Một số vấn đề lý luận về khai thác chung trong Luật Quốc tế. Liên hệ thực tiễn các quốc gia Đông Nam Á (trừ Việt Nam)
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .2
NỘI DUNG 2
I. Một số vấn đề lý luận về hoạt động khai thác chung trong Luật quốc tế 2
1. Khái niệm hoạt đông khai thác chung .2
2. Cơ sở của hoạt động khai thác chung 3
3. Vấn đề khai thác chung ở thềm lục địa 3
4. Vấn đề khai thác chung ở vùng đặc quyền kinh tế .3
5. Mô hình quản lí khai thác chung 5
II. Thực tiễn hoạt động khai thác chung của một số quốc gia Đông Nam Á .5
1. Hiệp định giữa Thái Lan và Malaixia năm 1979 .5
2. Hiệp định giữa Thái Lan và Campuchia 6
KẾT LUẬN .6
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 7
7 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3373 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề lý luận về khai thác chung trong Luật Quốc tế. Liên hệ thực tiễn các quốc gia Đông Nam Á (trừ Việt Nam), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………...2
NỘI DUNG………………………………………………………………………………2
Một số vấn đề lý luận về hoạt động khai thác chung trong Luật quốc tế……...…….2
Khái niệm hoạt đông khai thác chung…………...............................................2
Cơ sở của hoạt động khai thác chung………………………............................3
Vấn đề khai thác chung ở thềm lục địa………………………………....……..3
Vấn đề khai thác chung ở vùng đặc quyền kinh tế…………………………….3
Mô hình quản lí khai thác chung………………………………………………5
Thực tiễn hoạt động khai thác chung của một số quốc gia Đông Nam Á…………...5
Hiệp định giữa Thái Lan và Malaixia năm 1979……………………………...5
Hiệp định giữa Thái Lan và Campuchia………………………………………6
KẾT LUẬN……………………………………………………………………...............6
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………..7
MỞ ĐẦU
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự phát triển của kinh tế, khả năng khai thác biển của con người ngày càng được mở rộng. Cùng với lợi ích to lớn mà biển mang lại, việc tăng cường quyền tài phán của các quốc gia ven biển càng làm cho các mâu thuẫn, tranh chấp trên biển trở nên gay gắt và phức tạp hơn. Các tranh chấp phát sinh trong quá trình phân định biển (đặc biệt là phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế), các tranh chấp về việc khai thác và sử dụng biển, đặc biệt tại các khu vực chồng lấn, các khu vực giáp ranh với đường phân giới biển ngày càng nhiều, thậm chí có khu vực tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến xung đột vũ trang, đe dọa hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Do đó, hợp tác khai thác chung sẽ làm “loãng” và “mềm” hóa những xung đột và căng thẳng giữa các quốc gia trên biển. Giải pháp này có thể tạm thời gác tranh chấp, nhằm hạn chế tình trạng căng thẳng có thể dẫn đến hoạt động chạy đua vũ trang hoặc xung đột vũ trang. Như vậy, khai thác chung thông qua phương pháp hòa bình có thể làm dịu đi các tranh chấp, bất đồng quốc tế. Để tìm hiểu về hoạt động khai thác chung này, nhóm em lựa chọn đề tài: Luật quốc tế về vấn đề khai thác chung và thực tiễn tại một số quốc gia Đông Nam Á (trừ Việt Nam).
NỘI DUNG
Một số vấn đề lý luận về hoạt động khai thác chung trong Luật quốc tế.
Khái niệm hoạt động khai thác chung.
Hiện nay chúng ta thấy không có một định nghĩa chung về khai thác chung được đưa ra sử dụng một cách chính thống. Chúng ta có thể tạm định nghĩa về hoạt động khai thác chung này như sau: “Khai thác chung là thỏa thuận giữa các quốc gia hữu quan trong việc nghiên cứu, thăm dò, khai thác và quản lý nguồn tài nguyên biển ở những nơi tồn tại vùng chồng lần danh nghĩa chủ quyền và quyền chủ quyền do bờ biển của các quốc gia đối diện nhau hoặc tiếp liền nhau hay những nới có nguồn tài nguyên trải dài qua đường ranh giới đã hoặc định rõ ràng”.
