiện rõ ở cả đề tài, cảm hứng, các phương thức nghệ thuật và cả quy luật vận động của văn học. ở nửa cuối thập kỷ 70, nền văn học về cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo những quy luật và với những cảm hứng chủ đạo trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Đề tài chiến tranh và khuynh hướng sử thi vẫn nổi trội, tuy đã có những tìm tòi và bước phát triển mới, cả ở văn xuôi và thơ. Bước vào những năm đầu thập kỷ tám mươi, tình hình kinh tế xã hội của đất nước gặp nhiều khó khăn chồng chất và rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Nền văn học cũng chững lại và không ít người viết lâm vào tình trạng bối rối, không tìm thấy phương hướng sáng tác. Nhưng đây cũng chính là những năm mà xu hướng đổi mới văn học đang được hình thành ở những cây bút đi tiên phong, với sự chuyển hướng của ngòi bút vào những vấn đề thế sự - đời tư (các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Bên kia bờ ảo vọng của Dương Thu Hương, Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải).
2. Từ 1986 đến đầu những năm chín mươi. Đường lối đổi mới tại Đại hội VI của Đảng và tiếp theo đó là nghị quyết 05 của Bộ chính trị, cuộc gặp của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ vào cuối năm 1987, tất cả những điều đó đã thổi một luồng gió lớn vào đời sống văn học nghệ thuật nước nhà, mở ra thời kỳ đổi mới của văn học Việt Nam trong tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật. Vào nửa cuối những năm 80 và đầu những năm 90 đã phát triển mạnh khuynh hướng nhận thức lại hiện thực với cảm hứng phê phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản (Thời xa vắng của Lê Lựu, Cỏ lau, Phiên chợ Giát củ Nguyễn Minh Châu, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Bến không chồng của Dương Hướng, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng...) Tiếp tục hướng tiếp cận đời sống trên bình diện thế sự - đời tư đã được mở ra ở nửa đầu những năm tám mươi, nhiều cây bút đã đi vào thể hiện mọi khía cạnh của đạo đức cá nhân và những quan hệ thế sự đan dệt nên cuộc sống đời thường phồn tạp mà vĩnh hằng. Nhiệt tình đổi mới xã hội, khát vọng dân chủ và tinh thần nhìn thẳng vào sự thật đã là động lực tinh thần cho văn học của thời kỳ đổi mới phát triển mạnh mẽ, sôi nổi. Tư duy văn học mới đã dần hình thành, làm thay đổi các quan niệm về chức năng của văn học, về mối quan hệ giữa văn học và đời sống, nhà văn và bạn đọc, về sự tiếp nhận văn học. Đồng thời sự đổi mới tư duy nghệ thuật cũng thúc đẩy mạnh mẽ những sự tìm kiếm, thể nghiệm về cách tiếp cận thực tại, về các thủ pháp và bút pháp nghệ thuật, phát huy cá tính của nhà văn.
3. Từ giữa những năm 90 đến nay. Phải chăng tiến trình văn học đổi mới đã chững lại từ giữa những năm 90, văn học có còn tiếp tục xu hướng vận động trong gần 10 năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước và đổi mới văn học.
Gần 10 năm của chặng đầu công cuộc đổi mới, xã hội ta, trong đó có nền văn học ở trong trạng thái chuyển động dữ dội của một cuộc trở dạ. Những khoảng thời gian như vậy có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhưng thường thì không thể kéo dài. Từ giữa những năm 90 của thế kỷ vừa qua, trong xu thế đi tới sự ổn định của xã hội, văn học về cơ bản cũng trở lại với những quy luật mang tính bình thường, nhưng không xa rời định hướng đổi mới đã hình thành từ giữa những năm 80. Đây là lúc văn học trở về với đời sống thường nhật và vĩnh hằng, đồng thời có ý thức và nhu cầu tự đổi mới về hình thức nghệ thuật, phương thức thể hiện hơn bao giờ hết. Tuy ít có những tác phẩm gây được những "cú xốc" trong dư luận, trở thành những hiện tượng thu hút đông đảo công chúng, nhưng hầu như ở thể loại nào cũng có sự tìm tòi đổi mới.
II. Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam giai đoạn từ sau 1975
Văn học Việt Nam từ sau 1975, theo chúng tôi, có ba đặc điểm cơ bản như sau:
1. Văn học vận động theo hướng dân chủ hóa
Dân chủ hóa là xu thế lớn của xã hội và trong đời sống tinh thần của con người, cũng đã trở thành xu hướng vận động bao trùm của nền văn học. Dân chủ hóa đã thấm sâu và được thể hiện ở nhiều cấp độ và bình diện của đời sống văn học. Văn học thời nay cũng không hề từ bỏ vai trò vũ khí tinh thần - tư tưởng của nó, nhưng nó được thức tỉnh ý thức về sự thật, ở vai trò dự báo, dự cảm. Văn học còn là phương tiện cần thiết để tự biểu hiện, bao gồm cả việc phát biểu tư tưởng, quan niệm, chính kiến của mỗi nghệ sĩ về xã hội và con người. Trong một nền văn học hướng tới tinh thần dân chủ, đòi hỏi và có thể thừa nhận tư tưởng riêng, cái nhìn riêng của mỗi người thì người viết dù rất tin và muốn bênh vực cho những tín niệm của mình cũng không thể không biết đến những tư tưởng và quan niệm khác. Mối quan hệ giữa nhà văn và bạn đọc cũng thay đổi theo hướng dân chủ hóa, trở nên bình đẳng hơn.
Dân chủ hóa còn được thể hiện trong sự mở rộng quan niệm về hiện thực và về con người - đối tượng nhận thức, khám phá, sáng tạo của văn học.
Xu hướng dân chủ hóa văn học, được biểu hiện ra trên nhiều bình diện của sáng tác, từ hệ đề tài, các kiểu kết cấu và mô tip chủ đề, cốt truyện, nhân vật cho đến giọng điệu và ngôn ngữ, nghệ thuật trần thuật. Dân chủ hóa cũng tạo điều kiện để cá tính sáng tạo của nhà văn được bộc lộ hết mình, phong cách nghệ thuật được coi trọng, đồng thời tạo ra môi trường thuận lợi cho việc thử nghiệm, tìm tòi mọi thủ pháp biểu đạt, mọi khuynh hướng nghệ thuật.
2. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân trên cơ sở tinh thần nhân bản là nền tảng tư tưởng và cảm hứng chủ đạo, bao trùm của nền văn học từ sau 1975
Sự thức tỉnh trở lại ý thức cá nhân đã mở ra cho văn học nhiều đề tài và chủ đề mới, làm đổi thay quan niệm về con người. Văn học ngày càng đi tới một quan niệm toàn vẹn và sâu sắc hơn về con người mà nền tảng triết học và hạt nhân cơ bản của quan niệm ấy là tư tưởng nhân bản. Con người trong văn học hôm nay được nhìn ở nhiều vị thế và trong tính đa chiều của mọi mối quan hệ: con người xã hội, con người với lịch sử, con người của gia đình, gia tộc, con người với phong tục, với thiên nhiên, với những người khác với chính mình...
Con người cũng được văn học khám phá, soi chiếu ở nhiều bình diện và nhiều tầng bậc: ý thức và vô thức đời sống tư tưởng, tình cảm và đời sống tự nhiên, bản năng, khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường, con người cụ thể, cá biệt và con người trong tính nhân loại phổ quát.
3. Văn học phát triển phong phú, đa dạng, hướng tới tính hiện đại
Sự đa dạng và phong phú được thể hiện trên nhiều bình diện của văn học: đa dạng về đề tài, phong phú về thể loại, nhiều tìm tòi về thủ pháp nghệ thuật, đa dạng về phong cách và khuynh hướng thẩm mỹ. Nhưng sự phong phú đa dạng cũng đi liền với tính phức tạp và không ổn định. Nhiều khuynh hướng tìm tòi chỉ rộ lên trong một khoảng thời gian ngắn ngủi rồi tắt lịm, thị hiếu của công chúng không thuần nhất và cũng luôn biến động các thể loại cũng thăng trầm trồi sụt khá bất thường. Sự phức tạp và không ổn định này là đặc điểm tất yếu của một giai đoạn văn học mang tính giao thời, nhưng cũng còn do một nguyên nhân rất cơ bản nữa, đó là sự chi phối của cơ chế thị trường.
