Một số vấn đề về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự là một nguyên tắc hiến định, được quy định tại Điều 132 Hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được ghi nhận tại Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”. Mục đích của quy định này nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can và bị cáo trong tố tụng hình sự. Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa bằng việc đưa ra các chứng cứ và yêu cầu đối với các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Theo quy định của Điều 56 BLTTHS, người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể là luật sư, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bào chữa viên nhân dân. Không chỉ ghi nhận quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, Điều 11 BLTTHS còn quy định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng là phải bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình theo quy định của BLTTHS. Thực tiễn tố tụng hình sự Việt Nam những năm qua cho thấy, mặc dù quyền bào chữa của người bị buộc tội được ghi nhận trong Hiến pháp và BLTTHS, song trên thực tế, trong nhiều vụ án hình sự, quyền cơ bản này của người bị buộc tội, đặc biệt là quyền được nhờ người khác bào chữa không được đảm bảo thực hiện. Theo bà Tạ Thị Minh Lý, Cục trưởng cục Trợ giúp pháp lý (Bộ Tư pháp), hơn 70% phiên toà (bao gồm cả phiên toà hình sự, dân sự, kinh tế ) không có luật sư tham gia.[1] Riêng đối với các vụ án hình sự, theo báo cáo của Bộ Tư pháp, số vụ án có người bào chữa tham gia chiếm khoảng “hơn 10% so với tổng vụ án mà các Toà án đã xét xử”.[2] Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, theo bà Tạ Thị Minh Lý là do “số vụ án nhiều, trong khi đó số luật sư hành nghề thì ít, đối tượng phải ra toà thường nghèo hoặc chưa tin cậy luật sư”.[3] Theo quan sát của chúng tôi, ngoài những nguyên nhân kể trên còn phải kể đến các nguyên nhân khác như: trình độ hiểu biết pháp luật của người dân nói chung còn thấp, trong nhiều vụ án hình sự, bị can, bị cáo không biết mình có quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình; các quy định của pháp luật về vấn đề này còn có những bất cập; và ý thức của những người tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa cao. Trong bài viết này chúng tôi xin đề cập đến một số vấn đề về đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo trong các giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Cụ thể là đảm bảo sự tham gia tố tụng của người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và việc đảm bảo thực hiện các quyền năng tố tụng của người bào chữa tại phiên toà. 1. Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được xác định từ thời điểm Toà án thụ lý hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển sang. Giai đoạn này được chia thành hai bước: chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên toà. Tuy BLTTHS không có quy định cụ thể về việc thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nhưng theo tinh thần Khoản 2, Điều 58 BLTTHS, có thể hiểu người bào chữa đương nhiên có quyền tham gia tố tụng trong suốt giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Theo quy định tại điểm g, khoản 2 Điều luật này, kể từ thời điểm việc điều tra kết thúc, người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa. Các cơ quan tiến hành tố tụng (bao gồm Viện kiểm sát – ở giai đoạn truy tố và Toà án – ở giai đoạn xét xử) có trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện quyền năng này của mình. Tuy nhiên, thực tiễn những năm qua cho thấy, trong nhiều trường hợp cán bộ Toà án không tạo điều kiện cho người bào chữa tiếp xúc hồ sơ khi vụ án đang trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Lý do họ đưa ra có thể là người quản lý hồ sơ bận việc hoặc đi vắng hoặc chưa được sự đồng ý của lãnh đạo.

