LỜI MỞ ĐẦU
Để tồn tại và phát triển, cá nhân hay tổ chức đều phải tham gia vào nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau, trong đó việc các bên thiết lập với nhau những quan hệ để chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đóng vai trò quan trọng và là tất yếu đối với đời sống xã hội. Song việc chuyển giao các lợi ích vật chất này không phải tự nhiên thiết lập mà chỉ được hình thành khi có hành vi có ý chí của chủ thể, nói như C.Mác thì: “Tự chúng, hàng hóa không thể đi đến thị trường và trao đổi với nhau được. Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau, thì những người giữ chúng phải đối xử với nhau như những người mà ý chí nằm trong các vật đó” [6, tr.577]. Theo đó, chỉ khi có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên thì quan hệ trao đổi lợi ích vật chất mới được hình thành và được gọi là hợp đồng. Hợp đồng theo nghĩa chung nhất được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ cụ thể.
Ở nước ta Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế đã ra đời từ những năm đầu của thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường đã tạo cơ sở pháp lý cho việc ký kết hợp đồng kinh tế và có tác dụng thúc đẩy các hoạt động kinh tế phát triển.
Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, các quan hệ kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ. Cùng với tiến trình phát triển đó, một nền kinh tế thị trường mới đã được mở ra dựa trên sự thiết lập nền tảng pháp lý là quyền tự do kinh doanh trong quan hệ thương mại với phương thức hình thành chủ yếu là thông qua các quan hệ hợp đồng. Các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực thương mại cũng vì lẽ đó mà trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Pháp luật hợp đồng với sứ mệnh là nền tảng pháp lý của mọi sự thỏa thuận tự nguyện luôn đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập các quan hệ hợp đồng bình đẳng, an toàn, cùng có lợi cho các tổ chức, cá nhân với mục đích đạt được lợi nhuận tối đa đã trở thành động lực trực tiếp của các bên tham gia quan hệ hợp đồng thương mại. Trong điều kiện như vậy, pháp luật về hợp đồng lĩnh vực thương mại có vai trò và tầm quan trọng lớn lao về nhiều mặt và khía cạnh khác nhau.
Hiện nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu được thực hiện, những tài liệu về hợp đồng được xuất bản ở nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam vẫn là một đề tài lớn còn gây nhiều ý kiến tranh luận khác nhau. Vì lẽ đó, em đã chọn đề tài “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp với mong muốn được đóng góp những tìm tòi và nghiên cứu của mình trong lĩnh vực pháp luật về hợp đồng, đặc biệt là về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận có kết cấu gồm hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại và pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại.
Chương 2: Các quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam và một số kiến nghị.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU Trang 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI .3
1.1. Bản chất pháp lý của hợp đồng và hợp đồng trong lĩnh vực thương mại .3
1.2. Phân loại hợp đồng trong lĩnh vực thương mại 5
1.3. Lược sử hình thành và phát triển của chế định pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam .7
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 8
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến hết năm 2005 .11
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2006 đến nay .16
1.4. Nguồn luật điều chỉnh đối với hợp đồng trong lĩnh vực thương mại .17
1.4.1. Văn bản pháp luật 17
1.4.2. Điều ước quốc tế .18
1.4.3. Tập quán thương mại 20
CHƯƠNG 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HỢP ĐỒNG TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 23
2.1. Nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam 23
2.1.1.Về nội dung của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại 23
2.1.2.Về giao kết hợp đồng trong lĩnh vực thương mại 24
2.1.3.Về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại .27
2.1.4.Về hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu trong lĩnh vực thương mại .29
2.1.5. Về thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực thương mại .38
2.1.6. Về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong lĩnh vực thương mại 39
2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam .48
KẾT LUẬN .52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .54
56 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4597 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phải dựa vào tình trạng cụ thể của từng cá nhân và hoàn cảnh cụ thể khi người này xác lập giao dịch dân sự. Ví dụ như trường hợp cụ thể làm giả hợp đồng để lừa người thuê đất dự án tại quận Cầu Giấy, Hà Nội:
Ngày 16/11/2009 Công an phường Dịch Vọng (quận Cầu Giấy, Hà Nội) cho biết vừa khám phá ổ nhóm làm giả con dấu và giấy tờ của cơ quan Nhà nước để lừa đảo cho thuê đất tại khu đất trống trên đường Nguyễn Phong Sắc kéo dài. Vụ việc được phát giác khi Công an phường kiểm tra hoạt động của cơ sở kinh doanh ăn uống trên khu đất trống thuộc đường Nguyễn Phong Sắc kéo dài của vợ chồng anh Nguyễn Văn Quý ở Đan Phượng, Hà Nội. Khi Công an phường phối hợp với chính quyền địa phương kiểm tra, anh Quý xuất trình một bản hợp đồng cho thuê đất giữa bên A là Tổng Công ty Xây dựng Từ Liêm (có ghi rõ là đơn vị đang quản lý khu đất 26 dự án khu văn phòng, nhà ở cao cấp, thuộc UBND quận Cầu Giấy). Qua xác minh, Công an phường Dịch Vọng làm rõ lô đất mà anh Quý dựng quán thuộc quyền quản lý của quận Cầu Giấy, hiện chưa xây dựng nhưng cũng không cho đơn vị nào thuê mượn. Theo anh Nguyễn Văn Quý trình bày, trước đó, vợ chồng anh được một đối tượng có tên Trần Thanh Phong, tự giới thiệu là cán bộ dự án gợi ý cho thuê lô đất trên để kinh doanh ăn uống cùng một người nữa là Phùng Văn Tuấn, 30 tuổi ở Ba Vì, Hà Nội, giá thuê đất là 86 triệu trong vòng 18 tháng. Để vợ chồng anh Quý tin tưởng, Phong còn cho người tự xưng là cán bộ địa chính đến đo đạc đàng hoàng. Trên hợp đồng thuê đất, có con dấu hình chữ nhật đề tên Tổng Công ty xây dựng Từ Liêm nên anh Quý không nghi ngờ gì. Phùng Văn Tuấn nhờ người quen là Trương Đức Trung, 25 tuổi, ở Ba Vì, đóng giả là cán bộ dự án gọi điện xin gặp anh Quý để thương lượng trả lại 86 triệu đồng mà anh Quý đã đưa để thuê đất với mục đích đề nghị anh Quý rút lại đơn trình báo cơ quan Công an. Khi Trung đưa số tiền trên cho anh Quý tại một quán café đã bị Công an phường Dịch Vọng bắt giữ. Phùng Văn Tuấn cũng bị triệu tập tới Công an phường để làm rõ. Theo khai nhận ban đầu, biết vợ chồng anh Quý có ý định tìm thuê đất mở quán kinh doanh, Tuấn đã cùng Trần Thanh Phong tạo dựng “kịch bản” cho thuê đất trên. Tuấn trực tiếp thảo nội dung hợp đồng, đi thuê khắc dấu giả mạo Tổng Công ty Xây dựng Từ Liêm, là công ty không có thật. Sau đó, Tuấn nhờ chú họ là Phùng Văn Đông đóng vai cán bộ địa chính đến đo đất [10].
