Một số vấn đề về thực trạng pháp luật Đăng ký kinh doanh hiện nay

Chuyên mục: Luật dân sựTrường: ĐH Luật Hồ Chí MinhLoại: Đề tài tốt nghiệpFile: docTrình độ: Đại học ĐẶT VẤN ĐỀ Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã xác định “ Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp lụât ” .Tự do kinh doanh đã trở thành một trong những nội dung của quyền công dân và được Hiến pháp ghi nhận .Pháp lụât của Nhà nước ta ghi nhận , quy định nội dung và bảo đảm thực hiện quyền tự do kinh doanh trên tinh thần tôn vinh và khuyến khích các doanh nhân. Ở nước ta , doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau có sự ra đời không đồng thời , đang trong điều kiện phát triển và từng bước hoàn thiện. Qúa trình phát triển của cá loại hình doanh nghiệp cũng chính là quá trình hoàn thiện dần đối với pháp luật về thành lập và quản lý doanh nghiệp . Từ những năm sống trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp , thực hiện các hoạt động kinh tế chỉ có các đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế Xã Hội Chủ Nghĩa với các xí nghiệp quốc doanh , hợp tác xã sản xuất nông nghiệp . Những văn bản dưới Luật đặt ý chí kế hoạch của Nhà nước được đặt lên trên hết được ban hành để điều chỉnh toàn diện từ việc thành lập , tổ chức Bộ máy nhân sự , quản lý đến tất cả mọi hoạt động trong các quan hệ đầu vào , đầu ra của các đơn vị kinh tế này . Cuối năm 1990 , Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân . Đây là những đạo luật đầu tiên về doanh nghiệp và chúng đã tạo cơ sở pháp lý cho việc xuất hiện và phát triển từng bước các loại hình doanh nghiệp của tư nhân và dân doanh với hình thức công ty cổ phần , công ty Trách nhịêm hữu hạn ( TNHH ) và Doanh nghiệp tư nhân. Nền kinh tế nước ta đã bắt đầu hình thành và hoạt động theo mô hình kinh tế nhiều thành phần . Trên cơ sở tổng kết , đúc rút kinh nghiệm của 9 năm thực hiện Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân , Quốc hội đã ban hành Luật doanh nghiệp năm 1999 thay thế cho 2 đạo luật này .Có thể nói Luật doanh nghiệp 1999 đã có một bước phát triển rất lớn , đem lại bộ mặt rất mới cho Môi trường kinh doanh ở nước ta. Luật doanh nghiệp ngoài những quy định bổ sung sửa đổi theo hướng tạo thuận lợi , khuyến khích các nhà đầu tư trong nước đầu tư trong nước đầu tư vào các công ty cổ phần , công ty TNHH và Doanh nghiệp tư nhân còn bổ sung công ty TNHH một thành viên và Công ty hợp danh cũng theo tinh thần khuyến khích đầu tư như vậy. Song , chúng ta phải ghi nhận thành tựu lớn nhất của Luật doanh nghiệp 1999 là đã ghi nhận quyền thành lập là một quyền tự do kinh doanh thay thế cho quan điểm coi đây là thách thức đối với các doanh nghiệp đã tồn tại nhiều năm trong Pháp luật Việt Nam .Vì thế đạo luật này đã có những tác động tích cực , có tính đột phá đến sự phát triển của doanh nghiệp cả về số lượng lẫn chất lượng. Tuy nhiên , có một trở ngại lớn đối với Luật doanh nghiệp 1999 là ngoài Luật doanh nghiệp thì hiện hành lúc bấy giờ , vẫn có sự trùng lặp khi quy định về cùng một mô hình hoạt dộng , quy định không thống nhất , có sự phân biệt đối xử về điều kiện , thủ tục thành lập doanh nghiệp , đảm bảo đầu tư giữa nhà đầu tư trong nước thuộc các thành phần kinh tế khác nhau và nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài