Một số vấn đề về kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc những năm qua ở Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời đại ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng khách quan của tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Chúng ta đã tích cực mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và chủ động hội nhập với nền kinh tế, văn hóa của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong xu thế hội nhập đó phải kể đến mối quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc. Thực tế, trong những năm gần đây, Việt Nam – Hàn Quốc đang cố gắng thúc đẩy mối quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế và đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Cùng với sự giao lưu hợp tác về kinh tế là sự gia tăng các quan hệ về hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc đã và đang trở thành điểm nóng của dư luận xã hội. Theo điều tra tại Sở thống kê Hàn Quốc, trong tổng số 320.063 cuộc hôn nhân của người Hàn Quốc năm 2001 thì có 10.006 cuộc hôn nhân giữa người Hàn Quốc và người nước ngoài và đến năm 2006 thì có đến 30.208 cuộc hôn nhân với người nước ngoài trong tổng số 332.752 cuộc hôn nhân, tăng gấp khoảng ba lần. Trong đó, số cuộc hôn nhân với phụ nữ Việt Nam năm 2001 là 134 cuộc nhưng đến năm 2006 đã lên tới 10.131 cuộc, tăng 75 lần và đầu năm 2008 là 25.000 cuộc và dự kiến trong tương lai sẽ còn tiếp tục tăng thêm nữa [15]. Đây được coi như một hệ quả tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, thực tế trong những năm qua cho thấy, việc kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc về cơ bản đã đáp ứng được những yêu cầu của pháp luật về HN&GĐ Việt Nam, góp phần tăng thêm sự hiểu biết cũng như mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước Việt – Hàn nhưng bên cạnh đó cũng tồn tại hàng loạt các vấn đề nảy sinh như tình trạng buôn bán phụ nữ, núp dưới hình thức kết hôn với người nước ngoài trong đó có kết hôn với người Hàn Quốc đang diễn biến ngày càng phức tạp với tính chất và quy mô hoạt động phạm tội có chiều hướng gia tăng. Bọn tội phạm đã lợi dụng sơ hở của pháp luật trong tư vấn môi giới hôn nhân với người nước ngoài để lừa nhiều phụ nữ ở các vùng nông thôn nghèo, trình độ học vấn thấp sau đó qua biên giới bán cho các chủ chứa, nhiều phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc bị xúc phạm nhân phẩm, danh dự, bị hành hạ dã man thậm chí còn bị chính chồng mình sát hại, trong đó có những người phải trốn về nước trong tình trạng không quốc tịch do đã thôi quốc tịch Việt Nam nhưng chưa được nhập quốc tịch Hàn Quốc và rơi vào hoàn cảnh trắng tay . Tất cả những điều đó đang làm cho dư luận hết sức bức xúc bởi hậu quả mà nó để lại không chỉ là trước mắt mà về lâu dài, nó còn ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều mặt kinh tế, văn hóa, an ninh xã hội, pháp luật quốc gia và quốc tế. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống nhằm đánh giá đúng thực trạng của tình hình phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài mà đặc biệt là với công dân Hàn Quốc trong những năm qua ở Việt Nam để qua đó, đề ra những phương hướng, giải pháp nhằm hạn chế những mặt tiêu cực của hiện tượng kết hôn này, đồng thời có những biện pháp nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho phụ nữ Việt Nam khi tham gia quan hệ kết hôn với người nước ngoài có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, của quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với Hàn Quốc và giữa Việt Nam với các nước khác trên thế giới. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, em quyết định chon đề tài “ Một số vấn đề về kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc những năm qua ở Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở nước ta, trong những năm gần đây, việc nghiên cứu các khía cạnh của quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài đã được các nhà nghiên cứu đề cập đến ở những mức độ khác nhau. Trong đó phải kể đến Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Hồng Bắc về vấn đề “ Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam” và luận án tiến sĩ của tác giả Nông Quốc Bình về vấn đề “ Pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam”. Đặc biệt trong thời gian qua, trước sự bức xúc của dư luận xã hội về thực trạng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài bị xúc phạm về danh dự nhân phẩm, đã có nhiều bài viết đề cập đến tình trạng trên, trong đó phải kể đến bài viết “ Dư luận xã hội về hôn nhân có yếu tố nước ngoài” của tác giả Hoàng Bá Thịnh - Bộ môn xã hội học giới và gia đình, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn. Bài viết của tác giả Nguyễn Văn Thắng “ Thử tìm nguyên nhân vấn đề phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài” đăng trên tạp chí Luật học số 6/2008. Tuy vậy, cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào đi sâu vào nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống về vấn đề kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc. Vì vậy đây là đề tài nghiên cứu có tính chất chuyên sâu về vấn đề này. 3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích của luận văn: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, phân tích những quy định hiện hành của pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam; - Đánh giá thực trạng tình hình kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc trong những năm qua ở Việt Nam; Kiến nghị những giải pháp nhằm hạn chế những tiêu cực của hiện tượng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài nói chung và với công dân Hàn Quốc nói riêng. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn không có tham vọng đề cập tới tất cả các vấn đề liên quan đến thực trạng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài nói chung mà chỉ tập trung phân tích và làm sáng tỏ thực trạng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc trong những năm qua ở Việt Nam, từ đó tìm ra nguyên nhân và đề ra những giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro trước thực trạng gia tăng ngày càng nhiều hiện tượng này. 4. Phương pháp nghiên cứu đề tài Để nghiên cứu thực trạng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc trong những năm qua ở Việt Nam, tác giả đã sử dụng một số phương pháp: - Phương pháp phân tích - Phương pháp tổng hợp - Phương pháp so sánh 5. Cơ cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu như sau: Chương 1. Sơ lược pháp luật điều chỉnh việc kết hôn có yếu tố nước ngoài. Chương 2. Thực trạng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc và một số giải pháp nhằm hạn chế tiêu cực trong việc kết hôn có yếu tố nước ngoài

