Lời mở đầu 1
Nội dung 1
I – Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 1
1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng .1
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 2
3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại .3
4. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân 4
II – Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 5
1. Cơ sở pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra .5
2. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ .5
3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 7
4. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra. 7
5. Xác định thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 10
6. Xác định chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra .12
7. Những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định
của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 14
8. Một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra .17
Kết luận .19
Danh mục tài liệu tham khảo .20
21 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4179 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài 26: Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
MỤC LỤC
Lời mở đầu …………………………………………………………………………………1
Nội dung ……………………………………………………………………………………1
I – Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng……………..1
Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng…………………….1
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng…………..2
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại…………………………………………………….3
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân……………………………....4
II – Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra……………..5
Cơ sở pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra…………………………………………………………………...5
Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ………………………………………………...5
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra …………..7
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra. ……………………………………………………………7
Xác định thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra……………………………10
Xác định chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra…………………………………………………….12
Những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định
của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra………14
Một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra……………………………………….17
Kết luận …………………………………………………………………………………….19
Danh mục tài liệu tham khảo……………………………………………………………...20
Lời mở đầu
Trong điều kiện khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, con người đã tạo ra nhiều loại sản phẩm nhằm đáp ứng những nhu cầu, lợi ích của mình. Tuy nhiên có những sự vật bản thân hoạt động của nó luôn tiềm ẩn các nguy cơ, rủi ro nhất định cho môi trường xung quanh, con người dù có ý thức phòng ngừa đến mấy cũng không hoàn toàn kiểm soát được. Xuất phát từ lý do này, dưới góc độ khoa học pháp lý, nguồn nguy hiểm cao độ đã được biết đến với nhận định là sự tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại. Trên cơ sở đánh giá sự tiềm ẩn nguy cơ này với sự nhận định mối liên quan giữa hành vi của con người với thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, pháp luật dân sự đã đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một loại “trách nhiệm dân sự nâng cao” nó phát sinh ngay cả khi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp không có lỗi. Vậy nguồn nguy hiểm cao độ là gì? Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm gây ra được xác định như thế nào. Tất cả những vấn đề trên sẽ được làm rõ trong phạm vi đề tài “Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra”.
Nội dung
I – Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) ngoài hợp đồng.
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được quy định tại Điều 307 BLDS về trách nhiệm BTTH nói chung và chương XXI về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, trong cả hai phần này đều không nêu rõ khái niệm trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng mà chỉ nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm…Qua việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng có thể hiểu “Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý được phát sinh dựa trên các điều kiện do pháp luật quy định khi một chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ”. Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập 2, Lê Đình Nghị (chủ biên), Nxb. Giáo dục, Tr. 191
Cần phân biệt trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng với trách nhiệm BTTH theo hợp đồng: Trách nhiệm BTTH theo hợp đồng bao giờ cũng được phát sinh dựa trên cơ sở một hợp đồng có trước khi một bên chủ thể của hợp đồng có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra. Còn trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành vi vi phạm trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 604 BLDS 2005 thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi thỏa mãn các điều kiện sau đây:
a/ Có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại xảy ra là tiền đề của trách nhiệm BTTH bởi mục đích của trách nhiệm BTTH là nhằm bù đắp, khắc phục những tổn thất đã xảy ra cho người bị thiệt hại, do đó nếu không có thiệt hại thì cũng không phát sinh trách nhiệm bồi thường.
Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức. Như vậy thiệt hại được xác định bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Khi xác định thiệt hại làm căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cần lưu ý:
Thiệt hại phải được tính toán một cách cụ thể, chi tiết.
Thiệt hại phải được đánh giá một cách khách quan, không được suy diễn chủ quan.
Thiệt hại có thể bao gồm thiệt hại trực tiếp nhưng cũng có thể có thiệt hại gián tiếp.
b/ Có hành vi trái pháp luật.