Qua khái niệm này ta có thể rút ra được một số đặc điểm của hoạt động khai thác chung này như sau:
Về mặt chủ thể: chủ thể tham gia hoạt động khai thác chung này là các quốc gia. Và đây là một quan hệ song phương hoặc đa phương. Nhưng đa số là hoạt động song phương. Và các quốc gia có thể ủy quyền cho các tổ chức tham gia hoạt động này.
Đối tượng của hoạt động khai thác chung: đó chính là tài nguyên (sinh vật, phi sinh vật) và các hoạt động khác như nghiên cứu khoa học, môi trường, hàng hải… Nhưng đa số thì đối tượng của hoạt động này là tài nguyên.
Vị trí xác lập vùng khai thác chung: gồm có 2 vùng, đó là:
+ vùng khai thác chung nằm trong vùng khai thác các nguồn tài nguyên nằm vắt ngang qua đường ranh giới;
+ vùng khai thác chung nằm trong vùng chồng lấn của các quốc gia liên quan, gồm có 3 vùng: lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Tính chất của hoạt động khai thác chung:
+ là sự lựa chọn thay cho việc xác lập đường ranh giới;
+ đây là một giải pháp tạm thời.
Cơ sở của hoạt động khai thác chung.
Hoạt động khai thác chung được tiến hành dựa trên 4 cơ sở sau:
Điều kiện tự nhiên của vùng khai thác chung.
Quy định của luật quốc tế về giải quyết tranh chấp.
Lợi ích và tác động đối với các quốc gia.
Nhu cầu hợp tác khai thác chung.
Vấn đề khai thác chung ở thềm lục địa.
Khai thác chung ở thềm lục địa thường là khai thác tài nguyên phi sinh vật.
Khai thác chung ở thềm lục địa được đặt ra trong hai trường hợp: (i) khai thác chung nơi có mỏ tài nguyên nằm vắt ngang qua đường ranh giới đã xác định; (ii) khai thác chung trong khu vực biển chồng lấn mà các quốc gia chưa đạt được thỏa thuận phân định biển.
Ví dụ: Hiệp định khai thác chung giữa Nhật Bản và Hàn Quốc năm 1974. Vùng khai thác chung của hai nước này có diện tích là 240.092 hải lý vuông, được chia thành 09 tiểu vùng. Tại mỗi tiểu vùng sẽ do các công ty của hai quốc gia hợp tác khai thác. Một ủy ban được thành lập (Joint Commission) gồm 04 thành viên do hai Chính phủ chỉ định, mỗi bên 02 người nhằm giám sát các hoạt động trong khu vực khai thác chung. Hiệp định này có hiệu lực từ năm 1978 và sẽ kết thúc sau 50 năm.
Trong trường hợp khai thác chung ở nơi có mỏ tài nguyên nằm vắt ngang qua đường ranh giới đã được xác định, chúng ta rút ra một số điểm như sau:
Nguồn tài nguyên mà các quốc gia tiến hành hoạt động khai thác chung ở đây chủ yếu là dầu khí.
Nguyên tắc: mỗi quốc gia có quyền chủ quyền đối với phần tài nguyên nằm ở thềm lục địa của mình.
Sự hợp tác là vì lợi ích của các quốc gia hữu quan.
Từ những điểm trên, các quốc gia thường đi tới thỏa thuận hợp nhất mỏ.
Trong trường hợp khai thác chung trong khu vực biển chồng lấn mà các quốc gia chưa đạt được thỏa thuận phân định biển thì các quốc gia cần tiến hành:
Xác định vùng chồng lấn.
Đưa ra các giải pháp tạm thời (theo khoản 3 Điều 83 Công ước Luật Biển năm 1982).