doc6 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3762 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ NCS. Nguyễn Ngọc Khanh Trường Đại học Luật Hà Nội 1. Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự là một nguyên tắc hiến định, được quy định tại Điều 132 Hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được ghi nhận tại Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”. Mục đích của quy định này nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can và bị cáo trong tố tụng hình sự. Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa bằng việc đưa ra các chứng cứ và yêu cầu đối với các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Theo quy định của Điều 56 BLTTHS, người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể là luật sư, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bào chữa viên nhân dân. Không chỉ ghi nhận quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, Điều 11 BLTTHS còn quy định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng là phải bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình theo quy định của BLTTHS. Thực tiễn tố tụng hình sự Việt Nam những năm qua cho thấy, mặc dù quyền bào chữa của người bị buộc tội được ghi nhận trong Hiến pháp và BLTTHS, song trên thực tế, trong nhiều vụ án hình sự, quyền cơ bản này của người bị buộc tội, đặc biệt là quyền được nhờ người khác bào chữa không được đảm bảo thực hiện. Theo bà Tạ Thị Minh Lý, Cục trưởng cục Trợ giúp pháp lý (Bộ Tư pháp), hơn 70% phiên toà (bao gồm cả phiên toà hình sự, dân sự, kinh tế…) không có luật sư tham gia.[1] Riêng đối với các vụ án hình sự, theo báo cáo của Bộ Tư pháp, số vụ án có người bào chữa tham gia chiếm khoảng “hơn 10% so với tổng vụ án mà các Toà án đã xét xử”.[2] Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, theo bà Tạ Thị Minh Lý là do “số vụ án nhiều, trong khi đó số luật sư hành nghề thì ít, đối tượng phải ra toà thường nghèo hoặc chưa tin cậy luật sư”.[3] Theo quan sát của chúng tôi, ngoài những nguyên nhân kể trên còn phải kể đến các nguyên nhân khác như: trình độ hiểu biết pháp luật của người dân nói chung còn thấp, trong nhiều vụ án hình sự, bị can, bị cáo không biết mình có quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình; các quy định của pháp luật về vấn đề này còn có những bất cập; và ý thức của những người tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa cao. Trong bài viết này chúng tôi xin đề cập đến một số vấn đề về đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo trong các giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Cụ thể là đảm bảo sự tham gia tố tụng của người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và việc đảm bảo thực hiện các quyền năng tố tụng của người bào chữa tại phiên toà. 1. Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được xác định từ thời điểm Toà án thụ lý hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển sang. Giai đoạn này được chia thành hai bước: chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên toà. Tuy BLTTHS không có quy định cụ thể về việc thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nhưng theo tinh thần Khoản 2, Điều 58 BLTTHS, có thể hiểu người bào chữa đương nhiên có quyền tham gia tố tụng trong suốt giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Theo quy định tại điểm g, khoản 2 Điều luật này, kể từ thời điểm việc điều tra kết thúc, người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa. Các cơ quan tiến hành tố tụng (bao gồm Viện kiểm sát – ở giai đoạn truy tố và Toà án – ở giai đoạn xét xử) có trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện quyền năng này của mình. Tuy nhiên, thực tiễn những năm qua cho thấy, trong nhiều trường hợp cán bộ Toà án không tạo điều kiện cho người bào chữa tiếp xúc hồ sơ khi vụ án đang trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Lý do họ đưa ra có thể là người quản lý hồ sơ bận việc hoặc đi vắng hoặc chưa được sự đồng ý của