Hành vi trái pháp luật gây thiệt hại để phát sinh trách nhiệm BTTH được hiểu là những hành vi mà pháp luật cấm, không cho phép thực hiện. Khi một người thực hiện hành vi trái pháp luật xâm phạm tới các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ thì người xâm phạm phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi của mình gây ra. Như vậy, đối với những hành vi được pháp luật cho phép gây thiệt hại thì người thực hiện hành vi đó không phải chịu trách nhiệm bồi thường.
c/ Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
Đối với trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng thì hành vi trái pháp luật được coi là nguyên nhân và thiệt hại được coi là hậu quả. Như vậy hành vi trái pháp luật phải có trước và thiệt hại có sau. Xác định mối quan hệ nhân quả trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại rất phức tạp do đó cần sự lưu ý đặc biệt tránh sự suy diễn chủ quan, phiến diện.
d/ Có lỗi của người gây thiệt hại.
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Khi xác định lỗi trong trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng cần lưu ý:
Về nguyên tắc, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi người gây thiệt hại có lỗi, bất kể là lỗi cố ý hay vô ý.
Việc xác định lỗi cố ý, vô ý trong trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng có ý nghĩa trong một số trường hợp: Để giảm mức bồi thường (khoản 2 Điêu 605 BLDS), là điều kiện cần thiết để xác định trách nhiệm bồi thường (khoản 2 Điều 615)…
Trong một số trường hợp, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh ngay cả khi người gây thiệt hại không có lỗi (khoản 3 Điều 623, Điều 624 BLDS).
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại.
Theo quy định tại Điều 605 BLDS 2005 thì việc BTTH phải tuân theo những nguyên tắc sau:
Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
.- Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân.
Theo quy định tại Điều 606 BLDS thì năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân được xác định:
Người từ đủ 18 tuổi mà gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
Người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại bằng tài sản của mình; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu
Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha,mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
Người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý thì các tổ chức này phải bồi thường thiệt hại. Nếu các tổ chức này chứng minh được mình không có lỗi thì cha mẹ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự phài bồi thường thiệt hại.
Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
II – Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Cơ sở pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có cơ sở pháp lý từ những quy định chung thuộc chương XXI về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, và được quy định chi tiết, cụ thể tại Điều 623 BLDS 2005 về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra còn được quy định tại mục III nghị quyết của hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao số 3/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về BTTH ngoài hợp đồng.
Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ.
Điều 623 BLDS quy định “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định”.
Như vậy Điều 623 BLDS cũng như nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP không đưa ra khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ mà chỉ liệt kê các đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Qua sự liệt kê các loại tài sản được coi là nguồn nguy hiểm cao độ trong BLDS cũng như các văn bản hướng dẫn, có thể đưa ra khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ như sau: “Nguồn nguy hiểm cao độ là những vật chất nhất định do pháp luật quy định luôn tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho con người, con người không thể kiểm soát được một các tuyệt đối” Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập 2, Lê Đình Nghị (chủ biên), Nxb. Giáo dục, Tr. 208
.
Theo quy định tại Điều 623 BLDS thì có các loại nguồn nguy hiểm cao độ sau đây:
Phương tiện giao thông vận tải cơ giới: Hiện nay chưa có khái niệm “phương tiện giao thông vận tải cơ giới” trong bất kỳ văn bản pháp luật nào. Theo Luật giao thông đường bộ thì “Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ôtô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xa gắn máy (kể cả xe đạp điện) và các loại xe tương tự”. Ngoài phương tiện giao thông cơ giới đường bộ còn có phương tiện giao thông cơ giới đường sắt, phương tiện giao thông cơ giới đường thủy và phương tiện giao thông cơ giới đường hàng không.
Hệ thống tải điện: được hiểu là dây truyền dẫn điện, mô tơ, máy phát điện, cầu dao…
Nhà máy công nghiệp bao gồm nhà máy công nghiệp nặng, nhà máy công nghiệp nhẹ…
Phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp chỉ được coi là nguồn nguy hiểm cao độ khi nó “đang hoạt động”. Tất cả các tài sản trên nếu đang trong trạng thái tĩnh thì không gây thiệt hại cho những người xung quanh.