Vô hiệu do bị đe dọa:
Vô hiệu do bị đe dọa là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải giao kết và thực hiện hợp đồng nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha mẹ, vợ, chồng, con của mình. Một khi bên giao kết hợp đồng do bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó là vô hiệu.
Ví dụ: A có một mảnh đất muốn bán với giá 600.000.000 đồng. B là người muốn mua mảnh đất đó. Nhưng vì muốn mua mảnh đất với giá rẻ hơn, B đã thuê C và tay chân của C đến để đe dọa A nếu không bán mảnh đất cho B với giá 250.000.000 đồng thì vợ con A sẽ gặp những chuyện không hay. Lo sợ cho vợ con mình nên B đã đồng ý bán mảnh đất của mình với giá 250.000.000 cho B. Trong trường hợp trên hành vi của C và tay chân của hắn là đe dọa và là nguyên nhân dẫn đến hợp đồng mua bán giữa A và B vô hiệu bởi A đồng ý bán ngôi nhà đó hoàn toàn không dựa trên cơ sở tự nguyện, tự do ý chí mà do lo sợ C và tay chân của hắn sẽ gây thiệt hại đến tính mạng và sức khỏe cho vợ con của mình.
Vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình:
Là khi người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã giao kết hợp đồng vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó là vô hiệu. Ví dụ về vụ án tại Tòa án nhân dân huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái (tên thật của nhân vật đã được thay đổi):
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Nguồn gốc diện tích 288m2 ông Cường và bà Bính đã chuyển nhượng cho anh Thăng là một phần trong tổng diện tích đất do bà Lợi - mẹ đẻ ông Cường để lại di sản sau khi chết. Tại thời điểm tháng 01/2004 do việc giải quyết chia thừa kết chưa được đặt ra nên ông Cường chỉ là người chiếm hữu sử dụng di sản thừa kế theo quy định tại khoản 2 Điều 638 BLDS. Nên việc ông Cường và bà Bính tự ý bán một phần di sản khi chưa được sự đồng ý của những người cùng hàng thừa kế là vi phạm các quy định tại khoản 2 Điều 639. Do khi bà Lợi chết không để lại di chúc, nên tại bản án chia thừa kế số 02/DSST ngày 17/5/2005 đã căn cứ vào các quy định về chia thừa kế theo pháp luật để chia cho ông Cường được sử dụng trị giá phần tài sản là giá trị quyền sử dụng 288m2 đất đã bán cho anh Thăng. Đây được coi là tài sản riêng của ông Cường nên việc bà Bính cùng có ý kiến định đoạt khối tài sản này là trái với các quy định của pháp luật về quyền sở hữu.
Theo đề nghị của anh Hưng, Tòa án nhân dân huyện Văn Chấn ngày 15/12/2005 của Tổ chức giám định pháp y Tỉnh đã kết luận: Ông Cương bị mắc bệnh “loạn thần do sử dụng rượu”. Thời điểm mắc bệnh là trước ngày 01/01/2004 với biểu hiện của căn bệnh là mất hoàn toàn khả năng tư duy, khả năng hiểu biết và khả năng điều khiển hành vi của mình.
Trên cơ sở kết luận giám định như trên, ông Cường được coi là người mất hoàn toàn năng lực trách nhiệm, năng lực hành vi dân sự từ thời điểm trước ngày 01/01/2004. Khi đó bà Bính là vợ ông Cường nên trong mọi giao dịch dân sự, bà Bính phải tham gia với tư cách là người giám hộ để đại diện cho ông Cường, nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của ông Cường theo quy định của BLDS. Nhưng trên thực tế trong quá trình giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bà Bính đã không tham gia giao kết với tư cách là người giám hộ ông Cường, không đăng ký giám hộ mà tham gia ký kết hợp đồng như một chủ thể sở hữu tài sản với chính con riêng của bà Bính là anh Thăng. Như vậy trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ông Cường không hề có người giám hộ và không có ai đăng ký việc giám hộ cho ông Cường theo quy định của Điều 58 và 62 BLDS.
Ngày 13/6/2005, Tòa án nhân dân huyện Văn Chấn xét xử và đã quyết định cho bà Bính ly hôn với ông Cường. Đến ngày 10/08/2005, anh Hưng là con trai của ông Cường và bà Chế (đã ly hôn năm 1979) mới đăng ký việc giám hộ cho ông Cường tại UBND xã. Do đó tính đến ngày 10/8/2005, ông Cường mới có người giám hộ - đại diện hợp pháp. Căn cứ theo khoản 2 Điều 161, thì thời hiệu khởi kiện vụ án được tính từ thời điểm ông Cường có người giám hộ đại diện theo quy định tại Điều 58 và 67 BLDS (từ ngày 10/8/2005) chứ không phải là ngày giao kết hợp đồng theo quy định tại Điều 136 BLDS.
Như các phân tích đã nêu trên, cho thấy anh Thăng đã ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Cường là người mất năng lực trách nhiệm, năng lực hành vi dân sự. Và bà Bính là người không có quyền định đoạt, xử lý tài sản là đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng mà không có sự tham gia của người đại diện cho ông Cường. Vì vậy đã làm phát sinh một hợp đồng với các giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ do vi phạm quy định tại Điều 133 BLDS. Vì vậy, cần căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 137 BLDS để hủy hợp đồng chuyển nhượng nêu trên và xử buộc anh Thăng trả lại 288m2 đất thổ cư cho ông Cường và người đại diện là anh Hưng [11].
Vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức:
Vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức là khi pháp luật có quy định hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án hay cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của hợp đồng trong một thời hạn. Quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.
