Một số vấn đề khái quát về toàn cầu hoá và quốc tế hoá

MỞ ĐẦU Thập kỷ cuối của thế kỷ XX đã chứng kiến nhiều thay đổi lớn về mọi mặt trong đời sống chính trị và kinh tế, đặc biệt là những thành tựu khoa học, công nghệ. Hoà bình hợp tác vì sự phát triển ngày càng trở thành một đòi hỏi bức xúc của nhiều quốc gia và các dân tộc trên thế giới nhằm tập trung mọi nỗ lực và ưu tiên cho phát triển kinh tế. Những tiến bộ trên lĩnh vực khoa học công nghệ nhất là công nghệ truyền thông và tin học, càng làm tăng thêm sự gắn kết giữa các quốc gia và giữa các nền kinh tế. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quố tế đã và đang trở thành yêu cầu bức thiết đối với mỗi quốc gia. Xu hướng này đã thể hiện rõ qua sự gia tăng đáng kể trong những năm gần đay sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn và công nghệ giữa các nước trên thế giới. Là một trong những nước nghèo trên thế giới, sau mấy chục năm liên tiếp bị chiến tranh tàn phá, Việt Nam bắt đầu bước vào thời kỳ thực hiện chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường, do đó nền kinh tế của chúng ta còn kém phát triển và lạc hậu so với thế giới. Con đường để Việt Nam thoát khỏi nghèo nàn đó là công nghiệp hóa theo mô hình phát triển rút ngắn. Mà để làm được như vậy thì chúng ta phải ứng dụng những thành tựu khoa học- công nghệ của thế giới bằng cách tham gia vào quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập giúp cho các nước có thể tiếp cận được nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài, tiếp cận với thị trường thế giới, tham gia vào phân công và hợp tác quốc tế. Vì vậy nếu có đường lối đúng đắn, tranh thủ được nguồn lực bên ngoài và hội nhập quốc tế thì các nước kém phát triển có thể tạo bước phát triển nhảy vọt, có thể rút ngắn khoảng cách, đuổi kịp các nước có nền kinh tế phát triển. Toàn cầu hoá góp phần đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế, tạo dựng môi trường thuận lợi để phát triển, đạt được sự ổn định và phát triển khá cao. Bên cạnh đó toàn câù hoá và hội nhập kinh tế quốc tế cũng gây ra không ít khó khăn và thách thức. Đó là khoảng cách giầu nghèo ngày càng lớn, phải đương đầu với những đối thủ cạnh tranh rất mạnh trên thị trường thế giới Vì vậy cần phải có những giải pháp thích hợp để có thể giải quyết những khó khăn đó và phát triển kinh tế có hiệu quả nhất. thắc mắc gì về bài viết bạn liên hệ tới sô ***********

doc41 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5387 | Lượt tải: 7download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số vấn đề khái quát về toàn cầu hoá và quốc tế hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g bằng”, nhưng thực chất chúng luôn đem lại lợi thế cho những kẻ mạnh (các nước tư bản và các công ty siêu quốc gia). Các nước đang phát triển, các nước nghèo thường phải gánh chịu những điều bất lợi, thiệt thòi về phía mình.Trong quá trình toàn cầu hoá, để thu được nhiều lợi ích, các nước phát triển luôn tìm mọi cách chèn ép các nước đang phát triển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Như về kinh tế các nước phát triển dùng sức mạnhđể ép các nước đang phát triển chấp nhận những điều khoản có lợi cho mình, tạo nên những bất lợi cho các nước đang phát triển, khiến các nước này phải lệ thuộc về kinh tế ngày càng nhiều. Toàn cầu hoá đã tạo ra mâu thuẫn gay gắt giữa các nước đang phát triển với các nước phát triển trong quá trình mở cửa, hội nhập. Không những thế, quá trình toàn cầu hoá còn đặt các nước đang phát triển trước những thách thức của sự cạnh tranh quyết liệt. Tham gia vào quá trình toàn cầu hoá là tham gia vào thị trường thế giới. Đặc trưng cơ bản của thị trường là cạnh tranh. Cơ chế thị trường tư bản chủ nghĩa điều tiết nền kinh tế theo quy luật “cá lớn nuốt cá bé”, “mạnh được, yếu thua”, “kẻ nhanh sẽ chiếm phần người chậm.,kẻ mạnh chèn ép kẻ yếu”…Để tồn tại và phát triển, các nước đang phát triển phảI tìm cách đổi mới về đường lối phát triển kinh tế, đổi mới cơ chế hoạt động, không ngừng nâng cao trình độ khoa học- kỹ thuật, tổ chức – quản lý và công nghệ hiện đại cho phù hợp với điều kiện hội nhập. Nếu không làm được điều đó thì quá trình toàn cầu hoá sẽ đẩy các nước đang phát triển tới nguy cơ ngày càng lệ thuộc, mất dần tính độc lập tự chủ, từng bước trở thành bãi thải công nghệ cho các nước phát triển, làm cho đất nước tụt hậu ngày càng xa. b- Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế để đi đến tự do hoá thương mại là chấp nhận tư cách thành viên cạnh tranh ngang bằng với các nước khác, nhưng hiện nay ta vẫn còn tụt hậu khá xa về kinh tế (nhất là trình độ công nghệ và thu nhập bình quân đầu người) so với nhiều nước trong cáctổ chức kinh tế mà ta đã và sẽ tham gia. Chẳng hạn , so với các nước trong AFTA, thu nhập bình quân đầu người của nước ta chưa bằng 1/3 của Inđônêxia và Philippin, bằng 1/9 của Thái lan, 1/5 của Malaixia và chưa bằng 1/100 của Singgapo. Do vậy hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam nhất là các ngành sản xuất , kinh doanh và dịch vụ còn yếu, trong khi nền kinh tế thế giới có những đối thủ cạnh tranh mạnh hơn ta gấp nhiều lần cả trong thị trường nội địa lẫn thế giới. Hiện nay có hơn 50. 000 công ty xuyên quốc gia với gần 500.000 chi nhánh hoạt động trên khắp thế giới, có tổng doanh thu hàng năm là 950 tỷ USD. Mặc dù cạnh tranh đang diễn ra quyết liệt, giữa các công ty lớn đang xảy ra sự sát nhập để trở thành một công ty khổng lồ với số vốn lên tới hơn 1.000 tỷ USD. Do đó, một sự thoả thuận mới cũng đang diễn ra trong sự phân chia thị trường. Độc quyền nhóm đang dần dần thay thế cho độc quyền đơn. Từ đó mà các nước có trình độ phát triển cao đang trở thành “ trung tâm” còn các nước khác ( chủ yếu là các nước chậm phát triển) thị trở thành “ngoại vi” của kinh tế thế giới. Vì vậy việc tự do hoá thương mại thường đem lại lợi ích lớn hơn cho các nước công nghiệp phát triển vị sản phẩm của họ có chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã đẹp. Trong khi đó kỹ thuật và quản lý công nghệ của ta còn kém do đó sức cạnh tranh thị trường yếu. Tuy nói là tự do hoá thương mại song các nước công nghiệp phát triển vẫn áp dụng hình thức bảo hộ công khai ( như áp dụng hạn ngạch )hoặc quá trình như tiêu chuẩn …Tuy có chuyển giao công nghệ song các nước công nghiệp phát triển thường không chuyển giao những thành tựu mới nhất. c-Toàn cầu hoá phân phối không đều lợi ích và cơ hội phát triển cho các quốc gia. Do đó tiềm lực kinh tế áp đảo và có ưu thế về mọi mặt, các nước phát triển đang nắm giữ vị trí chủ đạo trong phân công quốc tế và trong tiến trình toàn cầu hoá. Họ luôn tìm cách giành