Trong xu thế hội nhập, sự giao lưu với đời sống văn hóa và văn học thế giới ngày càng mở rộng, cùng với những nhu cầu nội tại của đời sống văn hóa tinh thần trong nước, văn học đã ngày càng gia tăng tính hiện đại. Văn học Việt Nam từ sau 1975 đã tiếp tục con đường hiện đại hóa nền văn học dân tộc trong một bối cảnh mới, để tiếp tục hòa nhập rộng rãi hơn vào tiến trình văn học thế giới.
III. Nhìn chung về sự đổi mới của văn xuôi sau 1975
Trong công cuộc đổi mới văn học ở thời kỳ từ sau 1975, nhất là từ 1986, văn xuôi phát triển mạnh mẽ và có vai trò rất to lớn. Sự đổi mới của văn xuôi được thể hiện trên mọi bình diện và trong mọi thể loại. ở đây chỉ xin đi vào một số phương diện chính trong sự đổi mới ấy, và cũng chỉ dừng lại ở cấp độ khái quát.
1. Đổi mới trong quan niệm và cách tiếp cận hiện thực
Từ thể tài lịch sử dân tộc vốn là thể tài chủ đạo và chi phối mọi bình diện của hiện thực, văn học đã chuyển sự quan tâm chủ yếu sang thể tài thế sự, đời tư và giá trị của tác phẩm không còn bị phụ thuộc vào đề tài lớn hay nhỏ. Với sự thay đổi trong quan niệm về hiện thực như thế, văn xuôi đã vượt qua tình trạng bị lệ thuộc vào đề tài, vào một cách nhìn đã được định trước, để mở ra khả năng phong phú vô tận trong sự khám phá và thể hiện hiện thực đời sống trong tính muôn mặt và muôn vẻ của nó.
Sự thay đổi trong quan niệm về hiện thực cũng đi liền với sự thay đổi trong cách tiếp cận hiện thực. Có một thời, do quá đề cao hiện thực nên dẫn đến xem nhẹ vai trò của chủ thể sáng tạo và thói quen đánh giá văn học theo cách đối chiếu một cách máy móc giữa thế giới nghệ thuật với hiện thực đã được biết trước. Giờ đây, thế giới nghệ thuật cần phải được nhìn không phải chỉ là sự phản ánh một hiện thực đã có, mà còn là sản phẩm sáng tạo của nhà văn. Trong thế giới ấy, cái thực có thể tồn tại cùng với cái ảo, cái huyễn tưởng, những nghịch lý bên cạnh cái có lý.
2. Sự đa dạng của các khuynh hướng trong văn xuôi
- Khuynh hướng sử thi vẫn còn được tiếp tục chủ yếu ở đề tài chiến tranh và trong khoảng 10 năm đầu sau 1975, nhưng đã mờ nhạt dần và cũng có sự biến đổi chứ không còn trong dạng sử thi hoàn chỉnh như ở thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
- Vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới đã phát triển sôi nổi một khuynh hướng trong văn xuôi, có thể gọi là khuynh hướng nhận thức lại. Đáp ứng nhu cầu nhìn thẳng vào sự thật, nhiều cây bút đã nhìn lại hiện thực của thời kỳ vừa qua, phơi bày những mặt trái còn bị che khuất, lên án những lực lượng, những tư tưởng và thói quen đã lỗi thời, trở thành vật cản trên bước đường phát triển của xã hội. Chiến tranh cũng được nhận thức lại từ sự tác động ghê gớm của nó đến tính cách và số phận con người với bao nhiêu nỗi éo le, bi kịch, xót xa, nỗi buồn dai dẳng. Bên cạnh cảm hứng phê phán là cảm hứng bi kịch với niềm xót xa đến nhức nhối về con người và thân phận của họ.
- Khám phá đời sống muôn vẻ trong cái hàng ngày, trong các quan hệ thế sự và đời tư là một hướng hết sức phổ biến của văn xuôi hiện nay.