lãnh đạo. Người bào chữa cũng có thể gặp rắc rối về thủ tục xin cấp giấy chứng nhận là người bào chữa trong vụ án hình sự. Theo tinh thần khoản 4 Điều 56 BLTTHS, muốn trở thành người bào chữa trong vụ án hình sự, người bào chữa phải gửi tới cơ quan tiến hành tố tụng “đề nghị kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa”. Đối với luật sư, “giấy tờ liên quan đến việc bào chữa” được hiểu là thẻ luật sư và quyết định của cơ sở hành nghề luật sư phân công luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa. Tuy nhiên, khi luật sư nộp cho Toà án các “văn bản liên quan” trên, trong nhiều trường hợp luật sư vẫn bị cán bộ Toà án gây khó dễ, đặc biệt là từ khi có “quyết định miệng” của Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao Đặng Quang Phương tại một Hội nghị tập huấn BLTTHS được tổ chức năm 2004. Trong bài phát biểu của mình, ông Đặng Quang Phương chỉ đạo: “Để được cấp giấy chứng nhận người bào chữa, ngoài việc có thẻ luật sư, văn bản phân công của văn phòng luật sư, các luật sư cần phải trình thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa luật sư với khách hàng”.[4] Chỉ đạo này ngay lập tức được nhiều toà án địa phương “quán triệt”, gây phiền toái cho luật sư khi họ muốn tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa trong vụ án hình sự bởi thông thường, hợp đồng dịch vụ pháp lý được ký kết giữa khách hàng và cơ sở hành nghề luật sư chứ không ký trực tiếp với luật sư. Cơ sở hành nghề luật sư sẽ căn cứ vào hợp đồng dịch vụ pháp lý đó và yêu cầu của khách hàng cũng như khả năng của luật sư thành viên để phân công luật sư tham gia tố tụng. Khi luật sư xin giấy chứng nhận người bào chữa, luật sư chỉ cần nộp cho Toà án văn bản phân công của cơ sở hành nghề luật sư chứ họ không cần “trình” cho Toà án hợp đồng dịch vụ pháp lý ký kết với khách hàng nhân danh cơ sở hành nghề luật sư. Việc các toà án yêu cầu luật sư “trình” hợp đồng dịch vụ pháp lý khi xin chứng nhận người bào chữa gây bất bình trong giới luật sư. Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh đã có văn bản kiến nghị số 63/ĐLS gửi Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ, Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội, các cơ quan Toà án, Viện kiểm sát tối cao… cho rằng “các cơ quan tố tụng hiểu chưa rõ về hợp đồng dịch vụ pháp lý, bởi hợp đồng dịch vụ pháp lý chỉ là một hợp đồng dân sự được giao kết giữa khách hàng và văn phòng luật sư, nó không nằm trong quy định tố tụng hình sự hoặc dân sự, do đó các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng không có quyền yêu cầu luật sư xuất trình hợp đồng này”.[5] Đoàn luật sư TPHCM kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét chỉ đạo và áp dụng thống nhất trong cả nước: khi tham gia tố tụng, luật sư chỉ cần xuất trình giấy giới thiệu của văn phòng luật sư và thẻ luật sư. Trên thực tế, một số cơ sở hành nghề luật sư gần đây đưa ra “phiếu yêu cầu luật sư” hoặc “giấy mời luật sư”. Khi khách hàng ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với cơ sở hành nghề luật sư, họ cũng đồng thời được yêu cầu điền thông tin vào phiếu yêu cầu luật sư hoặc giấy mời luật sư để tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia tố tụng. Chúng tôi cho rằng, các cơ quan chức năng cần phải có hướng dẫn thống nhất về vấn đề này. Để tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia tố tụng, theo chúng tôi, chỉ cần yêu cầu luật sư xuất trình thẻ luật sư và quyết định phân công tham gia tố tụng của cơ sở hành nghề luật sư. Đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân, theo quy định tại khoản 1 Điều 49 Luật Luật sư 2006, họ không có con dấu, cũng không thuộc sự quản lý của cơ sở hành nghề luật sư nào thì hợp đồng dịch vụ pháp lý có chữ ký của luật sư và khách hàng và thẻ luật sư được coi là những văn bản cần thiết để các cơ quan tiến hành tố tụng dựa vào đó cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Vấn