Vũ khí là những vật dụng có thể dùng vào chiến đấu, bao gồm: vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn, công cụ hỗ trợ…
Chất cháy, chất nổ là chất lỏng, chất rắn, chất khí dễ dàng gây cháy nổ. Chất cháy có đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc với ôxy trong không khí, nước hoặc dưới tác động của những yếu tố khác ở nhiệt độ cao hoặc không cao (diêm, phốt pho, xăng dầu…). Chất nổ là những chất có khả năng gây nổ mạnh, nhanh tỏa nhiệt và ánh sáng (thuốc pháo, thuốc súng…)
Chất độc là nhưng chất có độc tính cao, rất nguy hiểm cho sức khỏe, tính mạng của con người, động vật, cũng như môi trường xung quanh.
Chất phóng xạ là chất ở thể rắn, lỏng hoặc khí có hoạt động phóng xạ riêng lớn hơn 70 KBO/Kg.
Thú dữ là động vật bậc cao, có lông mao, có tuyến vú, nuôi con bằng sữa, to lớn, rất dữ, có thể làm hại người ví dụ: hổ, báo, gấu, sư tử…
Điều 623 BLDS không đưa ra khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ mà chỉ chỉ liật kê nguồn nguy hiểm cao độ do đó điều luật cũng đề cập đến “nguồn nguy hiểm cao độ khác” do pháp luật quy định. Đây là quy định mang tính “mở”, nếu có văn bản pháp luật khác quy định bổ sung về nguồn nguy hiểm cao độ thì nguồn nguy hiểm cao độ còn được xác định theo văn bản này.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một loại trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Theo đó, chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác, phải bồi thường thiệt hại kể cả trong trường hợp chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi Theo T.S Phùng Trung Tập, Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe, tính mạng, NXB. Hà Nội, Hà Nội, 2009, Tr 259.
. Tuy nhiên đây là một trong những trường hợp đặc biệt của trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng :
Thứ nhất, BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trường hợp BTTH do tài sản gây ra. Tức là thiệt hại xảy ra có nguyên nhân chính được xuất phát từ tài sản mà không phải là hành vi của con người.
Thứ hai, với BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác, phải bồi thường thiệt hại kể cả trong trường hợp chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi.
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
a/ Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ.
Chúng ta chỉ có thể áp dụng trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khi thỏa mãn các dấu hiệu sau:
Thứ nhất, những sự vật chỉ được coi là nguồn nguy hiểm cao độ khi “đang hoạt động” – có sự vận hành của những loại tài sản này. Cụ thể: Đối với phương tiện giao thông vận tải cơ giới phải đang di chuyển hoặc không di chuyển nhưng thiết bị đang được vận hành; đối với hệ thống tải điện phải có dòng điện chạy qua; đối với nhà máy công nghiệp phải đang trong quá trình vận hành, sản xuất… Tất cả những loại tài sản trên nếu đang ở trong trạng thái tĩnh thì không gây thiệt hại cho những người xung quanh do đó nếu có thiệt hại xảy ra thì không thể xác định là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Thứ hai, thiệt hại phải do chính bản thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, hoàn toàn độc lập và nằm ngoài sự kiểm soát của con người ví dụ: xe ô tô đang vận hành bị mất phanh, nổ lốp… thú gây thiệt hại cho khán giả khi đang biểu diễn xiếc.... Những trường hợp thiệt hại liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhưng không phải do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mà do hành vi của con người gây ra thì trách nhiệm BTTH phát sinh thông thường ví dụ: lái xe phóng nhanh vượt ẩu gây tai nạn, say rượu bia điều khiển xe gây tai nạn…
Thứ ba, những thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải có tính trái pháp luật. Hoạt động của xe ủi, xe cần trục… phá dỡ công trình xây dựng trái phép không coi là trái pháp luật. Hoặc có những trường hợp do đặc tính của nguồn nguy hiểm cao độ mà việc gây thiệt hại của những phương tiện này không bị coi là trái pháp luật. Ví dụ, để bảo đảm an toàn giao thông đường sắt, những thiệt hại trên đường sắt do tàu hỏa gây ra cho các chủ thể khác không bị coi là trái pháp luật và ngành đường sắt không có trách nhiệm bồi thường
Bên cạnh đó, trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng loại trừ các trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết (Theo khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự).