lấy những lợi thế kinh tế về phía mình, đẩy những bất lợi về phía các nước đang phát triển. Chính điều đó đã tạo ra sự phân phối lợi ích không đều, làm gia tăng sự phân hoá giầu nghèo giữa các nước và ngay trong nội bộ mỗi nước.Thực tế cho thấy, nếu như toàn cầu hóa đem lại cho các nước phát triển những nguồn lợi khổng lồ và tăng nhanh sự giầu có của họ một cách vô độ, thì nó cũng làm cho nhiều nước đang phát triển ngày càng tụt hậu và phần lớn dân chúng trên thế giới nghèo ngày càng nghèo đi. Sự phân cực giầu nghèo trên thế giới ngày càng gia tăng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Theo đánh giá của UNDP trong “báo cáo về sự phát triển nhân loại 1999” xét trên phạm vi thế giới khoảng cách về GDP tính theo đầu người giữa các nước giầu nhất và các nghèo nhất đã đến mức báo động. Trước đây, những năm 60 tỷ lệ 3:1, thì đâù những năm 90 là 61:1và hiện nay con số đã lên tới 74:1. Theo báo cáo của UNDP thì năm 1997 chỉ có 15 nước trên thế giới nâng cao được mức sống , 110 nước ở trong tình trạng nền kinh tế suy giảm và đình đốn. Trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của thế giới là 3%/1năm thì 97/166 nước có thu nhập đầu người năm 1994 thấp hơn năm 1990.Trong khi đó các nước công nghiệp phát triển với khoảng 1,2 tỷ người chiếm 1/5 dân số thế giới, hiện đang chiếm 86% GDP toàn cầu, chiếm 4/5 thị trường xuất khẩu, chiếm 1/3 đầu tư trực tiếp nước ngoài và 74%số máy điện thoại của toàn thế giới thì 1/5 dân số thế giới thuộc các nước nghèo nhất thế giới chỉ chiếm 1% GDP của toàn thế giới mà thôi. Tiền lương thực tế của các nước thế giới thứ ba và Đông Âu thấp hơn 70 lần so với Mỹ , Tây Âu và Nhật Bản. Trong một công trình với tựa đề “Chủ nghĩa cộng sản- một dự án” xuất bản tại Paris tháng 1/1999, Tổng bí thư Đảng cộng sản Pháp Robert Hue đãcho biết trong 50 năm qua tỷ trọng của 20% dân số nghèo nhất trong tổng thu nhập thế giới đã từ 2,3% tụt xuống 1,4% trong khi đó cổ phần của 20% dân số giầu nhất đã tăng từ 70% lên 80%. Trong số 4,4 tỷ dân ở các nước đang và kém phát triển thì gần 3/5 thiếu những điều kiện cơ sở hạ tầng cơ bản, 1/3 kbông biết đến nước sạch, 1/4 không có chỗ ở xứng đáng , 1/5không được hưởng dịch vụ y tế, 1/5 trẻ em chưa qua lớp 5 và bị suy dinh dưỡng. Điều đó cho thấy mức tăng trưởng kinh tế không đi đôi với việc cải thiện đời sống nhân dân , với việc giải quyết vấn đề các xã hội và con người. Thu nhập của 358 triệu phú đô la trên thế giới hàng năm cao hơn thu nhập của 45% dân cư nghèo nhất (tức 2,6 tỷ người). Kể cả ngay trong lòng nước Mỹ, sự phân hoá ngày càng rõ nét, Mỹ được coi là nước giầu nhất thế giới vậy mà cũng có hơn 65 triệu người nghèo. Như vậy, thực chất quá trình toàn cầu hoá hiện nay là buộc thế giới phải chấp nhận quy chế và những quy tắc kinh tế quốc tế do những nước lớn như phương Tây mà đứng đầu là Mỹ quy định, khiến các nước đang phát triển bị yếu thế và bị động, thiệt đơn , thiệt kép trong giao lưu buôn bán quốc tế, trong việc lựa chọn cơ hội phát triển- vì vậy mà đã nghèo lại càng nghèo hơn. Mặt khác, trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế còn có sự gắn kết phục vụ đắc lực của các tổ chức quốc tế đối với các thế lực tài phiệt. Càng làm cho kẻ giàu được giàu lên ở cấp độ toàn cầu và đồng thời với nó là toàn cầu hoá sự ngheò đói và khốn khó. d-Toàn cầu hoá kinh tế nhất là trong lĩnh vực tài chính- tiền tệ, mang lại lợi ích cực lớn cho các nước lớn, các nhà tài phiệt, đồng thời cũng thúc đẩy các nguồn vốn đầu cơ tăng mạnh , dẫn đến sự hình thành các “bong bóng” tài chính – nguyên nhân gây ra các cuộc khủng hoảng tài chính trên quy mô lớn . Hệ thống tài cính tiền tệ nói riêng , hệ thống kinh tế nói chung đều là các hệ thống phi tuyến . Nên mọi sự biến động của nó đều có dạng “Sóng” lan truyền ảnh hưởng đến hầu hết mọi thành tố trong hệ . Khi biên giới giữa các quốc gia còn được bảo vệ bằng hàng rào thuế quan “cứng” thì làn sóng ấy bị tắt dần. Còn bây giờ khi những biên giới kia bị quá trình toàn cầu hoá vô hiệu hoá , thì hiệu ứng do làn sóng phi tuyến kia gây ảnh hưởng rất đáng kể .Trong điều kiện toàn cấu hoá phát triển mạnh thì khủng hoảng cuả một nước , một khu vực đều có thể tạo ra các cú sốc lan truyền xuyên biên giới dẫn tới sự chao đảo , thậm chí gây khủng hoảng đến các nước khác , khu vực khác và cả toàn cầu. Song nguy hại lớn nhất lại thuộc về các nước kém phát triển , bởi những nước này vốn đã yếu các điều kiện chống đỡ không có đã phụ thuộc lại càng phụ thuộc hơn. Cuộc khủng hoảng nợ ở Mexico năm 1996 , cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ kinh tế ở các nước Đông Nam á và Đông á năm 1997-1998 vừa qua là một minh chứng sống cho những tác động này . Tham gia vào toàn cầu hóa kinh tế tức là chấp nhận những chấn động có thể xảy ra trong hệ thống kinh tế toàn cầu. Trong trường hợp đó nếu năng lực quản lý kinh tế vĩ mô kém, hệ thống tài chính ngân hàng lạc hậu, tệ tham nhũng và quan liêu hoành hành nếu không chủ động phòng vệ tích cực thì nền kinh tế khó tránh khỏi sự đổ vỡ, khủng hoảng. Đây là một thách thức lớn đối với các nước như Việt Nam. 3-Việt Nam cần phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế: Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới, sau mấy chục năm liên tiếp bị chiến tranh tàn phá. Việt Nam bắt đầu bước vào thời kỳ hực hiện chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường, trong điều kiện tự nhiên và xã hội có nhiều thử thách khắc nghiệt. Từ một nền kinh tế tự túc tự cấp, nghèo nàn lạc hậu, bắt đầu mở cửa, tiếp xúc trực diện với một thị trường rộng lớn, nơi có nhiều quan hệ kinh tế cạnh tranh khốc liệt, đang có nhiều quốc gia, tập đoàn kinh tế tư bản giầu mạnh luôn gây sức ép, muốn thao túng cả nền kinh tế tài chính thế giới. Mặt khác, toàn cầu hoá và hội hập là sản phẩm tất yếu của lịch sử, là xu thế khách quan khi lực lượng sản xuất đạt trình độ quốc tế rất cao, khoa học công nghệ tiến bộ vượt bậc, kinh tế thị trường trở nên phổ cập. Nói cách khác, không phải giai cấp này hay thế lực kia có thể tự mình sáng tạo ra toàn cầu hoá theo ý muốn chủ quan mà chính những điều kiện kinh tế-kỹ thuật nhất định đã quốc tế hoá các quan hệ kinh tế phát triển đến đỉnh cao là toàn cầu hoá. Là một bộ phận của cộng đồng quốc tế, nếu Việt Nam không muốn nền kinh tế bị tụt hậu thì phải tham vào toàn cầu hoá và quốc tế hoá kinh tế. Vì vậy, nhận thức rõ cơ hội và thách thức của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế nên ngay từ cuối những năm 1980 Đảng và nhà nước ta đã chủ trương tham gia hội nhập khu vực và thế giới. Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã khởi xướng công cuộc đổi mới mà một trong những định hướng quan trọng là mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế . Tiếp tục đại hội Đảng VII năm 1992 xác định đường lối đối ngoại “ độc lập tự chủ, thực hiện đa dạng hoá đa phương hoá quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại ” . Đại hội Đảng VIII năm 1996 xác định nhiệm vụ “ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực , củng cố và nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế. Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Cùng với việc tăng cường và thúc đẩy các mối quan hệ song phương với các nước, Việt Nam đã tích cực và chủ động tham gia vào các tổ chức và thể chế hợp tác khu vực và quốc tế. Chủ trương này đã được khẳng định trong các nghị quyết trung ương II ( 6/92), nghị quyết đại hội Đảng VIII và nghị quyết 04 của BCHTW Đảng khoá VIII (12/97) đã đề ra nhiệm vụ “giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế mở , hội nhập với khu vực và thế giới ” và đến đại hội IX năm 2001 khẳng định chủ trương“ phát huy tối đa nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững.” Hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế quốc tế là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng XHCN. Đồng thời có tự chủ về kinh tế mới có thể chủ động hội nhập quốc tế có hiệu quả, bảo đảm được chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc. Con đường để Việt Nam thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và nguy cơ tụt hậu về kinh tế là công nghiệp hoá theo mô hình phát triển rút ngắn trongđiều kiện toàn cầu hoá kinh tế quốc tế . Vì vậy Việt Nam cần phải chủ động hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế quốc tế để tận dụng các cơ hội do tiến trình toàn cầu mang lại về vốn, công nghệ, kĩ thuật, kinh nghiệm tổ chức quản lý…Mặt khác chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế nhằm tránh cho nước ta những mặt trái của toàn cầu hoá mang lại và đưa ra những giải pháp thích hợp cho những khó khăn mà nước ta gặp phải và tiến tới hội nhập một cách có hiệu quả nhất. 4-Một số kết quả bước đầu đã đạt được khi tham gia toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế: Thực hiện các đường lối, chủ trương của Đảng, hơn 10 năm qua chúng ta đã có những bước đi ban đầu tương đối bài bản trong quá trình từng bước hội nhập kinh tế thế giới. a- Thành tựu đạt được: - Nước ta đã khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa bị tan rã và cuộc khủng hoảng khu vực gây nên, đồng thời mở rộng thị trường xuất nhập khẩu. Nếu như cuối những năm 80, kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, tiếp đến Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ (1991), trong điều kiện bị bao vây “cấm vận” ngặt nghèo, tưởng như khó đứng vững, nhưng với quyết tâm “đổi mới”, “mở cửa”, từng bước hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, chúng ta đã đạt được những thành tích ban đầu đáng khích lệ. Trong quá trình hội nhập, chúng ta đã nhanh chóng mở rộng xuất nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tạo thêm việc làm, tăng thu ngân sách. Nếu năm 1990 kim ngạch xuất khẩu mới đạt 2,404 tỷ USD và nhập khẩu 2,752 tỷ USD thì năm 2001 kim ngạch xuất khẩu đã đạt 15,1 tỷ USD(nếu tính cả dịch vụ thì đạt 17,6 tỷ USD, tăng trung bình trên 20% mỗi năm, có năm tăng 30%; riêng năm 2001 do ảnh hưởng của tình hình kinh tế khó khăn trên thế giới và khu vực , giá cả mặt hàng xuất khẩu chủ yếu giảm mạnh, nên xuất khẩu chỉ tăng gần 5%. Từ chỗ là nước chỉ nhập hàng viện trợ và xuất hàng trả nợ mỗi năm vài triệu USD, đến nay chúng ta đã có nhiều mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD/năm như dầu thô, hàng dệt may, giày dép. Một số nông sản Việt Nam đã và đang vươn lên thứ hạng cao ở thị trường thương mại thế giới : gạo đứng thứ hai, hạt điều hạt cà phê đứng 3 và thứ 4. Thuỷ sản chế biến và 200 mặt hàng tiêu dùng Việt Nam xuất khẩu đang tiếp tục tăng, chiếm lĩnh thị trường quốc tế, kể cả các thị trường tiêu thụ khó tính như Nhật Bản, Tây Âu, Bắc Mỹ. -Thu hút một nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), bổ sung cho nguồn vốn trong nước, kết hợp nội lực với ngoại lực, tạo được những thành tựu kinh tế to lớn quan trọng. Đến nay, chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với 166 quốc gia trên thế giới, ký kết các hiệp định thương mại với hơn 60 nước . Hơn 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, gần 3000 dự án được cấp giấy phép với hơn 40 tỷ USD. Số vốn thực hiện gần 20 tỷ USD chiếm hơn 1/3 tổng vốn đầu toàn xã hội; tạo được 34,7% giá trị sản lượng công nghiệp và 13% trong GDP, 1/4 nguồn thu ngân sách. Việc gia nhập hiệp hội các nước ĐÔNG NAM Á (ASEAN) năm 1995, tham gia các hiệp định về khu vực đầu tư, khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), các chương trình ưu đãi thuế quan (CEPT), hành động chung (CAPT) là những bước hội nhập thực sự vào hoạt động kinh tế chính trị, vào văn hoá xã hội khu vực quan trọng nhất. Trong khi đó Việt Nam tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác với các nước ở khu vực rộng lớn hơn như Trung Quốc, ấn Độ, Đông Bắc á, Châu Phi, Châu Mỹ và nhiều khu vực khác. Từ tháng 11 năm 1998 Việt nam đã trở thành thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á Thái Bình Dương (APEC), chúng ta đã và đang xây dựng, thực hiện các chương trình hành động quốc gia (IAP), hành động chung(CAP), thúc đẩy tự do hoá các dịch vụ thương mại, dịch vụ giữa các nước trong khối(với mục tiêu Việt Nam hoàn toàn mở cửa trị trường thương mại và đầu tư vào năm 2002). Tháng 12-1987, chúng ta đã ban hành luật đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta :gần 30%vốn đầu tư xã hội , 35% giá trị sản xuất công nghiệp , 20% xuất khẩu , giải quyết việc làm cho khoảng 40 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp. -Tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA)ngày càng lớn, đồng thời giảm đáng kể nợ nước ngoài. Sau khi nối lại quan hệ tín dụng với IMF và WB từ năm 1993 Việt Nam đã liên tiếp được các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức viện trợ phát triển (ODA) của liên hợp quốc và nhiều tổ chức khác, thường xuyên viện trợ cho chúng ta mỗi năm khoảng trên dưới 1 triệu USD để thanh toán các khoản tín dụng ngắn hạn, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, giải quyết những vấn đề bức xúc, khó khăn về đời sống xã hội… tạo những điều kiện cần thiết cho nhiều ngành kinh tế phát triển. Từ năm 1993 ,hằng năm đều có hội nghị các nhà tài trợ cho nước ta gồm một số nước và một số chế định tài chính- tiền tệ quốc tế. Cho đến nay các nhà tài trợ đã cam kết dành cho nước ta gần 20 tỷ USD, chủ yếu là cho vay ưu đãi với lãi suất từ 0,75% đến 2,5%tuỳ theo mỗi đối tác; một phần viện trợ là không hoàn lại. Việc khai thông quan hệ với IMF và WB cũng tạo điều kiện cho ta giải quyết một bước quan trọng trong vấn đề nợ nước ngoài; đã giảm được 70% nợ các nước từ năm 1993 về trước, góp phần ổn định cán cân thu chi ngân sách, tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh tế- xã hội, mở ra khả năng vay được vốn qua các kênh khác. - Tiếp thu khoa học và công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh năng động, sáng tạo. Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội để nước ta tiếp cận với những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Nhiều công nghệ hiện đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới trong các nghành sản xuất. Đồng thời, thông qua các dự án liên doanh hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý hiện đại và khoa học. -Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại, nhiều doanh nghiệp đã nỗ lực đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao năng suất và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển; khả năng cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp đã được nâng lên; đã có hàng trăm doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn ISO-9000. Một tư duy mới, một nếp làm ăn mới, lấy hiệu quả sản xuất và kinh doanh làm thước đo, một đội ngũ cán các nhà doanh nghiệp mới năng động, sáng tạo có kiến thức quản lý đang hình thành. - Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, đói nghèo giảm: Việc chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế không những tác động vào tăng trưởng kinh tế mà còn góp phần cải thiện đời sống nhân dân, giảm đói nghèo. Tuy GDP bình quân nước ta còn thấp và vẫn thuộc loại nước nghèo nhất trên thế gới, nhưng thứ hạng HDI lại cao hơn thứ hạng GDP nhiều. Điều đó chứng tỏ đời sống nhân dân được cải thiện nhanh hơn mức tăng trưởng GDP và đói nghèo giảm. Theo niên giám thống kê năm 2001 thì thu nhập bình quân đầu người một tháng theo gia thực tế tính chung cả nước đã tăng từ 168.100 đồng (năm 1994) lên 295.000 đồng (năm 1999) trong đó bình quân thu nhập của những người thuộc nhóm 20% số hộ có thu nhập thấp nhất tương ứng từ 63000 đòng lên 97.000 đòng và thuộc nhóm 20% số hộ thu nhập cao nhất từ 408.000 đồng lên 863.300 đồng. Chênh lệch về bình quân đầu người giữa hai nhóm trên tăng từ 6,5 lần (năm 1994) lên 8,9 lần (năm 1999). Nếu như trước những năm 90, tốc độ tăng GDP bình quân nước ta chỉ đạt khoảng 2-3%/năm thì ở thập niên cuối thế kỷ XX, mức tăng bình quân GDP đạt 6-8%/năm. Sau 10 năm, tổng sản phẩm xã hội (GDP) tăng thêm 18 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người tăng gấp hơn 2 lần. Nhiều mặt hoạt động sản xuất và đời sống xã hội có những bước phát triển tương đối nhanh. Trong kinh tế thị trường, dưới tác động của quy luật giá trị, việc phân hoá giầu nghèo là tất yếu, nhưng những kết quả đã đạt được vẫn chứng tỏ mục tiêu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là tăng trưởng gắn liền với từng bước cải thiện đời sống nhân dân, như nước dâng thuyền lên, làm giầu đi đôi với xoá đói giảm nghèo đã được thực hiện tốt. b-Tuy nhiên, qua trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá đã bộc lộ nhiều yếu kém: - Tuy chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế đã được khẳng định trong nhiều nghị quyết của Đảng và trên thực tế đã được thực hiện từng bước, nhưng nhận thức hội nhập chưa đạt được sự nhất trí cao, ảnh hưởng tới quá trình đề xuất chính sách và triển khai thực hiện. + Hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đang phát triển mang lại cả thời cơ lẫn thách thức lớn. Trong khi đó, nền kinh tế nước ta còn yếu, tư tưởng bảo hộ còn nặng nề, việc chuyển dịch cơ cấu nkinh tế, đổi mới cơ chế quản lý và cải tiến công nghệ diễn ra chậm chạp. Nếu không kịp thời khắc phục thì sẽ bị thua thiệt, thậm chí còn tụt hậu xa hơn. +Thiếu sót đáng kể là công tác triển khai chậm, chất lượng thấp. Cho đến nay, ở nước ta còn chưa hiểu thật sâu, chưa nắm vững toàn bộ định chế các của tổ chức kinh tế khu vựcvà toàn cầu, nhất là của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và nhiều văn kiện pháp lý quốc tế khác mà nước ta cần vận dụng khi gia nhập tổ chức này. +Công tác hội nhập quốc tế mới tập trung triển khai chủ yếu ở các cơ quan trung ưng; sự tham gia của các nghành các cấp, tuy có được đặt ra, nhưng còn yếu kém và chưa đồng bộ, do đó chưa tạo được sức mạnh cần thiết trong quá trình hội nhập quốc tế. -Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế và lộ trình chưa hợp lý cho việc thực hiện cam kết:Thời gian qua, chúng ta vừa tiến hành hội nhập, vừa triển khai nghiên cứu những nội dung cam kết để xây dựng chủ trương phương hướng hành động nên thường bị động đối phó với nhiều khuyến nghị do các đối tác nước ngoài nêu ra; không có đủ cơ sở để hướng dẫn các doanh nghiệp xây dựng chương trình cải tiến quản lý nâng cao khả năng cạnh tranh, chủ động vươn ra thị trường khu vực và thế giới. - Doanh nghiệp của nước ta còn yếu cả về sản xuất quản lý và khả năng cạnh tranh. Donh nghiệp nước ta hầu hết quy mô nhỏ, yếu kém về cả hai mặt quản lý và công nghệ, lại hình thành và hoạt động lâu trong cơ chế bao cấp. Chúng ta chưa đủ cơ chế, biện pháp có hiệu lực nhằm kích thích các doanh nghiệp gắn bó sự tồn tại và phát triển của mình với việc cải tiến sản xuất kinh doanh, với khả năng cạnh tranh trên thương trường quốc tế. -Ở giai đoạn đầu tốc độ tăng trưởng và hội nhập kinh tế của Việt Nam có nhiều tiến bộ nhưng trên thực tế vẫn chưa cho phép chúng ta thật sự lạc quan. Bởi vì, so với nhiều nước trong khu vực, giá trị kim nghạch xuất khẩu tính bằng USD bình quân đầu người ở nước ta vẫn còn thấp. Năm 1997 Việt Nam chỉ đạt 149USD/người trong khi đó Inđônêxia là 316, Philipin 545, Thái Lan: 1087, Malaixia:4222, Xingapo: 52.484. Tài liệu về chỉ số phát triển của Ngân hàng thế giới (WB) năm 1999 so với năm 1991 chỉ tăng 1,6và 1,44 lần trong khi đó ở Thái Lan:1,85 và 1,73; Philipin:1,91 và 1,62; Inđônêxia: 1,99 và 1,80; Malaixia:2,14 và 1,18 . Trong tổng lượng hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu vẫn còn là ở dạng nguyên liệu thô, trình độ kỹ thuật công nghệ chế biến thấp, mẫu mã, chủng loại sản phẩm chưa phong phú nên giá trị thấp, sức cạnh tranh yếu. Phần lớn ta mới chỉ tăng số lượng để tăng kim nghạch xuất khẩu. Vì thế nhiều mặt hàng xuất khẩu, khối lượng lớn mà hiệu quả kinh tế thấp. Kể cả các mặt hàng xuất khẩu truyền thống như gạo, dầu thô, cao su, nông lâm thuỷ sản. Khoảng