đề thứ hai chúng tôi xin đề xuất liên quan đến sự tham gia của người bào chữa trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đó là khi người bào chữa đã được cấp giấy chứng nhận người bào chữa, cán bộ Toà án cần phải hết sức tạo điều kiện cho người bào chữa được tiếp xúc hồ sơ vụ án, không thể nại những lý do “vô thưởng vô phạt” để ngăn cản người bào chữa thực hiện nhiệm vụ của mình như phần trên đã đề cập. Không riêng gì trong những vụ án hình sự, trong các vụ án dân sự, khi luật sư muốn tiếp xúc hồ sơ trong quá trình chuẩn bị xét xử, trong nhiều trường hợp họ cũng bị cán bộ toà án “hành”. Ví dụ như trong vụ luật sư T. tham gia bảo vệ quyền lợi của một bên trong vụ tranh chấp tại TAND thị xã B đầu năm 2007. Trong khi vụ án đang trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, vị luật sư đề nghị Toà cho phép được sao chụp hồ sơ, thẩm phán nói với luật sư “muốn chụp hồ sơ thì tự mang máy photo đến chụp chứ toà không làm thay việc cho luật sư”. Vị luật sư này về nhà mang máy photo đến toà nhưng lại bị vị thẩm phán bắt bẻ “không được sử dụng điện của toà”. Lần sau đến toà, vị luật sư đành phải mang theo chiếc máy ảnh kỹ thuật số để sao chụp hồ sơ.[6] Theo chúng tôi, ngành toà án cần phải có những hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa (trong tố tụng hình sự) và người bảo vệ quyền lợi của đương sự (trong tố tụng dân sự) thực hiện nhiệm vụ của mình trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Một vấn đề khác liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ của người bào chữa trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đó là việc tiếp xúc với bị cáo đang bị tạm giam. Điểm e, khoản 2 Điều 58 BLTTHS quy định người bào chữa có quyền “gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam”. Đây là một quyền năng tố tụng của người bào chữa để họ thực hiện nhiệm vụ của mình. Ban giám thị trại tạm giam có trách nhiệm tạo điều kiện cho luật sư thực hiện quyền năng này của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, khi người bào chữa muốn gặp bị cáo đang bị tạm giam, đôi khi họ gặp phải những khó khăn gây ra bởi cán bộ trại tạm giam như không bố trí địa điểm gặp hoặc hạn chế thời gian gặp. Đây cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của người bào chữa trong tố tụng hình sự. Chúng tôi cho rằng ngành Công an cần có văn bản chỉ đạo cán bộ trong ngành nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ của mình đúng pháp luật, đảm bảo quyền của người bị tạm giam và tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. 1. Theo quy định của Điều 190 BLTTHS, người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Trong trường hợp không thể có mặt tại phiên toà, người bào chữa có thể gửi trước bản bào chữa cho Toà án. Nếu người bào chữa vắng mặt Toà án vẫn mở phiên toà. Trong trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS mà người bào chữa vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà. Tại phiên toà, người bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng việc tham gia xét hỏi và tranh luận với Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng khác. Có thể nói tại phiên toà, vai trò của người bào chữa thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết. Bởi vậy, người bào chữa thường tận dụng tối đa cơ hội để được đặt câu hỏi với bị cáo và những người tham gia tố tụng khác và tham gia tranh luận nhằm làm sáng tỏ các tình tiết có lợi cho bị cáo. Tuy nhiên, trên thực tế, khi tham gia phiên toà, không phải lúc nào người bào chữa cũng được tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện chức năng của mình. Họ thường vấp phải những cản trở từ phía người tiến hành tố tụng, đặc biệt là thẩm phán chủ toạ phiên toà. 3.1. Trong thủ tục xét hỏi. Khoản 2 Điều 207 BLTTHS quy định về trình tự xét hỏi như sau: “Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định”. Theo quy định tại khoản 2 Điều 