Mặc dù Bộ luật dân sự không quy định cụ thể về trường hợp hợp đồng trong thương mại vô hiệu do chủ thể hợp đồng không bảo đảm điều kiện về đăng kí kinh doanh, song có thể suy ra trường hợp vô hiệu này từ các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Một trong các bên kí kết hợp đồng không có đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thỏa thuận trong hợp đồng sẽ làm cho hợp đồng vô hiệu. Việc không có đăng kí kinh doanh để thực hiện công việc đã thỏa thuận trong hợp đồng thể hiện chủ thể hợp đồng không có năng lực chủ thể để thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng trong kinh doanh. Tuy nhiên, đăng kí kinh doanh chỉ đòi hỏi bắt buộc đối với chủ thể là thương nhân. Vì thế, nếu pháp luật quy định để được thực hiện công việc đã thỏa thuận trong hợp đồng đòi hỏi cả hai bên phải có đăng kí kinh doanh (hợp đồng đại lý, hợp đồng đại diện cho thương nhân) mà một trong các bên không có đăng kí kinh doanh thì hợp đồng bị coi là vô hiệu toàn bộ. Nếu pháp luật quy định chỉ cần bên có đăng kí kinh doanh (bên bán trong hợp đồng mua bán, bên cung ứng dịch vụ trong hợp đồng cung ứng dịch vụ) mà bên đó không có đăng kí kinh doanh thì hợp đồng đó cũng bị coi là vô hiệu toàn bộ. Để xác định hợp đồng có bị vô hiệu do một bên không có đăng kí kinh doanh để thực hiện nội dung đã thỏa thuận hay không, cần nghiên cứu kĩ nội dung hợp đồng để xem các bên có những nghĩa vụ cụ thể gì và việc thực hiện đó có phù hợp với đăng kí kinh doanh của từng bên hay không. Những ngành nghề các bên được quyền kinh doanh ghi trong giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh là gì. Đối với những ngành nghề phải có chứng chỉ hành nghề hoặc những ngành nghề kinh doanh có điều kiện, phải xem xét nội dung của chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép kinh doanh do cơ quan có thẩm quyền cấp.
Pháp luật dân sự cũng không quy định trường hợp hợp đồng vô hiệu do được kí kết bởi người đại diện không đúng thẩm quyền. Tuy nhiên, trường hợp này có thể áp dụng quy định về đại diện và phạm vi đại diện để xác định hiệu lực của hợp đồng. Khi người không có quyền đại diện giao kết, thực hiện hợp đồng sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với bên được đại diện, trừ trường hợp được người đại diện hợp pháp của bên được đại diện chấp thuận. Giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người được đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối. Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện (hoặc vượt quá phạm vi được đại diện) có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự (hoặc đối với phần vượt quá phạm vi đại diện) đã xác lập và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện và việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch.
Phạm vi đại diện cần phải được xác định đối với cả đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. Nếu như văn bản ủy quyền là cơ sở cho phép xác định phạm vi đại diện của người đại diện thì quy định pháp luật là cơ sở cho phép xác định phạm vi đại diện của người đại diện theo pháp luật. Ví dụ như các quy định có tính phân cấp thẩm quyền của Đại hội cổ đông, hội đồng quản trị, giám đốc… trong công ty cổ phần, theo đó, dù Chủ tịch hội đồng quản trị hay Giám đốc công ty là người đại diện theo pháp luật thì khi thực hiện việc đại diện đều phải tính đến thẩm quyền quyết định vấn đề có liên quan.
Tùy thuộc vào mức độ của sự vô hiệu hợp đồng, hợp đồng vô hiệu trong các trường hợp nói trên được phân chia thành các nhóm: Hợp đồng vô hiệu toàn bộ và hợp đồng vô hiệu từng phần. Hợp đồng vô hiệu toàn bộ là hợp đồng mà tất cả các nội dung của hợp đồng không có giá trị pháp lý, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ và cũng không được hưởng các quyền theo hợp đồng. Hợp đồng vô hiệu từng phần là những hợp đồng có nội dung nào đó vi phạm điều cấm của pháp luật và bị vô hiệu nhưng không làm ảnh hưởng đến các nội dung còn lại của hợp đồng.
Ví dụ: trong hợp đồng các bên thỏa thuận mức phạt vi phạm cụ thể cao hơn mức phạt vi phạm do pháp luật quy định. Thỏa thuận này của các bên đều bị vô hiệu, nhưng không làm ảnh hưởng các nội dung khác của hợp đồng. Hợp đồng này được coi là bị vô hiệu từng phần.
Cuối cùng, khi một hợp đồng vô hiệu thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Nhìn chung, pháp luật các nước đều có quan điểm xử lý rất nghiêm khác đối với các hợp đồng vô hiệu, đặc biệt là đối với bên chủ thể đã có lỗi trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng vô hiệu. Theo Bộ luật dân sự năm 2005, một hợp đồng bị vô hiệu sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cùa các bên từ thời điểm giao kết. Các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu. Việc khôi phục lại tình trạng ban đầu được thực hiện theo quy định sau:
Các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại cho bên kia.
2.1.5 Về thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực thương mại
Thứ nhất, nguyên tắc thực hiện hợp đồng
Tất cả những thỏa thuận trong hợp đồng có hiệu lực sẽ có giá trị ràng buộc các bên, hợp đồng có tính chất là “luật” đối với các bên. Các bên phải thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận theo đúng hợp đồng. Để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng mang lại lợi ích cho các bên, đồng thời không xâm hại đến những lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ, pháp luật quy định những nguyên tắc, có tính chất bắt buộc phải tuân theo đối với các chủ thể trong quá trình thực hiện hợp đồng. Việc thực hiện hợp đồng trong thương mại phải tuân thủ những nguyên tắc và cách thức thực hiện được quy định cho hợp đồng dân sự nói chung. Các nguyên tắc thực hiện hợp đồng theo quy định của pháp luật hiện hành bao gồm (Điều 412 BLDS2005): Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác. Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, đảm bảo tin cậy lẫn nhau. Không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Thứ hai, cách thức thức thực hiện hợp dồng
Cách thức thực hiện hợp đồng được pháp luật quy định phù hợp với tính chất của từng loại hợp đồng. Theo pháp luật hiện hành quy định (Điều 413, 422 Bộ luật dân sự 2005), cách thức thực hiện hợp đồng được quy định cho các loại hợp đồng như sau:
Đối với hợp đồng đơn vụ, bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đúng như đã thỏa thuận, chỉ được thực hiện trước hoặc sau thời hạn nếu được bên có quyền đồng ý.
Đối với hợp đồng song vụ, khi các bên đã thỏa thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì mỗi bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn, không được hoãn thực hiện với lý do bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ đối với mình, trừ trường hợp có căn cứ được hoãn thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật hoặc không thể thực hiện được nghĩa vụ do lỗi của bên có quyền, trong trường hợp các bên trong hợp đồng song vụ không thỏa thuận bên nào thực hiện nghĩa vụ trước thì các bên phải đồng thời thực hiện nghĩa vụ đối với nhau, nếu nghĩa vụ không thể thực hiện đồng thời thì nghĩa vụ nào khi thực hiện mất nhiều thời gian hơn thì nghĩa vụ đó phải thực hiện trước.