b/Có thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Như chúng ta đã biết, bản thân nguồn nguy hiểm cao độ luôn tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho những người xung quanh mặc dù đã được áp dụng các biện pháp phòng ngừa. Những người xung quanh ở đây có thể là chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, những người đang tiếp xúc với nguồn nguy hiểm cao độ do mối quan hệ lao động, những người không có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ… Đối với chủ sở hữu, họ phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Đối với người bị thiệt hại trong khi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động, họ sẽ được hưởng bồi thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động. Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những người không có quan hệ lao động hoặc sở hữu liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này.
Do đặc điểm của nguồn nguy hiểm cao độ là những loại tài sản có khả năng gây ra thiệt hại trong quá trình vận hành, sử dụng chúng, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ có thể là những thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe. Thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm – là những thiệt hại chỉ có thể phát sinh do hành vi của con người nên không thuộc phạm vi tác động của nguồn nguy hiểm cao độ.
c/ Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra.
Đối với trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ thì hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ được coi là nguyên nhân và thiệt hại được coi là hậu quả. Điều kiện này đòi hỏi hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên nhân tất yếu, nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn đến thiệt hại và thiệt hại xảy ra là kết quả của hoạt động “tự thân” của nguồn nguy hiểm cao độ. Khi xác định trách nhiệm BTTH, điểm mấu chốt quan trọng là xác định thiệt hại đó do nguyên nhân nào gây ra và nguyên nhân đó có dẫn đến hậu quả không để tránh nhầm lẫn với trường hợp bồi thường thiệt hại liên quan đến loại tài sản được coi là nguồn nguy hiểm cao độ
d/ Điều kiện lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Như đã phân tích ở trên, thì lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà gây thiệt hại, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của người khác thì mới phải bồi thường. Tuy nhiên trong BLDS cũng quy định những trường hợp đặc biệt mà trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh ngay cả khi người gây thiệt hại không có lỗi. Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những trường hợp đặc biệt đó.
Khoản 3 Điều 623 BLDS quy định “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi”. Như vậy có thể thấy rằng trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra dựa trên sự suy đoán trách nhiệm đối với người có nghĩa vụ quản lý nguồn nguy hiểm cao độ. Dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách nhiệm này là hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến thiệt hại. Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người (như xe đang chạy trên đường bất ngờ nổ lốp trước dẫn đến đổi hướng đột ngột gây thiệt hại) hoặc cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, điều khiển (như trước khi xuống dốc, lái xe không kiểm tra lại phanh; lốp mòn nhưng chưa thay do chủ quan nghĩ rằng xe vẫn vận hành tốt…), tuy nhiên lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của con người trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mà sẽ áp dụng trách nhiệm BTTH thông thường.
Xác định thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Do đặc điểm của nguồn nguy hiểm cao độ là những loại tài sản có khả năng gây ra thiệt hại trong quá trình vận hành, sử dụng chúng nên thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ có thể là những thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe. Thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm – là những thiệt hại chỉ có thể phát sinh do hành vi của con người nên không thuộc phạm vi tác động của nguồn nguy hiểm cao độ. Việc xác định thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng giống như việc xác định thiệt hại trong trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nói chung được quy định tại Điều 608, Điều 609, Điều 610 BLDS. Bao gồm:
Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm: theo Điều 608 BLDS thì thiệt hại được bồi thường trong trường hợp tài sản bị xâm phạm bao gồm: tài sản bị mất; tài sản bị hủy hoại hoặc hư hỏng; lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm:
Đối với thiệt hại về vật chất bao gồm:
Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, giảm sút của người bị thiệt hại.
Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhật thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thi nhập trung bình của người lao động cùng loại.
Chi phí hợp lý và phần thu nhật thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.
Đối với tổn thất về tinh thần: Ngoài thiệt hại về vật chất, người gây thiệt hại còn phải bồi thường một số tiền bù đắp về tinh thần cho người bị thiệt hại. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do nhà nước quy định.
Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm:
Đối với thiệt hại về vật chất:
Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết.
Chi phí hợp lý cho việc mai táng.
Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Đối với tổn thất về tinh thần: Người xâm phạm tính mạng của người khác còn phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp về tinh thần do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do nhà nước quy định.
Xác định chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Căn cứ vào khoản 2, 3, 4 Điều 623 BLDS 2005 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra bao gồm:
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ.
Người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ.
Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ.
Trước hết chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ sở hữu là người có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản theo ý chí của mình. Tuy nhiên việc thực hiện quyền sở hữu đó không được gây tổn hại tới lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Vì vậy, trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ đang do chủ sở hữu trực tiếp chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mà gây thiệt hại cho người khác thì chủ sở hữu có trách nhiệm bổi thường.
Thứ hai, trường hợp chủ sở hữu đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Những thỏa thuận khác ở đây không được vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Người được chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ được hiểu là người đang thực tế kiểm soát nguồn nguy hiểm cao độ hoặc đang thực tế sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ. Việc chuyển giao đó có thể thông qua hai hình thức:
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động. Trong trường hợp này, người được chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ là những người làm công, ăn lương, được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ để thực hiện nhiệm vụ mà người chủ lao động giao cho. Giữa chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có mối quan hệ lao động, được xác lập qua tuyển dụng hoặc ký kết hợp đồng lao động. Mặc dù người lao động là người đang thực tế chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nhưng hoàn toàn dưới sự quản lý, điều hành của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ và vì lợi ích của chủ sở hữu nên phải coi đây giống như trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng, theo đó, chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm khi tài sản của mình gây thiệt hại.
Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng theo một giao dịch dân sự. Chủ sở hữu có thể chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cho chủ thể khác thông qua hợp đồng: mượn, thuê, cầm cố, gửi giữ… tài sản hoặc ủy quyền cho người khác quản lý tài sản của mình. Trong trường hợp này, trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trước tiên căn cứ vào sự thỏa thuận của các bên. Nếu các bên không có thỏa thuận ai phải chịu trách nhiệm bồi thường thì áp dụng nguyên tắc chung của pháp luật, bên mượn, thuê, nhận cầm cố, nhận gửi giữ, được ủy quyền quản lý tài sản là những người chiếm hữu, sử dụng tài sản có căn cứ pháp luật, vì vậy họ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Do đó nếu nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại khi đang thuộc quyền chiếm hữu, sử dụng của họ thì những chủ thể này phải bồi thường.
Thứ ba, trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì theo khoản 4 Điều 623 BLDS:
Nếu chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ hoàn toàn không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì họ không phải BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Trong trường hợp này chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ sẽ không có trách nhiệm bồi thường nếu họ chứng minh được đã tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ trong việc bảo quản, trông giữ, sử dụng NNHCĐ theo quy định của pháp luật.
Trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường cùng người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật. Ví dụ: Chủ sở hữu biết người đó không có bằng lái xe nhưng vẫn giao quyền chiếm hữu, sử dụng cho họ mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải liên đới BTTH.
Theo quy định của pháp luật thì chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra ngay cả khi không có lỗi. Tuy nhiên pháp luật cũng quy định một số trường hợp mà trách nhiệm bồi thường của chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ được loại trừ. Đó là các trường hợp:
Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại như cố ý lao vào ô tô tự tử, bị thiệt hại trong hành lang an toàn đường sắt…
Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra đã được tách riêng thành một điều luật (Điều 623) trong BLDS cho thấy đây là một trường hợp đặc biệt và khá phổ biến của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên thì những quy định của luật vẫn chưa thật sự rõ ràng gây nhiều khó khăn cho việc áp dụng trong thực tiễn.
a/ Những vướng mắc trong việc xác định nguồn nguy hiểm cao độ.
Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ được quy định trong Khoản 1 Điều 623 BLDS theo hướng liệt kê, vì vậy không đầy đủ, thậm chí không thống nhất với các quy định trong các văn bản pháp luật khác.
Theo Khoản 1 Điều 623, ngoài những nguồn nguy hiểm cao độ đã được liệt kê trong điều này, còn có những loại nguồn nguy hiểm cao độ khác theo quy định của pháp luật. Trong thực tế có những sự vật chưa từng được pháp luật quy định là nguồn nguy hiểm cao độ nhưng nếu có đầy đủ tính chất của nguồn nguy hiểm cao độ thì có được coi là nguồn nguy hiểm cao độ không? ví dụ: ong bò vẽ, rắn độc, chó dại, trâu điên… Cần phải lưu ý và có sự phân biệt giữa vật nuôi gây thiệt hại trong trường hợp nó hung dữ với thiệt hại do thú giữ được coi là nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Đối với trường hợp chó dại, trâu điên gây thiệt hại tới tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người, mặc dù rất nguy hiểm nhưng đây là những động vật đã được thuần hóa, không còn mang tính chất hoang dã, không thể coi là “thú dữ” do đó được xác định thuộc trường hợp bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra. Còn thiệt hại do thú dữ gây ra sẽ thuộc trường hợp thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Trong khi đó, ong bò vẽ, rắn độc mặc dù không phải là “thú dữ” (theo định nghĩa trong từ điển) nhưng phải coi là nguồn nguy hiểm cao độ vì đây là loại động vật còn mang tính hoang dã, chưa được thuần hóa và có tính chất nguy hiểm lớn. Vì vậy, việc xác định một vật có được coi là nguồn nguy hiểm cao độ hay không phải căn cứ vào những quy định của pháp luật và tính chất của sự vật đó.
Phương tiện giao thông vận tải cơ giới cũng là một trong những nguồn nguy hiểm cao độ được liệt kê tại khoản 1 Điều 623, nhưng như thế nào là phương tiện giao thông vận tải cơ giới thì chưa được giải thích rõ ràng. Trong luật giao thông đường bộ đã liệt kê một loạt phương tiện cơ giới đường bộ, tuy nhiên ngoài những phương tiện đã được liệt kê thì còn có những phương tiện không phải xe cơ giới đường bộ nhưng cũng có thể tham gia giao thông đường bộ như các loại xe máy chuyên dùng (xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp). Vậy khi những phương tiện loại này gây thiệt hại thì có thể áp dụng BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được không? Đây chính là một vấn đề còn vướng mắc trong thực tiễn xét xử.
b/ Điều kiện áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Trong các quy định của pháp luật chưa có sự phân định rõ ràng trường hợp BTTH “do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” với BTTH “do hành vi trái pháp luật của con người gây ra có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ”. Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là thiệt hại do “tự thân” nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại, không có tác động của con người, yếu tố lỗi có thể được loại trừ còn thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ là thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con người, có tác động của con người, việc gây thiệt hại này có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử đã có sự nhầm lẫn trong việc xác định trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khi người áp dụng không phân biệt được “thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” và thiệt hại “liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ”. Nhiều trường hợp khi áp dụng pháp luật cứ thấy thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ thì được xác định là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Tuy cùng là trách nhiệm BTTH nhưng đây là hai trường hợp hoàn toàn khác nhau, việc nhầm lẫn có thể dẫn đến những sai lầm trong việc xác định chủ thể có trách nhiệm BTTH.
c/Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp chủ sở hữu đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác chiếm hữu sử dụng.