doc59 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3691 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số vấn đề về kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc những năm qua ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ểm soát của nhà nước và tình trạng môi giới bất hợp pháp vẫn tiếp tục ra tăng ngày càng cao. 2.1.2.2. Nguyên nhân chủ quan * Nguyên nhân kinh tế Hiện tượng kết hôn với người nước ngoài và xuất cảnh ra sinh sống ở nước ngoài vốn dĩ được nhìn nhận như một hiện tượng tất yếu về sự chuyển dịch nhân khẩu trong xu thế toàn cầu hóa. Tuy nhiên sự gia tăng nhanh chóng, tạo thành làn sóng phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn quốc trở thành một hiện tượng xã hội bất bình thường bởi phần lớn, việc xác lập các quan hệ hôn nhân này xuất phát từ mục đích kinh tế. Đa số các cô dâu Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc là người không có việc làm hoặc có việc làm nhưng thu nhập không cao, hoàn cảnh gia đình khó khăn dẫn đến tâm lý phổ biến là hy vọng việc kết hôn với người Hàn Quốc sẽ giúp thay đổi hoàn cảnh sống và tạo điều kiện giúp đỡ gia đình bớt khó khăn về kinh tế. Không ít người quyết định kết hôn trong tình trạng gia đình túng quẫn, thiếu nợ, trong tình trạng ấy, việc kết hôn để có ngay một khoản tiền là biện pháp duy nhất được lựa chọn để giúp gia đình giải quyết ngay khó khăn trước mắt. Mặt khác, có nhiều phụ nữ do nhẹ dạ cả tin hoặc lười nhác lao động cho rằng lấy chồng nước ngoài sẽ có cuộc sống sung sướng, nhàn hạ, đầy đủ nên tìm mọi cách lấy chồng nước ngoài, kể cả qua trung gian, môi giới. Có ý kiến nhận xét về đặc điểm hôn nhân với người Hàn Quốc hiện nay là “Xu hướng lấy chồng Hàn Quốc tăng lên, trẻ hoá cô dâu. Trước đây lấy chồng thì được tiền, nay các cô thôn nữ bỏ tiền ra cưới chồng ngoại quốc”. Báo chí vừa qua cũng đã phản ánh một trường hợp cô gái trẻ ở phía Bắc “cưới chồng” Hàn quốc với số tiền quy ra khoảng mười tấn thóc. Bởi lý do kết hôn là ra nước ngoài có việc làm: “ Đi lao động Hàn Quốc thì phải tốn tiền môi giới, mà hợp đồng lao động lại có hạn, chỉ phù hợp với những phụ nữ đã có gia đình. Nếu các cô lấy chồng, tờ hôn thú sẽ đảm bảo cho các cô việc ở lại Hàn Quốc làm việc tới già. Thu nhập của các cô là niềm mong đợi của gia đình ở quê nhà. Đó là những cuộc hôn nhân hai trong một, vừa có chồng, vừa có việc làm. Số tiền các cô vay mượn bỏ ra mua chồng, sang đến Hàn quốc, đi làm vài tháng là dư trả” [21] Về phía Hàn Quốc, một thực tế không thể phủ nhận là Hàn Quốc ngày càng phát triển và là một trong bốn con rồng Châu Á, cho nên đời sống của người dân Hàn Quốc ngày càng được cải thiện về cả vật chất và tinh thần. Ví dụ: Thu nhập của Hàn Quốc khoảng 19000 đô la một năm, còn Việt Nam chỉ khoảng 600 đô la một năm [17], do đời sống cao cộng với sự du nhập của văn hóa phương tây nên nhiều phụ nữ đã chuyển đổi nhận thức về cuộc sống gia đình với tiêu chuẩn tìm bạn đời cao hơn, đa số phụ nữ lấy chồng muộn và không muốn lấy chồng là nông dân, thu nhập thấp. Vì vậy, nhiều nam giới ở nông thôn không thể lấy được vợ, họ buộc phải chuyển hướng ra bên ngoài đất nước, với thu nhập thấp của họ nhưng đang là ưu thế đối với công dân các nước kém phát triển, họ đã dùng điểm mạnh này để lấy vợ nước ngoài, trong đó có cô dâu Việt là phù hợp với kinh tế của họ * Do phụ nữ Việt Nam có nhiều ưu điểm. Do truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của nhiều vùng miền có sự khác nhau Do tiếp thu những tinh hoa đạo đức của văn hóa phương Đông nên người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay đều được ca ngợi có đức tính cần cù, chịu thương chịu khó, một lòng vì chồng, vì con. Điều này hết sức được coi trọng ở đất nước Hàn quốc bởi lẽ do chịu ảnh hưởng của văn hóa nho giáo nên người Hàn Quốc quan niệm rằng, phụ nữ lập gia đình thì họ hoàn toàn phải theo nhà chồng. Cũng chính vì vậy mà tại website của các trung tâm môi giới kết hôn quốc tế Việt Hàn có thể thấy những lời quảng cáo như “ Việt Nam có nền văn hóa ảnh hưởng nho giáo tương đồng với Hàn Quốc nên phụ nữ Việt Nam rất có tư tưởng phục tùng, tôn kính cha mẹ và đề cao gia đình, vì vậy phụ nữ Việt Nam chính là nàng dâu tốt nhất” Một nguyên nhân khác cũng được coi là yếu tố không nhỏ dẫn đến tình trạng gia tăng của hôn nhân Việt- Hàn đó là do tập quán, lối sống ở mỗi khu vực khác nhau. Thực tế cho thấy, tình trạng kết hôn với người Hàn Quốc chủ yếu xảy ra ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền tây Nam Bộ. Ở nước ta, thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm văn hóa, kinh tế, thương mại, xã hội có nhiều điểm thuận lợi: có cảng rộng lớn, giao thông thuận tiện...Với ưu thế đó, cộng với chính sách mở cửa thu hút đầu tư, mở rộng quan hệ hợp tác của của chính quyền thành phố làm gia tăng mối quan hệ hợp tác, giao dịch trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội giữa Việt Nam và các nước, trong đó có quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người Hàn Quốc. Có thể do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường nên từ lâu, quan niệm của mọi người về việc kết hôn với người nước ngoài cũng cởi mở hơn, dư luận ít khắt khe hơn. So với cả nước, thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có số lượng kết hôn có yếu tố nước ngoài cao nhất nước với trên 60 quốc gia có công dân là chủ thể tham gia vào mối quan hệ hôn nhân với công dân Việt Nam. Những năm gần đây, tình hình phụ nữ Việt Nam kết hôn với công dân Hàn Quốc lại có chiều hướng tăng nhưng không đáng kể, tính từ 2003 đến 2007 có 734 người lấy chồng Hàn Quốc( Sở Tư pháp TPHCM). Còn ở các tỉnh miền tây Nam bộ, chẳng hạn như Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, do ở đây chịu ảnh hưởng của nhiểu nền văn hóa khác nhau như Ấn Độ, Hồi giáo, Pháp và Mỹ cho nên việc hôn nhân với người nước ngoài được dễ dàng chấp nhận hơn, vì vậy số phụ nữ kết hôn với người Hàn Quốc tăng lên đáng kể. Ví dụ: Ở Đồng Tháp, số phụ nữ kết hôn với người nước ngoài nhiều đến mức ở đây đã xuất hiện một số “địa danh ngoại” như ấp Đài Loan, cồn Hàn Quốc...Tính từ năm 2000 đến 2005, mỗi năm Đồng Tháp có hơn 2000 trường hợp kết hôn với người nước ngoài, nhất là với người Đài Loan, Hàn Quốc [20]. Thực trạng này có thể xuất phát từ tuyền thống và văn hóa của khu vực miền tây Nam bộ đó là do ít bị ảnh hưởng của đạo Khổng như miền Bắc, do đó nơi này cởi mở hơn với việc kết hôn với người nước ngoài. Trong hôn nhân, người dân Nam Bộ ít câu nệ về vấn đề gia tộc, tuổi tác... cho nên có khá nhiều cuộc hôn nhân hỗn hợp giữa các dân tộc khác nhau. Ở Hà Tĩnh, một tỉnh miền Trung hiện đang rất ngèo nhưng số lượng các cô gái kết hôn với người nước ngoài nói chung và người Hàn Quốc nói riêng rất ít, phải chăng cũng là do có nguyên nhân xuất phát từ cách sống, suy nghĩ của con người. Đã có nhiều bậc cha mẹ kiên quyết cho rằng, thà để con gái ế chồng chứ nhất định không cho đi lấy chồng nước ngoài, và thực tế thì ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung, số lượng phụ nữ lấy chồng nước ngoài còn rất khiêm tốn so với các tỉnh phía nam * Do ảnh hưởng của các phương tiện thông tin, truyền thông Trong những năm qua, sự du nhập ồ ạt của các loại hình thông tin qua báo chí, phim ảnh, thời trang, mỹ phẩm... của Hàn Quốc đã tạo ra “ Làn sóng Hàn Quốc” ở Châu Á nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Hàng loạt các bộ phim Hàn được chiếu tại Việt Nam với hình ảnh những diễn viên đẹp trai, chung thủy, giàu có...Với giấc mơ Hàn Quốc, những cô gái Việt Nam chỉ nhìn thấy qua phim ảnh những mặt tươi đẹp của cuộc sống mà không thấy các khó khăn khi quyết định số phận. Không phải chỉ riêng các cô gái bị mê hoặc mà cả các bậc cha mẹ cũng coi việc hôn nhân như là một sự cứu cánh nên đã thúc đẩy con gái lao vào, thậm chí đã có các gia đình Việt Nam phải chịu chi phí để cho con gái lấy chồng Hàn Quốc. Trong khi đó, tại quê hương hàng ngày phải chứng kiến cảnh ông bố, ông chồng say xưa rượu chè, chửi bới đánh đập vợ con cho nên có nhiều trường hợp còn dấu