Một số vấn đề về giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể

ĐỀ BÀI 06: Một số vấn đề về giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể LỜI NÓI ĐẦU: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với kinh tế quốc tế thì các giao dịch dân sự, thương mại được xem như một công cụ hữu hiệu giúp các chủ thể tìm kiếm được lợi ích của mình. Một nền kinh tế năng động luôn chứa đựng những yếu tố rủi ro và việc nhận biết chúng, khắc phục và ngăn chặn những rủi ro ngay từ chính những giao dịch được kí kết là một cách làm khôn ngoan và chủ động mà các nhà làm luật đã dự phòng thông qua việc thiết kế qui định pháp luật về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Và một trong những hoạt động tích cực và hiệu quả nhất của con người nhằm hướng tới mục đích đó là việc tham gia vào các loại giao dịch khác nhau, trong đó có giao dịch dân sự. Giao dịch dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập và thực hiện các quyền nghĩa vụ dân sự nhằm thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng, và trong sản xuất kinh doanh. Giao dịch dân sự càng có ý nghĩa qua trọng trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Thực tế cho thấy giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể vẫn là vấn đề phức tạp, gây ra nhiều vướng mắc. Việc nắm vững và hiểu rõ một số vấn đề về giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể có ý nghĩa rất quan trọng với mỗi người trong xã hội hiện nay. MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU: 1 GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 1 I. Giao dịch dân sự và giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể: 1 1, Giao dịch dân sự: 1 2. Giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể: 3 3. Các trường hợp giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể: 3 3.1 Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự giả tạo: 4 3.2 Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự nhầm lẫn: 6 3.3 Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự lừa dối: 9 3.4 Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự đe dọa: 11 3.5 Giao dịch dân sự được xác lập mà vào thời điểm xác lập, người xác lập không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình: 12 II. Một số vấn đề khác về giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thế: 13 1. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể: 13 III. Thực trạng - Giải pháp đối với việc áp dụng luật, tuyên bố giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể và giải quyết hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự tại Tòa án ở nước ta. 17 IV. Một số ý kiến: 18 KẾT LUẬN: 19 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 20

doc22 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5792 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số vấn đề về giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với kinh tế quốc tế thì các giao dịch dân sự, thương mại được xem như một công cụ hữu hiệu giúp các chủ thể tìm kiếm được lợi ích của mình. Một nền kinh tế năng động luôn chứa đựng những yếu tố rủi ro và việc nhận biết chúng, khắc phục và ngăn chặn những rủi ro ngay từ chính những giao dịch được kí kết là một cách làm khôn ngoan và chủ động mà các nhà làm luật đã dự phòng thông qua việc thiết kế qui định pháp luật về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Và một trong những hoạt động tích cực và hiệu quả nhất của con người nhằm hướng tới mục đích đó là việc tham gia vào các loại giao dịch khác nhau, trong đó có giao dịch dân sự. Giao dịch dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập và thực hiện các quyền nghĩa vụ dân sự nhằm thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng, và trong sản xuất kinh doanh. Giao dịch dân sự càng có ý nghĩa qua trọng trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Thực tế cho thấy giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể vẫn là vấn đề phức tạp, gây ra nhiều vướng mắc. Việc nắm vững và hiểu rõ một số vấn đề về giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể có ý nghĩa rất quan trọng với mỗi người trong xã hội hiện nay. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: I. Giao dịch dân sự và giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể: 1, Giao dịch dân sự: Theo Điều 121 BLDS 2005 :“Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương hoặc hợp đồng của cá nhân, pháp nhân hoặc của các chủ thể khác nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc làm chấm dưt quyền và nghĩa vụ dân sự” Hợp đồng dân sự là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của hai hay nhiều bên nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng dân sự là loại giao dịch dân sự phổ biến nhất trong đời sống hằng ngày. Thông thường hợp đồng có hai bên tham gia trong đó thể hiện sự thống nhất ý chí của các chủ thể trong một quan hệ cụ thể (mua bán, cho thuê…) nhưng cũng tồn tại hợp đồng có nhiều bên tham gia (hợp đồng hợp tác – Điều 111 BLDS 2005). Mỗi bên trong hợp đồng có thể có một hoặc nhiều chủ thể tham gia. Trong hợp đồng ý chí của một bên đòi hỏi sự đáp lại của bên kia, tạo thành sự thống nhất ý chí của các bên, từ đó mới hình thành được hợp đồng. Do vậy, hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận ý chí của hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của một bên nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Thông thường, hành vi pháp lý đơn phương. Thông thường, hành vi pháp lý đơn phương được xác lập theo ý chí của một bên chủ thể duy nhất (lập di chúc, từ chối hưởng thừa kế). Có thể có nhiều chủ thể cùng tham gia vào một bên của giao dịch (hai cá nhân, tổ chức cùng tuyên bố hứa thưởng…). Hành vi pháp lý đơn phương là một giao dịch cho nên nội dung và hình thức phải phù hợp với các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự (Điều 122 BLDS). Ý chí tự nguyện của chủ thể trong giao dịch dân sự: Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí, cho nên tự nguyện bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chí. Không có tự do ý chí và bày tỏ ý chí không