Đối với hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba, khi thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba thì người thứ ba có quyền trực tiếp yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện đối với mình. Nếu các bên có tranh chấp về việc thực hiện hợp đồng thì người thứ ba không có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cho đến khi tranh chấp được giải quyết. Bên có quyền cũng có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba.
2.1.6 Về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong lĩnh vực thương mại.
Thứ nhất, khái niệm trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
Khi một hợp đồng được xác lập có hiệu lực pháp luật, các bên có nghĩa vụ phải thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận. Việc vi phạm các nghĩa vụ theo hợp đồng (không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ) sẽ dẫn đến bên vi phạm phải chịu những chế tài do pháp luật quy định. Về bản chất, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý, phát sinh trong lĩnh vực thương mại.
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng có những đặc điểm cơ bản nhất định, đó là: được áp dụng trên cơ sở hành vi vi phạm hợp đồng có hiệu lực pháp luật. Nội dung gắn liền với việc thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc trách nhiệm về tài sản, bên bị vi phạm áp dụng trên cơ sở pháp luật.
Chế định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng có nội dung chủ yếu là các quy định về căn cứ áp dụng trách nhiệm, các hình thức trách nhiệm và các trường hợp miễn trách nhiệm. Những quy định này có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ hợp đồng cũng như đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật về kinh doanh. Vai trò của chế định trách nhiệm hợp đồng thể hiện ở những khía cạnh cơ bản như sau:
Chế định trách nhiệm hợp đồng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hợp đồng. Khi tham gia quan hệ kinh doanh, các bên đều nhằm đạt được những lợi ích nhất định. Hành vi vi phạm hợp đồng luôn tiềm ẩn nguy cơ xâm hại lợi ích của bên bị vi phạm. Để bảo vệ lợi ích của bên bị vi phạm, chế định trách nhiệm hợp đồng cho phép bên bị vi phạm tự mình hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng các hình thức trách nhiệm (chế tài) đối với bên vi phạm (buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng). Bên cạnh đó, chế định trách nhiệm hợp đồng cũng bảo vệ quyền lợi của bên vi phạm. Với việc quy định rõ ràng các căn cứ, thủ tục áp dụng trách nhiệm, các trường hợp miễn trách nhiệm… Chế định trách nhiệm hợp đồng bảo đảm cho bên vi phạm chỉ phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do pháp luật quy định, bảo vệ bên vi phạm trước những hiện tượng tiêu cực trong xử lý vi phạm hợp đồng.
Chế định trách nhiệm hợp đồng ngăn ngừa và hạn chế vi phạm hợp đồng, nâng cao ý thức trách nhiệm của các chủ thể hợp đồng trong việc thực hiện hợp đồng. Chế định trách nhiệm hợp đồng chủ trương áp dụng các biện pháp chế tài đối với mọi hành vi vi phạm hợp đồng (trừ trường hợp được miễn trách nhiệm theo quy định của pháp luật hoặc bên vi phạm không yêu cầu áp dụng chế tài). Quy định về trách nhiệm hợp đồng do có tác động rất mạnh mẽ vào ý thức của các bên, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các bên trong việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, ngăn ngừa và hạn chế vi phạm hợp đồng xảy ra.
Thứ hai, căn cứ áp dụng trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong thương mại.
Với tính chất là một loại trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong thương mại được áp dụng khi có những căn cứ do pháp luật quy định. Với mỗi hình thức chế tài, căn cứ áp dụng có sự khác nhau nhất định, phụ thuộc vào tính chất và mục đích của hình thức chế tài đó. Theo quy định hiện hành, các hình thức chế tài được áp dụng đối với vi phạm hợp đồng trong kinh doanh được áp dụng khi có các căn cứ như sau:
- Có căn cứ hành vi vi phạm hợp đồng:
Hành vi vi phạm hợp đồng là căn cứ pháp lý để áp dụng đối với tất cả các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng. Hành vi vi phạm hợp đồng trong kinh doanh là xử sự của các chủ thể hợp đồng không phù hợp với các nghĩa vụ theo hợp đồng. Biểu hiện cụ thể của vi phạm hợp đồng trong thương mại là việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng. Trong quan hệ hợp đồng thương mại, các bên không chỉ phải thực hiện những nghĩa vụ thỏa thuận trong hợp đồng (được ghi vào hợp đồng) mà còn có thể phải thực hiện những nghĩa vụ theo quy định của pháp luật hiện hành. Vì thế, khi xem xét hành vi có vi phạm hợp đồng trong kinh doanh hay không, cần phải căn cứ vào hợp đồng và các quy định của pháp luật.
- Có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra:
Thiệt hại vật chất thực tế do vi phạm hợp đồng gây ra là căn cứ bắt buộc phải có khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại. Đối với các hình thức chế tài khác, thiệt hại thực tế có thể được coi là tình tiết để xác định mức độ nặng, nhẹ của chế tài áp dụng. Thiệt hại thực tế là những thiệt hại có thể tính được thành tiền mà bên bị vi phạm hợp đồng phải gánh chịu (hàng hóa mất mát, hư hỏng, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại…). Thiệt hại thực tế được chia làm hai loại là thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp. Thiệt hại trực tiếp là những thiệt hại đã xảy ra trên thực tế, có thể tính toán một cách dễ dàng và chính xác. Biểu hiện cụ thể của thiệt hại trực tiếp là tài sản bị mất mát, hư hỏng, chi phí để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra… Thiệt hại gián tiếp là những thiệt hại phải dựa trên sự suy đoán khoa học (trên cơ sở những chứng cứ, tài liệu) mới có thể xác định được. Biểu hiện cụ thể của thiệt hại gián tiếp là thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà bên có quyền lợi bị vi phạm phải chịu.
Về nguyên tắc, bên bị vi phạm chỉ được hồi thường (và bên vi phạm chỉ có nghĩa vụ phải bồi thường) những khoản thiệt hại trong phạm vi do pháp luật quy định. Đối với các hợp đồng nói chung, các khoản thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút. Đối với hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại, Luật thương mại năm 2005 quy định về các khoản thiệt hại do vi phạm hợp đồng bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Nếu bên vi phạm chậm thanh toán tiền, thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả do đó lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tài thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả (Điều 306 Luật thương mại 2005).