cả bố mẹ để kết hôn. Điều đó cho thấy ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đến nhận thức của người dân là vô cùng lớn, với thông tin một chiều như vậy, Hàn Quốc trở thành miền đất hứa đối với các cô dâu Việt, đây cũng là một nguyên nhân không nhỏ góp phần làm gia tăng tình trạng kết hôn của phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc trong những năm qua. * Các nguyên nhân khác Một nguyên nhân khác cũng không kém phần quan trọng đó là vấn đề kết hôn với người nước ngoài đã có từ lâu, và thực sự rầm rộ trong khoảng mươi năm trở lại đây. Tuy nhiên, từ phía cộng đồng, xã hội chưa thật sự quan tâm và các đoàn thể dường như cũng bỏ qua, không thấy có vai trò và trách nhiệm trong chuyện này. Ngay cả Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, là tổ chức chính trị xã hội của Phụ nữ mà cũng chưa thật quan tâm đến số phận các thành viên của Hội kết hôn với người nước ngoài. Nhiều bộ, ngành còn thiếu trách nhiệm trước hiện tượng kết hôn với người nước ngoài. Ví dụ, “ trong khi Cục thống kê Hàn Quốc có số liệu cụ thể về những trường hợp kết hôn với người nước ngoài, thì ở Việt Nam Cục thống kê dường như “không thèm nắm mấy con số lặt vặt” đó. Bộ Tư pháp cũng không phân tích số liệu phụ nữ Việt Nam lấy chồng các nước. Toà án tối cao không thống kê tỷ lệ ly hôn với người nước ngoài, phân tích nguyên nhân. Sở Tư pháp cấp giấy kết hôn với người nước ngoài, nhưng đến xin số liệu phải đợi tách ra từng nước” [24]. Qua đó có thể thấy, các tổ chức xã hội, các ngành chức năng còn thiếu quan tâm đến hiện tượng hôn nhân có yếu tố nước ngoài của phụ nữ Việt Nam, và chưa có đơn vị xã hội nào coi đó là nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Về phía Hàn Quốc, Đại sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam là nơi cho phép các cô dâu Việt sang Hàn Quốc nhưng không có quy định kiểm tra tiếng Hàn như đi lao động xuất khẩu. Đây là một kẽ hở để cho việc ra đi nhằm mục đích khác như đi lao động, nhập quốc tịch hoặc đi nước khác... và là điểm nhấn cực kỳ quan trọng Tóm lại: Sự gia tăng các trường hợp kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc trong những năm qua có thể do xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó những nguyên nhân khách quan có thể kế tới ở đây đó là do Đảng và Nhà nước ta thực hiện chính sách đối ngoại mở cửa, hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới dẫn đến sự giao lưu hợp tác giữa công dân các nước trên thế giới với Việt Nam, thông qua đó, họ gặp gỡ tìm hiểu và đi đến kết hôn với nhau; Mặt khác, do Hàn quốc thực hiện các chính sách mang tính khuyến khích công dân nước mình kết hôn với người nước ngoài nhằm giảm thiểu tình trạng suy giảm dân số của đất nước mình ; Bên cạnh đó cũng phải kể tới nguyên nhân đó là do hoạt động quản lý của Nhà nước ta về hôn nhân có yếu tố nước ngoài còn nhiều bất cập, nhiều hoạt động môi giới hôn nhân bất hợp pháp diễn ra ngoài vòng kiểm soát của nhà nước. Về phía những nguyên nhân chủ quan thì có thể kể tới ở đây đó là do sự chênh lệc về trình độ kinh tế giữa hai nước, nhiều phụ nữ Việt Nam sống trong cảnh nghèo khó, trình độ học vấn thấp mơ ước lấy chồng nước ngoài để thay đổi cuộc sống, để phụ giúp gia đình, không những thế, phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay đều được ca ngợi có nhiều đức tính tốt như một lòng vì chồng vì con, tận tụy với gia đình nên phù hợp với truyền thống của gia đình Hàn Quốc. Bên cạnh đó, do sự khác nhau về truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của nhiều vùng miền trên cả nước nên hiện tượng kết hôn với người Hàn Quốc thường xảy ra ở miền Nam và Tây Nam Bộ vì tâm lý lấy chồng ngoại ở đây là bình thường, còn ở các tỉnh phía Bắc thì ít hơn; Mặt khác, do ảnh hưởng của các phương tiện thông tin, truyền thông mà đặc biệt là những bộ phim Hàn Quốc được chiếu hàng loạt trên ti vi đã làm cho nhiều phụ nữ mơ ước đến một thiên đường mà ở đó họ được sung sướng, được đổi đời. Và một nguyên nhân cũng không kém phần quan trọng đó là do các bộ, ngành, địa phương và cả phía Hàn Quốc chưa thực sự quan tâm đến thực trạng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Hàn Quốc, nhiều cuộc hôn nhân được tiến hành nhưng vì mục đích khác mà không phải trên cơ sở tình yêu chân chính, điều đó đã tạo nên mặt trái của các cuộc hôn nhân Hàn – Việt tưởng chừng như hợp pháp là hiện tượng hàng chục nghìn trẻ em và phụ nữ bị buôn bán qua biên giới dưới hình thức môi giới hôn nhân, gây nhức nhối cho dư luận xã hội. 2.1.3. Hậu quả xã hội và pháp lý từ việc kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc 2.1.3.1. Hậu quả xã hội Hiện nay, hôn nhân với người nước ngoài là một xu thế tất yếu. Chúng ta không thể vì những quan niệm cũ về hôn nhân ngoại bang, với sự kỳ thị “mẹ Tây”, “mẹ Mỹ” như thời còn ngoại xâm mà lên án và ngăn chặn hôn. Không thể duy ý chí trong việc muốn hay không muốn có hiện tượng kết hôn với người nước ngoài. Đây là một vấn đề bình thường trong quá trình phát triển, giao lưu và hội nhập kinh tế, văn hoá. Pháp luật Việt Nam cũng không có bất cứ quy định nào ngăn cản việc kết hôn của công dân Việt Nam với người nước ngoài nhưng những năm gần đây, việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài đặc biệt là làn sóng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Hàn Quốc diễn ra hết sức phức tạp, trong số đó có không ít vụ kết hôn do môi giới bất hợp pháp, bị lừa đảo, bất hạnh bởi hầu hết đó là những cuộc hôn nhân vì mục đích kinh tế, nhiều cô gái mơ ước lấy được chồng giàu mà không dựa trên cơ sở hiểu biết về văn hóa, lối sống, về tình cảm và không xuất phát từ tình yêu nam nữ tự nguyện, đã để lại hậu quả đau lòng là nhiều cô dâu Việt Nam lâm vào hoàn cảnh bi đát, hàng chục ngàn ông bố, bà mẹ sống trong sự hối hận, xót xa vì vội gả con cho người nước ngoài; ảnh hưởng đến an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Ở Việt Nam từ nhiều năm, báo chí cũng đã nhiều lần lên tiếng và cảnh báo trước hiện tượng kết hôn với người nước ngoài ngày càng gia tăng. Từ năm 1995 đến nay, hàng trăm bài báo ở Việt Nam đã điều tra các đường dây tuyển các thôn nữ đem về Thành phố Hồ Chí Minh nuôi nhốt trong những phòng trọ, cho những người đàn ông lớn tuổi, tật nguyền từ Đài Loan, Hàn Quốc đến tuyển lựa. Chưa kể hàng trăm bài báo mô tả cảnh cô dâu Việt Nam ở Đài Loan, Hàn Quốc bị ngược đãi, làm vợ tập thể,...phải trốn về nước [24]. Trong một bài viết trên báo Đồng Tháp được đăng tháng 5/2008 cho biết: Vài ba năm trước đây, những vùng quê yên bình ở xã Mỹ An Hưng B - huyện Lấp Vò, xã Phong Hoà - huyện Lai Vung… rộ lên phong trào “lấy chồng Hàn Quốc”. Một xóm có đến hàng chục, thậm chí hàng trăm cô gái miệt vườn tuổi mười tám, đôi mươi theo người dẫn mối lên thành phố Hồ Chí Minh để những người đàn ông Hàn Quốc chọn làm vợ. Nếu được chọn, sẽ tổ chức đám cưới ngay. Sau đó gia đình được người môi giới cho ít tiền, còn cô gái thì khăn gói theo chồng về xứ lạ, phó thác thân phận theo kiểu… “may nhờ rủi chịu”. Một kịch bản kết hôn na ná như vậy thì rất khó hy vọng về một cuộc hôn nhân hạnh phúc nhưng vì sao các cô gái quê lại đua nhau lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc đến như vậy. Chính tâm lý “xấu che, tốt khoe” đã đẩy các cô gái nông thôn nghèo, ít học đến với con đường lấy chồng Hàn Quốc vì chỉ thấy trước mắt những cô gái đi trước có cuộc sống sang