Nhưng thực tiễn , quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế và cụ thể là việc tiến tới gia nhập tổ chức WTO đòi hỏi chúng ra phải có một môi trường pháp lý kinh doanh thực sự phù hợp với tình hình chung của thế giới và có điểm thu hút , hấp dẫn đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đặc biệt , pháp luật phải giữ vai trò định hướng và là sự bảo đảm về mặt pháp lý cho sự ra đời , phát triển của hoạt động kinh doanh. Chính vì thế , Luật doanh nghiệp 2005 ra đời với mục đích khôi phục những bất cập của đạo luật trước , góp phần hoàn thiện môi trường kinh doanh, tiếp tục tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế . Trên cơ sở Luật doanh nghiệp 2005, chúng ta sẽ lần lượt xem xét 1 số vấn đề xoay quanh các quy định của Lụât doanh nghiệp 2005 mà hiện nay các Doanh nghiệp đang gặp phải. Và qua đó , chúng ta sẽ tìm ra giải pháp cho từng tình huống cụ thể đó . NỘI DUNG Về việc phòng Đăng ký kinh doanh (ĐKKD ) tỉnh H từ chối cấp ĐKKD cho công ty TNHH X với lý do duy nhất là : Các sấng lập viên không có hộ khẩu thường trú trên địa bàn tỉnh H à Việc từ chối cấp ĐKKD cho công ty TNHH X ( sau đây gọi là công ty X)như vậy là không hợp lý và không tuân theo nguyên tắc của pháp luật nói chung và Luật doanh nghiệp 2005 nói riêng . Cơ sở pháp lý Bộ luật Dân sự năm 2005 – Pháp nhânLuật đầu tư 2005 Luật doanh nghiệp 2005 Điều 8 - Quyền của doanh nghiệpĐiều 18 - Hồ sơ ĐKKD củ công ty TNHHĐiều 21 - Nội dung giấy Đề nghị ĐKKDĐiều 24 - Điều kiện cấp Giấy chứng nhận ĐKKDNghị định số 88/2006/NĐ-CP về đăng ký kinh doanh Điều 15 - Hồ sơ ĐKKDĐiều 18 – Các giấy tờ chứng thực cá nhân trong hồ sơ ĐKKDNội dung - giải quyết vấn đề Thành lập một công ty hay cụ thể là quá trình ĐKKD một công ty được nhìn nhận là quá trình tạo ra một chủ thể pháp lý thực sự có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh trong các điều kiện cụ thể Theo K1 Đ8 chúng ta thấy : Quyền của doanh nghiệp là “ Tự chủ kinh doanh , chủ động lựa chọn ngành nghề, địa bàn , hình thức kinh doanh, đầu tư ” Và theo K3 điều này thì doanh nghiệp có quyền “ chủ động tìm kiếm thị trường , khách hang và ký kết hợp đồng ” . Như vậy , theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp 2005 thì Doanh nghiệp có quyền “lựa chọn địa bàn ” kinh doanh sao cho phù hợp nhất. Việc công ty X không có thành viên sấng lập nào có hộ khẩu ở tỉnh H nhưng vẫn đề nghị thành lập doanh nghiệp tại tỉnh H là hoàn toàn đúng luật.Và cơ quan ĐKKD tỉnh H từ chối cấp ĐKKD cho công ty X là không hợp lý . Mặt khác , phòng ĐKKD làm như vậy là đi ngược lại với tinh thần chung của Luật doanh nghiệp 2005 và Luật đầu tư 2005 đó là thu hút sự đầu tư cả ở trong và ngoài nước . Bởi nếu theo quan niệm của phòng ĐKKD tỉnh H như vậy thì chỉ có những người có hộ khẩu tại địa bàn tỉnh H mới có quyền được ĐKKD,thành lập Doanh nghiệp tại địa bàn tỉnh H . Vậy, đơn cử như những nhà đầu tư nước ngoài khi lựa chọn đầu tư vào địa bàn tỉnh H sẽ như thế nào ? Và “Quyền tự chủ đầu tư , kinh doanh ” trong Luật đầu tư 2005 là “ Lựa chọn lĩnh vực đầu tư , hình thức đầu tư , phương thức huy động vốn , dại bàn , quy mô đầu tư , đối tác đầu tư và thời hạn hoạt động của dự án ” sẽ để đi đâu và thực hiện như thế nào . Phải chăng , nếu quy định như vậy , phòng ĐKKD tỉnh H đang tạo lên “ cơ chế đóng ” đối với chính sách đầu tư doanh nghiệp ?