thể có tự nguyện, nếu một trong hai yếu tố này không có hoặc không thống nhất cũng không thể có tự nguyện. Sự tự nguyện của một bên (hành vi pháp lý đơn phương) hoặc sự tự nguyện của các bên trong một quan hệ dân sự (hợp đồng) là một trong các nguyên tắc được quy định tại điều 4 BLDS năm 2005: Tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận. Vi phạm sự tự nguyện của chủ thể là vi phạm pháp luật. Vì vậy, giao dịch thiếu sự tự nguyện không làm phát sinh hậu quả pháp lý. Bộ luật dân sự quy định một số trường hợp giao dịch xác lập không có sự tự nguyện sẽ bị vô hiệu. Đó là các trường hợp vô hiệu do giả tạo, do nhầm lẫn, do bị lừa dối, bị đe dọa, do xác lập tại thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận là một nguyên tắc cơ bản trong giao dịch dân sự. Điểm c khoản 1 Điều 122 BLDS 2005 quy định: Chủ thể của giao dịch dân sự có thể là cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình nhưng trực tiếp tham gia giao dịch bao giờ cũng là con người cụ thể. Dù với tư cách cá nhân hay với tư cách đại diện cho pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình thì người tham gia giao dịch dân sự cũng phải hoàn toàn tự nguyện. Tự nguyện được hiểu là sự phù hợp, thống nhất giữa mong muốn bên trong với sự bày tỏ mong muốn đó ra bên ngoài bằng một hình thức nhất định. Ý chí của chủ thể phải là ý chí đích thực, tức là nguyện vọng, mong muốn chủ quan bên trong của chủ thể không bị tác động bởi bất cứ yếu tố khách quan hay chủ quan nào khác dẫn tới việc chủ thể đó không nhận thức hoặc kiểm soát được ý chí của mình. Giữa ý chí đích thực của chủ thể (bên trong) với sự biểu hiện ý chí (sự biểu hiện ra bên ngoài) phải có sự thống nhất. Nếu không có sự thống nhất ý chí thì chủ thể không có sự tự nguyện. Giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể: Giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể là giao dịch vi phạm sự thống nhất giữa mong muốn bên trong với sự bày tỏ, thể hiện mong muốn đó ra bên ngoài. Vi phạm sự tự nguyện trong giao dịch dân sự có thể là hành vi vô ý hoặc cố ý thực hiện hoặc không thực hiện đúng những cam kết, thỏa thuận, điều kiện mà một bên đưa ra và được bên kia chấp nhận. Trong những trường hợp một người không muốn tham gia một giao dịch nhưng họ buộc phải tham gia giao dịch đó hoặc muốn tham gia giao dịch này nhưng buộc phải chấp nhận một nội dung khác vì những lý do nhất định làm cho họ không xử sự khác được thì giao dịch đó sẽ bị coi là vi phạm sự tự nguyện của chủ thể. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện của chủ thể: Vô hiệu theo nghĩa thông thường là “không có hiệu lực, không có hiệu quả”. Như vậy, có thể suy ra là giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch không tồn tại theo quy định của pháp luật, không có hiệu lực pháp lý. Thông thường giao dịch hợp pháp sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, xuất phát từ các nguyên nhân khác nhau mà giao dịch có thể có sự vi phạm vào một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Điều 127 BLDS 2005 quy định giao dịch dân sự vô hiệu là “Giao dịch không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này”. Giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể là giao dịch dân sự vô hiệu do không có một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là “Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện” (Điểm c khoản 1 Điều 122 BLDS 2005). Các trường hợp giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể: Để đảm bảo nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận trong giao dịch dân sự được quy định tại Điều 4 BLDS 2005, pháp luật dân sự cũng đã quy định một trong các điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực đó là: “Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện” (Điều 122 BLDS 2005). Các trường hợp giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể bao gồm: Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự giả tạo: - Khái niệm giả tạo trong giao dịch dân sự: Giả tạo được hiểu là không thật, vì được tạo ra một cách không tự nhiên. Như vậy, giao dịch dân sự giả tạo là giao dịch dân sự được tạo ra một cách không tự nhiên. Đối với giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo, chủ thể hoàn toàn mong muốn sự thể hiện một ý chí ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định mặc dù ý chí đó không phải là ý chí đích thực. Do đó, có thể hiểu giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo là giao dịch dân sự được xác lập để nhằm che dấu một giao dịch khác hoặc để trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. +) Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo theo quy định của pháp luật: Điều 129 BLDS 2005 quy định: “Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dich bị che dấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu” Trên cơ sở xác định mục đích của việc xác lập giao dịch giả tạo, Điều 129 BLDS 2005 đã phân chia giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo thành hai trường hợp: +) Giao dịch dân sự được xác lập với mục đích nhằm che giấu một giao dịch khác: Như vậy, ít nhất trong trường hợp này có hai giao dịch song song tồn tại đó là giao dịch đích thực (bên trong) và giao dịch giả tạo (giao dịch che dấu, thể hiện ra bên ngoài). Giao dịch giả tạo để nhằm che giấu giao dịch khác luôn luôn vô hiệu, còn giao dich đích thực (giao dịch bên trong) vẫn có hiệu lực pháp lý. Tuy nhiên, nếu giao dịch đích thực cũng vi phạm vào các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì có thể vô hiệu. Vụ án cụ thể: A là thành viên của 1 Công ty TNHH có 3 thành viên A,B,C. Năm 2002 vì cần vay tiền Ngân hàng nên A đồng ý cho công ty mượn tài sản là 1.1992m2 đất để thế chấp vay. A,B,C đã lập 1 biên bản giả có nội dung: công ty uỷ quyền cho A mua đất chứ không phải đất của A. Nhưng biên bản này không được Ngân hàng chấp nhận vì thế họ đã phải làm thủ tục bảo lãnh cho công ty vay tiền Ngân hàng bằng quyền sử dụng đất của A. Tháng 4/2005 A xin rút khỏi Công ty và Công ty chỉ còn 2 thành viên B và C. Đến tháng 6/2005 Công ty trả hết nợ, lấy các giấy tờ bảo lãnh tại ngân hàng, nhưng không trả lại giấy tờ đất cho A mà lại tiến hành khởi kiện đòi A phải giao đất cho công ty. Căn cứ kiện là biên bản giả lập ban đầu mà A sơ suất không huỷ sau khi Ngân hàng không chấp nhận. Vậy, A có thể làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình đối với mảnh đất? Như vậy, biên bản có nội dung "diện tích 1.992m2 là tài sản của công ty, ông A chỉ là người đứng tên" chỉ là biên bản giả được các thành viên công ty thoả thuận lập ra nhằm mục đích để Ngân hàng cho vay tiền (vì theo quy định người vay phải có tài sản thế chấp cho Ngân hàng để đảm bảo cho khoản vay). Tuy nhiên Ngân hàng đã không chấp nhận biên bản này mà yêu cầu ông A đứng ra bảo lãnh cho khoản vay của Công ty (vì ông A là người đứng tên quyền sử dụng đất). Yêu cầu của Ngân hàng là phù hợp với quy định của điều 366 Bộ luật dân sự cụ thể: "1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. 