trọng, có tiền gởi về gia đình, cất nhà khang trang, mua sắm phương tiện sinh hoạt đắt tiền nên tất cả đều ham muốn được đổi đời nhanh chóng mà họ đâu biết rằng trong số đó có bao nhiêu là trường hợp bất hạnh đang sống trong cảnh khổ sở nơi xứ người, hoặc phải ôm con nhỏ trở về gia đình với nỗi dằn dặt không nguôi vì trót một lần lầm lỡ. Và cũng có không ít những gia đình gả con với hy vọng sẽ được đổi đời, giàu có nhưng sự thật sau đám cứơi, gia đình chỉ được bọn môi giới chi vài trăm đô sau đó thì ngày ngày mòn mỏi chờ đợi mà đâu biết rằng con gái mình đang phải sống vất vã, khổ sở nơi xứ người nên ít liên hệ về gia đình [25]. Tất cả những điều đó đã để lại hậu quả mà xã hội phải gánh chịu không chỉ là trước mắt mà về lâu dài, nó còn ảnh hưởng đến nhiều mặt kinh tế, an ninh xã hội, pháp luật quốc gia và quốc tế. Đặc biệt những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, nét đẹp vốn có từ lâu đời của phụ nữ Việt Nam bị xâm phạm một cách nghiêm trọng. Trong bài viết này tác giả xin đưa ra một ví dụ điển hình cho sự xâm phạm thuần phong mỹ tục, ảnh hưởng đến uy tín quốc gia. Đó là vào tháng tư năm 2006, có một bài viết đăng trên báo Chosun (Hàn quốc) của phóng viên Chae Sung Woo đề cập đến thực trạng phụ nữ Việt nam lấy chồng Hàn quốc, thông qua bài báo thì có thể thấy, phụ nữ Việt Nam được xem như một món hàng rất dễ mua “Trên bàn tiếp khách làm bằng tre, một người đàn ông HQ đang ngồi. 11 phụ nữ đang hồi hộp với ước mơ thoát khỏi cái nghèo. Người đàn ông HQ nhìn lướt qua một lượt khuôn mặt những cô gái đang ngồi xếp chân sang một bên. Sau 20 phút, ông ta quyết định thôi không chọn nữa và nói “Ôi, thật ngại quá, không biết chọn ai bây giờ”. Người đàn ông HQ này sang Việt Nam tìm vợ, với mục đích về để giúp bà mẹ của mình, như lời ông ta hỏi với cô gái được chọn “Tôi đang thất nghiệp nhưng sẽ xin việc làm. Mẹ tôi đã có tuổi và đang kinh doanh một của hàng thức ăn nhỏ. Có nuôi mẹ tôi được không?”. Cũng chính vì mục đích lấy vợ về để phục vụ gia đình, nên người đàn ông HQ này sau một lúc chần chừ cũng chọn Sen (cô gái xuất thân từ một vùng quê nghèo khó, cách Tp. HCM bốn giờ xe chạy) vì “Mẹ tôi dặn đi dặn lại là chọn cô nào có tướng tá to lớn để mai mốt còn phục vụ cơm nước cho bà”. Không những thế ở Hàn Quốc hiện nay, chúng ta có thể tìm thấy trên bất kỳ nhật báo nào những lời quảng cáo như “Cô dâu Việt Nam đã sẵn sàng, chỉ cần có ý định của bạn”. Để thêm sức thuyết phục cho việc tiếp thị lấy vợ Việt Nam, những quảng cáo nói trên còn liệt kê chi tiết về những ưu điểm của con gái Việt Nam. Đó không chỉ là vẻ hấp dẫn về hình thức như “dáng người đẹp nhất trên thế giới” và quyến rũ hơn so với phụ nữ ở một số nước trong châu lục với những phẩm hạnh tuyệt vời như “xuất giá tòng phu”, “tôn trọng người già, thờ cúng tổ tiên đến bốn đời”, “giữ gìn trinh tiết và chung thuỷ với chồng”. Những kiểu quảng cáo xúc phạm nhân phẩm phụ nữ Việt Nam như vậy đã tạo nên làn sóng phản ứng dữ dội ở Hàn Quốc và đặc biệt ở Việt Nam, bởi vì đó không đơn giản chỉ là “nỗi đau về trách nhiệm, mà đây còn là nỗi nhục hình ảnh phụ nữ Việt Nam dưới con mắt người nước ngoài”(Võ Văn Kiệt). 2.1.3.2. Hậu quả pháp lý Xung đột pháp luật về giải quyết ly hôn giữa pháp luật Việt Nam và Hàn Quốc; vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn nhân trong điều kiện Việt Nam và Hàn Quốc chưa có thỏa thuận tương trợ tư pháp; vấn đề quốc tịch của các cô dâu Việt Nam sau khi kết hôn, vấn đề khai sinh và quốc tịch của trẻ em được sinh ra bởi hai dòng máu Hàn – Việt. Đây là những vấn đề pháp lý đang đặt ra từ thực tiễn các quan hệ hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam với người Hàn Quốc. * Vấn đề quốc tịch Khó khăn lớn nhất của các cô dâu Việt Nam là vấn đề quốc tịch. Khi chưa được nhập quốc tịch Hàn Quốc, địa vị pháp lý và các bảo đảm xã hội đối với cô dâu Việt Nam rất bấp bênh. Theo quy định tại khoản 2 điều 6 Luật quốc tịch Hàn Quốc thì điều kiện để được nhập quốc tịch Hàn Quốc đó là: Người nước ngoài có vợ hoặc chồng là công dân Hàn Quốc có đủ các điều kiện sau đây sẽ được nhập quốc tịch kể cả khi họ không đáp ứng được điều kiện quy định tại đoạn 1 Điều 5: 1. Người có chỗ ở ổn định tại Hàn Quốc trong vòng không dưới 2 năm liên tục từ khi đăng ký kết hôn. 2. Người đã ly hôn trong vòng 3 năm và có chỗ ở ổn định tại nước Cộng hoà Hàn Quốc trong vòng không dưới 1 năm liên tục từ khi đăng ký kết hôn Như vậy, người nước ngoài muốn xin nhập quốc tịch Hàn Quốc theo nguyện vọng thì người đó phải kết hôn rồi và ở Hàn Quốc liên tục trong hơn hai năm; hoặc người đó sau khi kết hôn trong hơn ba năm phải ở Hàn Quốc liên tục trong hơn một năm. Người nước ngoài được nhập quốc tịch thì con của họ đang ở tuổi vị thành niên theo quy định của Luật Dân sự nước Cộng hoà Hàn Quốc cũng đồng thời được nhập quốc tịch. Cũng theo Luật Quốc tịch Hàn Quốc, đối với người nước ngoài đã có quốc tịch Hàn Quốc, trong vòng sáu tháng kể từ ngày nhập quốc tịch Hàn Quốc, người đó phải từ bỏ quốc tịch nước ngoài của mình. Nếu người nào không thực hiện đúng như vậy mà qua thời gian đó thì coi như mất quốc tịch (bị tước quyền công dân). Vì vậy mà hiện nay có một số cô dâu Việt Nam rơi vào tình trạng không quốc tịch do họ đã được thôi quốc tịch Việt Nam nhưng chưa được nhập quốc tịch Hàn Quốc thì ly hôn hoặc chồng chết. Bên cạnh đó, trên thực tế cũng phát sinh khó khăn liên quan đến vấn đề quốc tịch của những đứa trẻ là con lai Hàn – Việt. Đây là số trẻ em đã có quốc tịch Hàn Quốc hoặc chưa xác định quốc tịch Hàn Quốc hay Việt Nam nhưng theo mẹ( ly hôn) hoặc được người mẹ gửi cho ông bà ngoại nuôi tại Việt Nam. Do vấn đề quốc tịch nên việc giải quyết khai sinh, đăng ký hộ khẩu cũng như việc thực hiện các chính sách giáo dục, y tế...đối với các trẻ em này gặp khó khăn, vướng mắc hiện chưa có hướng giải quyết * Vấn đề ly hôn Qua thực tiễn cho thấy, hầu hết các trường hợp sau khi đăng ký kết hôn đều trở về sinh sống tại Hàn Quốc, trong khi đó trước khi kết hôn, các cô gái Việt Nam hầu như chưa được trang bị những kiến thức cơ bản về ngôn ngữ, lối sống, phong tục tập quán cũng như pháp luật của Hàn Quốc... vì vậy, sau khi sang Hàn Quốc, họ rất khó hòa nhập vào đời sống xã hội và đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ly hôn ngay sau một thời gian chung sinh sống tại Hàn Quốc. Theo số liệu thống kê mà ông Do joo Myung - Trưởng ban dự án khu vực Cheon buk tại Hàn Quốc cho biết: “ Chỉ trong năm 2003, số người kết hôn là 310,944 người và số vụ ly hôn là 167,067 vụ. So với số kết hôn thì số vụ ly hôn chiếm hơn 50%, tỷ lệ ly hôn của các gia đình đa văn hóa năm 2006 là 1611 vụ, trong đó gia đình có phụ nữ Việt Nam là 147 vụ”. Theo quy định của Luật HN&GĐ2000, trường hợp vợ chồng khi ly hôn thì tài sản sẽ được chia đôi dựa trên công sức đóng góp của hai bên, tài sản riêng của người nào sẽ thuộc về người đó, trường hợp không chứng minh được là tài sản riêng thì sẽ thuộc tài sản chung. Việc chia tài sản trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của bà mẹ trẻ em. Quy định trên là hoàn toàn hợp lý bởi lẽ chế độ gia đình ở Việt Nam lấy trọng tâm gia đình là hai vợ chồng và địa vị của vợ chồng với nhau gần như là bình đẳng, vì vậy mà tài sản của vợ và chồng cùng gây dựng được sau khi kết hôn sẽ được coi là tài sản chung, trường hợp người vợ chỉ ở nhà chăm con và lo các công việc nội trợ trong gia