doc34 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7126 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số vấn đề về thực trạng pháp luật Đăng ký kinh doanh hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i không đồng thời , đang trong điều kiện phát triển và từng bước hoàn thiện. Qúa trình phát triển của cá loại hình doanh nghiệp cũng chính là quá trình hoàn thiện dần đối với pháp luật về thành lập và quản lý doanh nghiệp . Từ những năm sống trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp , thực hiện các hoạt động kinh tế chỉ có các đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế Xã Hội Chủ Nghĩa với các xí nghiệp quốc doanh , hợp tác xã sản xuất nông nghiệp . Những văn bản dưới Luật đặt ý chí kế hoạch của Nhà nước được đặt lên trên hết được ban hành để điều chỉnh toàn diện từ việc thành lập , tổ chức Bộ máy nhân sự , quản lý đến tất cả mọi hoạt động trong các quan hệ đầu vào , đầu ra của các đơn vị kinh tế này . Cuối năm 1990 , Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân . Đây là những đạo luật đầu tiên về doanh nghiệp và chúng đã tạo cơ sở pháp lý cho việc xuất hiện và phát triển từng bước các loại hình doanh nghiệp của tư nhân và dân doanh với hình thức công ty cổ phần , công ty Trách nhịêm hữu hạn ( TNHH ) và Doanh nghiệp tư nhân. Nền kinh tế nước ta đã bắt đầu hình thành và hoạt động theo mô hình kinh tế nhiều thành phần . Trên cơ sở tổng kết , đúc rút kinh nghiệm của 9 năm thực hiện Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân , Quốc hội đã ban hành Luật doanh nghiệp năm 1999 thay thế cho 2 đạo luật này .Có thể nói Luật doanh nghiệp 1999 đã có một bước phát triển rất lớn , đem lại bộ mặt rất mới cho Môi trường kinh doanh ở nước ta. Luật doanh nghiệp ngoài những quy định bổ sung sửa đổi theo hướng tạo thuận lợi , khuyến khích các nhà đầu tư trong nước đầu tư trong nước đầu tư vào các công ty cổ phần , công ty TNHH và Doanh nghiệp tư nhân còn bổ sung công ty TNHH một thành viên và Công ty hợp danh cũng theo tinh thần khuyến khích đầu tư như vậy. Song , chúng ta phải ghi nhận thành tựu lớn nhất của Luật doanh nghiệp 1999 là đã ghi nhận quyền thành lập là một quyền tự do kinh doanh thay thế cho quan điểm coi đây là thách thức đối với các doanh nghiệp đã tồn tại nhiều năm trong Pháp luật Việt Nam .Vì thế đạo luật này đã có những tác động tích cực , có tính đột phá đến sự phát triển của doanh nghiệp cả về số lượng lẫn chất lượng. Tuy nhiên , có một trở ngại lớn đối với Luật doanh nghiệp 1999 là ngoài Luật doanh nghiệp thì hiện hành lúc bấy giờ , vẫn có sự trùng lặp khi quy định về cùng một mô hình hoạt dộng , quy định không thống nhất , có sự phân biệt đối xử về điều kiện , thủ tục thành lập doanh nghiệp , đảm bảo đầu tư giữa nhà đầu tư trong nước thuộc các thành phần kinh tế khác nhau và nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài … Nhưng thực tiễn , quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế và cụ thể là việc tiến tới gia nhập tổ chức WTO đòi hỏi chúng ra phải có một môi trường pháp lý kinh doanh thực sự phù hợp với tình hình chung của thế giới và có điểm thu hút , hấp dẫn đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đặc biệt , pháp luật phải giữ vai trò định hướng