2. Người bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình" . Việc Ngân hàng đã chấp nhận sự bảo lãnh của ông A (bằng tài sản 1.992m2 đất do ông đứng tên) và cho Công ty của ông vay tiền là căn cứ để chứng minh: biên bản do 3 thành viên của công ty lập chỉ là giao dịch dân sự giả tạo còn giấy tờ đất đứng tên ông mới là giao dịch thật. Căn cứ điều 138 Bộ luật dân sự quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo như sau: "Khi các bên xác lập giao dịch dân sự 1 cách giả tạo nhằm che giấu 1 giao dịch khác, thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực". Vì ông A đã sơ suất không huỷ biên bản giả này nên Công ty (cụ thể là 2 thành viên B và C còn lại sau khi ông A đã rút khỏi Công ty) đã sử dụng để làm căn cứ kiện đòi ông phải giao đất. Căn cứ khoản 2 điều 58 Bộ luật tố tụng dân sự quyền của bị đơn khi tham gia tố tụng như sau: "a). Có quyền cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.b) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho toà án". Do đó ông có thể yêu cầu Ngân hàng cung cấp các tài liệu gồm: hồ sơ vay vốn ban đầu (có sử dụng biên bản giả) và hồ sơ vay vốn lần thứ hai (có giấy tờ của ông cam kết bảo lãnh cho công ty vay tiền bằng tài sản của ông là quyền sử dụng 1.992m2 đất). Các chứng cứ này sẽ giúp ông chứng minh quyền sở hữu của ông đối với diện tích 1.992m2.(căn cứ theo phần tư vấn pháp luật của báo Kinh tế và đô thị ) - Giao dịch dân sự được xác lập với mục đích nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba: Trong trường hợp này, giao dịch dân sự được xác lập có sự tự nguyện khi thể hiện ý chí, tuy nhiên sự thể hiện ý chí này lại nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ với một chủ thể khác. Thông thường, việc trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thường thể hiện ở hai trường hợp: + Bản thân chủ thể tham gia giao dịch đã tồn tại một nghĩa vụ với một chủ thể khác, do đó để trốn tránh nghĩa vụ này, chủ thể đã xác giao dịch giả tạo. + Khi tham gia giao dịch, chủ thể có thể phải thực hiện một nghĩa vụ nhất định đối với Nhà nước nhưng chủ thể đã xác lập giao dịch với sự giả tạo. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo là giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối (đương nhiên vô hiệu), hay nói cách khác, giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo là giao dịch dân sự không bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (Khoản 2 Điều 136 BLDS 2005). Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự nhầm lẫn: - Khái niệm nhầm lẫn trong giao dịch dân sự: Theo nghĩa thông thường, nhầm lẫn được hiểu là hành vi thực hiện hoặc nhận thức không đúng với ý định của người thực hiện hành vi hay nhận thức. Trong khoa học pháp lý, nhầm lẫn được hiểu là sự thể hiện không chính xác ý muốn đích thực của một bên hoặc các bên trong giao dịch dân sự. Hay nói theo cách khác, ở đó không có sự thống nhất giữa ý muốn thật và ý chí bày tỏ ra bên ngoài của chủ thể. Bên cạnh đó, cũng có cách hiểu cho rằng nhầm lẫn là việc các bên hình dung sai về nội dung của giao dịch mà tham gia vào giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc cho bên kia. Dù cách thể hiện ngôn từ có khác nhau, nhưng về cơ bản, nhầm lẫn chính là sự không phù hợp giữa việc thể hiện ý chí của chủ thể với thực tế của sự việc. +) Giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn theo quy định của pháp luật: Điều 131 BLDS 2005 quy định: “Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dich dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này”. Nhầm lẫn là việc mà các bên hình dung sai về nội dung của giao dịch dân sự mà tham gia xác lập giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc cho bên kia. Sự nhầm lẫn về đối tượng sự việc, sự nhầm lẫn phải được thể hiện ra rõ ràng mà căn cứ vào nội dung của giao dịch phải xác định được. Nếu bên bị nhầm lẫn chứng minh được sự nhầm lẫn của mình thì giao dịch đó bị tuyên bố vô hiệu. Theo Điều 131 BLDS 2005, pháp luật dân sự Việt Nam coi các nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của giao dịch dân sự là yếu tố đưa đến sự vô hiệu của giao dịch dân sự. Như vậy, các nhầm lẫn về nội dung không chủ yếu, cũng như những nhầm lẫn về chủ thể, nhầm lẫn về luật không được thừa nhận là yếu tố đưa đến sự vô hiệu của giao dịch. Nếu một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì sẽ thuộc trường hợp vô hiệu do lừa dối. Giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn là giao dịch bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (khoản 1 Điều 136 BLDS 2005). Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn là hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập. Vụ án cụ thể: Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Việt Á Châu (bên mua) đã kiện Công ty TNHH Connell Bros (bên bán) để đòi bồi thường thiệt hại do việc hàng hóa do Công ty TNHH Connell Bros cung cấp không đạt yêu cầu về chất lượng. Cụ thể như sau: Ngày 7/7/2003, Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Việt Á Châu (Công ty Việt Á Châu) ký hợp đồng số 241/03-VU mua của Công ty TNHH Connell Bros (Công ty Connell Bros) sản phẩm Myflame 84527E, số lượng 16.080 kg (67 thùng ống), đơn giá 2,9 USD/kg CIF HCMC, trị giá hợp đồng 46.632 USD, xuất xứ hàng hóa: Vương quốc Anh. Sau đó, ngày 11/7/2003 các bên lại ký tiếp hợp đồng số 243/03-VU mua 10.080 kg sản phẩm trên, trị giá 29.232 USD và 5.987,472 kg sản phẩm Performax TF 1133, trị giá 20.357,40 USD. Điều khoản chất lượng của hai hợp đồng này chỉ ghi “theo Bản đặc điểm kỹ thuật” (same as Specifications). Sau khi ký hợp đồng mua hàng với Công ty Connell Bros, bên mua đã ký hợp đồng số 086/07-2003-VG-GCDI ngày 18/7/2003 gia công cán phủ chất chống cháy lên vải Poly-oxford cho Xí nghiệp may Bình Thạnh thuộc Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Thạnh – GILIMEX. Ngày 19/8/2003, bên mua đã giao lô hàng thành phẩm cho Xí nghiệp may Bình Thạnh. Đến giữa tháng 9/2003, Xí nghiệp Bình Thạnh phát hiện ra số hàng gia công không đạt yêu cầu do loại chất Myfame 84527E nói trên: vải được gia công ra không khô, dẻo dính, bong tróc. Vì thế, Xí nghiệp Bình Thạnh đã từ chối thanh toán tiền gia công cho bên mua. Vụ kiện được xử sơ thẩm lần đầu tiên vào ngày 28/9/2004 và đã trải qua bốn phiên xét xử với những kết luận khác nhau qua mỗi lần xét xử. Lần xét xử sơ thẩm thứ nhất vào ngày 28/9/2004, Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn (Công ty Việt Á Châu) đòi bị đơn bồi thường thiệt hại do hàng hóa cung cấp không đúng chất lượng và chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn (Công ty Connell Bros) về yêu cầu thanh toán tiền hàng còn thiếu của nguyên đơn đối với bị đơn1. Bản án sơ thẩm đã bị kháng cáo và bị Tòa phúc thẩm hủy án để giao cho Tòa sơ thẩm giải quyết lại2. Vụ kiện sau đó đã được Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh và Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại TP. Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm và phúc thẩm lại vào các ngày 1/8/2006 và 12/7/2007. Cả hai Tòa này đều tuyên hai hợp đồng mua bán trên vô hiệu do nhầm lẫn và tranh chấp của các bên được giải quyết theo quy định của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế về xử lý hợp đồng vô hiệu: “Các bên có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau tất cả tài sản đã nhận được từ việc thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp không thể trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền… Thiệt hại phát sinh, các bên tự gánh chịu”3. (1) Xem Bản án số 245/KTST ngày 28/9/2004 của Tòa án nhân dân TP.HCM. (2) Xem Bản án số 37/KTPT ngày 20/10/2004 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại TP.HCM. (3) Xem Bản án số 380/2006/KDTM-ST ngày 01/8/2006 Tòa án nhân dân TP.HCM và Bản án phúc thẩm số 68/2007/KDTM-PT ngày 12/7/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại TP.HCM. Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự lừa dối: - Khái niệm lừa dối trong giao dịch dân sự: Theo cách nói thông thường thì lừa dối là bằng thủ đoạn nói dối để gian lận, để làm người khác lầm tưởng mà tin rằng đó là sự thật nên xác lập giao dịch. Hay nói cách khác, lừa dối là hành vi cố ý đưa thông tin sai lệch để người khác tin đó là sự thật mà xác lập giao dịch. Theo ngôn ngữ pháp luật, lừa dối trong giao dịch dân sự là một xảo thuật dùng để lừa gạt người khác. Từ những lời lẽ gian dối đến mánh khóe xảo trá dùng để khiến người khác xác lập giao dịch mà lẽ ra bình thường họ không làm như vậy đều là lừa dối. Điều 132 BLDS 2005 quy định: “Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”. Lừa dối có điểm giống nhầm lẫn ở chỗ là cả hai đều liên quan đến việc trình bày một cách trực tiếp hay gián tiếp về những sự việc không đúng sự thật hay không tiết lộ một sự thật. Lừa dối khác nhầm lẫn ở chỗ là sự nhầm lẫn vốn do một bên tự mình không tìm hiểu hoặc hiểu sai sự việc do lỗi vô ý của bên kia gây ra, còn sự lừa dối lại là sự hiểu sai do một bên hoặc do người thứ ba cố ý gây ra. +) Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo quy định của pháp luật: Theo Điều 132 BLDS 2005 thì khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu. Lừa dối ở đây được hiểu là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự. Như vậy, hành vi lừa dối có thể là do một bên chủ thể xác lập giao dịch thực hiện mà cũng có thể là do người thứ ba gây ra. Tuy nhiên, trong trường hợp người thứ ba gây ra thì cần phải hiểu là người thứ ba đó phải có mối quan hệ với một bên chủ thể xác lập giao dịch dân sự và bên chủ thể đó biết rõ hành vi lừa dối bên đối tác hiểu sai lệch của người thứ ba. Khi đó, giao dịch đã được xác lập mới bị coi là vô hiệu. Để đảm bảo quyền lợi của bên chủ thể bị lừa dối, pháp luật cũng quy định chỉ có bên chủ thể bị lừa dối mới có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu. Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối là giao dịch bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (khoản 1 Điều 136 BLDS 2005). Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối là hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập. Vụ án cụ thể: Bà Huỳnh Kim Dung (sinh năm 1958, ở số 100/3C khu phố Miễu Ba, thị trấn Cần Thạnh, huyện Cần Giờ). Tháng 6/2005, bà Dung buôn bán nghêu bị thất bại nên lâm vào cảnh khó khăn. Bà Dung được một người quen giới thiệu gặp ông Nguyễn Trọng Hiếu (ở khu phố 2, phường Tân Quy, quận 7 tp HCM) để vay tiền. Ông Hiếu yêu cầu để đảm bảo viêc trả nợ vay, bà Dung phải ký hợp đồng “giả cách” bán nhà đất cho ông. Ông Hiếu nói : “đây chỉ là hợp đồng mang tính thủ tục, khi vay tiền ai cũng làm như vậy”. Số tiền vay sẽ được ghi trong hợp đồng là khoản tiền đặt cọc để mua nhà đất. Ông Hiếu hứa khi bà Dung trả nợ xong, ông sẽ trả lại giấy chủ quyền nhà đất và sẽ hủy hợp đồng. Vì quá túng quẫn và do cả tin lời ông Hiếu, bà Dung chấp nhận ký hợp đồng. Ngày 28/6/2005 ông Hiếu giao cho bà Dung 207,5 triệu đồng nhưng trong hợp đồng lại ghi là 250 triệu đồng trong đó có 10% (25 triệu đồng) phí dịch vụ vay tiền và 7% (17,5 triệu đồng) tiền lãi suất tháng đầu tiên. Gần 4 tháng sau, do lãi suất quá cao, bà Dung không có tiền đóng lãi nên ông Hiếu đe dọa sẽ lấy đất. Vì sợ chồng biết chuyện, bà Dung đồng ý vay thêm tiền của ông Hiếu để trả nợ trước đó. Ông Hiếu bảo bà ký vào biên