- Khuynh hướng triết luận đã có sự phát triển khá phong phú, thu hút nhiều cây bút văn xuôi thuộc nhiều thế hệ.
- Từ đầu những năm 90, dòng hồi ký - tự truyện khá phát triển, mà Tô Hoài và Nguyễn Khải là hai cây bút góp được nhiều tác phẩm đáng chú ý.
- Khoảng mươi năm gần đây, tiểu thuyết lịch sử có sự phục sinh với những hướng mới trong việc khai thác và thể hiện quá khứ lịch sử.
3. Đổi mới về nghệ thuật trần thuật và cấu trúc thể loại
Trong nền văn học theo khuynh hướng sử thi ở giai đoạn 1945-1975, nghệ thuật trần thuật cũng chịu sự chi phối rõ rệt của quan điểm sử thi. Văn xuôi trong thời kỳ đổi mới đã đem lại nhiều tìm tòi, biến đổi trong nghệ thuật trần thuật. Từ bỏ sự áp đặt một quan điểm được cho là đúng đắn nhất vì đó là quan điểm của cộng đồng, ngày nay người viết có thể đưa ra nhiều quan điểm khác nhau, chính kiến khác nhau. Để làm được điều đó, cách tốt nhất là chuyển dịch các điểm nhìn vào nhiều nhân vật, để mỗi nhân vật có thể tự nói lên quan điểm, thái độ của mình và để cho các ý thức cùng có quyền phát ngôn, cùng đối thoại. Người trần thuật trong truyện cũng rất đa dạng. Bên cạnh kiểu nhân vật trần thuật ở ngôi thứ ba và biết hết mọi điều, thì còn có nhân vật kể chuyện không đáng tin cậy (như trong nhiều truyện của Nguyễn Huy Thiệp) và người kể chuyện ở ngôi thứ nhất xuất hiện khá phổ biến, lại có "nhân vật ảo" trong vai người kể chuyện. Sự chuyển đổi vai kể cũng được sử dụng rộng rãi trong nhiều tác phẩm.
Các thể loại trong văn xuôi cũng đều có những biến đổi trong cấu trúc, mà rõ nhất là tiểu thuyết. Nhìn chung loại tiểu thuyết toàn cảnh đã hầu như vắng bóng, tiểu thuyết phiêu lưu cũng ít ỏi. Tiểu thuyết tâm lý và tiểu thuyết triết luận chiếm số đông, đã xuất hiện những tiểu thuyết theo mô hình tiểu thuyết hiện đại phương Tây thế kỷ XX. Gần đây, nhiều tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương lại là những nỗ lực mới để cách tân thể loại này.
Truyện ngắn trữ tình và truyện ngắn đậm chất ký là hai loại nổi trội ở giai đoạn trước thì nay ít phát triển. Truyện ngắn thế sự, truyện ngắn triết luận, truyện rất ngắn gần với ngụ ngôn, truyện ngắn như là tiểu thuyết được thu gọn lại, đó là một số kiểu dạng phổ biến của thể truyện ngắn hiện nay.
Trong các thể ký, thì đáng chú ý nhất là sự phục hồi của thể phóng sự, phù hợp với tinh thần dân chủ hóa trong xã hội và nhu cầu nhận thức sự thật ở người đọc tăng lên.
4. Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người dẫn đến sự biến đổi về hệ thống nhân vật
Từ nhận thức và quan niệm mới về con người, tất sẽ dẫn tới những đổi thay trong thế giới nhân vật của văn xuôi. Trong văn xuôi trước 1975, các nhân vật được nhận diện trước hết theo lập trường dân tộc và cách mạng, bởi thế dễ dàng xếp họ vào loại chính diện hay phản diện, tích cực hay tiêu cực. Các nhân vật lại được khuôn vào trong những khung hình của tầng lớp xã hội - giai cấp. Hệ thống nhân vật vì thế thường được phân chia theo tầng lớp, nghề nghiệp, vị trí xã hội hoặc lứa tuổi. Trong văn xuôi thời kỳ đổi mới, khi đã vượt qua giới hạn chặt hẹp và cứng nhắc của cái nhìn con người và thể hiện nhân vật như trên, thì đã mở ra sự phong phú đa dạng cho thế giới nhân vật. Rất khó có thể đưa ra một bảng phân loại hay liệt kê nào có khả năng bao quát được thế giới nhân vật của văn xuôi hiện nay. nhưng cũng có thể dễ dàng nhận ra khá nhiều kiểu loại nhân vật mới, vốn chưa có hoặc rất ít trong văn xuôi trước 1975: Nhân vật cô đơn, nhân vật bi kịch, nhân vật lạc thời, nhân vật tư tưởng, nhân vật kỳ ảo... Đó chỉ là một số trong những kiểu loại nhân vật, được phân chia theo những tiêu chí khác nhau, của văn xuôi đương đại.