và là sự bảo đảm về mặt pháp lý cho sự ra đời , phát triển của hoạt động kinh doanh. Chính vì thế , Luật doanh nghiệp 2005 ra đời với mục đích khôi phục những bất cập của đạo luật trước , góp phần hoàn thiện môi trường kinh doanh, tiếp tục tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế . Trên cơ sở Luật doanh nghiệp 2005, chúng ta sẽ lần lượt xem xét 1 số vấn đề xoay quanh các quy định của Lụât doanh nghiệp 2005 mà hiện nay các Doanh nghiệp đang gặp phải. Và qua đó , chúng ta sẽ tìm ra giải pháp cho từng tình huống cụ thể đó . NỘI DUNG Về việc phòng Đăng ký kinh doanh (ĐKKD ) tỉnh H từ chối cấp ĐKKD cho công ty TNHH X với lý do duy nhất là : Các sấng lập viên không có hộ khẩu thường trú trên địa bàn tỉnh H à Việc từ chối cấp ĐKKD cho công ty TNHH X ( sau đây gọi là công ty X)như vậy là không hợp lý và không tuân theo nguyên tắc của pháp luật nói chung và Luật doanh nghiệp 2005 nói riêng . Cơ sở pháp lý Bộ luật Dân sự năm 2005 – Pháp nhân Luật đầu tư 2005 Luật doanh nghiệp 2005 Điều 8 - Quyền của doanh nghiệp Điều 18 - Hồ sơ ĐKKD củ công ty TNHH Điều 21 - Nội dung giấy Đề nghị ĐKKD Điều 24 - Điều kiện cấp Giấy chứng nhận ĐKKD Nghị định số 88/2006/NĐ-CP về đăng ký kinh doanh Điều 15 - Hồ sơ ĐKKD Điều 18 – Các giấy tờ chứng thực cá nhân trong hồ sơ ĐKKD Nội dung - giải quyết vấn đề Thành lập một công ty hay cụ thể là quá trình ĐKKD một công ty được nhìn nhận là quá trình tạo ra một chủ thể pháp lý thực sự có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh trong các điều kiện cụ thể Theo K1 Đ8 chúng ta thấy : Quyền của doanh nghiệp là “ Tự chủ kinh doanh , chủ động lựa chọn ngành nghề, địa bàn , hình thức kinh doanh, đầu tư …” Và theo K3 điều này thì doanh nghiệp có quyền “ chủ động tìm kiếm thị trường , khách hang và ký kết hợp đồng ” . Như vậy , theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp 2005 thì Doanh nghiệp có quyền “lựa chọn địa bàn ” kinh doanh sao cho phù hợp nhất. Việc công ty X không có thành viên sấng lập nào có hộ khẩu ở tỉnh H nhưng vẫn đề nghị thành lập doanh nghiệp tại tỉnh H là hoàn toàn đúng luật.Và cơ quan ĐKKD tỉnh H từ chối cấp ĐKKD cho công ty X là không hợp lý . Mặt khác , phòng ĐKKD làm như vậy là đi ngược lại với tinh thần chung của Luật doanh nghiệp 2005 và Luật đầu tư 2005 đó là thu hút sự đầu tư cả ở trong và ngoài nước . Bởi nếu theo quan niệm của phòng ĐKKD tỉnh H như vậy thì chỉ có những người có hộ khẩu tại địa bàn tỉnh H mới có quyền được ĐKKD,thành lập Doanh nghiệp tại địa bàn tỉnh H . Vậy, đơn cử như những nhà đầu tư nước ngoài khi lựa chọn đầu tư vào địa bàn tỉnh H sẽ như thế nào ? Và “Quyền tự chủ đầu tư , kinh doanh ” trong Luật đầu tư 2005 là “ Lựa chọn lĩnh vực đầu tư , hình thức đầu tư , phương thức huy động vốn , dại bàn , quy mô đầu tư , đối tác đầu tư và thời hạn hoạt động của dự án …” sẽ để đi đâu và thực hiện như thế nào . Phải chăng , nếu quy định như vậy , phòng ĐKKD tỉnh H đang tạo lên “ cơ chế đóng ” đối với chính sách đầu tư doanh nghiệp ? Nguyên tắc giải quyết ĐKKD của phòng ĐKKD tỉnh H như vậy là sai lầm và làm khó cho những nhà đầu tư khi muốn đầu tư vào tỉnh H. Hoạt động cấp ĐKKD của tình H như thế này thực sự đã tạo ra một môi trường không thuận lợi và các doanh nghiệp hẳn sẽ rất e ngại khi quyết định đầu tư. Theo điều 24 của Lụât doanh nghiệp quy định về điều kiện cấp Giấy chứng nhận ĐKKD cho doanh nghiệp .Doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận ĐKKD khi có đủ các điều kiện sau đây : Ngành, nghề đăng ký kinh doanh không thuộc lĩnh vực cấm kinh doanh; Tên của doanh nghiệp được đặt theo đúng quy định …của Luật này; Có trụ sở chính theo quy định … Có hồ sơ ĐKKD hợp lệ theo quy định của pháp lụât; Nộp đủ lệ phí ĐKKD theo quy định của pháp luật; … à Như vậy , pháp luật không có một quy định nào bắt buộc doanh nghiệp khi thành lập phải đáp ứng đủ yêu cầu là các thành viên phải có hộ khẩu thuộc địa bàn tỉnh nơi thực hiện ĐKKD. Theo những phân tích trên chúng ta thấy phòng ĐKKD tỉnh H phải có trách nhiệm xem xét hồ sơ ĐKKD của công ty TNHH X và khi đáp ứng được đầy đủ điều kiện về ĐKKD thì trong thời hạn 10 ngày tiến hành cấp Giấy chứng nhận ĐKKD cho doanh nghiệp . Về Nội dung Giấy đề nghị ĐKKD thuộc về Doanh nghiệp – Công ty X phải làm . Được thực hiện theo quy định tại Điều 21 Luật doanh nghiệp 2005 : Tên doanh nghiệp Địa chỉ trụ sở chính của Doanh nghiệp; số điện thoại … Ngành ,nghề kinh doanh Vốn điều lệ đố với công ty … … Sau đó , công ty X hoàn tất hồ sơ ĐKKD đối với công ty TNHH 2thành viên trở lên theo Quy định tại Điều 15 và Điều 18 của Nghị định 88/2006/NĐ-CP. Hồ sơ đăng ký kinh doanh của công ty TNHH 2 thành viên bao gồm: Giấy đề nghị ĐKKD Dự thảo điều lệ công ty Danh sách thành viên Văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan , tổ chức có thẩm quyền đối với công ty kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định Bản sao hợp lệ giấy chứng chỉ hành nghề của Giám đốc ( Tổng Giám đốc ) và cá nhân khác … mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề . … Ngoài ra , khi hoàn thành hồ sơ đăng ký kinh doanh , cần có các giấy tờ chứng thực cá nhân trong hồ sơ đăng ký kinh doanh. Quy định tại điều 18 Nghị định số 88/2006/NĐ-CP. Giấy chứng minh nhân dân còn hiệu lực hoặc Hộ chiếu còn hiệu lực đối với công dân Việt Nam ở trong nước. Một trong số các giấy tờ còn hiệu lực đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài sau đây : Hộ chiếu Việt Nam Hộ chiếu nước ngoài ( hoặc giấy tờ có giá trị thay thé hộ chiếu nước ngoài )và một trong các giấy tờ còn hiệu lực Giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam; Giấy xác nhận mất quốc tịch Việt Nam; Giấy xác nhận đăng ký công dân; Giấy xác nhận gốc Việt Nam; Giấy xác nhận có gốc Việt Nam; Giấy xác nhận có quan hệ huyết thống Việt Nam; Các giấy tờ khác theo quy định của pháp luật. Thẻ thường trú do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp và Hộ chiếu còn hiệu lực đối với người nước ngoài thường trú tại Việt Nam. Hộ chiếu còn hiệu lực đối với người nứơc ngoài không thường trú tại Việt Nam ….. Trong trường hợp công ty X có thành viên sáng lập, đầu tư là người nước ngoài thì Hồ sơ , trình tự , thủ tục , điều kiện và nội dung ĐKKD… thực hiện theo Luật doanh nghiệp 2005 và Luật đầu tư 2005. Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là giấy chứng nhận ĐKKD. Ví dụ điều 45 quy định thủ tục Đăng ký đầu tư đối với dự án đầu tư trong nước . Điều 46 quy định thủ tục đăng ký đầu tư đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài … Như vậy , theo phân tích ở trên , phòng ĐKKD tỉnh H chỉ từ chối ĐKKD cho công ty X với lý do duy nhất là các sáng lập viên không có hộ khẩu thường trú ở địa bàn tỉnh H là chưa hợp lý .Và theo quy định của pháp luật thì : Nếu các điều kiện theo quy định tại Điều 24 Luật danh nghiệp mà công ty X đã đáp ứng đầy đủ thì trong trường hợp này , phòng ĐKKD tỉnh H có trách nhiệm xem xét lại hồ sơ ĐKKD cho công ty X và cấp giấy chứng nhận ĐKKD trong thời hạn 10 ngày . Nếu công ty X chưa đáp ứng đủ điều kiện theo quy định tại điều 24 Luật doanh nghiệp thì từ chối cấp Giấy chứng nhận ĐKKD và phải thông báo bằng văn bản cho người thành lập doanh nghiệp biết .Thông báo phải nêu rõ lý do và yêu cầu doanh nghiệp sửa đổi bổ sung. Trường hợp phòng ĐKKD tỉnh H từ chối ĐKKD cho công ty X khi công ty X đã đầy đủ điều kiện theo quy định của Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư là đã vi phạm và thuộc vào các hành vi bị cấm quy định tại Điều 11 Luật doanh nghiệp . Một số vấn đề khác Hệ thống cơ quan tiến hành ĐKKD ở nứơc ta vẫn là ử 2 cấp tỉnh và huyện. Ở nước ngoài , doanh nghiệp tiến hành đăng ký kinh doanh tại Toà án và ở đó có những cơ chế pháp lý rõ ra`ng , minh bạch và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp , để doanh nghiệp không gặp khó khăn , phiền hà và các thủ tục hành chính rất rườm rà phức tạp. Đồng thời , lại đảm bảo được tính chuyên môn , tính tập trung trong lĩnh vực kiểm soát , quản lý hoạt động của doanh nghiệp sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giâý phép kinh doanh. Thực tế ở Việt Nam hiện nay, đã có sự thay đổi tương đối rõ rệt và môi trường kinh doanh rõ rang đã có bước đột phá do phải đáp ứng theo nhu cầu chung . Tuy nhiên , một vài năm trước đây và ngay cả hiện nay , tình trạng ở một số địa phương như “ phòng ĐKKD tỉnh H ” như trong bài đã nêu là vẫn còn. Điều đó tạo nên sự băn khoăn cho rất nhiều những nhà đầu tư trong và ngoài nước khi quyết định rút đồng vốn ra đầu tư ở Việt Nam . Ngành nghề kinh doanh – Kinh doanh mọi ngành nghề mà pháp luật không cấm Việc phòng ĐKKD tỉnh P từ chối cấp ĐKKD cho công ty cổ phần L (sau đây gọi là công ty L) với nội dung ngành , nghề Kinh doanh là “Kinh doanh mọi ngành , nghề mà pháp luật không cấm ” là hoàn toàn hợp lý . Tự do lựa chọn ngành , nghề kinh doanh là một trong những nội dung của quyền tự do kinh doanh. Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được tự do kinh doanh trong các ngành nghề mà pháp luật không cấm .Tuy nhiên , khi đăng ký thành lập , chủ doanh nghiệp cần phải lựa chọn và đăng ký những ngành nghề phản ánh hoạt động cụ thể của doanh nghiệp.Và những lựa chọn ấy phải phù hợp với pháp lụât về quản lý ngành nghề kinh doanh được công bố trong từng thời kỳ cụ thể . Cơ sở pháp lý Luật doanh nghiệp năm 2005 Điều 7 – Ngành , nghề và điều kiện kinh doanh Điều 9 – Nghĩa vụ của doanh nghiệp Điều 21 - Nội dung giấy đề nghị ĐKKD Điều 28 – Công bố nội dung ĐKKD Nghị định số 88/2006/NĐ-CP về “ Hướng dẫn về đăng ký kinh doanh ” Điều 23 - Lệ phí đăng ký kinh doanh Thông tư số 97/2006/TT-BTC về “ thu Phí , lệ phí …” Mục 4 - Điểm b.6 Nghị định số 139 /2007/NĐ-CP về “Hướng dẫn thi hành một số điều Luật Doanh nghiêp.” Điều 4 – Ngành , nghề cấm kinh doanh; Điều 5 – Ngành , nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh; Điều 6 – Ngành , nghề kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề; Điều 7 – Ngành , nghề kinh doanh phải có vốn pháp định. Thông tư lien tịch số 07/2001/TTLT/BTC- TCCK về “ Hướng dấn ngành nghề kinh doanh sử dụng trong đăng ký kinh doanh” Nội dung Theo thông tư số 07/2001/TTLT/BKH-TCTK quy định “Doanh nghiệp có thể đăng ký kinh doanh nhiều ngành, nghề nhưng phải là ngành, nghề có hoạt động kinh doanh. Nếu trong thời hạn một năm mà doanh nghiệp không kinh doanh ngành, nghề đã đăng ký thì phải thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh để xoá ngành, nghề này trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đối với một doanh nghiệp cụ thể, không được ghi vào Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cụm từ kinh doanh tất cả các ngành, nghề mà pháp luật không cấm. ” . Như vậy , thông tư 07 đã quy định rất rõ việc doanh nghiệp được lựa chọn ngành nghề như thế nào . Việc ngăn cấm sử dụng cụm từ “ kinh doanh tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm” coi như đã là một câu trả lời thống nhất cho tình huống được nêu ra trong bài . Vì sao lại như vậy ? Bởi vì , ngoài những ngành nghề mà pháp luật “cấm” kinh doanh trong hệ thống ngành kinh tế Quốc dân , chúng ra còn có những ngành nghề kinh doanh “ có điều kiện” , ngành nghề kinh doanh “có chứng chỉ” hành nghề và ngành nghề kinh doanh “phải có vốn pháp định”… Theo như chúng ta thấy , trong hệ thống ngành kinh tế quốc dân chúng ra có danh mục tới gần 4000 ngành nghề để có thể kinh doanh được. Như vậy , nếu đặt vấn đề một cách quá chung chung là “kinh doanh mọi ngành nghề mà pháp luật không cấm” trong hồ sơ ĐKKD sẽ bị coi là quy định không rõ rang. Khi tiến hành làm giấy đề nghị ĐKKD , doanh nghiệp phải thực hiện : việc lựa chọn ngành nghề sao cho phù hợp nhất . Bởi vì , cho dù có vai trò là người kiến tạo môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp song tuỳ thuộc yêu cầu của người quản lý Nhà nước, yêu cầu điều tiết thị trường, trong mỗi thời kỳ cần khuyến khích hoặc hạn chế những mặt hang, dịch vụ trong các lĩnh vực kinh doanh mà Nhà nước có thái độ đối xử khác nhau đối với mỗi nhóm ngành nghề khác nhau . Sự phân biệt đối xử ngành nghề ở mức độ nhất định có thể giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau của những nhà đầu tư trong nước, cũng có thể là giữa nhà đầu tư trong nước và nứơc ngoài. Trước hết , nói đến khái niệm “ngành nghề cấm kinh doanh” trong giấy ĐKKD của công ty L . “Ngành nghề bị cấm kinh doanh” đó là những ngành nghề mà họt động của doanh nghiệp có thể gây phương hại đến quốc phòng , an ninh , trật tụ , an toàn xã hội , truyền thống lịch sử , văn hoá đạo đức , thuần phong mỹ tục Việt Nam , sức khoẻ nhân dân, làm huỷ hoại tài nguyên, phá huỷ môi trườg. Định kỳ , Chính phủ quy định và công bố những ngành nghề bị cấm đối với mọi mọi loại hình doanh nghiệp , những ngành nghề kinh doanh chỉ cấm đối với 1 số doanh nghiệp của các nhà đầu tư trong nước hoặc nước ngoài theo nguyên tắc công khai, minh bạch và tuân thủ những nguyên tắc đối xử với người nước ngoài mà Việt Nam đã cam kết . Người đầu tư thành lập doanh nghiệp chỉ được đăng ký hoạt động trong những ngành nghề không thuộc loại bị cấm mà Nhà nước đã công bố. Danh mục ngành nghề cấm kinh doanh được quy định tại Điều 4 - Nghị định số 139/2006/NĐ-CP. Kinh doanh vũ khí quân dụng , trang thiết bị quân