Vấn đề khai thác chung ở vùng đặc quyền kinh tế.
Theo quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển được mở rộng ra không quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải (Điều 57). Như vậy, chiều rộng của vùng đặc quyền kinh tế đã được mở rộng và hầu như bao trùm lên cả thềm lục địa. Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có các quyền thuộc quyền chủ quyền về thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển cũng như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió. Quốc gia ven biển còn có quyền tài phán về lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình; nghiên cứu khoa học; bảo vệ và gìn giữ môi trường biển (Khoản 1 Điều 56). Về các quyền liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của quốc gia ven biển được thực hiện theo đúng quy định tại phần VI (Thềm lục địa) của Công ước.
Và trong việc khai thác chung ở vùng đặc quyền kinh tế, các quy định của luật biển quốc tế theo Công ước Luật biển 1982 về: quyền hàng hải (Điều 90), quốc tịch của tàu thuyền (Điều 91), địa vị pháp lý của tàu thuyền (Điều 92), các nghĩa vụ của quốc gia mà tàu thuyền mang cờ (Điều 93), quyền miễn trừ của tàu chiến và tàu nhà nước (Điều 94), quyền đàm phán hình sự về tai nạn đâm va (Điều 95, Điều 96), cấm chuyên chở nô lệ (Điều 99), các biện pháp trấn áp nạn cướp biển (Điều 100), buôn bán trái phép chất ma tuý (Điều 108), phát sóng trái phép từ biển cả (Điều 109), quyền khám xét và truy đuổi (Điều 110, Điều 111), quyền đặt dây cáp và ống dẫn ngầm và việc bồi thường thiệt hại do việc dây cáp hoặc ống dẫn ngầm bị đứt đoạn (Điều 113, Điều 114, Điều 115)… đều được áp dụng (Khoản 2 Điều 58 Công ước Luật Biển năm 1982).
Bên cạnh đó, có thể thấy, tại vùng đặc quyền kinh tế, tài nguyên sinh vật ở vùng này rất phong phú và đa dạng. Trong số đó, tài nguyên cá và vấn đề về tài nguyên cá là nội dung quan trọng của quy chế pháp lý vùng đặc quyền kinh tế. Vì thế mà đối với vùng đặc quyền kinh tế, vấn đề khai thác chung chủ yếu thể hiện ở việc thiết lập vùng đánh cá chung. Bởi cá là nguồn “tài nguyên động”, cho nên các quốc gia cần phải quản lý và khai thác hợp lý. Trên thực tế, các quốc gia tiến hành khai thác chung dựa trên hai phương thức, đó là:
+Vùng trắng (White zones) – Các quốc gia liên quan không áp dụng các biện pháp quản lý và cho phép tất cả các quốc gia khai thác.
+Vùng xám (Grey zones) – Các quốc gia liên quan thỏa thuận việc quản lý, khai thác và loại trừ sự tham gia của các nước khác.
Việc khai thác chung trong vùng đặc quyền kinh tế được áp dụng với tính chất “biện pháp tạm thời”, không gây ảnh hưởng đến quá trình phân định và giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia hữu quan.
Ví dụ: Thỏa thuận giữa Trinidad và Tobago và Venezuela năm 1977. Các bên xác lập hai vùng đánh cá chung ở phía Bắc (ngư dân của Venezuela phải xin phép) và Nam của Trinidad (ngư dân cả hai nước được tự do đánh bắt). Năm 1985, các bên thiết lập thêm vùng đánh cá chung ở phía Đông Trinidad.
Mô hình quản lí khai thác chung.