5. Đổi mới về ngôn ngữ
Khi tư duy tiểu thuyết đã mạnh lên, thay thế tư duy sử thi thì ngôn ngữ văn xuôi cũng biến đổi theo hướng đó. Khi văn xuôi tiếp cận đời sống ở cự ly gần chứ không phải qua một "khoảng cách sử thi tuyệt đối" (M. BaKhtin) với thái độ thân mật suồng sã chứ không phải tôn kính, thì hệ lời cũng phải thay đổi, từ thứ ngôn ngữ trang trọng, chuẩn mực chuyển sang thứ ngôn ngữ đời thường, đậm tính khẩu ngữ, thông tục. Đặc biệt, những cây bút thuộc thế hệ đến với văn học từ thời kỳ đổi mới, ít bị chi phối bởi thói quen ngôn ngữ của giai đoạn trước, do đó họ tạo được sự cách tân rõ rệt về ngôn ngữ văn chương.
IV. Nhìn chung về diện mạo và sự đổi mới của thơ sau 1975
1. Sơ lược về tiến trình thơ từ sau 1975
- Nửa cuối những năm 70 và đầu 80, thơ tiếp tục cảm hứng sử thi trong đề tài về chiến tranh chống Mỹ và dư âm của nó trong đời sống hiện tại. Sự nở rộ của trường ca đáp ứng yêu cầu nhìn lại lịch sử, nhìn lại con đường của dân tộc và thế hệ trẻ đã trải qua để đi tới thắng lợi cuối cùng., Cảm hứng sử thi nghiêng về bi tráng, gia tăng chất suy tư là những nét mới của các trường ca này.
Bên cạnh đó, thơ đã trở lại với những đề tài và cảm xúc về cuộc sống thường nhật, các quan hệ nhân sinh, về khát vọng tình yêu, hạnh phúc (Xuân Quỳnh, ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ, Dư Thị Hoàn).
- Từ giữa những năm 80, thơ chuyển mạnh sang cảm hứng thế sự. Cảm hứng hào hùng và bi tráng khi nói về đất nước, nhân dân, về thế hệ trẻ trong chiến tranh đã nhường chỗ dần cho những cảm xúc đậm nỗi buồn, niềm xót xa hay sự hoài nghi. Thơ nói nhiều đến nỗi buồn - buồn nhân thế, buồn thân thế và cả nỗi buồn trước sự bất lực của thơ ca và vị thế mới của nó.
- Từ đầu những năm 90, có sự xuất hiện mạnh mẽ của các khuynh hướng thơ hiện đại chủ nghĩa với khát vọng cách tân triệt để cho thơ. Mở đầu là nhóm các nhà thơ thuộc thế hệ trước, như Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng. Tiếp đó là những nhà thơ xuất hiện từ thời kỳ đổi mới, như: Nguyễn Quang Thiều, Bùi Chí Vinh, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh.
2. Một số khuynh hướng trong thơ từ sau 1975
- Tiếp tục mạch cảm hứng sử thi, nhưng thiên về bi tráng và gắn với những trải nghiệm, kinh nghiệm cá nhân
- Hướng vào đời sống thế sự và trở về với cái tôi cá nhân
- Đi sâu khai thác con người bản thể ở phần tâm linh, vô thức
- Thiên về cách tân hình thức thơ theo hướng hiện đại chủ nghĩa
3. Nhìn chung về những đổi mới của thơ sau 1975
- Tính chất phi sử thi hóa, hướng vào đời sống thế sự và cá nhân đã làm xuất hiện nhiều dạng thức mới của cái tôi trữ tình trong thơ từ sau 1975. Cái tôi sử thi mờ dần, xuất hiện cái tôi thế sự và cái tôi cá nhân với rất nhiều biểu hiện đa dạng, cái tôi vô thức...