nhận bổ sung tiền đặt cọc 70 triệu đồng nhưng thực chất ông Hiếu chỉ đưa cho bà Dung 15,5 triệu đồng. Số tiền còn lại ông Hiếu bảo trừ vào 3 tháng tiền lãi (số tiền vay 250 triệu đồng trước đó) hết 52,5 triệu đồng và 2 triệu tiền dịch vụ vay tiền. Sau đó, bà Dung vay ông Hiếu 2 lần nữa để đóng lãi vay trước đó. Trong cả 4 lần vay, tổng cộng bà Dung đã nhận của ông Hiếu là 265 triệu đồng nhưng trên giấy tờ là 433 triệu đồng. Đầu năm 2007 ông Hiếu đã kiện bà Dung ra Tòa án nhân dân huyện Cần Giờ, yêu cầu chuyển lô đất và nhà có diện tích 10.321m2, trị giá trên 8 tỷ đồng cho ông theo hợp đồng mà trước đó bà Dung đã ký với ông với giá là 400 triệu đồng. Giao dịch dân sự này vô hiệu do bị lừa dối. Ở đây hợp đồng "giả cách" như ông Hiếu nói với bà Dung là nhằm lợi dụng sự kém hiểu biết của bà Dung cũng như sự túng quẫn để bà Dung kí hợp đồng, "là hành vi cố ý của một bên... nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó". Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự đe dọa: - Khái niệm đe dọa trong giao dịch dân sự: Đe dọa trong giao dịch là hành vi làm cho một người khiếp sợ, khiến người này phải xác lập giao dịch ngoài ý muốn của họ. Đe dọa trong giao dịch có thể thể hiện dưới hai hình thức: đe dọa về thể chất và đe dọa về tinh thần. Điều 132 BLDS 2005 quy định: “Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín,nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình”. Để xác định là giao dịch dân sự được xác lập bởi sự đe dọa, sự đe dọa phải đáp ứng được các yêu cầu: Thứ nhất, bên đe dọa thực hiện hành vi đe dọa với lỗi cố ý, mục đích là buộc chủ thể phía bên kia phải xác lập giao dịch dân sự với mình hoặc xác lập giao dịch dân sự với chủ thể mà bản thân bên đe dọa mong muốn; Thứ hai, hành vi đe dọa nhằm làm cho bên kia “sợ hãi”, tức là bản thân bên bị đe dọa hoàn toàn tê liệt ý chí mà không thể có một sự lựa chọn nào khác; Thứ ba, chủ thể bị đe dọa có thể là một bên trong giao dịch nhưng cũng có thể là người khác. BLDS 2005 xác định những người này là cha, mẹ, vợ, chồng, con; Thứ tư, hành vi đe dọa chưa gây thiệt hại về đối tượng đe dọa mà hành vi đó hướng tới, tức là bên bị đe dọa chỉ mới “sợ hãi” về hậu quả của sự đe dọa có thể xảy ra. Ví dụ: Ông A do bị ông B (cậy thế, cậy quyền) đe dọa mà buộc phải xác lập một giao dịch với ông B. Sau khi xác lập giao dịch thì ông B tiếp tục đe dọa làm cho ông A không dám khởi kiện ra Toàn cho đến khi hết 2 năm thì ông B không đe dọa nữa lúc này ông A mớ làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. +) Giao dịch dân sự vô hiệu do đe dọa theo quy định của pháp luật: Theo Điều 132 BLDS 2005 thì khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu. Đe dọa trong giao dịch dân sự được hiểu là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vơ, chồng, con của mình. Ngoài ra, pháp luật cũng quy định trong trường hợp này phải có yêu cầu của bên bị đe dọa thì Tòa án mới tuyên giao dịch đó vô hiệu. Giao dịch dân sự vô hiệu do đe dọa là giao dịch bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (khoản 1 Điều 136 BLDS 2005). Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự do đe dọa vô hiệu là hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập. Giao dịch dân sự được xác lập mà vào thời điểm xác lập, người xác lập không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình: +) Không nhận thức, làm chủ được hành vi của chủ thể trong giao dịch dân sự: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự (Điều 17 BLDS 2005). Nó là thuộc tính của cá nhân, tạo thành tư cách chủ thể độc lập của cá nhân trong các quan hệ dân sự. Bên cạnh đó pháp luật cũng quy định cá nhân nếu có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì có quyền tham gia vào mọi quan hệ dân sự với tư cách là chủ thể độc lập và tự chịu trách nhiệm về những hành vi do họ thực hiện trừ trường hợp bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, trên thực tế lại xảy ra những trường hợp mà tại thời điểm nào đó, người có năng lực hành vi đầy đủ lại không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Điều này có nghĩa là bình thường thì họ là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nhưng cũng có những thời điểm họ lại bị rơi vào tình trạng không nhận thức và làm chủ ddđược hành vi của mình, ví dụ như bị say rượu hay bị tâm thần phân liệt… Và việc chủ thể không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình phải xảy ra vào thời điểm xác lập giao dịch dân sự thì mới trở thành yếu tố dẫn tới sự vô hiệu của giao dịch. Vì khi đó giao dịch không đáp ứng được điều kiện tự do ý chí, vi phạm sự tự nguyện của chủ thể. +) Giao dịch dân sự vô hiệu do vào thời điểm xác lập người xác lập không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình: Điều 133 BLDS năm 2005 quy định: “Người có năng lực hành vi dân sự đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu”. Theo quy định của pháp luật thì trường hợp này chỉ áp dụng đối với những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Bởi vì chỉ có những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mới có điều kiện về ý chí cũng như lý trí để tham gia vào mọi quan hệ pháp luật dân sự. Tuy nhiên trên thực tế, có thể do những bệnh lý hoặc do sự tác động từ các yếu tố bên ngoài mà có những thời điểm họ không có đủ lý trí để nhận thức và điều khiển được hành vi của chính mình. Lợi dụng điều này, các chủ thể khác có thể tham gia xác lập giao dịch dân sự với họ với những nội dung có lợi cho mình. Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân khi tham gia vào giao dịch dân sự, pháp luật dân sự quy định giao dịch dân sự được xác lập mà vào thời điểm xác lập, người xác lập không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình là giao dịch vô hiệu; và người xác lập giao dịch vào thời điểm xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu. Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không làm chủ và nhận thức được hành vi của mình là giao dịch bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (khoản 1 Điều 136 BLDS 2005). Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự do người xác lập không làm chủ và nhận thức được hành vi của mình vô hiệu là hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập. Một số vấn đề khác về giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thế: 1. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể: Khi một giao dịch dân sự bị tuyên bố vô hiệu có nghĩa là giao dịch ấy không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên và được nhà nước bảo đảm thực hiện. Theo Điều 137 BLDS 2005 quy định: “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. nên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường. ”. 1.1 Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện của chủ thể không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập: Giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể chính là vi phạm một trong những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự do pháp luật quy định. Vì vậy, giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể sẽ bị coi là vô hiệu. Khi đó, pháp luật sẽ không thừa nhận hiệu lực pháp lý của giao dịch dân sự và nó sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. Đối với giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo thì giao dịch này đương nhiên vô hiệu kể từ thời điểm xác lập. Nếu giao dịch chưa được thực hiện thì các bên không được thực hiện giao dịch nữa; trong trường hợp giao dịch đang được các bên thực hiện thì các bên phải dừng ngay việc thực hiện, không được tiếp tục thực hiên giao dịch đó nữa. Đối với giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, hay do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì sẽ xảy ra hai trường hợp: - Nếu người bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, hay do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu trong thời hạn luật định và Tòa án ra quyết định tuyên bố giao dịch đó vô hiệu thì lúc này giao dịch đã xác lập mới trở nên vô hiệu. Khi đó, giao dịch đã xác lập sẽ bị vô hiệu từ thời điểm các bên xác lập và do đó sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm xác lập. - Trong trường hợp người bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, hay do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình nhưng họ không có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu hoặc hết thời hiệu khởi kiện họ mới có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu thì giao dịch đó không trở nên vô hiệu. Giao dịch đó vẫn được pháp luật thừa nhận hiệu lực pháp lý và các bên tham gia xác lập giao dịch dân sự vẫn tiếp tục phải thực hiện tuân theo các điều khoản trong giao dịch. Tức là, giao dịch mà các bên đã xác lập vẫn làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia xác lập giao dịch. 1.2 Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật: Trong trường hợp các bên chưa thực hiện giao dịch thì không được tiếp tục thực hiện giao dịch, nếu giao dịch được thực hiện đến đâu thì dừng đến đó. Ngoài ra, theo quy định của pháp luật các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Hoàn trả tài sản là một trong những biện pháp phổ biến để giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu. Trong giao dịch dân sự, quay lại tình trạng ban đầu được hiểu là các bên quay lại thời điểm mà các bên tham gia xác lập giao dịch. Ví dụ: A bán cho B một chiếc xe máy nhưng khi xác lập giao dịch, A bị B đe dọa nên giao dịch đó không có sự tự nguyện. Sau khi giao dịch được một thời gian nhất định (vẫn còn trong thời hiệu khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu), A yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Trong trường hợp này, B phải trả lại A chiếc xe máy mua của A và A phải trả lại B tiền mà mình đã nhận thanh toán từ B khi xác lập hợp đồng mua bán. Theo pháp luật của đa số các nước trên thế giới thì các tài sản được hoàn trả cho nhau phải là tài sản hữu hình, thực tế mà các bên đã giao nhận tại thời điểm xác lập. Tuy nhiên trong thực tế tài sản được hoàn trả không phải lúc nào cũng còn nguyên giá trị của nó tại thời điểm xác lập, thông thường nó bị biến đổi do tác động của các yếu tố tự nhiên và xã hội làm không còn nguyên giá trị ban đầu khi xác lập: - Tài sản bị tác động của tự nhiên làm hao mòn hoặc xấu xí đi so với lúc ban đầu khi giao kết; - Tài sản có thể bị giảm giá trị hoặc tăng giá trị do tác động của con người; - Tài sản có thể bị giảm giá trị hoặc tăng giá trị do tác động của quy luật kinh tế thị trường: quy luật cung cầu; quy luật giá trị… - Khi quản lý tài sản các đương sự có thể khai thác một số lợi ích trong đó và cũng có thể đầu tư công sức tiền bạc làm tăng giá trị và giữ gìn, bảo quản tài sản… Cũng có trường hợp tài sản là đối tượng của giao dịch không còn (bị tiêu hủy, bên nhận tài sản đã làm mất hoặc tiêu dùng hết ...) thì phải hoàn trả bằng tiền. Tuy nhiên, việc hoàn trả lại tài sản cho nhau phải được pháp luật cho phép, tức là loại tài sản này không thuộc diện Nhà nước tịch thu, xung công quỹ. Đó là trừ những trường hợp tài sản giao dịch là hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. 1.3 Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường: Vấn đề bồi thường chỉ được đặt ra khi có thiệt hại xảy ra trên thực tế do giao dịch dân sự vô hiệu nói chung và giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện của chủ thể nói riêng. Khi giao dịch dân sự vô hiệu cần xác định lỗi của các bên chủ thể để yêu cầu bồi thường cũng như để các bên. Nguyên nhân dẫn tới giao dịch dân sự vô hiệu có thể có lỗi của một trong hai bên hoặc của cả hai bên tham gia giao dịch, do đó cần xác định mức độ lỗi của mỗi bên để có thể đưa ra hướng xử lý cụ thể. Lỗi của các bên chủ thể có thể là lỗi cố ý, cũng có thể là lỗi vô ý. Trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn thì nhà làm luật đòi hỏi một điều kiện bắt buộc đối với lỗi của bên chủ thể gây ra sự vô hiệu của giao dịch đó là bên gây nhầm lẫn phải có lỗi vô ý. Nếu một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì lý do dẫn tới sự vô hiệu của giao dịch không phải là bên chủ thể còn lại bị nhầm lẫn nữa mà là bị lừa dối (Điều 132 BLDS 2005). Bên cạnh đó, cũng giống như giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối thì trong giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo hay đe dọa, lỗi của bên chủ thể dẫn tới sự vô hiệu của giao dịch bắt buộc phải là lỗi cố ý. Còn trong giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không làm chủ, nhận thức được hành vi của mình (Điều 133 BLDS 2005) thì các nhà làm luật không đề cập tới vấn đề lỗi. Như vậy, ở trong trường hợp này có thể hiểu là lỗi cố ý mà cũng có thể là lỗi vô ý. Chẳng hạn, trong việc xác định lỗi liên quan đến giao dịch mua bán nhà ở giữa các cá nhân với nhau và được xác định là vô hiệu: hai bên cần xác định lỗi của hai bên – bên mua và bên bán để xử lý hậu quả của hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu. Một bên bị coi có lỗi nếu bên đó có hành vi làm cho bên kia nhầm tưởng là có đầy đủ điều kiện để mua nhà ở hoặc bán nhà ở là hợp pháp. Bên bán bị coi là có lỗi: Bên bán bị coi là có lỗi nếu làm cho bên mua tin tưởng là bên bán có quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở hoặc có hành vi gian dối để có được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở và sử dụng các giấy tờ này làm bằng chứng để ho bên mua tin và giao kết hợp đồng mua bán nhà ở đó. Bên mua bị coi là có lỗi: Bên mua bị coi là có lỗi nếu có hành vi gian dối làm cho bên bán tin tưởng là tài sản đặt cọc, tài sản để thực hiện nghĩa vụ thuộc quyền sở hữu của bên mua nên đã giao kết hoặc giao nhà ở cho bên mua. III. Thực trạng - Giải pháp đối với việc áp dụng luật, tuyên bố giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể và giải quyết hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự tại Tòa án ở nước ta. Theo như thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng thì hiện nay ở nước ta hàng năm số lượng án giao dịch dân sự chiếm tỷ lệ khá lớn so với các án dân sự và hôn nhân gia đinh, chiếm một tỷ lệ cao khoảng 70% - 80%, số lượng án giao dịch dân sự vô hiệu chiếm khoảng 15% - 20%, số lượng án giải quyết ở cấp sơ thẩm bị cấp phúc thẩm cải sửa còn cao hơn 50%. Với một số lượng lớn như vậy thì trong thực tiễn còn đang tồn tại thì hiện nay khi các bên tham gia giao dịch dân sự thông thường không nắm được những quy định pháp luật mà chủ yếu giao dịch dưới dạng tự phát , dẫn đến nhiều giao kết vô hiệu ngay tại thời điểm ký kết mà các bên vẫn không biết, vẫn thực hiện khi tranh chấp mới có yêu cầu hủy. Khi giải quyết sự việc đã rồi các thẩm phán thường lúng túng, cân nhắc có nên hủy hay không, nếu hủy giao dịch dân sự vô hiệu thì phù hợp với pháp luật nhưng không phù hợp với thực tiễn và ngược lại, thậm chí có trường hợp tuyên bố hủy nhưng vẫn công nhận. Mặt khác diễn biến của giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể phức tạp, sự phức tạp này do sự biến đổi về giá cả thị trường, có tài sản bị chênh lệch giá cả giữa lúc xác lập giao dịch so với lúc giải quyết là rất lớn gấp 4, 5 lần thậm trí gấp 10 lần. Trong khi đó đường lối giải quyết hậu quả của các giao dịch dân sự vô hiệu lại không nhất quán giữa các thành viên trong hội đồng xét xử, không mang lại công bằng cho các bên đương sự, chính vì lẽ đó nhiều khi đương sự đã lợi dụng sơ hở của pháp luật đã thất hứa, yêu cầu hủy giao dịch dân sự nhằm chuộc lợi cho mình. Rồi có tình trạng có những vụ án đã giải quyết nhiều lần, nhiều cấp khác nhau xét xử, có những vụ án đã được xét xử ở giai đoạn cao nhất là Hội đồng Thẩm phán mà vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, các đương sự vẫn tiếp tục khiếu nại căng thẳng. vì vậy mà các ngành chức năng nên tìm ra một hướng đi có lợi nhất cho vấn đề này. Trước tiên vấn đề quan trọng nhất đó là giáo dục cho mọi người dân hiểu rõ hơn các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật dân sự về vấn đề giao dịch dân sự nói riêng. Bởi lẽ có làm được điều này thì chúng ta sẽ hạn chế được một số lượng đáng kể các vụ việc tranh chấp về giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể. Thêm vào đó về phía những người cầm cán cân công lý chúng ta cần bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết hơn nữa cho các thẩm phán… và giữa những người trong nội bộ hội đồng xét sử không chỉ các vụ án về giao dịch dân sự mà các vụ án về vấn đề khác cũng cần phải có được tiếng nói chung. Tránh tình trạng mỗi người một quan điểm, mỗi cấp một quan điểm như vậy se chỉ làm cho nhân dân mất lòng tin có thể còn dẫn đến tình trạng một số đối tượng lợi dụng sự bất đồng quan điểm đó nhằm chuộc lợi cho bảnn thân. Ngoài ra các cấp chính quyền cũng cần xiết chặt hơn nữa công tác quản lý về các mặt của đời sống của nhân dân để hạn chế được phần nào các vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm các hợp đồng giao dịch dân sự nói riêng… Một số ý kiến: 1. Về giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể: 1.1 Giao dịch được xác lập do giả tạo: Cần phải có chế tài đối với những trường hợp xác lập giao dịch giả tạo trốn tránh nghĩa vụ đối với nhà nước. Đặc biệt trong việc mua bán nhà ở và chuyển nhượng đất đai. Như trường hợp khi tiến hành chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hai bên chủ thể thỏa thuận ghi giá chuyển nhượng thấp hơn so với giá thực tế hai bên thỏa thuận khi chuyển nhượng nhằm trốn thuế (đóng thuế thấp hơn và nộp lệ phí trước bạ thấp). Giao dịch giả tạo là bình phong để đối phó với các cơ quan chức năng nhà nước khi làm các thủ tục sang tên trước bạ, thu thuế chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Việc ghi giá chuyển nhượng thấp để trốn thuế nhà nước, họ đã ghi giá trong hợp đồng với mức tiền thấp hơn, thực chất giao dịch được thực hiện với giá cao hơn. Ý chí của chủ thể tham gia không bị vi phạm nhưng ý chí chung của cộng đồng xã hội bị vi phạm hay nói khác đi pháp luật của nhà nước về thuế chuyển nhượng bị vi phạm do các bên cố ý khai man nhằm trốn thuế. Những trường hợp này khi bị phát hiện được cần phải có chế tài nghiêm khắc như xung công số tiền vượt quá giá trị hợp đồng ký tên để công chứng, chứng thực. 1.2 Giao dịch dân sự xác lập do nhầm lẫn: Xung quanh vấn đề lỗi của các bên chủ thể trong trường hợp giao dịch xác lập do nhầm lẫn, trong lý luận