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế:
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế được xác định khi hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế có mối liên hệ nội tại, tất yếu. Hành vi vi phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Bên có hành vi vi phạm hợp đồng chỉ phải bồi thường thiệt hại khi thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi vi phạm hợp đồng. Trên thực tế, một hành vi vi phạm hợp đồng có thể xảy ra nhiều khoản thiệt hại và một khoản thiệt hại cũng có thể được sinh ra do nhiều hành vi vi phạm hợp đồng. Trong khi đó, các chủ thể hợp đồng, đặc biệt là các chủ thể kinh doanh có thể cùng lúc tham gia nhiều quan hệ hợp đồng khác nhau. Vì vậy, việc xác định chính xác mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế không phải bao giờ cũng dễ dàng. Sẽ rất dễ nhầm lẫn nếu chỉ dựa vào suy đoán chủ quan. Điều này đòi hỏi bên bị vi phạm khi đòi bồi thường thiệt hại (cũng như các cơ quan tài phán khi quyết định áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại đối với bên vi phạm) phải dựa trên những chứng cứ rõ ràng, xác thực và hợp pháp.
- Có lỗi của bên vi phạm:
Lỗi của bên vi phạm hợp đồng là căn cứ bắt buộc phải có để áp dụng đối với tất cả các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng. Trong khoa học pháp lý, lỗi được hiểu là trạng thái tâm lý và mức độ nhận thức của một người đối với hành vi của họ và hậu quả của hành vi đó. Vấn đề trạng thái tâm lý và nhận thức chỉ được đặt ra đối với các chủ thể là cá nhân. Trong khi bên vi phạm hợp đồng có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Vì vậy, khi xác định lỗi của chủ thể là tổ chức vi phạm hợp đồng để áp dụng trách nhiệm hợp đồng, phải căn cứ vào lỗi của người đại diện cho tổ chức đã giao kết và thực hiện hợp đồng. Trách nhiệm hợp đồng được áp dụng theo nguyên tắc lỗi suy đoán, theo đó mọi hành vi không thực hiện, thực hiện không đúng hợp đồng đều bị suy đoán là có lỗi. Bên bị vi phạm cũng như cơ quan tài phán không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bên vi phạm.
Thứ ba, các hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong lĩnh vực thương mại
- Buộc thực hiện đúng hợp đồng:
Đây là hình thức chế tài, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng trong thương mại phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của bên bị vi phạm. Căn cứ để áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là có hành vi vi phạm hợp đồng và có lỗi của bên vi phạm. Biểu hiện cụ thể của việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm thực hiện đúng các nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu phí tổn phát sinh. Trong những trường hợp bên bị vi phạm và bên vi phạm thỏa thuận gia hạn thực hiện nghĩa vụ hoặc thỏa thuận thay thế nghĩa vụ này bằng nghĩa vụ khác, không được coi là áp dụng chế tài buộc thực hiện theo đúng hợp đồng.
Theo Luật thương mại 2005 (Điều 297) khi áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có thể lựa chọn hoặc yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc lựa chọn các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo Luật thương mại 2005 được đặt ra khi có vi phạm các điều khoản về số lượng, chất lượng hàng hóa, yêu cầu kỹ thuật của công việc. Khi bên vi phạm giao hàng thiếu, cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm phải giao đủ hàng, cung cứng dịch vụ theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu bên vi phạm giao hàng kém chất lượng, cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm loại trừ khuyết tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm không thực hiện yêu cầu thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của người khác theo đúng loại hàng hóa, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải đền bù chênh lệch giá. Bên bị vi phạm cũng có thể tự sửa chữa khuyết tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ và yêu cầu bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý.
- Phạt hợp đồng trong thương mại
Hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng, theo đó bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm khoản tiền nhất định do pháp luật quy định hoặc do các bên thỏa thuận trên cơ sở pháp luật. Chế tài phạt hợp đồng có mục đích chủ yếu là trừng phạt, tác động vào ý thức của các chủ thể hợp đồng nhằm giáo dục ý thức tôn trọng hợp đồng, phòng ngừa vi phạm hợp đồng. Với mục đích như vậy, phạt hợp đồng được áp dụng một cách phổ biến đối với các vi phạm hợp đồng.
Theo Luật thương mại năm 2005, chế tài phạt chỉ được áp dụng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận về việc áp dụng chế tài này (Điều 300 Luật thương mại 2005). Mặt khác, để áp dụng hình thức chế tài phạt hợp đồng, cần có hai căn cứ đó là có hành vi vi phạm hợp đồng và có lỗi của bên vi phạm hợp đồng.
Mức tiền phạt vi phạm hợp đồng bị giới hạn bởi pháp luật. Theo luật thương mại 2005, mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm (Điều 302 Luật thương mại 2005).
- Bồi thường thiệt hại:
Khác với phạt vi phạm hợp đồng, bồi thường thiệt hại là hình thức chế tài được áp dụng nhằm khôi phục, bù đắp những lợi ích vật chất bị mất của bên vi phạm hợp đồng trong lĩnh vực thương mại. Với mục đích này, bồi thường thiệt hại chỉ được áp dụng khi có thiệt hại xảy ra, Theo luật thương mại năm 2005, để áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải có các căn cứ, đó là: có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế đã xảy ra, hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại đó, có lỗi của bên vi phạm (không thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm theo quy định của pháp luật - Điều 303 Bộ luật dân sự 2005). Về nguyên tắc, bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ những thiệt hại vật chất cho bên bị vi phạm. Tuy nhiên, như đã phân tích, các khoản thiệt hại đòi bồi thường phải nằm trong phạm vi được pháp luật ghi nhận.
Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng. Khi xảy ra vi phạm hợp đồng, bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất kể cả tổn thất đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra. Nếu bên yêu cầu bồi thường thiệt hại không áp dụng các biện pháp đó, bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được.
Khi áp dụng trách nhiệm bồi thường, cần lưu ý mối quan hệ giữa phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Với bản chất của hợp đồng, các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về các hình thức chế tài phù hợp với quy định của pháp luật. Các bên có quyền thỏa thuận về việc bên vi phạm chỉ phải nộp phạt tiền phạt vi phạm hợp đồng mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp tiền phạt vi phạm hợp đồng và vừa phải bồi thường thiệt hại. Theo Luật thương mại năm 2005, trong trường hợp các bên của hợp đồng trong thương mại không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại (Điều 307).
- Tạm ngưng, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng:
Tạm ngưng thực hiện hợp đồng trong thương mại là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng trong thương mại. Khi hợp đồng trong thương mại bị tạm ngưng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực.
Đình chỉ thực hiện hợp đồng trong thương mại là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng trong thương mại. Khi hợp đồng trong thương mại bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt hiệu lực từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng.