Có ba mô hình quản lí khai thác chung như sau:
Mô hình một quốc gia quản lí: đây là mô hình đơn giản nhất. Một quốc gia hoạt động nhân danh quốc gia liên quan và với tính chất là cơ quan khai thác đơn nhất. Việc chia lợi nhuận do khai thác chung sẽ do hai bên tự thỏa thuận với nhau. Tuy nhiên, rất ít quốc gia lựa chọn mô hình quản lí này, do hầu hết các quốc gia đều muốn có được lợi nhuận lớn nhất. Đối với loại mô hình này, có thể kể đến một số hiệp định như: Hiệp định Saudi Arabia và Bahrain năm 1958; Hiệp định giữa Kuwait và Saudi Arabia năm 1965.
Mô hình cơ chế cùng khai thác: các quốc gia liên quan sẽ thiết lập một liên doanh (có thể ủy quyền cho các doanh nghiệp) để thực hiện việc khai thác tại vùng khai thác chung. Ví dụ: Hiệp định giữa Nhật Bản và Hàn Quốc năm 1974; Hiệp định giữa Malaysia và Việt Nam năm 1992.
Mô hình quản lí thứ ba đó là thiết lập một cơ quan quyền lực chung. Cơ quan này sẽ được các quốc gia liên quan thiết lập với đại diện của chính phủ. Ở mô hình này thì sẽ yêu cầu mức độ hợp tác cao hơn từ các quốc gia liên quan. Ví dụ: Hiệp định Sudan và Saudi Arabia năm 1974; Hiệp định Guinea Bissau và Senegal năm 1993.
Thực tiễn hoạt động khai thác chung tại một số quốc gia Đông Nam Á.
Do phạm vi bài viết có hạn, nên chúng em chỉ nêu ra được 1 số hiệp định về khai thác chung đã được kí kết tại một số quốc gia Đông Nam Á.
Hiệp định giữa Thái Lan và Malaixia năm 1979.
Vịnh Thái Lan là nơi diễn ra các mâu thuẫn về vùng biển chồng lấn giữa nhiều quốc gia như Malaysia, Thái Lan, Việt Nam và Campuchia. Do công tác phân giới trong vịnh Thái Lan không hề dễ dàng nên các nước ven biển trong vùng có xu hướng chọn các thỏa thuận tạm thời như ký kết các thỏa thuận khai thác chung để giảm bớt xung đột và khai thác tài nguyên thiên nhiên trong khi chờ đợi một sự phân định chính thức. Ngày 21/2/1979, một bản ghi nhớ (MoU) về khai thác chung được ký kết giữa Thái Lan và Malaysia, theo tinh thần của Điều 74(3) và Điều 83(3) của Công ước Luật Biển 1982.
Thỏa thuận của Thái Lan - Malaysia lại hình thành nên một cơ quan hợp tác chung để quản lý và khai thác tài nguyên khoáng sản ở vùng đáy biển và vùng đất dưới đáy biển trong vòng 50 năm (kể từ khi thỏa thuận có hiệu lực). Cơ quan này đồng chủ tịch bởi một đại diện phía Thái Lan và một đại diện phía Malaysia, với số thành viên bằng nhau của mỗi bên. Chính cơ chế này đã phần nào cản trở tiến độ hợp tác của hai nước trong việc thúc đẩy khai thác chung.
Bản ghi nhớ hợp tác giữa Thái Lan và Malaysia được ký kết năm 1979, nhưng họ phải mất đến 11 năm mới trao đổi văn kiện phê chuẩn để thỏa thuận chính thức có hiệu lực. Tuy nhiên họ còn phải tốn nhiều thời gian hơn để đi đến giai đoạn khai thác tài nguyên và hai bên hiện vẫn đang gặp khó khăn với dự án xây dựng đường ống dẫn khí đốt từ ngoài khơi vào đất liền.