207 BLTTHS, khi xét hỏi, người có quyền đặt câu hỏi đầu tiên là Thẩm phán, sau đó đến Hội thẩm, rồi đến Kiểm sát viên. Chỉ sau khi những người tiến hành tố tụng kết thúc việc xét hỏi thì người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của đương sự mới có quyền đặt câu hỏi. Trên thực tế, các câu hỏi đối với người bị xét hỏi đại đa số được đặt ra bởi Thẩm phán, Hội thẩm và Kiểm sát viên. Khi những người này tiến hành xét hỏi, thông thường chủ toạ phiên toà không khống chế về mặt thời gian nhưng khi người bào chữa đặt câu hỏi với người bị xét hỏi, họ thường bị chủ toạ phiên toà ngắt lời và hạn chế thời gian hỏi.[7] Một câu hỏi đặt ra ở đây là: vai trò của Thẩm phán (và cả Hội thẩm) trong thủ tục xét hỏi nói riêng, tại phiên toà nói chung là gì? Họ là những người “trọng tài” đứng ra phân xử giữa bên buộc tội và bên gỡ tội hay họ là những người xét hỏi? Những người ủng hộ hệ thống tố tụng xét hỏi có thể biện hộ rằng, tại phiên toà, Thẩm phán đóng vai trò là trọng tài nhưng việc họ có quyền xét hỏi không mâu thuẫn với việc họ thực hiện vai trò của người trọng tài. Không những thế, việc xét hỏi còn có thể giúp họ đưa ra được quyết định đúng đắn về việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, quy định này chưa thực sự hợp lý. Theo chúng tôi, thủ tục xét hỏi tại phiên toà cần có sự cải tiến.[8] Gần đây, trong khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam, một số tác giả đã đề xuất sửa đổi các quy định của BLTTHS về thủ tục xét xử theo hướng quy định chủ thể của việc xét hỏi chỉ là Kiểm sát viên và người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự.[9] Thẩm phán và hội thẩm không tham gia xét hỏi mà chỉ đặt câu hỏi khi thấy cần thiết làm sáng tỏ các câu trả lời của người bị xét hỏi. Chúng tôi đồng ý với đề xuất này. Cụ thể, chúng tôi kiến nghị sửa đổi trình tự xét hỏi tại phiên toà (khoản 2 Điều 207) theo hướng quy định khi xét hỏi Kiểm sát viên hỏi trước rồi đến người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Thẩm phán và Hội thẩm chỉ đặt câu hỏi khi thấy cần làm rõ các tình tiết trong lời khai của người bị xét hỏi. 3.2. Trong thủ tục tranh luận. Có thể nói, vai trò của người bào chữa trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo tại phiên toà được thể hiện tập trung nhất trong thủ tục tranh luận tại phiên toà. Theo quy định tại Điều 217 BLTTHS, sau khi Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, nếu bị cáo có người bào chữa thì người bào chữa trình bày bản bào chữa của mình cho bị cáo. Bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa. Theo quy định của Điều 218 BLTTHS, người bào chữa có quyền trình bày ý kiến của mình về bản luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình. Họ có quyền đáp lại ý kiến của Kiểm sát viên và của những người tham gia tranh luận khác. Khi Kiểm sát viên, người bào chữa và những người tham gia tranh luận khác tranh luận, chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện để người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án. Để đảm bảo việc tranh luận tại phiên toà, Điều 218 BLTTHS quy định chủ toạ phiên toà có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận. Thực tiễn tố tụng hình sự Việt Nam những năm qua cho thấy, kể từ khi Nghị Quyết 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2001 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020” được ban hành, thủ tục tranh tụng tại phiên toà hình sự được coi trọng hơn rất nhiều so với trước đây và người bào chữa được tạo điều kiện tốt hơn để tham gia tranh tụng với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy, việc áp dụng các quy định của BLTTHS về thủ tục tranh tụng tại phiên toà còn tồn tại một số bất cập. Cụ thể là: Thứ nhất, khi người bào chữa trình bày bản bào chữa của mình, họ có thể bị chủ toạ phiên toà hạn chế về mặt thời gian. Ví dụ, trong phiên xử Bùi Tiến Dũng ngày 3 tháng 8 năm 2007, chủ toạ phiên toà hạn chế mỗi người bào chữa chỉ được nói trong 10 phút. Luật sư Phạm Hồng Hải đứng dậy phát biểu: “Theo quy định, chủ toạ không được hạn chế thời gian tranh luận của các luật sư. Còn nếu tình trạng này tiếp tục, chúng tôi sẽ không tham dự tiếp”.