Hủy bỏ hợp đồng trong thương mại là sự kiện pháp lý mà hậu quả của nó làm cho nội dung hợp đồng bị hủy bỏ không có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Hủy bỏ hợp đồng có thể là hủy bỏ một phần hợp đồng hoặc toàn bộ hợp đồng. Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ toàn bộ việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng. Khi một hợp đồng trong thương mại bị hủy bỏ toàn bộ, hợp đồng được coi là không có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng về giải quyết tranh chấp. Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời. Trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền.
Điểm giống nhau giữa các hình thức chế tài tạm ngừng, đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng thể hiện ở các khía cạnh cơ bản sau:
Về căn cứ áp dụng: trừ trường hợp được miễn trách nhiệm hợp đồng, tạm ngừng, đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng với tính chất là các hình thức chế tài, được áp dụng khi có các điều kiện: Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng, đình chỉ hoặc hủy bỏ hợp đồng. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Như vậy, Luật thương mại năm 2005 giành quyền chủ động rất cao cho các bên (vì vậy đòi hỏi các bên khi giao kết hợp đồng phải hết sức thận trọng) trong việc thỏa thuận vấn đề áp dụng các chế tài này. Trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại, việc tạm ngừng, đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng có ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của các bên, đặc biệt là bên vi phạm hợp đồng. Vì vậy, về nguyên tắc chung, bên bị vi phạm không đương nhiên có quyền đơn phương tạm ngừng, đình chỉ hoặc hủy bỏ hợp đồng, trừ khi pháp luật có quy định khác. Ví dụ như bên mua hàng có quyền ngừng thanh toán tiền hàng trong các trường hợp được quy định tại Điều 51 Luật thương mại 2005. Bên bị vi phạm chỉ có quyền đơn phương tạm ngừng, đình chỉ hoặc hủy bỏ hợp đồng, nếu trong trường hợp đã có thỏa thuận vi phạm của bên kia là điều kiện để tạm ngừng, đình chỉ hoặc hủy bỏ hợp đồng. Mặt khác, để bảo đảm quyền lợi của bên vi phạm hợp đồng, Luật thương mại năm 2005 còn quy định hành vi vi phạm hợp đồng là căn cứ để tạm ngừng, đình chỉ hoặc hủy bỏ hợp đồng phải là những vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng (Khoản 13, Điều 3 Luật thương mại 2005).
Về nội dung áp dụng chế tài: khác với hình thức chế tài khác, tạm ngưng, đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng là các hình thức chế tài hợp đồng mà theo đó, bên bị vi phạm hợp đồng áp dụng chế tài bằng cách không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Việc áp dụng các hình thức chế tài tạm ngừng, đình chỉ hoặc hủy bỏ hợp đồng được xem như sự “tự vệ” của bên vi phạm trước hành vi vi phạm hợp đồng của bên kia. Khi bị áp dụng các chế tài này, sự bất lợi mà bên vi phạm phải gánh chịu cơ bản thể hiện ở chỗ, bên vi phạm không được áp ứng các quyền theo thỏa thuận trong hợp đồng, do bên bị vi phạm không phải thực hiện các nghĩa vụ tương xứng. Mặt khác, bên bị vi phạm khi áp dụng các chế tài này vẫn có quyền yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật [12].
Thứ tư, miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại
Miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong lĩnh vực thương mại là việc bên vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng trong thương mại không phải chịu các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng. Các bên trong hợp đồng trong thương mại có quyền thỏa thuận về giới hạn trách nhiệm và miễn trách nhiệm hợp đồng trong những trường hợp cụ thể do các bên dự liệu khi giao kết hợp đồng. Ngoài ra, việc miễn trách nhiệm hợp đồng còn được áp dụng theo các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Theo Luật thương mại 2005, Điều 294, ngoài các trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận, bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng còn được miễn trách nhiệm khi: Xảy ra sự kiện bất khả kháng, hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia. Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩn quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.
Sự kiện bất khả kháng để miễn trách nhiệm hợp đồng được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005. Theo khoản 1 Điều 161 Bộ luật dân sự năm 2005, sự kiện bất khả kháng để miễn trách nhiệm hợp đồng được quy định trong Bộ luật đân sự 2005. Theo đó, sự kiện bất khả kháng được định nghĩa là sự kiện xảy ra một cáh khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Từ quy định này cho thấy, một sự kiện được coi là bất khả kháng (với tính chất là căn cứ để miễn trách nhiệm hợp đồng) phải thỏa mãn các dấu hiệu cơ bản: Xảy ra sau khi các bên đã giao kết hợp đồng, có tính chất bất thường mà các bên không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết. Là nguyên nhân dẫn đến sự vi phạm hợp đồng. Với cách hiểu như vậy, trường hợp bất khả kháng có thể bao gồm: thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh, đình công, sự thay đổi chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đối với các hợp đồng không có thời hạn cố định về giao hàng hoặc hoàn thành dịch vụ, trong trường hợp bất khả kháng, các bên có thể thỏa thuận kéo dài hơn thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Nếu các bên không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một khoảng thời gian bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để khắc phục hậu qủa, nhưng không được kéo dài quá các thời hạn sau:
Năm tháng đối với hàng hóa, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thỏa thuận không quá 12 tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng.
Tám tháng đối với hàng hóa, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thỏa thuận trên 12 tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng.
Trường hợp kéo dài qúa các thời hạn trên, các bên có quyền từ chối thực hiện hợp đồng và không bên nào có quyền yêu cầu bên kia bồi thường thiệt hại.
Khi áp dụng quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm hợp đồng, việc chứng minh các trường hợp được miễn trách nhiệm thuộc nghĩa vụ của bên có hành vi vi phạm hợp đồng. Bên vi phạm nếu muốn được miễn trách nhiệm hợp đồng thì phải có đầy đủ chứng cứ để chúng minh các trường hợp miễn trách nhiệm hợp đồng theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, khi xảy ra trường hợp được miễn trách nhiệm hợp đồng, bên vi phạm hợp đồng còn phải thông báo ngay (bằng văn bản) cho bên kia về trường hợp được miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra. Nếu bên vi phạm không thông báo hoặc thông báo không kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại.