đình thì khi ly hôn, tòa án vẫn giải quyết cho người vợ được hưởng một nửa số tài sản trong khối tài sản chung. Còn ở Hàn Quốc, Luật Dân sự Hàn Quốc liên quan đến hiệu quả tài sản của hôn nhân chọn lựa chế độ tài sản riêng của vợ chồng, do đó tài sản thuộc về từng người trước khi kết hôn và tài sản kiếm được với danh nghĩa bản thân trong quá trình hôn nhân được phán quyết là sở hữu của riêng mỗi người. Do vậy, trường hợp người vợ phải làm việc nhà, nuôi dạy con cái thì không được công nhận đóng góp trong việc hình thành tài sản. Chính vì vậy, khi chấp nhận ly hôn các cô dâu Việt Nam luôn phải gánh chịu những hậu quả bất lợi cả về con cái và tài sản. Đặc biệt là những trường hợp cô dâu Việt Nam chưa có quốc tịch Hàn Quốc nhưng đã ly hôn hoặc chồng chết thì phải gánh chịu nhiều thiệt thòi, thường rơi vào cảnh trắng tay khi về nước, không được nuôi con, không được chia tài sản vì pháp luật Hàn Quốc không bảo hộ quyền lợi của người phụ nữ trong những trường hợp này. * Vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ Việt Nam khi lợi ích đó bị xâm hại Có một thực tế là “làn sóng” kết hôn với người Hàn Quốc trong những năm gần đây đa số là các cô gái từ các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, học vấn thấp, ít hiểu biết. Mục đích lấy chồng nước ngoài của đa số là lấy được chồng giàu nên hầu hết các cuộc kết hôn diễn ra nhanh chóng, thực chất là hoàn tất sự chuẩn bị của người môi giới hoặc tổ chức môi giới về các thủ tục pháp lý trên cơ sở thỏa thuận mà không dựa trên cơ sở hiểu biết về văn hóa, lối sống, về tình cảm và không xuất phát từ tình yêu nam nữ tự nguyện. Chính vì vậy, mặt trái của các cuộc hôn nhân Hàn – Việt tưởng chừng như hợp pháp kia là sự bất bình đẳng trong hôn nhân khi mà đàn ông Hàn Quốc nhờ có chính sách hỗ trợ mà tìm đến các nước nghèo để tuyển vợ trong khi phụ nữ Việt Nam lại không có quyền lựa chọn chồng... Đằng sau những cuộc hôn nhân này là những mâu thuẫn nghiêm trọng trong đời sống gia đình các cô dâu Việt, đó là sự khác biệt về văn hoá, pháp luật và phong tục tập quán. Động cơ muốn thu hồi “vốn” của cô dâu, tâm lí lo ngại vợ bỏ trốn sau khi đã phải trả một khoản chi phí cưới vợ của chú rể Hàn đã khiến gia đình người chồng khống chế tài chính cũng như cơ hội giao tiếp bên ngoài của người vợ. Ngoài ra, luật ủng hộ gia đình đa văn hoá của Hàn Quốc cũng thể hiện sự chưa công bằng khi yêu cầu người phụ nữ phải học ngôn ngữ, phong tục, văn hoá của chồng nhưng ngược lại, người chồng lại không cần tìm hiểu những điều đó ở phía người vợ. Hôn nhân không trên cơ sở tình yêu thật sự, cùng việc thiếu thông tin rõ ràng về hai phía, lại chịu sự chi phối vì mục đích lợi nhuận của môi giới trung gian, đã khiến nhiều cuộc hôn nhân trở thành bi kịch với những vụ bạo lực gia đình, hay nhẹ hơn là sự không thể hoà nhập với cuộc sống chung. Tại Hàn Quốc, con số li hôn của các cặp vợ chồng quốc tế năm 2003 là 2.784 vụ, đến năm 2007 đã tăng lên 8.348 vụ. Mặt khác, trẻ em thế hệ thứ hai trong các gia đình đa văn hoá này không những cần phải hoà nhập được với môi trường xung quanh mà còn phải biết và hiểu được về quê hương thứ hai của mình. Tuy nhiên, vấn đề nay hiện nay vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Hiện nay, Nhà nước ta chưa có văn bản nào quy định việc bảo hộ cho công dân là phụ nữ Việt Nam sau khi kết hôn sang định cư tại Hàn Quốc nên việc giúp đỡ các cô dâu Việt Nam khi gặp hoàn cảnh khó khăn còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân như trình độ thấp, không có thông tin về các cơ quan ngoại giao. Ngày 21 tháng 7 năm 2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2006/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10-7-2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài của Luật HN&GĐ2000. Theo đó: Sở Tư pháp có trách nhiệm thực hiện phỏng vấn trực tiếp tại trụ sở Sở Tư pháp đối với hai bên nam, nữ để kiểm tra, làm rõ về sự tự nguyện kết hôn của họ, khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ chung và mức độ hiểu biết về hoàn cảnh của nhau. Việc đăng ký kết hôn cũng bị từ chối, nếu kết quả phỏng vấn, thẩm định, xác minh cho thấy việc kết hôn thông qua môi giới bất hợp pháp; kết hôn giả tạo không nhằm mục đích xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững; kết hôn không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc; lợi dụng việc kết hôn để mua bán phụ nữ, xâm hại tình dục với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác [7]. Mặc dù nghị định số 69/2006/ NĐ-CP được ban hành nhưng Bộ Tư pháp chưa có nào văn bản hướng dẫn hoạt động cho Trung tâm hỗ trợ kết hôn trong việc thực hiện chức năng tư vấn, môi giới hôn nhân,…. Một thực tế đặt ra trong những năm qua đó là nạn buôn bán phụ nữ đang ngày càng gia tăng và trở thành tâm điểm chú ý của xã hội. Theo thống kê chưa đầy đủ của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, từ năm 2004 đến 2009, cả nước xảy ra 1.218 vụ mua bán phụ nữ với trên 2.300 đối tượng và trên 3.000 nạn nhân; 191 vụ mua bán trẻ em với 268 đối tượng và 491 nạn nhân; mua bán cả phụ nữ và trẻ em 177 vụ, với 310 đối tượng và gần 500 nạn nhân, một số nạn nhân của các vụ lừa gạt, buôn bán này lại quay về lừa gạt ngay cả người thân, ruột thịt của mình. Thời gian qua, đã có hàng trăm bài báo ở Việt Nam đã điều tra các đường dây tuyển các thôn nữ đem về Thành phố Hồ Chí Minh nuôi nhốt trong những phòng trọ, cho những người đàn ông lớn tuổi, tật nguyền từ Trung Quốc, Đài Loan đến tuyển lựa. Chưa kể các bài báo còn mô tả cảnh cô dâu Việt Nam ở Trung Quốc, Đài Loan bị ngược đãi, làm vợ tập thể,...phải trốn về nước. Mặc dù còn nhiều bất cập cần giải quyết nhưng trong những năm qua, ở nước ta đã tiến hành thử nghiệm mô hình giảm thiểu tiêu cực tình trạng phụ nữ kết hôn với người nước ngoài và đạt được nhiều kết quả nhất định. Mục đích của mô hình này là thực hiện quyền bình đẳng và hạnh phúc chính đáng của phụ nữ trong tình yêu hôn nhân, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, đảm bảo kết hôn với người nước ngoài đúng theo Luật HN&GĐ2000. Theo thông tin được đưa ra tại Hội nghị tổng kết mô hình giảm thiểu tiêu cực tình trạng phụ nữ kết hôn với người nước ngoài giai đoạn 2008-2009 được tổ chức tại Vĩnh Long ngày 10/12, từ năm 2007 đến tháng 7/2009, các cơ quan chức năng tại Thành phố Hồ Chí Minh đã phát hiện và xử lý 38 vụ, 170 đối tượng tổ chức môi giới hôn nhân trái pháp luật cho người Đài Loan, Hàn Quốc. Trên cơ sở những bài học rút ra từ mô hình thử nghiệm được tổ chức tại Cần Thơ và Đồng Tháp từ 2005-2007, Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch đã mở rộng ra 6 tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Tiền Giang, Vĩnh Long, Hậu Giang, Bạc Liêu. Nhiều chương trình cho vay vốn xoá đói giảm nghèo, dạy nghề, tạo công ăn việc làm cho phụ nữ nông thôn vùng sâu, vùng xa cũng đã được triển khai. Hội phụ nữ các cấp cũng đã vào cuộc. Thông qua các buổi sinh hoạt chi, tổ hội, tuyên truyền lồng ghép cho chị em phụ nữ và gia đình về thực trạng kết hôn với người nước ngoài để tránh được tình trạng chị em nghe theo lời bọn cò môi lôi kéo. Nhìn chung, mô hình đã góp phần không nhỏ vào việc làm giảm thiểu rủi ro cho những phụ nữ kết hôn với người nước ngoài, thông qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho phụ nữ Việt Nam. * Vấn đề buôn bán phụ nữ Hiện nay tình hình buôn bán phụ nữ trên địa bàn cả nước nói chung, đặc biệt là buôn bán phụ nữ ra nước ngoài diễn ra dưới nhiều hình thức như xuất cảnh trái phép, kết hôn giả, lừa đưa ra nước ngoài lao động, du lịch sau đó ép làm nghề mại dâm v.v...với diễn biến phức tạp, tính chất và quy mô hoạt động phạm tội có chiều hướng gia tăng, có tổ chức chặt chẽ và xuyên quốc gia. Thủ đoạn nổi lên của bọn tội phạm là lợi dụng sơ hở pháp luật trong tư vấn môi giới hôn nhân với người nước ngoài lừa dối người những phụ nữ nhẹ dạ cả tin. Nhiều phụ nữ trẻ em ở các vùng nông thôn nghèo, trình độ học vấn thấp, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thất nghiệp, thiếu việc làm, chỉ vì nhẹ dạ tin vào những lời đường mật như hứa sẽ tìm cho một người chồng đẹp trai, giàu có, có khả năng giúp đỡ gia đình rồi sau đó bị lừa qua biên giới bán cho các chủ chứa. Đặc biệt, do thủ tục kết hôn với người nước ngoài, đặc biệt là Hàn Quốc đơn giản, chỉ cần có bản xác nhận lai lịch bản thân cô dâu và thỏa thuận của gia đình, có thể đăng ký kết hôn tại nước sở tại, nên bọn tội phạm đã dùng hình thức hôn nhân trá hình ngụy trang cho hành vi buôn bán phụ nữ. Thực tế, có không ít trường hợp thương tâm các cô gái sau khi kết hôn đã bị bán làm gái mại dâm trong các nhà chứa mà báo chí đã có nêu xảy ra tại Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc hay bị lừa gạt lấy phải người chồng tâm thần tàn tật... Trước tình hình đó, Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch đã yêu cầu các địa phương ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản về công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm buôn bán phụ nữ giai đoạn 2005 - 2010 của Thủ tướng Chính phủ và đã đạt được nhiều kết quả. Điển hình là “ vào ngày 13 tháng 7 năm 2006, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về Trật tự xã hội - Công an tỉnh Hậu Giang xác lập chuyên án đấu tranh với băng nhóm mua bán phụ nữ sang Malaysia nhằm mục đích làm gái mại dâm do Huỳnh Thu Giang, sinh năm 1963, thường trú tại: ấp 5, xã Long Trị, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang cầm đầu, kết quả bắt 04 đối tượng. Qua điều tra, các đối tượng thừa nhận đã tổ chức mua bán 24 phụ nữ (Vĩnh Long 08, thành phố Cần Thơ 07, Hậu Giang 06, An Giang 02 và Đồng Tháp 01). Trước đó, ngày 10 tháng 7 năm 2006 xác lập chuyên án mua bán phụ nữ sang Malaysia do tên Nguyễn Thị Tuyết Nga cầm đầu. Qua quá trình thu thập tài liệu chứng cứ, đến ngày 09 tháng 10 năm 2006 đã tổ chức phá án, kết quả khởi tố 06 đối tượng (trong đó truy nã quốc tế 01 đối tượng). Qua khai thác ban đầu, các đối tượng thừa nhận từ đầu năm 2004 đến nay đã dùng thủ đoạn dụ dỗ các nạn nhân để đưa sang Malaysia tìm việc làm hoặc lấy chồng nước ngoài. Khi các nạn nhân đồng ý, bằng các con đường tiểu ngạch chúng đưa các nạn nhân sang Campuchia, sau đó qua Thái Lan rồi đưa đến Malaysia bán vào các động mại dâm hoặc chúng tổ chức đưa các nạn nhân đi bằng đường hàng không từ sân bay Tân Sơn Nhất qua thẳng Malaysia sau đó bán vào các động mại dâm. Với thủ đoạn trên, bọn chúng đã tổ chức bán trên 30 phụ nữ ở địa bàn Hậu Giang và các tỉnh, thành phố lân cận sang Malaysia (thành phố Cần Thơ 09, Vĩnh Long 07, Hậu Giang 06, An Giang 04, Kiên Giang 02, Đồng Tháp 01, Sóc Trăng 01). Ngoài ra, đã phối hợp với C14 - Bộ Công an giải cứu được 16 nạn nhân bị lừa bán sang Malaysia, Trung Quốc. Đồng thời, hướng dẫn cho các gia đình có phụ nữ bị bán về cách thức tác động vào những đối tượng đã lừa gạt con em của họ đi bán, qua đó đã có 13 phụ nữ bị bán trở về đoàn tụ với gia đình tại địa phương [22] Tóm lại: Trên cơ sở phân tích hậu quả cả về mặt xã hội và pháp lý trước thực trạng kết hôn ngày càng gia tăng giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài nói chung và người Hàn Quốc nói riêng, có thể đưa ra một vài ý kiến đánh giá như sau: Hôn nhân quốc tế mà đặc biệt là hôn nhân Hàn Việt là kết quả tất yếu của quá trình mở cửa, giao lưu hội nhập của đất nước ta với các nước trên thế giới, chúng ta không thể phủ nhận những mặt tích cực của những cuộc hôn nhân này mang lại đó là nó tạo nên sự giao lưu quốc tế và sự đa dạng trong văn hóa của Việt Nam. Tuy nhiên, mặt trái của những cuộc hôn nhân này đã để lại nhiều hậu quả đau lòng mà xã hội phải gánh chịu, ảnh hưởng không nhỏ đến thuần phong mỹ tục của đất nước, đến uy tín của quốc gia. Vì vậy, chúng ta cần phải tìm ra những giải pháp nhằm đảm bảo cho hôn nhân quốc tế được lành mạnh, đảm bảo quyền lợi cho những người phụ nữ Việt Nam khi tham gia quan hệ kết hôn với người nước ngoài 2.2. Một số giải pháp nhằm hạn chế tiêu cực trong việc kết hôn có yếu tố nước ngoài Trên cơ sở phân tích những hậu quả về mặt xã hội và pháp lý như trên. Tác giả bài viết xin đưa ra một số giải pháp sau nhằm giảm thiểu những mặt trái của tình trạng kết hôn có yếu tố nước ngoài mang lại: * Trước hết, cần tăng cường công tác tuyên truyền rộng rãi trong cán bộ và nhân dân về Luật HN&GĐ2000, Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 và Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2006 nhằm giúp cho chị em phụ nữ nắm vững những quy định pháp luật, biết tự bảo vệ mình trong hôn nhân, tránh những hành vi lợi dụng hôn nhân nhằm mục đích trục lợi cho cá nhân hay tổ chức. Đồng thời, thông tin cảnh báo cho phụ nữ và các bậc cha mẹ về những rủi ro có thể gặp phải khi chấp nhận kết hôn với người nước ngoài, cuộc sống của phụ nữ sau kết hôn tại nước ngoài (bất đồng về ngôn ngữ, phong tục tập quán, nghề nghiệp, việc làm…), cảnh báo về tình trạng môi giới kết hôn bất hợp pháp, tình trạng phụ nữ bị lường gạt buôn bán thông qua con đường kết hôn nhằm giúp chị em hiểu biết đầy đủ, khách quan và chính xác về vấn đề này; * Trong quá trình phỏng vấn đăng ký kết hôn, Sở tư pháp các tỉnh cần xem xét các trường hợp kết hôn có nghi vấn, không tiếp nhận những hồ sơ kết hôn nộp qua người thứ ba. Trường hợp nghi vấn hoặc có khiếu nại, tố cáo kết hôn giả, lợi dụng kết hôn nhằm mục đích mua bán phụ nữ, hoặc xét thấy có vấn đề cần làm rõ về nhân thân của đương sự hoặc giấy tờ trong hồ sơ đăng ký kết hôn thì cần tiến hành xác minh làm rõ để góp phần loại trừ những trường hợp kết hôn không bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ. Đối với trường hợp kết hôn với người Đài Loan, Hàn Quốc... có độ tuổi chênh lệch cao, dị tật, kết hôn nhiều lần, Sở Tư pháp cần vận động đương sự và gia đình rút hồ sơ đăng ký kết hôn hoặc kéo dài thời gian để hai bên nam nữ tìm hiểu nhau nhiều hơn. Đồng thời phối hợp với cơ quan công an tăng cường các biện pháp để theo dõi, phát hiện và xử lý xử lý các trường hợp vi phạm luật hôn nhân gia đình như chung sống không đăng ký kết hôn, vi phạm chế độ một vợ, một chồng, xử lý đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh môi giới kết hôn bất hợp pháp, đối với những trường hợp có dấu hiệu cấu thành tội phạm, kiên quyết khởi tố để xử lý về hình sự; * Hội phụ nữ các tỉnh nên xúc tiến thành lập nhiều các Trung tâm hỗ trợ kết hôn với nội dung hoạt động là tư vấn giới thiệu hôn nhân, hỗ trợ thủ tục đăng ký kết hôn, mở các lớp học về ngoại ngữ, phong tục tập quán nước ngoài...Sở dĩ như vậy bởi vì trong thời gian qua, mặc dù Nghị định 68/2002/NĐ-CP và Nghị định 69/2006/NĐ-CP được ban hành nhưng chưa có văn bản nào hướng dẫn hoạt động cho Trung tâm hỗ trợ kết hôn trong việc thực hiện chức năng của mình. Về phía các cơ quan chức năng