cách về trình độ phát triển của chúng ta so với nhiều nước trong khu vực không chỉ chậm lại mà còn có những biểu hiện của nguy cơ tụt hậu. Sau khi khắc phục khủng hoảng động thái phát triển GDP 2 năm ( 1998-1999) của nhiều nước có tốc độ phát triển rất nhanh: Phillipin từ –0,5 % lên 3,1% (tăng 3,2%), Malaixia từ – 7,5% lên 4,7% (tăng 12%), Inđônêxia từ –13,2% lên 0,1% (tăng 13,3%)…Trong khi đó tốc độ tăng GDP của Việt Nam liên tục giảm từ 9,4% năm 1995 xuống 9,34% (năm 1996), 8,5% (1997), 5,8% (1998) và 4,8% (1999). Đó là những dấu hiệu về sự kém cỏi cần sớm khắc phục, nếu không sẽ dễ bị tụt hậu trong quá trình hội nhập. Bởi vì các lợi thế về tài nguyên và lao động rẻ đang bị giảm dần, tiến bộ kỹ thuật và công nghệ cao sẽ là những ưu tiên phát triển ở những giai đoạn phát triển tiếp theo. -Đội ngũ cán bộ yếu. Công tác tổ tức chỉ đạo chưa thích hợp: Nhược điểm lớn nhất là trình độ non yếu của đội ngũ cán bộ, không chỉ về trình độ hiểu biết mà có cả trường hợp cả về phẩm chất đạo đức. Đây là nguyên nhân sâu xa của những khuyết điểm thiếu sót trong hợp tác kinh tế với nước ngoài. Cán bộ làm công tác hợp tác quốc tế, nhất là cán bộ đàm phán quốc tế hiểu biết không đầy đủ, ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Cán bộ doanh nghiệp cũng ít hiểu biết về luật pháp quốc tế, về kỹ thuật kinh doanh. Đội ngũ công nhân lành nghề chưa được đào tạo đúng mức. III-Một số giải pháp cơ bản: A-Nguyên tắc chỉ đạo: Để đảm bảo cho hội nhập kinh tế quốc tế thắng lợi, thực sự đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải quán triệt các nguyên tắc và phương châm sau: 1-Nguyên tắc cơ bản và bao trùm là chủ động hội nhập trên cơ sở bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Sự chủ động cần được thể hiện trong việc lựa chọn các tổ chức tham gia, các đối tác quan hệ và thời điểm tham gia. Tính chủ động còn được thể hiện qua việc chủ động xây dựng lộ trình hợp lý trong khuôn khổ qui định chung, chủ động điều chỉnh pháp luật, chính sách cho phù hợp, chủ động sản xuất và điều hành kinh tế trong nước nhằm nâng cao không ngừng khả năng cạnh tranh không chỉ trong thị trường nội địa mà cả trên thị trường quốc tế. 2-Hội nhập kinh tế là sự nghiệp của toàn dân; trong đó quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, kết hợp chặt chẽ nội lực và ngoại lực thành nguồn lực tông hợp để phát triển đất nước nói chung và để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng. 3-Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việ xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề trường hợp cụ thể; đồng thời, vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn nôn nóng. 4-Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia; tranh thủ những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi tù kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường. 5-Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững ổn định kinh tế chính trị, an ninh, quốc phòng; thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền vàan ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ “diễn biến hoà bình” đối với nước ta. Luôn luôn đề cao cảnh giác, không mơ hồ trước âm mưu đen tối của các thế lực thù địch lợi dụng quan hệ kinh tế thương mại để xâm nhập, thực hiện diễn biến hoà bình, phá hoại,lật đổ chế độ ta. Thực tiễn cho thấy, điều cơ bản có tính quyết định để đảm bảo an ninh quốc gia là đặc biệt chăm lo xây dựng củng cố niềm tin, sự ủng hộ và gắn bó của nhân dân với chế độ , với Đảng và nhà nước, theo như tinh thần của nghị quyết tại đại hội Đảng XI là “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ gìn bản sắc vân hoá dân tộc, bảo vệ môi trường” B-Một số giải pháp cơ bản khi tham gia toàn cầu hoá và quốc tế hoá: Từ nghiên cứu toàn cầu hoá kinh tế, cần khẳng định lập trường dứt khoát của mọi nền kinh tế quốc gia dân tộc là chuyển sang nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập tích cực vào các nền kinh tế khu vực và thế giới. Là một nước đi sau, có xuất phát điểm thấp, Việt Nam cần phải chủ động và kiên định với mô hình kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập kinh tếd quốc tế dựa vào tăng trưởng xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh của mình về thị trường, về nguồn nguyên liệu và lao động rẻ. Đây là con đường hợp lý để phát huy hiệu quả nội lực và ngoại lực. Trong chính sách điều chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư cần phát triển mạnh các nghành công nghiệp chế biến và dịch vụ để nhanh chóng được thụ hưởng ưu đãi từ các tiến trình tự do hoá khu vực và quốc tế. Theođó, cần thực hiện nghiêm túc cam kết quốc tế và thúc đẩy nhanh chóng các qua trình cải cách bên trong nhằm tương thích với tiến trình tự do hoá. Trước mắt cần đẩy nhanh tiến trình AFTA và bước tiếp theo để gia nhập WTO. Đương nhiên, để thúc đẩy tiến trình này, cần chú trọng xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng làm điều kiện để khai thông và tiếp nhận các dòng vốn, thương mại- dịch vụ và công nghệ quốc tế. Nước ta trải qua nhiều thử thách gay go nhất từ cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm đến cuộc khủng hoảng kinh tế cuối những năm 80 vậy mà chúng ta đều khắc phục được và có những thành tựu vượt bậc trong hơn mười năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Đó là tiền đề rất quan trọng để ta có thể hoàn toàn hy vọng và quyết tâm vươn lên hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội VII của Đảng chỉ rõ “Đẩy nhanh quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới ”. Hội nghị lần thứ tư BCH Trung ương khoá VIII nhấn mạnh nhiệm vụ “Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết như cán bộ, luật pháp … và nhất là xác định những sản phẩm mà Việt Nam có thể cạnh tranh để tham gia vào thị trường khu vực và thế giới”. Toàn cầu hoá đã trở thành trào lưu lịch sử không thể đảo ngược, nhận thức đúng đắn xu hướng lịch sử của trào lưu này ,hoạch định chiến lược và đối sách ngoại giao thích hợp là vấn đề nan giải không thể lẩn tránh được của đại đa số các nước đang phát triển. Tuân thủ một cách bị động hay bác bỏ hoàn toàn đều làm cho chúng ta mất đi cơ hội lịch sử để tự phát triển trong quá trình toàn cầu hoá. Vì vậy, tìm kiếm đối sách để hội nhập là sự lựa chọn khôn ngoan nhất. Tuy nhiên, trong mối liên hệ lịch sử về bối cảnh kinh tế chính trị không giống nhau. Mỗi quốc gia sẽ có quyết sách riêng cho mình để có thể hội nhập một cách có hiệu quả nhất. 1--Xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế, xác định bước đi và kế hoạch triển khai thực hiện cụ thể, rõ ràng. Nước ta nhập cuộc đua tranh kinh tế khi trình độ phát triển kinh tế và công nghệ còn thấp. Vì vậy, phải tiến hành hội nhập từng bước, dần dần mở cửa thị trường với lộ trình hợp lý. Lộ thình đó được thoả thuận và xác định qua đàm phán song phương và đa phương trên cơ sở tận dụng ưu đãi mà WTO dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển. Một lộ trình “quá nóng” về mức độ và thời hạn mở cửa thị trường, vượt quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế, sẽ dẫn tới thua thiệt, đổ vỡ hàng loạt doanh nghiệp, vượt khỏi tầm kiểm soát của nhà nước kéo theo những hậu quả khó lường. Vì vậy, điều rất quan trọng là cần xem xét, tính toán nghiêm túc điều kiện khả năng cụ thể của từng ngành hàng, từng loại doanh nghiệp… để định ra lộ trình hội nhập hợp lý. Song đó điều đó không có nghĩa là “lộ trình càng dài càng tốt”, bởi vì lộ trình càng dài thì càng kéo dài tình trạng yếu kém của nền kinh tế. Xác định lộ trình hội nhập quốc tế không chỉ là xác định thời gian mở cửa trhị trường nước ta cho hàng hoá, dịch vụ và đầu tư nước ngoài thâm nhập, mà còn là xác định thời điểm nền kinh tế nước ta phải vươn lên, phát huy lợi thế so sánh, chiếm lĩnh thị phần ngày càng rộng lớn trên thương trường quốc tế, thâm nhập ngày càng nhiều vào thi trường nước ngoài không chỉ về thương mại mà cả về đầu tư và dịch vụ, nâng cao vị trí, vai trò của nền kinh tế nước ta trong khu vực và trên thế giới, góp phần quan trọng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Để xem xét, xác định lộ trình mở cửa đối với từng lĩnh vực, từng ngành hàng, cần lấy chuẩn mực mở cửa thị trường trong AFTA mà ta đã cam kết và các nguyên tắc cơ bản của WTO kết hợp với khả năng thực tế của nền kinh tế nước ta. Trong lĩnh vực dịch vụ, một lĩnh vực rất nhạy cảm, lộ trình mở cửa cần dựa vào việc vận dụng khôn khéo các định chế của WTO. 2-Con đường để Việt Nam thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và nguy cơ tụt hậu trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế và bước chuyển sang nền kinh tế tri thức là công nghiệp hoá theo mô hình phát triển rút ngắn. Việt Nam phải tận dụng các cơ hội do các tiến trình toàn cầu hóa mang lại về vốn, công nghệ, kỹ thuât, kinh nghiệm tổ chức quản lý…trên cơ sở phát huy tối đa các lợi thế so sánh của mình để đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp chế biến; đi từ những ngành sử dụng nhiều lao động sang những ngành sử dụng nhiều vốn và đặc biệt, tranh thủ các điều kiện ứng dụng công nghệ cao để dần phát triển những ngành sử dụng hàm lượng công nghệ tri thức cao. Điều đó có nghĩa là Việt Nam cần phải cụ thể hoá hơn nữa chiến lược tổng thể về xuất khẩu, hướng mọi nguồn lực (kể cả FDI) vào các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hướng về xuất khẩu, phục vụ nhu cầu nội địa thời gian vừa qua. Những ngành có khả năng cạnh tranh như dệt may, da giày, chế biến nông-lâm-hải sản, thủ công mỹ nghệ và điện tử- tin học phải thực sự được ưu tiên trong định hướng về công nghiệp hoá. Kinh nghiệm quốc tế cũng chỉ ra rằng trong vòng 10 năm, tức là đến năm 2010,Việt Nam cần và có thể phải đưa tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến , chế tạo trong tổng kim ngạch xuất khẩu lên khoảng 85-90% thay vì 43% như năm 2000. 3-Xây dựng chiến lược phát triển, nâng cao sức mạnh của nền kinh tế. Đánh giá lại sức cạnh tranh và tiềm lực của nền kinh tế đất nước trong mọi lĩnh vực và ngành hàng để có chương trình điều chỉnh lại cơ cấu nang cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh, từ đó xây dựng lộ trình hội nhập và cam kết quốc tế. Tập trung đầu tư xây dựng các ngành mũi nhọn hướng về xuất khẩu để vươn lên cạnh tranh, xác định vị thế ổn định trên thị trường quốc tế và khu vực. Mục tiêu chính của biện pháp này là tăng cường sức mạnh nền kinh tế. Do vậy, nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhưng cũng rất khó khăn phức tạp. Khẩn trương nâng cao sức cạnh tranh của từng sản phẩm, từng doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Đây là yếu tố quyết định để chủ động hội nhập thắng lợi. Sức cạnh tranh của sản phẩm phải được thể hiện ở chất lượng sản phẩm, giá cả, khả năng cạnh tranh. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp phải được thể hiện ở chất lượng sản phẩm và dịch vụ tiêu thụ được trên thị trường trong nước và nước ngoài. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp còn phải thể hiện ở sản xuất kinh doanh có hiệu quả , có lợi nhuận .Sức cạnh tranh quốc gia dựa vào sức cạnh tranh cuả hàng hoá, dịch vụ, của doanh nghiệp là cơ bản; .đồng thời còn phải tạo điều kiện , môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường xã hội ,chính trị ổn định, thuận lợi cho đầu tư và sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế trong nước và nước ngoài ở Việt Nam. ở thời điểm hiện nay, trước cạnh tranh của nước ta trên cả ba phương diện: sản phẩm doanh nghiệp, quốc gia, nhìn chung còn thấp. Đây chính là một thách thức rất lớn mà ta phải phấn đấu quyết liệt để vươn lên. Thực tế vừa qua cho thấy, doanh nghiệp nào chủ động chấp nhận cạnh tranh, kể cả cạnh tranh quốc tế thì sức vươn lên rất mạnh, chiếm lĩnh được thị trường và mở rộng thị phần. Hiện nay, đã có hàng trăm doanh nghiệp như vậy. Ngược lại, doanh nghiệp nào ỷ lại sự bao cấp bảo hộ của Nhà nước thì sức vươn lên rất kém , kéo dài tình trạng kinh doanh kém hiệu quả. Lợi ích quốc gia và quốc tế phải hài hoà là động lực cho sự phát triển của mọi nền kinh tế dân tộc.Nhưng lợi ích đó chỉ có thể nhận được thông qua cạnh tranh. Trong điều kiện cạnh tranh quốc tế còn thấp (cả về giá cả, công nghệ, chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng…). Việt Nam cần phải có chính sách phát triển các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh quốc tế. Đó là những doanh nghiệp bước vào được những thị trường ngách, cung ứng những phần nhỏ của những những thị trường quốc tế rộng lớn, nhiều đối thủ cạnh tranh. Nghĩa là cần xây dựngchiến lược cạnh tranh tích cực đi liền với chính sách cơ cấu. Thực hiện nguyên tắc bảo hộ trong thị trường mở, Việt Nam chỉ nên bảo hộ đối với những ngành, những doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh thực tế và tiềm ẩn. Sự bảo hộ luôn mang tính chất tạm thời, có chọn lọc, có địa chỉ tuỳ theo lộ trình hội nhập và có khả năng thích ứng của Việt Nam với thị trường quốc tế. Để nâng cao sức cạnh tranh trên trường quốc tế chúng ta cần tập trung một số công việc : Xác định rõ cơ cấu kinh tế đất nước: nghành nào là mũi nhọn, sẽ được tập trung vốn đầu tư xây dựng và ở mức độ bao nhiêu. Kết hợp chặt chẽ những yêu cầu và khả năng của nước ta với yêu cầu thị trường thế giới, với sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là kinh tế tri thức đang tong bước hình thành: có kế hoạch cụ thể đầu tư xây dựng các ngành mũi nhọn chủ công và tăng cường sức cạnh tranh của ngành hàng hiện có cho phù hợp; Khai thác mọi khả năng bên trong của nền kinh tế; kiên trì thực hiện nhất quán, lâu dài cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; có chính sách huy động khuyến khích sự tham gia, đầu tư rộng rãi của tất cả các thành phần kinh tế; Nhà nước định hướng và tạo môi trường pháp lý thuận lợi, không bao cấp; Chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ kinh tế đối ngoại; ưu tiên đầu tư vào các ngành xuất khẩu dịch vụ; tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia hội nhập quốc tế phù hợp với điều kiện và khả năng của mình. Phát huy cao độ lợi thế so sánh, lấy yêu cầu chất lượng và gia thành làm thước đo; tiêu chí quan trọng là hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh, vươn ra chiếm lĩnh thị trường, trước hết của những ngành, những sản phẩm trọng yếu: a-Trong lĩnh vực nông nghiệp, do nhiều nguyên nhân kinh tế xã hội thường được các nước bảo hộ lâu dài, trở thành những khu vực tranh chấp thường xuyên giữa nhiều quốc gia. Đối với nước ta, cần thấy rõ lợi thế so sánh của nền nông nghiệp nhiệt đới để cạnh tranh thắng lợi trên thị trường nội địa; đồng thời mở rộng thị trường xuất khẩu trên cơ sở nâng cao chất lượng sản phẩm, chấp nhận giá thị trường quốc tế. Muốn vậy, cần nhanh chóng áp dụng các tiến bộ sinh học, hiện đại hoá công nghệ chế biến, nâng cao chất lượng vệ sinh thực phẩm, đóng gói, bao bì…Chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế theo hướng: chú trọng phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá phù hợp với yêu cầu thị trường, giảm thiểu tỷ trọng nông nghiệp. b-Trong lĩnh vực công nghiệp , bối cảnh mới đòi hỏi khắc phục quan niệm cũ về mô hình kinh tế tự cấp tự túc dẫn đến hiệu quả kém, sức cạnh tranh yếu để lại gánh nặng cho nền kinh tế. Cần phát triển mạnh các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng, phát triển mạnh các ngành công nghệ cao, các ngành xuất khẩu, chú trọng phát triển công nghiệp vừa và nhỏ, phát triển các ngành kết cấu hạ tầng. Chú trọng phát triển ba vùng kinh tế trọng điểm ở miềm Bắc, Trung và Nam Bộ, đồng thời phát triển các vùng kinh tế trung du , miền núi và duyên hảI khác.Trong bố trí đầu tư xây dựng cần chọn thứ tự ưu tiên phù hợp với điều kiện của từng thời kỳ. Ở giai đoạn đầu, khi kinh tế kém phát triển, lao động xã hội dư thừa nhiều, khả năng vốn có hạn lại phải dành thoả đáng cho phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn, bên cạnh một số công trình quy mô lớn chọn lọc, có hiệu qủa, phải hết sức coi trọng những ngành và những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, đặc biệt là là doanh nghiệp vừa và nhỏ, được trang bị hiện đại, có công nghệ tiên tiến để tạo ra sản phẩm chất lượng cao, tiêu thụ được và thu hồi được vốn và trả được nợ. c- Đối với khu vực dịch vụ, cần nhận thức đầy đủ tầm quan trọng đặc biệt của lĩnh vực này trong điều kiện mới để từ đó vừa ra sức xây dựng bằng thực lực của quốc gia, vừa biết tranh thủ sự hợp tác có lợi của thế giới bên ngoài ; chấp nhận cạnh tranh, kể cả cạnh tranh trong nước lẫn cạnh tranh quốc tế, coi đây như một động lực thúc đẩy sự tiến bộ của các ngành dịch vụ. Do tính chất phức tạp nhạy cảm của khu vực dịch vụ, cần xây dựng chương trình hội nhập quốc tế phù hợp với đặc thù của từng ngành dịch vụ và điều kiện, khả năng cụ thể của nước ta. Xây dựng chiến lược phát triển mở rộng thị trường trong và ngoài nước gắn chặt với quá trình xây dựng chiến lược nâng cao sức mạnh của nền kinh tế. Ngày nay, khi khoa học- công nghệ không ngừng phát triển, kinh tế thế giới có nhiều đột biến, thị trường luôn luôn biến động thì tính cạnh tranh và lợi thế so sánh của các nền kinh tế đều rất linh hoạt , thường xuyên thay đổi. Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải kịp thời điều chỉnh bộ phận này hay bộ phận khác của chiến lược phát triển kinh tế nhằm hợp lý hoá hơn nữa cơ cấu kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường;Trên cơ sở sức mạnh của nền kinh tế, sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ ngày càng được nâng lên , xây dựng một lộ trình thực hiện cam kết quốc tế về mở rộng thị trường, giúp các doanh nghiệp Việt Nam vươn nhanh ra thị trường khu vực và quốc tế. 4- Đổi mới chính sách và kiện toàn hệ thống tài chính tiền tệ: Cùng với sự cải cách về cơ cấu kinh tế, cải cách về tài chính tiền tệ phải được đặc biệt quan tâm vì hệ thống tài chính quốc tế đang vận hành theo một cấu trúc mới, tinh vi, phức tạp, tốc độ lưu chuyển cao. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế nước ta, đồng thời phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế, cần tích cực xây dựng khung thể chế “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” bao gồm thị trường hàng hoá, vốn, tiền tệ, lao động, công nghệ, bất động sản… Đặc biệt cần khẩn trương xây dựng các chế định để hình thành thị trường vốn. Hoàn thiện chính sách tiền tệ, hướng các chính sách tín dụng, lãi suất, tỷ giá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Thực hiện nguyên tắc công bằng, hiệu quả trong chính sách phân phối, bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh của thị trường tài chính tiền tệ. Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và cam kết quốc tế. Tiếp tục cơ cấu lại ngân sách nhà nước, tăng dần tích luỹ cho đầu tư phát triển, tinh giảm biên chế bộ máy, cải cách thủ tục hành chính, thúc đẩy xã hội hoá khu vực sự nghiệp, đảm bảo cho người nghèo được hưởng các phúc lợi cơ bản. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngan sách của nhà nước, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương đồng thời phát huy tính chủ động sáng tạo của địa phương. Thực hiện chế độ tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính của doanh nghiệp, tách biệt tài chính nhà nước và tài chính doanh nghiệp, thực hiện công khai hoá tài chính. Thực hiện chính sách tiền tệ bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Sử dụng linh hoạt có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ như tỷ gia, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở theo các nguyên tắc của thị trường. Giải quyết nợ tồn đọng. Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng.Sắp xếp lại các ngân hàng cổ phần, xử lý các ngân hàng yếu kém. 5-Cần phải sử dụng nguồn vốn trong và ngoài nước đúng mức và có hiệu quả nhất. Chú trọng đầu tư gián tiếp, chủ yếu là đầu tư tư nhân đã trở nên rất phổ biến. Cơ cấu hoạt động vay, cho vay, trả nợ, kiểm soát dòng vốn phải linh hoạt tránh rơi vào tình trạng dễ tổn thương do sự bất cập. Mặt khác, khi coi FDI là một bộ phận của tổng đầu tư xã hội, phải đánh giá cho chính xác vốn tự có của các TNC và vốn đi vay vì nế không, mức độ rủi ro từ vốn vay của các TNC bao giờ cũng được phân xẻ trách nhiệm theo tỷ lệ liên doanh giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các TNC. Cần đặc biệt chú trọng thu hút FDI từ các TNC có nguồn gốc là các nước phát triển nhất, cụ thể là Mỹ, Nhật, EU để đảm bảo sự tiếp nhận về vốn lương thực và công nghệ nguồn. Ngoài ra, cần chú trọng đẩy mạnh cổ phần hoá và thị trường chứng khoán để huy động nguồn vốn; phát huy nguồn vốn bên trong như là nền tảng để thu hút các nguồn vốn bên ngoài. Nói cách khác, khai thác tốt nội lực và đầu tư nội địa để thu hút nguồn vốn bên ngoài một cách chủ động linh hoạt. 6-Hành lang pháp lý, nhất là môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh phải rõ ràng nhất quán và bình đẳng đối với mọi loại hình kinh tế tham gia trên thị trường Việt Nam cần chú trọng: Loại bỏ tình trạng phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, giảm các ưuđãi phi lý cho doanh nghiệp nhà nước để tạo một sân chơi bình đẳng cho mọi loại hình sở hữu khác nhau. Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế trong điều kiện các cơ chế của một nền kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành. Do vậy mà hệ thống pháp luật của nước ta đang trong quá trình hoàn thiện.Nhiều chính sách luật lệ liên quan đến mở cửa thị trường và điều tiết quan hệ kinh tế đối ngoại còn chưa phù hợp với quy định và thông lệ quốc tế. Vì vậy việc đổi mới và kiện toàn hệ thống pháp luật là rất cần thiết. Hệ thống pháp lý là công cụ đắc lực để thực thi cơ chế quản lý gúp nhà nước kiểm soát và điều tiết nền kinh tế trong quá trình hội nhập. Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và các văn bản dưới luật đáp ứng nhu cầu, hướng phát triển của doanh nghiệp. Thực hiện điều hành các chính sách kinh tế rõ ràng, minh bạch nhằm nâng cao độ tin cậy của môi trường kinh doanh, trong đó cần tháo dỡ những rào cản đối với khu vực tư nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, tăng cường tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đồng thời tăng tính chủ động và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Điều quan trọng lúc này là cần định rõ, trong bối cảnh hội nhập, hệ thống pháp lý của chúng ta sẽd được cấu thành bởi những luật nào, để có kế hoạch xây dựng, củng cố, kiện toàn ổn định lâu dài và những luật đó phải phù hợp với thông lệ và luật chơi quốc tế. BIết vận dụng những luật chơi quốc tế để thực hiện mục tiêu của mình là yếu tố quan trọng để các doanh nghiệp đứng vững. Để làm được việc đó, một đòi hỏi rất cấp bách hiện nay là đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hoạch định luật pháp, chính sách về kinh tế. 7-Đặc biệt coi trọng việc bồi dưỡng, rèn luyện năng lực đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại và quản lý doanh nghiệp, để đủ sức, đủ bản lĩnh thực hiện tốt các nhiệm vụ theo đúng đường lối chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước, xem đây là một yếu tố quyết định để đảm bảo độc lập tự chủ trong hội nhập. Con người là vốn quý, là yếu tố quyết định việc thực hiện thành công mọi đường lối, chủ trương, mục tiêu, nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế. Nguồn lao động trẻ được giáo dục, đào tạo tốt, đức tính cần cù thông minh…, đó là lợi thế so sánh rất quan trọng của nước ta. Do vậy cần coi trọng, phát huy nhân tố con người để đảm bảo hội nhập thành công, ra sức đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ doanh nghiệp tài giỏi, đội ngũ nhà khoa học- công nghệ và lao động lành nghề, đội ngũ công chức tận tụy và thạo việc.Đối với đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại cần khẩn trương nâng cao trình độ hiểu biết, trước hết là về nghiệp vụ và pháp luật, đồng thời coi trọng việc giáo dục rèn luyện phẩm chất, ý thức , tinh thần trách nhiệm. 8-Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại: Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, tiến tới gia nhập WTO. KẾT LUẬN Trong những điều kiện lịch sử mới, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế được xem như là một trong những yếu tố quan trọng để tạo động lực phát triển cho từng quốc gia, khu vực cũng như yêu cầu chung của cộng đồng quốc tế. Việt Nam cũng như hầu hết các nước khác đều muốn tham gia vào toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế .Bởi vì, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là quá trình gắn kết phát triển kinh tế với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện cần thiết để xây dựng kinh tế độc lập tự chủ; đồng thời có tự chủ được về kinh tế mới có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, bảo đảm được chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc. Đây là một quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, ngày càng đầy đủ và hoàn chỉnh.Mục tiêu của chúng ta là xây dựng nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá áp dụng những thành tựu mới của khoa học công nghệ thế giới. Thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, trong những năm qua chúng ta đã có những bước đi tương đối bài bản và bước phát triển kinh tế vượt bậc giúp cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân một cách rõ rệt đó là GNP bình quân đầu người đạt 6-8%/năm. Sau 10 năm, tổng sản phẩm xã hội (GDP) tăng thêm 18 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 2 lần. Nhưng chúng ta không thể thoả mãn với mức tăng trưởng bình quân như vậy mà phải tìm cách phát triển hơn nữa những lợi thế sẵn có và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài một cách hiệu quả hơn nữa nhằm đưa nước ta nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu đưa đất nước trở thành nước công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa Đến nay, khi cả thế giới tích cực chuẩn bị sức cạnh tranh bước vào thiên niên kỷ mới: nền kinh tế quốc tế có nhiều dấu hiệu về những yếu tố phát triển ổn định. Nhiều nước ASEAN và các nước Châu á đã khắc phục hậu quả khủng hoảng để quay trở lại tốc độ phát triển nhanh; các nước EU, Mỹ la tinh cũng đang có những chuyển biến tích cực . Vì thế, Việt Nam cần tranh thủ mọi cơ hội thuận lợi, khắc phục khó khăn, đẩy nhanh hơn nữa quá trình đổi mới toàn diện; tạo điều kiện cần thiết để phát triển và hội nhập có hiệu quả.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số vấn đề khái quát về toàn cầu hoá và quốc tế hoá.DOC
Luận văn liên quan