2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam
Trải qua ba giai đoạn phát triển, pháp luật về hợp đồng nói chung cũng như pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại nói riêng đều có những bước tiến vượt bậc. Tuy nhiên, trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, với yêu cầu tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế thế giới, pháp luật về hợp đồng trong hoạt động thương mại vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Các quy định về giao dịch, nghĩa vụ và hợp đồng trong Bộ luật dân sự tuy được xây dựng để thay thế cho chế định hợp đồng kinh tế nhưng những khía cạnh thương mại còn rất mờ nhạt, có lẽ mới chỉ phù hợp cho các giao dịch tài sản trong hoạt động dân sự thuần túy, chứ chưa bao quát tất cả các loại giao dịch phát sinh trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, chưa phản ánh được đặc thù, những yêu cầu riêng mà giao dịch trong hoạt động lĩnh vực thương mại đặt ra. Nhiều quy định về hợp đồng trong các luật chuyên ngành vẫn thiếu tính đồng nhất với Bộ luật dân sự và còn thể hiện khá đậm nét dấu ấn của quản lý hành chính. Một số quy định cụ thể của Bộ luật dân sự năm 2005, Luật thương mại năm 2005 và các văn bản khác vẫn còn nhiều bất cập, chưa bảo đảm hoàn toàn quyền tự do kinh doanh, tự do hợp đồng của các chủ thế. Chẳng hạn như: Bộ luật dân sự vẫn quy định nhiều loại hợp đồng phải được công chứng, chứng thực mới có giá trị. Luật thương mại năm 2005 quy định mức phạt tối đa là 8% là không tôn trọng quyền thỏa thuận tự nguyện của các bên.
Ngoài ra, Bộ luật dân sự năm 2005 còn chưa thể hiện tính hiện đại của chế định hợp đồng trong thế kỉ XXI, ví dụ như thiếu các quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng qua mạng Internet, đấu thầu, đấu giá trong mua sắm công, hợp đồng công cộng…
Sự phát triển sôi động của kinh tế thị trường luôn đòi hỏi việc điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại sao cho linh hoạt, uyển chuyển, phù hợp với thực tiễn. Mức độ can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ kinh tế, trong đó có quan hệ hợp đồng cũng phải được xác định ở mức độ nhất định sao cho vừa tôn trọng quyền tự do hợp đồng của các chủ thể, vừa đảm bảo vai trò quản lí kinh tế của Nhà nước, góp phần bảo vệ lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ hợp đồng, nhất là bên yếu thế hơn. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra yêu cầu hài hòa hóa hệ thống pháp luật của Việt nam với pháp luật của các nước và quốc tế, trong đó có pháp luật về hợp đồng. Bên cạnh đó, sự bùng nổ của công nghệ thông tin cũng đang tác động rất sâu sắc tới phương thức giao kết, thực hiện hợp đồng mang tính truyền thống và tạo ra những tiền đề quan trọng cho việc đơn giản hóa thủ tục giao kết, thực hiện hợp đồng mang tính truyền thống và tạo ra những tiền đề quan trọng cho việc đơn giản hóa thủ tục giao kết, thực hiện hợp đồng nhằm giảm chi phí về thời gian cũng như tiền bạc cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia quan hệ hợp đồng, nhất là bên yếu thế hơn. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra yêu cầu hài hòa hóa hệ thống pháp luật của Việt Nam với pháp luật của các nước và quốc tế, trong đó có pháp luật về hợp đồng. Bên cạnh đó, sự bùng nổ của công nghệ thông tin đang tác động rất sâu sắc tới phương thức giao kết, thực hiện hợp đồng mang tính truyền thống và tạo ra những tiền đề quan trọng cho việc đơn giản hóa thủ tục giao kết, thực hiện hợp đồng nhằm giảm chi phí về thời gian cũng như tiền bạc cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia giao kết hợp đồng. Xuất phát từ những yêu cầu đó mà dự án Luật sửa đổi, bổ sung của một số điều của Bộ luật dân sự năm 2005 (phần về sở hữu và hợp đồng) đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kì Khóa XII.
Ngoài ra, chế định hợp đồng nên được hoàn thiện để trở thành công cụ đảm bảo cho quyền tự do hợp đồng của các tổ chức, cá nhân, chứ không nên chỉ đơn thuần là công cụ quản lý xã hội của Nhà nước. Nguyên tắc tự do hợp đồng là nguyên tắc chủ đạo cần xuyên suốt hệ thống pháp luật về hợp đồng. Vì thế, cần xác định là pháp luật chỉ can thiệp tới các quan hệ hợp đồng trong trường hợp bảo vệ trật tự công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba (ngoài quan hệ hợp đồng), cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, nhất là bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng.
Trên cơ sở lập luận này, trong khóa luận tốt nghiệp của mình, em xin đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để tiếp tục hoàn thiện chế định hợp đồng trong hoạt động thương mại tại Việt Nam như sau:
Thứ nhất, Pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng trong lĩnh vực thương mại nói riêng cần tôn trọng và mở rộng hơn nữa quyền tự do hợp đồng. Quyền tự do hợp đồng phải được hiểu là thuộc tính quan trọng nhất của hợp đồng nói chung. Với chức năng của mình, pháp luật cần bảo đảm ở mức độ cao nhất quyền tự do hợp đồng của các chủ thể hợp đồng trong lĩnh vực thương mại. Việc hạn chế quyền này chỉ nên được phép trong những trường hợp cần thiết nhằm bảo vệ trật tự công cộng, quyền lợi của bên thứ ba và của bên yếu hơn trong quan hệ hợp đồng. Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật về hợp đồng, cần phải giảm tối đa số lượng các quy phạm pháp luật mang tính cấm đoán hoặc mệnh lệnh đồng thời khuyến khích gia tăng các quy phạm mang tính tùy nghi để định hướng hành vi cho các chủ thể tham gia hợp đồng. Cụ thể ví dụ như: bỏ quy định khống chế mức phạt vi phạm tối đa 8% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm trong Luật thương mại 2005, bỏ quy định về hình thức hợp đồng có thể là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng nếu được pháp luật quy định.
Thứ hai, Bộ luật dân sự năm 2005 cần được bổ sung các quy định về giao kết hợp đồng bằng những phương thức và theo các thủ tục đặc biệt như: đấu thầu, đấu giá, giao dịch điện tử, giao dịch trên các sàn giao dịch chứng khoán, sàn giao dịch hàng hóa… Ngoài ra, cũng cần bổ sung các quy định về hợp đồng công cộng, hợp đồng sơ bộ để phù hợp với yêu cầu thực tiễn xã hội đặt ra.
Thứ ba, Bộ luật dân sự năm 2005 cũng cần phải bổ sung thêm các quy định mang tính thương mại, thực hiện các hợp đồng phục vụ hoạt động kinh doanh, đặc biệt là những hợp đồng thuần túy thương mại nhưng chưa được quy định trong các văn bản pháp luật như: hợp đồng góp vốn kinh doanh… Ngoài ra, bên cạnh đó, cần bổ sung vào Bộ luật dân sự hành vi “vi phạm cơ bản” nghĩa vụ hợp đồng (đây là khái niệm mới chỉ được lần đầu tiên quy định tại luật thương mại 2005), coi đó là căn cứ để bên bị vi phạm đơn phương hủy bỏ, đình chỉ hợp đồng.