cũng cần quan tâm hơn đến chất lượng hoạt động của các trung tâm này nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm. * Các cơ quan chức năng cần có hướng dẫn cụ thể về thủ tục thẩm định, xác minh đối với hồ sơ đăng ký kết hôn, hướng dẫn rõ ràng những trường hợp nào là có nghi vấn, có “vấn đề” để đảm bảo đúng tiến độ về mặt thời gian, đặc biệt là trong xu thế cải cách hành chính như giai đoạn hiện nay. Bởi vì trên thực tế, mặc dù Nghị định 69/2006/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 68/2002/NĐ-CP về quan hệ hôn HN&GĐ có yếu tố nước ngoài đã tháo gỡ một số vấn đề về trình tự thủ tục trong việc đăng ký kết hôn, tuy nhiên có nhiều điểm trong Nghị định này chưa rõ ràng. Chẳng hạn khi Sở tư pháp thẩm tra hồ sơ đăng ký kết hôn, đến nay chưa có hướng dẫn cụ thể như thế nào là nghi vấn, nội dung khiếu nại tố cáo nào cần xác minh, thẩm định thuộc thẩm quyền của cả ngành Công an và Tư pháp. Cho nên, để an toàn nhiều địa phương đã chọn giải pháp 100% hồ sơ đều qua “cửa Công an”. Cách làm trên dễ dẫn đến hậu quả việc giải quyết hồ sơ một cách tuỳ tiện, kéo dài. Trong khi thực tế, công dân nước ngoài về Việt Nam thường rất hạn chế về mặt thời gian. Nếu hồ sơ không được giải quyết đúng hạn sẽ dẫn đến việc đương sự “bỏ của chạy lấy người” bởi theo quy định lễ đăng ký kết hôn (bắt buộc phải có mặt cả hai bên nam nữ ) phải được tổ chức trong thời hạn 7 ngày từ ngày Chủ tịch UBND cấp tỉnh ký Giấy chứng nhận kết hôn, trừ trường hợp có lý do chính đáng thì cũng phải tổ chức trong thời hạn không quá 90 ngày, nếu không sẽ phải làm lại thủ tục đăng ký từ đầu. Vì lý do đó mà thời gian qua, tại các Sở Tư pháp đã có khá nhiều trường hợp Giấy chứng nhận kết hôn bị huỷ do quá hạn về thời gian. * Thắt chặt điều kiện kết hôn hơn nữa như: Quy định cấm về sự quá chênh lệch tuổi kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài; về điều kiện kinh tế của người nước ngoài; hai bên vợ chồng phải có chứng chỉ chung (hoặc tiếng Anh, tiếng Việt, tiếng Trung...). Nghị định 69/2006/NĐ-CP quy định cụ thể những trường hợp từ chối đăng ký kết hôn, trong đó có việc lừa dối, cưỡng ép kết hôn nhưng trên thực tế, để xác định mục đích thực sự của cuộc hôn nhân là rất khó, kể cả khi đã đưa vào quy định bắt buộc các bên đương sự phải trả lời phỏng vấn tại Sở Tư pháp hay quy định hai bên đương sự phải cùng biết một thứ tiếng… Do vậy, nhằm tránh những tiêu cực trong lĩnh vực đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, cần tăng cường kiểm tra thanh tra đối với các hoạt động này và có biện pháp xử lý nếu phát hiện sai phạm. Ngoài ra, liên quan đến thẩm quyền ký Giấy chứng nhận kết hôn, nên sửa đổi quy định theo hướng Chủ tịch UBND cấp tỉnh có thể uỷ quyền cho Giám đốc Sở Tư pháp ký. Bởi xuất phát từ thực tế, Chủ tịch UBND cấp tỉnh có quá nhiều việc phải làm, trong nhiều trường hợp sẽ không ký đúng hạn. * Trong hợp tác quốc tế, Việt Nam cần mở rộng quan hệ hợp tác song phương, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp về vấn đề hôn nhân gia đình với các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có nhiều phụ nữ Việt Nam kết hôn như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc... trong đó đề cập tới những vấn đề liên quan như: Điều kiện kết hôn, vấn đề ly hôn, vấn đề quan hệ vợ chồng được ghi nhận và được giải quyết theo nguyên tắc xác định luật áp dụng... Đây được coi là một biện pháp hiệu quả trong việc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hôn nhân có yếu tố nước ngoài giữa các nước tham gia ký kết. Trên cơ sở các hiệp định đã ký, các cơ quan hữu quan cần phối hợp chặt chẽ trong việc triển khai thực hiện khi các hiệp định này thi hành. Mặt khác, giữa các nước cần có chính sách giúp đỡ lẫn nhau trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nước mình khi tham gia quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài. Một thực tế đáng ghi nhận là trong thời gian qua, trước làn sóng bức xúc của dư luận đối với các trường hợp cô dâu Việt Nam bị xúc phạm danh dự, nhân phẩm, chính quyền trung ương và địa phương Hàn Quốc đã dần nhận thức rằng cô dâu nước ngoài và gia đình đa văn hoá là những thực thể đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Từ năm 2005, chính phủ Hàn Quốc đã bắt đầu có những điều tra, nghiên cứu đầu tiên và từ 2006, một số cơ quan đã phối hợp đề xuất các phương án hỗ trợ cho cô dâu nước ngoài. Chính phủ đã cho ra đời có luật quản lí nghề môi giới kết hôn quốc tế và luật cơ bản đối xử với người nước ngoài tại Hàn Quốc vào năm 2007, định ra những phương hướng cơ bản trong chính sách về người nước ngoài giai đoạn trung và dài hạn, tăng cường các chính sách hỗ trợ về quyền lợi của phụ nữ nước ngoài lấy chồng Hàn Quốc trên cơ sở bình đẳng với người bản địa, coi trọng việc giáo dục đào tạo đa văn hoá ở các địa phương, thành lập các trung tâm hỗ trợ gia đình kết hôn với người nước ngoài tại theo quận, huyện... Đây có thể coi là những nỗ lực đáng ghi nhận từ phía Hàn Quốc. Tuy nhiên, theo tác giả, những chính sách hỗ trên không nên chỉ dừng lại là sự hỗ trợ giai đoạn đầu giúp các cô dâu Việt Nam thích ứng với đời sống mới mà phải được lập thành kế hoạch trên quan điểm coi những cô dâu nước ngoài và gia đình đa văn hoá như là “sức mạnh xã hội”, là thành viên chủ thể của xã hội, có thế mới giải quyết được triệt để tình trạng bất bình đẳng mang tính dân tộc tại các gia đình, địa phương có hôn nhân quốc tế. Nhưng cũng không thể phủ nhận rằng, cho dù chính phủ và các tổ chức xã hội có cố gắng đến đâu thì cũng không thể đạt hiệu quả bằng sự phối hợp của cả hai nước để giáo dục cho công dân nước mình hiểu biết về pháp luật, về hôn nhân gia đình, về người bạn đời và cuộc sống tương lai mà họ đã chọn. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực từ cả hai phía. * Cần tăng cường vai trò, trách nhiệm của các đoàn thể, tổ chức xã hội trên cả nước như Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân... Thực tế cho thấy, vấn đề kết hôn với người nước ngoài đã có từ lâu, và thực sự rầm rộ trong khoảng mươi năm trở lại đây. Tuy nhiên, từ phía cộng đồng xã hội, chưa thật sự quan tâm và các đoàn thể dường như cũng bỏ qua, không thấy có vai trò và trách nhiệm trong chuyện này. Ngay cả Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, là tổ chức chính trị xã hội của Phụ nữ mà cũng chưa thật quan tâm đến số phận các thành viên của Hội kết hôn với người nước ngoài. Chính vì vậy, các tổ chức, xã hội cần nâng cao ý thức trong việc bảo vệ các thành viên của mình khi mà lợi ích của các thành viên đó bị xâm hại. Trong thời gian tới, các tổ chức cần có những hành động cụ thể, chẳng hạn như thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, mạnh dạn lên án các hành vi vi phạm danh dự, nhân phẩm của phụ nữ và trẻ em gái. Đồng thời, phối hợp các ngành chức năng can thiệp kịp thời những trường hợp phụ nữ và trẻ em gái bị lường gạt. Hội Liên hiệp Phụ nữ các tỉnh nên phối hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tố chức các hoạt động dạy nghề, tạo việc làm, hỗ trợ vốn cho đối tượng nữ thanh niên chưa có việc làm, giúp chị em có việc làm tại chỗ, cải thiện đời sống, hạn chế các trường hợp kết hôn do đời sống quá khó khăn; Không những thế, để phát huy vai trò và năng lực của các tổ chức đoàn thể, nhất là Hội phụ nữ trong lĩnh vực HN&GĐ có yếu tố nước ngoài, rất cần thiết phải tổ chức những