- Nhìn chung, thơ hôm nay muốn vượt ra khỏi truyền thống "duy cảm" của thơ phương Đông và thơ Việt Nam, với hai xu hướng hoặc đưa thơ về gần với văn xuôi, với triết học, hoặc đưa thơ sang địa hạt của tâm linh, vô thức.
- Về hình thức, tự do hóa là xu hướng bao trùm.
V. Sơ lược về tình hình và thành tựu của lý luận, phê bình văn học từ sau 1975
1. Điểm qua tình hình lý luận, phê bình văn học trong quá trình vận động của văn học từ sau 1975
- Từ 1975 đến 1985, lý luận và phê bình văn học về cơ bản vẫn tiếp tục hệ thống các quan niệm và phương pháp đã định hình trong nền văn học cách mạng, nền văn học xã hội chủ nghĩa từ vài chục năm trước đó. Tuy nhiên, cũng đã thấy những dấu hiệu của một đòi hỏi đổi thay những quan niệm ấy, hướng đến sự đổi mới ý thức nghệ thuật.
Phê bình văn học tập trung vào việc đánh giá một số tác phẩm được chú ý đương thời và có một vài cuộc thảo luận gây được tiếng vang: viết về chiến tranh, về trường ca, về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
- Khoảng 10 năm đầu của thời kỳ đổi mới, lý luận phê bình khá sôi nổi và có những đóng góp tích cực. Nhiều vấn đề lý luận có quan hệ mật thiết đến văn học đương đại đã được nêu lên và trở thành những cuộc thảo luận trên báo chí hoặc các hội thảo bàn tròn về văn học, như văn học phản ánh hiện thực, văn nghệ và chính trị, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, đánh giá văn học cách mạng 1945-1975, nhìn lại một số hiện tượng văn học trước 1945 (phong trào thơ Mới, Tự Lực văn đoàn, Vũ Trọng Phụng, Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam phê bình văn học lúc này được thử thách trong việc đánh giá các hiện tượng văn học đổi mới đáng chú ý, như sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, xu hướng thơ hiện đại chủ nghĩa. Về các hiện tượng văn học này, đã và vẫn còn tồn tại những ý kiến đánh giá khác nhau, thậm chí đối lập gay gắt, xuất phát từ chỗ đứng, những quan niệm và tiêu chí đánh giá khác nhau, đại diện cho những tầng lớp và thế hệ khác nhau. Điều đó không có gì lạ trong đời sống văn học đang hướng về tinh thần dân chủ hóa, và đang ở thời kỳ chuyển tiếp.
- Từ giữa những năm 90 của thế kỷ trước đến nay, hoạt động lý luận, phê bình văn học dường như kém sôi nổi, không có những định hướng rõ và nhiều người đã nói đến sự trì trệ, khủng hoảng, yếu kém của lý luận phê bình. Đội ngũ phê bình thưa vắng hơn trước, nhiều bài phê bình tranh luận sa vào những điều vụn vặt, lối phê bình tùy tiện cắt xén, bóp méo, chụp mũ vẫn tồn tại.
Tuy nhiên đóng góp của hoạt động nghiên cứu, lý luận đáng kể nhất trong thời gian gần đây là ở việc dịch thuật, giới thiệu một số công trình nghiên cứu lý luận, văn học nước ngoài và biên soạn một số công trình tổng kết bước đầu về văn học Việt Nam thế kỷ XX.
2. Một số thành tựu và những hạn chế của lý luận, phê bình văn học từ sau 1975
- Góp phần làm chuyển biến ý thức nghệ thuật, hình thành những quan niệm văn học mới, thúc đẩy những hướng nghiên cứu mới và vận dụng đa dạng các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học. Lý luận, phê bình, nghiên cứu văn học đã vận dụng nhiều khái niệm, thuật ngữ, các công cụ của lý luận văn học hiện đại và làm cho nó trở nên quen thuộc dần với công chúng, trước hết là trong nhà trường.