Đối với trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động thì theo nguyên tắc chủ sở hữu vẫn phải chịu trách nhiệm nếu nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại. Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý trường hợp người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nhưng thiệt hại xảy ra không phải trong lúc người đó đang thực hiện nhiệm vụ mà người sử dụng lao động giao cho. Trong trường hợp này trách nhiệm BTTH thuộc về chủ thể nào? Vấn đề thứ hai đó là trong nhiều trường hợp giữa người lao động và người sử dụng lao động thường có thỏa thuận người lao động phải chịu mọi trách nhiệm khi nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại. Đây là một thỏa thuận hoàn toàn không trái pháp luật, đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ bồi thường. Tuy nhiên việc áp dụng trong thực tế thường rất khó khăn bởi không phải người lao động nào cũng có khả năng BTTH dẫn đến việc bồi thường kéo dài, không đảm bảo nguyên tắc BTTH phải kịp thời, ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị thiệt hại.
Đối với trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thông qua một giao dịch dân sự như mượn, thuê, cầm cố, gửi giữ… tài sản hoặc ủy quyền cho người khác quản lý tài sản của mình thì những người chiếm hữu, sử dụng có căn cứ pháp luật đó phải bồi thường. Tuy nhiên đối với hợp đồng mua bán tài sản là nguồn nguy hiểm cao độ cao độ nhất là với những tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, trên thực tế có những trường hợp hợp đồng mua bán đã được ký kết nhưng chưa hoàn tất thủ tục sang tên mà người mua đã sử dụng và gây thiệt hại thì trách nhiệm BTTH trong trường hợp này thuộc về chủ thể nào?
d/ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ trong tự nhiên gây thiệt hại và trường hợp cơ quan Nhà nước chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thuộc sở hữu của các cá nhân, tổ chức để phục vụ lợi ích công cộng.
Những tài sản là nguồn nguy hiểm cao độ trong BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải đang chịu sự quản lý của một chủ thể nhất định. Những nguồn nguy hiểm cao độ cao độ trong tự nhiên là một loại tài nguyên thiên nhiên, là tài sản thuộc sở hữu nhà nước, thuộc sự quản lý của bộ, ngành có liên quan. Tuy nhiên trên thực tế chưa có văn bản nào quy định cơ quan nhà nước phải bồi thường do đó trách nhiệm bồi thường trong trường hợp này không phát sinh. Đây là một trong những thiếu sót của pháp luật bởi thực tế có rất nhiều trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ trong tự nhiên gây thiệt hại cho người dân như thú dữ trong rừng tấn công gây thiệt hại cho người đi rừng, đàn voi rừng phá hoại nhà cửa, mùa màng của người dân… Thiệt hại xảy ra trong những trường hợp này là rất lớn tuy nhiên người bị thiệt hại lại không được cơ quan nhà nước BTTH dẫn đến những ảnh hưởng rất lớn tới sự ổn định đời sống của người dân.
Ngoài những trường hợp chủ sở hữu chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác như đã phân tích ở trên, còn có trường hợp chủ sở hiữ buộc phải chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của pháp luật như trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị cơ quan nhà nước trưng dụng hay tạm giữ… Đối với những trường hợp này thì chủ sở hữu bắt buộc phải chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ vậy trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có được chuyển giao cho cơ quan nhà nước đó hay không. Việc này cần phải được quy định rõ trong các văn bản pháp luật.