khóa học bắt buộc cho chị em phụ nữ trước khi chờ xuất cảnh về luật pháp, phong tục, tập quán của các vùng, miền của nước mà các cô sẽ đến làm dâu, bởi theo ông Nguyễn Quốc Cường, Phó vụ trưởng Vụ hành chính tư pháp, Bộ Tư pháp thì “Hầu hết trong 3 năm đầu, các cô dâu Việt rất khó hoà nhập với gia đình chồng vì không biết tiếng, chưa hiểu gia phong, tập tục.” Trước hết, phải dạy cho các cô kỹ năng nội trợ, sử dụng các đồ dùng tiện nghi trong gia đình nước ngoài, biết nấu các món ăn cho người nước ngoài, nơi mà các cô sẽ đến làm dâu. Thực tế cho thấy, có những trường hợp hôn nhân tan vỡ vì cô dâu không làm tròn bổn phận của mình. Như trường hợp một người đàn ông Hàn Quốc 45 tuổi sau hai tháng lấy cô vợ Việt Nam 19 tuổi đã đòi ly dị và kiện Viện bảo hộ người tiêu dùng Hàn Quốc, đòi lại phí thủ tục kết hôn vì cô vợ 19 tuổi dậy muộn, không lo bữa ăn sáng cho con trai đang học cấp ba của chồng. Vì thế, học để làm nội trợ phục vụ gia đình cũng rất cần thiết, và làm tốt điều này là yếu tố đảm bảo hôn nhân bền vững ở xứ người. Bên cạnh đó, để có thể làm tốt vai trò làm vợ, làm dâu ở nước ngoài, các cô cần phải biết ngôn ngữ của nước đó. Vì vậy, trước khi kết hôn cần phải học ngôn ngữ của quốc gia mà các cô có ý định lấy chồng. Dù không hy vọng các cô gái có trình độ học vấn thấp (thậm chí có người còn không biết đọc, viết) nhưng ít ra cũng dạy cho các cô biết được giao tiếp tối thiểu, có thể gọi tên các đồ vật, phương tiện sinh hoạt trong gia đình... Đây là tiền đề cho các cô có thể dần dần vượt qua được rào cản ngôn ngữ, dần dần hội nhập vào cuộc sống gia đình ở nước ngoài. Chỉ có như vậy, chúng ta mới góp phần làm giảm thiểu những rủi ro đối với các cô gái lấy chồng nước ngoài và mới xây dựng được những cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài có được hạnh phúc gia đình. Tóm lại: Từ thực trạng gia tăng nhanh chóng các trường hợp kết hôn với người nước ngoài trong những năm qua, đặc biệt là kết hôn với người Hàn Quốc và kéo theo đó là những hậu quả không chỉ những phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài phải gánh chịu mà nó còn ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục của đất nước, đến uy tín của quốc gia. Tác giả bài viết mạnh dạn đưa ra những ý kiến đóng góp và giải pháp trên nhằm giảm thiểu rủi ro trước thực trạng xã hội đáng quan tâm này. Tác giả hi vọng những giải pháp này sẽ đóng góp phần nào vào việc hạn chế mặt trái của các cuộc hôn nhân không dựa trên cơ sở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ theo như nguyên tắc mà Luật HNGĐ 2000 đã đề ra. PHẦN KẾT LUẬN Trong những năm qua, hôn nhân quốc tế mà đặc biệt là hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc ngày càng gia tăng, thực trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó bao gồm cả những nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Sự gia tăng các cuộc hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc một mặt chứng tỏ mối quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc ngày càng được củng cố trên nhiều lĩnh vực, mặt khác cũng khẳng định rằng, pháp luật Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của con người đó là quyền tự do kết hôn. Tuy nhiên, mặt trái của những cuộc hôn nhân đó là việc hàng ngàn cô dâu Việt Nam bị đối xử tàn tệ, bị xúc phạm danh dự, nhân phẩm, kéo theo đó là những vấn đề liên quan đến xung đột pháp luật về giải quyết ly hôn giữa pháp luật Việt Nam và Hàn Quốc, vấn đề quốc tịch của các cô dâu Việt Nam sau khi kết hôn, vấn đề khai sinh và quốc tịch của trẻ em được sinh ra bởi hai dòng máu Hàn – Việt... Đây là những vấn đề đặt ra để lại những hậu quả mà xã hội phải gánh chịu không chỉ là trước mắt mà về lâu dài, nó còn ảnh hưởng đến nhiều mặt kinh tế, an ninh xã hội, pháp luật quốc gia và quốc tế. Vì vậy, để hạn chế những mặt tiêu cực của các cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài mà đặc biệt là hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc cần phải có những giải pháp cụ thể cả từ phía xã hội và pháp luật. Với những giải pháp đã đề cập đến trong bài viết, tác giả hy vọng trong thời gian tới sẽ hạn chế được phần nào những tiêu cực trong việc kết hôn có yếu tố nước ngoài, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho phụ nữ Việt Nam khi tham gia các quan hệ trên. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ luật dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam( được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005); 2. Luật HN&GĐ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam( được Quốc hội thông qua ngày 09/06/2000); 3. Luật quốc tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (được Quốc hội thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008); 4. Luật quốc tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam( được Quôc hội thông qua ngày 20 tháng 5 năm 1998); 5. Luật quốc tịch nước Cộng hòa Hàn Quốc; 6. Nghị định 68/2002/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 10/07/2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật HN&GĐ có yếu tố nước ngoài; 7. Nghị định 69/2006/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 21/07/2006 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ; 8. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật HN&GĐ Việt Nam, NXB Công an nhân dân năm 2008; 9. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập hai, NXB Công an nhân dân năm 2007; 10. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp Quốc tế, NXB Công an nhân dân năm 2008; 11. Nguyễn Hồng Bắc( 2003), Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập - Luận án tiến sĩ Luật học; 12. Nông Quốc Bình(2003), Pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam - Luận án tiến sĩ Luật học; 13. Trịnh Thị Bích(2008), Bài tham luận tại Hội thảo Hôn nhân xuyên biên giới vùng Đông và Đông Nam Á tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày; 14. Hội thảo hôn nhân Việt – Hàn (2008), Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn và Viện phát triển chính sách của phụ nữ Chung cheong nam phối hợp tổ chức; 15. Do Joo Myung (2008), Hoạt động hỗ trợ của Quỹ viện trợ Quốc tế Hàn Quốc cho các gia đình Việt – Hàn, Hội thảo Hôn nhân quốc tế Hàn – Việt; 16. Kim Young Shin ( 2008), Những vấn đề và phương hướng giải quyết quan hệ hôn nhân quốc tế Việt – Hàn, Hội thảo Hôn nhân quốc tế Hàn – Việt ; 17. Nguyễn Văn Thắng, Thử tìm nguyên nhân vấn đề phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài( Tạp chí Luật học số 6/2008); 18. Hoàng Bá Thịnh(2005), Dư luận xã hội về hôn nhân có yếu tố nước ngoài, Bộ môn xã hội học giới và gia đình, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn; 19. Ngô Thị Trinh(2008), Xu hướng hôn gia tăng hôn nhân quốc tế Việt – Hàn đặc điểm, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra, Hội thảo Hôn nhân quốc tế Hàn – Việt; 20. Báo pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh ngày 09/09/2002; 21. Báo phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, số 54 ngày 05/05/2006; 22. Báo Tuổi trẻ, các số trong tháng 4-6/2006; 23. Báo điện tử Vnexpress, ngày 7/4/2008 24. Báo Phụ nữ ngày 28.4.2006; 25. Báo Đồng Tháp tháng 5/2008; 26. Wesbsite Hanquocngaynay.com; MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số vấn đề về kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc những năm qua ở Việt Nam.doc