Thứ tư, việc xác định yếu tố lỗi và thiệt hại thực tế khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại cần phải được thiết lập cơ chế mới, theo đó nếu các bên kí kết hợp đồng đều là thương nhân thì nên quy định nguyên tắc lỗi là căn cứ xác định trách nhiệm hoặc để các bên tự quyết định vấn đề này trong họp đồng. Đồng thời phải coi những thiệt hại phát sinh do mất uy tín kinh doanh, mất khách hàng là các thiệt hại thực tế và bên vi phạm hợp đồng phải bồi thường.
Thứ năm, phải nhanh chóng sửa đổi, bổ sung thêm các quy định liên quan đến hợp đồng trong các văn bản pháp luật chuyên ngành như Bộ luật hàng hải Việt Nam, Luật hàng không dân dụng Việt Nam, Luật giao thông thủy nội địa, Luật thương mại, Luật xây dựng, Luật đấu thầu, Luật sở hữu trí tuệ… Điều này sẽ giúp đảm bảo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về hợp đồng đồng thời quy định rõ nguyên tắc áp dụng phối hợp các văn bản pháp luật đó với Bộ luật dân sự trong việc điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong từng lĩnh vực kinh tế cụ thể.
KẾT LUẬN
Pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại là một trong những chế định pháp lí xuất hiện sớm nhất trong hệ thống pháp luật. Hợp đồng thương mại là sự khái quát một cách toàn diện các hình thức giao lưu kinh tế, kinh doanh, thương mại phong phú của con người và là một trong những phương thức hữu hiệu để các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật thương mại thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Từ những năm đầu thời kì đổi mới, một loạt các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng đã ra đời như PLHĐKT năm 1989, Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 và trong hai pháp lệnh về chuyển giao công nghệ và sở hữu trí tuệ cũng có phần quy định về hợp đồng. Đến khi Bộ luật dân sự năm 1995 ra đời và sau đó được sửa đổi, bổ sung tại Bộ luật dân sự năm 2005 và Bộ luật thương mại năm 2005 có hiệu lực ngày 01/01/2006 thì vấn đề pháp lí hợp đồng trong lĩnh vực thương mại đã được xem xét một cách đầy đủ. Bộ luật dân sự năm 2005 và Bộ luật thương mại năm 2005 đã tạo một hành lang pháp lý quan trọng cho giao lưu thương mại, thể hiện một bước tiến cao hơn trong tư duy lập pháp, hành pháp và tư pháp của những nhà làm luật. Các nhà lập pháp Việt Nam đã có sự tiếp thu, học hỏi những quy định pháp luật từ thực tiễn cũng như luật pháp của các nước trên thế giới, cân nhắc chúng cùng với hoàn cảnh thực tế tại Việt Nam để đưa ra một văn bản có tính chất chuẩn mực pháp lí cao trong hệ thống pháp luật thương mại.
Hiện nay Việt Nam đang đẩy mạnh quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội. Hơn nữa, đã hơn 3 năm kể từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, đang trên đà hồi nhập nền kinh tế toàn cầu, quá trình hội nhập mở ra rất nhiều cơ hội nhưng cũng đầy thách thức. Chừng nào pháp luật nói chung và những quy định về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại nói riêng chưa trở thành công cụ cơ bản để điều chỉnh quan hệ kinh doanh thương mại thì chừng đó Việt Nam vẫn còn đứng ngoài sự phát triển chung của thế giới. Các tranh chấp về hợp đồng thương mại, nhất là hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài cũng ngày một tăng và mức độ phức tạp ngày càng cao đòi hỏi pháp luật điều chỉnh hợp đồng trong lĩnh vực thương mại phải hoàn thiện hơn để có thể áp dụng vào thực tiễn một cách triệt để, giúp bảo vệ những thương nhân, tổ chức và cá nhân Việt Nam khi họ tham gia vào các hoạt động thương mại.
Đó cũng chính là lí do khiến em thực sự mong muốn được lựa chọn thực hiện đề tài: “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam”. Hi vọng những tìm hiểu, phân tích và kiến nghị của em trong bản khóa luận sẽ nhận được những nhận xét, đánh giá và góp ý của các thày cô, để em tiếp tục hoàn thiện đề tài nghiên cứu cũng như vốn tri thức và hiểu biết của mình.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ luật dân sự 2005
[2] Luật thương mại 2005
[3] Giáo trình luật thương mại – Đại học luật Hà Nội 2009
[4] Đ.H Luật Hà Nội, Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế và phát triển bền vững, Nxb Công An Nhân Dân 2009 (tr 509 – 524)
[5] Ts. Nguyễn Thị Dung (chủ biên), Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư, Nxb Chính trị quốc gia 2009
[6] V.I.Lênin toàn tập, tập 36, Nxb. Sự thật, 1989
[7] B.и. Ленин. Поли. Собр. Соч., т. 43, стр. 210 (bản tiếng Nga)
[8] Thống nhất pháp luật hợp đồng ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội 2005, tr37
[9] Hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh thương mại hiện nay được quy định trong các danh mục ban hành kèm theo Nghị định số 56/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006
[10]
[11]
[12] www.mof.gov.vn/Modules/Doc_Download.aspx?DocID=13839
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………............Trang 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI.........................................................3
1.1. Bản chất pháp lý của hợp đồng và hợp đồng trong lĩnh vực thương mại……………………………………………………………………….......3
1.2. Phân loại hợp đồng trong lĩnh vực thương mại…………………............5
1.3. Lược sử hình thành và phát triển của chế định pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam……………………………….........7
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989…………..................................8
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến hết năm 2005…………………………...11
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2006 đến nay……………………………………...16
1.4. Nguồn luật điều chỉnh đối với hợp đồng trong lĩnh vực thương mại….17
1.4.1. Văn bản pháp luật…………………………………………………....17
1.4.2. Điều ước quốc tế…………………………………………………….18
1.4.3. Tập quán thương mại………………………………………………..20
CHƯƠNG 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HỢP ĐỒNG TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ………………………………………....................23
2.1. Nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam………………………………………………23
2.1.1.Về nội dung của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại……………....23
2.1.2.Về giao kết hợp đồng trong lĩnh vực thương mại…………………....24
2.1.3.Về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại….27
2.1.4.Về hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu trong lĩnh vực thương mại………………………………………………………………………….29
2.1.5. Về thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực thương mại………………….38
2.1.6. Về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong lĩnh vực thương mại…..39
2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam…………………………………………………...48
KẾT LUẬN .................................................................................................52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………...54
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam.doc