tồn tại hai cách giải quyết đối ngược nhau. Cách thứ nhất cho rằng giao dịch có thể bị tuyên bố vô hiệu do nhầm lẫn bất kể lỗi của bên nào gây ra (Điều 141 BLDS 1995). Nếu bên nào có lỗi sẽ phải bồi thường thiệt hại cho bên kia. Cách thứ hai cho rằng giao dịch dân sự chỉ bị tuyên bố vô hiệu nếu như sự nhầm lẫn xảy ra do lỗi vô ý của bên đối tác (Điều 131 BLDS 2005). Còn nếu như chính bên bị nhầm lẫn có lỗi thì giao dịch không bị vô hiệu, bên nhầm lẫn phải tiếp tục thực hiện hợp đồng. Theo cách giải quyết thứ nhất là hợp lý hơn, bởi lẽ chỉ cần có sự nhầm lẫn xảy ra là giao dịch đã không đáp ứng được yêu cầu về sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí, do vậy giao dịch đã có thể bị tuyên bố là vô hiệu. Còn việc xác định lỗi thuộc về ai là chỉ nhằm giải quyết vấn đề hậu quả phát sinh khi giao dịch vô hiệu (bồi thường thiệt hại) mà thôi. Vấn đề này có thể áp dụng nguyên tắc chung về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch để giải quyết (điểm c khoản 1 Điều 122 BLDS 2005). KẾT LUẬN: C.Mác đã từng nói: “Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Hay nói cách khác, để có thể tồn tại được, mỗi người đều phải tham gia vào các mối quan hệ khác nhau, tạo nên mối dây liên kết với thế giới xung quanh nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất cũng như tinh thần của bản thân. Một trong những hoạt động tích cực và hiệu quả nhất của con người nhằm hướng tới mục đích đó là việc tham gia vào các loại giao dịch khác nhau, trong đó có giao dịch dân sự. Xét dưới góc độ của môn khoa học luật dân sự mà nhìn nhận thì giao dịch dân sự là phương tiện khá hữu hiệu để thỏa mãn quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy cho nên giao dịch dân sự đã được đưa vào BLDS nước ta nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ của chủ thể phát sinh từ giao dịch bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Tính bảo đảm đó không chỉ được thực hiện trong những giao dịch dân sự hợp pháp mà còn phát sinh từ các giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể. Khi đó, tùy theo yêu cầu của các bên có quyền và lợi ích liên quan hoặc theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tuyên bố giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể và giải quyết hậu quả pháp lý của việc tuyên bố đó. Nghiên cứu về vấn đề này nhằm mục đích hiểu rõ vai trò của ý chí, sự tự nguyện của chủ thể; từ đó đề cao và bảo đảm sự tự nguyện của chủ thể trong giao dịch dân sự tránh dẫn tới giao dịch vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện của chủ thể và phát sinh hậu quả pháp lý. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường đại học Luật Hà Nội , Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 1,Nxb. CAND, Hà Nội, 2009. 2. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 1,Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2010. 3. Bùi Đăng Hiếu, “Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối và vô hiệu tuyệt đối”, Tạp chí luật học, số 5/2001. 4. Phạm Công Lạc, “Ý chí giao dịch dân sự”, Tạp chí luật học, số5/1998. 5. Đặng Văn Được, Hướng dẫn pháp luật hợp đồng dân sự và cơ chế giải quyết tranh chấp trong bộ luật tố tụng dân sự, Nxb. Lao động – xã hôi, 2006. Lê Kim Giang, Hợp đồng dân sự và các tranh chấp thường gặp, Nxb. Tư pháp, 2011. Nguyễn Thị Nhàn, “Ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự”, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường đại học Luật Hà Nội. Bùi Thị Thu Huyền, “Hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện ý chí của chủ thể”, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật Hà Nội. Các trang web: ·      MỤC LỤC MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU …………………………...........................................1 GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ……………………………...……………...1 Giao dịch dân sự và GDDS vi phạm sự tự nguyện của chủ thể………...1 Giao dịch dân sự ………………………………………………….…...1 Ý chí tự nguyện của chủ thể trong giao dịch dân sự …………….…....2 Giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể ……………….…2 Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện của chủ thể....……3 Các trường hợp giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể.....3 Giao dịch dân sự xác lập bởi sự giả tạo ………………………………...…..3 Khái niệm giả tạo trong giao dịch dân sự …………………………...3 Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo theo quy định của pháp luật…... 4 Giao dịch dân sự xác lập bởi sự nhầm lẫn ……………………………..…..6 Khái niệm nhầm lẫn trong giao dịch dân sự …………………………..…...6 Giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn theo quy định của pháp luật………..6 Giao dịch dân sự xác lập bởi sự lừa dối ……………………………………9 Khái niệm lừa dối trong giao dịch dân sự …………………………………..9 Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo quy định của pháp luật…………10 Giao dịch dân sự xác lập bởi sự đe dọa…………………………………….11 Khái niệm đe dọa trong giao dịch dân sự ……………………………….…11 Giao dịch dân sự vô hiệu do đe dọa theo quy định của pháp luật………….12 Giao dịch dân sự được xác lập mà vào thời điểm xác lập, người xác lập không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình…………… …………..13 Không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình trong GDDS …13 Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình……………...…………………………..………….13 Một số vấn đề khác về GDDS vi phạm sự tự nguyện của chủ thể…..14 Hậu quả pháp lý của GDDS vi phạm sự tự nguyện của chủ thể……14 Thực trạng - Giải pháp đối với việc áp dụng luật, tuyên bố giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể và giải quyết hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự tại Tòa án ở nước ta. ………………….…..17 Một số ý kiến ………………………………………………………..18 Về giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể ….………………..18 Về hậu quả pháp lý của giao dịch vi phạm sự tự nguyện của chủ……...….19 KẾT LUẬN ………………………………………………………………. 19

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHọc kỳ dân sự ĐỀ BÀI 06- Một số vấn đề về giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể.doc
Luận văn liên quan