[10] Thứ hai, có những trường hợp, khi người bào chữa trình bày, hội đồng xét xử tạo điều kiện cho họ trình bày nhưng sau đó tuyên bố “không chấp nhận ý kiến của người bào chữa” mà không nêu lý do không chấp nhận. Theo kết quả khảo sát năm 2006,[11] kể từ khi Nghị quyết 08/NQ-TW được ban hành, tình trạng này không còn nhiều song thỉnh thoảng vẫn xảy ra trong thực tế. Thứ ba, khi người bào chữa đưa ra vấn đề yêu cầu tranh luận với Kiểm sát viên, trong nhiều trường hợp, Kiểm sát viên không đáp lại ý kiến của người bào chữa và chủ toạ phiên toà cũng không yêu cầu Kiểm sát viên đối đáp với người bào chữa.[12] Theo quy định tại Điều 218 BLTTHS, chủ toạ phiên toà có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại ý kiến của người bào chữa nếu ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận. Tuy nhiên, vì đây là quyền của chủ toạ phiên toà nên chủ toạ phiên toà có thể thực hiện, có thể không. Theo chúng tôi luật nên quy định đây vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của chủ toạ phiên toà, có nghĩa là khi người bào chữa hoặc người tham gia tranh luận khác đưa ra vấn đề yêu cầu tranh luận với Kiểm sát viên, nếu vấn đề đó chưa được tranh luận mà Kiểm sát viên không tự nguyện tham gia tranh luận, chủ toạ phiên toà phải yêu cầu Kiểm sát viên đáp lại ý kiến của người bào chữa hoặc người tham gia tranh luận khác. Có như vậy mới đảm bảo việc tranh luận công khai tại phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp. Để nâng cao hiệu quả xét xử nói chung, hiệu quả của thủ tục tranh tụng tại phiên toà nói riêng, chúng tôi kiến nghị: Điều 218 cần sửa đổi theo hướng quy định khi người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đưa ra các tình tiết yêu cầu Kiểm sát viên tranh luận, Kiểm sát viên có nghĩa vụ phải đáp lại ý kiến đó nếu những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận và giao trách nhiệm cho chủ toạ phiên toà phải đảm bảo việc đối đáp giữa Kiểm sát viên và người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. 4. Có thể nói rằng, thời gian gần đây, kể từ khi Nghị Quyết 08 của Bộ chính trị được ban hành năm 2001, vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự nói chung, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự nói riêng dần dần được đánh giá cao hơn. Người bào chữa được tạo điều kiện tốt hơn để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Trong giai đoạn xét xử, nhất là trong những vụ án điểm được tiến hành theo tinh thần cải cách tư pháp, tiếng nói của người bào chữa dường như có trọng lượng hơn trước đây rất nhiều. Đó là một trong những thắng lợi của Nghị quyết 08. Tuy nhiên, thực tiễn tố tụng hình sự những năm qua cũng cho thấy, trong nhiều vụ án, khi tham gia thủ tục tố tụng tại phiên toà, người bào chữa vẫn gặp phải những trở ngại nhất định. Tình trạng đó xảy ra do nhiều nguyên nhân như các quy định về thủ tục xét hỏi chưa hợp lý, quy định về trách nhiệm của chủ toạ phiên toà trong thủ tục tranh luận chưa chặt chẽ. Và trên hết là ý thức của thẩm phán trong việc tạo điều kiện cho người bào chữa được tham gia các thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử. Chúng tôi đề xuất các cơ quan có thẩm quyền cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa tham gia tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và sửa đổi một số quy định của BLTTHS về thủ tục xét hỏi (Điều 207) và tranh luận tại phiên toà (Điều 2008) nhằm đề cao hơn nữa vai trò của người bào chữa tại phiên toà và tạo điều kiện cho họ thực hiện chức năng cao cả của mình là bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số vấn đề về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.doc