Một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Thứ nhất, không nên định nghĩa nguồn nguy hiểm cao độ theo hướng liệt kê như trong quy định tại khoản 1 Điều 623 BLDS mà chỉ cần xác định tiêu chí chung để được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Đó là những sự vật mà hoạt động của chúng luôn chứa đựng khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh, con người không thể hoàn toàn kiểm soát được nguy cơ gây thiệt hại và pháp luật thường có những quy định nghiêm ngặt trong việc trông giữ, vận hành, sử dụng, vận chuyển… chúng để tránh gây thiệt hại. Việc quy định như vậy sẽ mở rộng phạm vi những sự vật được coi là nguồn nguy hiểm cao độ và thuận lợi cho việc xác định các trường hợp thuộc trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Thứ hai, về điều kiện áp dụng trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cần có quy định rõ ràng về việc trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ phát sinh khi thiệt hại là do sự tác động tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Thứ ba, nên có cách hiểu và áp dụng thống nhất chủ thể phải chịu trách nhiệm BTTH nhằm bảo đảm lợi ích của người bị thiệt hại, năng cao tính khả thi của pháp luật. Cần phân định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong hai trường hợp: trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ chuyển giao theo quan hệ lao động và trường hợp chuyển giao theo quan hệ dân sự như đã phân tích. Cụ thể:
Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao cho người khác theo nghĩa vụ lao động: Nếu thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong quá trình người lao động quản lý, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nhiệm vụ được giao thì trách nhiệm bồi thường thuộc về chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu người được giao quản lý, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động nhưng lại sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ vào mục đích khác không theo nhiệm vụ mà gây thiệt hại thì họ phải tự chịu trách nhiệm.
Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng theo một giao dịch dân sự. Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trước tiên căn cứ vào sự thỏa thuận giữa các bên khi giao kết hợp đồng. Nếu các bên không có thỏa thuận thì người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thông qua giao dịch dân sự đó sẽ phải bồi thường.
Thứ tư, pháp luật cần bổ sung quy định về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với những thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ trong tự nhiên gây ra cho các chủ thể khác; Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong trường hợp cơ quan Nhà nước chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thuộc sở hữu của các cá nhân, tổ chức để phục vụ lợi ích công cộng như: trưng dụng, tạm giữ…
Thứ năm, cần quy định bổ sung về trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao kết hợp đồng mua bán, chưa hoàn tất thủ tục sang tên nhưng bên mua đã sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, gây thiệt hại cho những người xung quanh thì trách nhiệm bồi thường thuộc về ai. Pháp luật dân sự nên quy định cụ thể về vấn đề này để xác định ai là người phải chịu trách nhiệm BTTH trong từng trường hợp cụ thể.
Thứ sáu, đối với việc giải thích các thuật ngữ liên quan đến trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cần phải được quy định cụ thể, chi tiết hơn trong các văn bản hướng dẫn thi hành luật để tránh sự hiểu sai và dễ dàng áp dụng trong thực tế.
Kết luận
Sự phát triển không ngừng của khoa học – kỹ thuật đã làm cho thế giới ngày càng văn minh, hiện đại nhưng cùng với đó là sự gia tăng các tai nạn mang tính khách quan mà con người không thể hoàn toàn kiểm soát được. Chính vì vậy mà việc xác định trách nhiệm BTTH là một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo lợi ích cho người bị thiệt hại. Những quy định của pháp luật về trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng không nằm ngoài mục đích đó. Tuy nhiên trong thực tế những quy định này vẫn còn chưa đầy đủ và làm nảy sinh nhiều tranh cãi, cách hiểu khác nhau. Bởi vậy vấn đề đặt ra hiện nay là phải tiếp tục xậy dựng, hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, đồng thời cũng cần có sự áp dụng thống nhất trong phạm vi cả nước.
Thuật ngữ viết tắt
BLDS: Bộ luật dân sự
BTTH: Bồi thường thiệt hại
Danh mục tài liệu tham khảo
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập 2, Nxb.CAND, Hà Nội, 2009.
Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập 2, Nxb.Giáo dục, Hà Nội, 2009.
Ts. Phùng Trung Tập, Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng, Nxb Hà Nội, 2009.
Ts. Vũ Thị Hải Yến, Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Ths. Nguyễn Minh Oanh, Khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Ts. Trần Thị Huệ, Những bất cập trong quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường do tài sản gây thiệt hại và hướng hoàn thiện.
Bộ luật dân sự 2005.
Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
website: www.thongtinphapluatdansu.wordpress.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập học kỳ Luật dân sự- Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.doc