- Nhận thức lại về văn học cách mạng giai đoạn 1945-1975 và một số giá trị trong di sản văn học trước 1945. Sự khác biệt ý kiến trong đánh giá văn học cách mạng 1945-1975 vẫn còn khá nhiều, nhưng đã bớt dần những cách nhìn định kiến, cực đoan một chiều, thiếu căn cứ khoa học. Hàng loạt các vấn đề và hiện tượng văn học của thời kỳ từ đầu thế kỷ XX đến 1945 đã được nghiên cứu lại, đánh giá lại một cách thỏa đáng.
- Khẳng định những thành tựu và nhận diện những hướng tìm tòi mới trong văn học đương đại
- Những hạn chế của lý luận, phê bình văn học. Sự đổi mới về lý luận văn học chưa đồng bộ và chưa có chiều sâu. Các bộ sách lý luận văn học hiện có thì về cơ bản vẫn dựa trên những quan niệm, tư tưởng lý luận chưa thực sự đổi mới, chưa cập nhật với lý luận văn học hiện đại thế giới.
Phê bình văn học sau những hoạt động khá sôi nổi ở chặng đầu thời kỳ đổi mới thì gần đây có vẻ mờ nhạt, ít nêu được những vấn đề thực sự đáng chú ý của đời sống văn học. Có hiện tượng đáng báo động về văn hóa tranh luận và động cơ phê bình.
kết luận
Văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám 1945 là một thời kỳ quan trọng trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc các vấn đề của lịch sử văn học giai đoạn 1945-1975 đã được đề cập trong nhiều công trình chuyên khảo và văn học sử trước đây, nhưng không có nghĩa là mọi điều đã được nêu lên và giải quyết thỏa đáng trong tinh thần đổi mới và thái độ khách quan, khoa học. Giai đoạn văn học từ sau 1975 đến nay đã có 30 năm vận động, nhưng lại hầu như chưa có những công trình nghiên cứu tổng quát dưới góc nhìn của văn học sử. ở thời điểm đầu thế kỷ XXI này, việc nhìn lại để tổng kết thế kỷ văn học vừa qua là hết sức cần thiết và hữu ích. Để có được những bộ lịch sử văn học thế kỷ XX phản ánh được những thành tựu hiện đại của cả giới nghiên cứu, phải cần đến sự hợp sức của nhiều người, nhiều cơ quan khoa học. Đề tài nghiên cứu của chúng tôi mong góp một phần nhỏ vào công việc chung ấy.
Kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể sử dụng trong việc biên soạn bộ giáo trình văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám 1945 dùng cho các trường Đại học và Cao đẳng, phát triển thành chuyên luận về văn học Việt Nam từ sau 1975 sử dụng cho hệ đào tạo sau Đại học, bồi dưỡng giáo viên.
Hà Nội, tháng 5 năm 2005
Chủ trì đề tài
Nguyễn Văn Long
Tài liệu tham khảo
Vũ Tuấn Anh, Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945-1995, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997.
M. Bakhtin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch), Trường viết văn Nguyễn Du và Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1992.
M. Bakhtin, Những vấn đề thi pháp Đôtxtôiepxki (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1993.
Phan Cự Đệ (chủ biên), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004.
Phan Cự Đệ, Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, (2 tập), Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1976.
Hà Minh Đức, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, (tái bản) Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.
Hà Minh Đức (Chủ biên), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002.
Mã Giang Lân, Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000.
Phong Lê, Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 1997.
Phong Lê, Văn học Việt Nam hiện đại lịch sử và lý luận, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 2003.
Nguyễn Đăng Mạnh (Chủ biên), Văn học Việt Nam 1945-1975, (tập I, II) Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1987, 1990.
Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân..., Một thời đại văn học mới, Nxb Văn học, Hà Nội, 1987.
Nguyễn Đăng Mạnh và Nguyễn Văn Long (đồng chủ biên), Lịch sử văn học Việt Nam, tập III, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2003.
Lê Lưu Oanh, Thơ trữ tình Việt Nam 1975-1990, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 1998.
Trần Đình Sử, Lý luận và phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1996.
Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995.
Bùi Việt Thắng, Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 2000.