Khả năng khai thác dầu hỏa trong vùng tranh chấp và các nguồn lợi kinh tế khổng lồ từ là nhân tố thúc đẩy các quốc gia đạt được thỏa thuận hợp tác chung. Nếu thiếu sự đồng thuận giữa các bên liên quan, các công ty nước ngoài sẽ rất ngần ngại khi đầu tư vào các khu vực tranh chấp vì luật quốc tế không cho phép việc đơn phương dò tìm và khai thác ở những khu vực này. Chính vì thế, các thỏa thuận hợp tác chung là một công cụ hữu hiệu để giải quyết những rào cản pháp lý. Giá trị của thỏa thuận này nằm ở khả năng dàn xếp tranh chấp vì mục đích kinh tế. Thái Lan đã rất chủ động ký kết thỏa thuận hợp tác chung với Malaysia năm 1979 vì nước này phụ thuộc nhiều hơn vào việc nhập khẩu dầu so với Malaysia.
Hiệp định giữa Thái Lan và Campuchia.
Năm 1907, Thái Lan và Pháp đã kí hiệp ước biên giới Francois-Siamese có đính kèm bản đồ. Hiệp ước có nhắc đến việc Pháp nhượng lại Siam (Thái Lan) tất cả các hòn đảo phía nam mũi Lempling, trong đó có đảo Kut. Tuy nhiên sau này, Campuchia (quốc gia kế thừa của Pháp) lại vẽ một đường thẳng qua đảo Kut và cho rằng đảo đó thuộc lãnh thổ của mình. Trong suốt nhiều năm, hai bên đã có nhiều căng thẳng trong việc tranh chấp chủ quyền, đặc biệt là khi Thái Lan phát hiện ra một số giếng dầu và khí gas tại vùng này. Tới năm 2001, cả Campuchia và Thái Lan đều thống nhất thảo luận một hiệp định và kí kết một bản ghi nhớ liên quan tới khu vực tranh chấp thềm lục địa. Mục đích nhằm phục vụ cho việc đàm phán sau đó, vừa xác định biên giới trên biển ở khu vực phía Bắc, và vừa thiết lập hiệp định đối với khu vực khai thác chung nguồn tài nguyên hydrocacbon nằm ở vùng phía Nam. Campuchia đề xuất với Thái Lan rằng chi phí và lợi ích trong việc khai thác nguồn tài nguyên hydrocacbon này theo hiệp định nên được chia đôi cho cả hai bên. Vào năm 2006, Thái Lan và Campuchia đã tiến tới đàm phán kí kết. Năm 2008, Campuchia đã bắt đầu khoan một số giếng dầu tiềm năng ở khu vực này. Liên doanh này đã thu hút được rất nhiều công ty nổi tiếng trên thế giới như Chevron, Idemitsu, Amoco.
KẾT LUẬN.
Có thể thấy, vùng khai thác chung nếu được thiết lập tại khu vực chồng lấn của thềm lục địa hoặc của vùng đặc quyền kinh tế thì chế độ pháp lý cho vùng này là hết sức đa dạng và phức tạp. Dù các bên tham gia khai thác chung là hai hay nhiều bên, dù luật áp dụng cho vùng khai thác chung là luật nước nào (luật của một trong các bên hay luật của nước thứ ba hoặc luật hỗn hợp do các bên thoả thuận xây dựng nên) thì chế độ pháp lý của vùng khai thác chung cũng phải tuân thủ các quy định của Luật Quốc tế hiện đại, đặc biệt là Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc. Do đó, khi xác lập vùng khai thác chung trên biển, các quốc gia hữu quan cần có sự nghiên cứu xem xét, đánh giá một cách toàn diện, tìm ra giải pháp tối ưu cho việc xây dựng một quy chế pháp lý hiệu quả nhằm bảo đảm lợi ích công bằng cho các bên, tuân thủ triệt để các quy định của Luật Quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật Biển năm 1982.
DANH MỤC TẠI LIỆU THAM KHẢO
Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.
Công ước Giơ-ne-vơ năm 1958 về thềm lục địa.
Còn mấy cái nữa, quyển sách của cô Mai Anhv ới cô Thuận tớ k biết tên, mọi người điền hộ vào nhé J
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số vấn đề lý luận về khai thác chung trong Luật Quốc tế Liên hệ thực tiễn các quốc gia Đông Nam Á (trừ Việt Nam).doc