sự… Kinh doanh chất ma tuý các loại; Kinh doanh hoá chất bảng 1 ( the Công ước quốc tế) Kinh doanh sản phẩm văn hoá phẩm đồi truỵ… Kinh doanh các loại pháo Kinh doanh đồ chơi nguy hiểm Kinh doanh động thực vật hoang dã , quý hiếm… Kinh doanh và tổ chức mại dâm ,buôn bán phụ nữ, trẻ em Kinh doanh các dịch vụ tổ chức đánh bạc, gá bạc Kinh doanh hoạt động điều tra bí mật,xâm phạm đời sống riêng , quyền , lợi ích hợp pháp của tổ chức,công dân Kinh doanh dịch vụ môi giới kết hôn có yếu tố nước ngoài Kinh doanh dịch vụ môi giới nhận cha mẹ , con nuôi có yếu tố nước ngoài Kinh doanh các loại phế liệu nhập khẩu gây ô nhiễm môi trường Kinh doanh các loại sản phẩm ,hang hoá , thiết bị bị cấm lưu hành , chưa được phép lưu hành Các ngành nghề cấm kinh doanh khác được quy định tại các Luật , Pháp lệnh và nghị định chuyên ngành Ngoài ra , khái niệm “cấm” còn trở lên phức tạp hơn nữa khi Luật đầu tư cũng quy định về lĩnh vực , ngành nghề cấm đầu tư ở Việt Nam tại điều 30 Luật đầu tư năm 2005. Như vậy, “cấm” hay “không cấm” đều là những khái niệm hết sức chung chung.Mà đòi hỏi khi tiến hành ĐKKD cho mỗi doanh nghiệp phải có sự cụ thể, rõ rang, minh bạch mới có thể thực hiện được theo đúng quy định của Pháp luật. Ngoài ra , có những ngành nghề kinh doanh pháp luật không cấm nhưng lại đặt ra những yêu cầu bắt buộc phải thực hiện như : có điều kiện, có chứng chỉ hành nghề và có vốn pháp định. Như ngành nghề kinh doanh có điều kiện : đây là những ngành nghề mà theo yêu cầu quản lý , điều tiết kinh tế , Nhà nước xác định cần phải có những điều kiện nhất định thì mới đảm bảo tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả hoặc Nhà nước không khuyến khích và hạn chế kinh doanh. Những điều kiện đặt ra đối với chủ thể kinh doanh bao gồm điều kiện về loại hình kinh doanh,vốn , cơ sở vật chất như mặt bằng , trang thiết bị dùng cho kinh doanh hoặc là những điều kiện đối với cá nhân như người trực tiếp thực hiện quản lý hoạt động Kinh doanh trong doanh nghiệp đó. Quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh được quy định tại Điều 5 Nghị định số 139/2007/NĐ-CP. Chứng chỉ hành nghề là văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc các Hội nghề nghiệp cấp cho cá nhân , người có đủ trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp về 1 số ngành nghề nhất định. Pháp luật quy định những đối tượng là những cá nhân trong từng loại doanh nghiệp hoạt động trong những ngành nghề cụ thể phải có chứng chỉ hành nghề. Đối với những ngành nghề này , chứng chỉ hành nghề bắt buộc phải có trong hồ sơ ĐKKD hoặc hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động. Quy định về ngành nghề kinh doanh có chứng chỉ hành nghề được quy định tại điều 6 Nghị định số 139/2007/NĐ-CP./ Đối với ngành nghề kinh doanh phải có vốn pháp định thì các văn bản luật m pháp lệnh hay nghị định sẽ xác định rõ các ngành nghề kinh doanh , mức vốn pháp định cụ thể , cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về vốn pháp định và cách thức xác định vốn pháp định. Doanh nghiệp phải thực hiện quy định về vốn pháp định cả khi đăng ký bổ sung, thay đổi ngành nghề. Pháp luật cũng quy định những người thành lập và quản lý cụ thể trong từng loại hình doanh nghiệp phải cùng liiên đới chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của vốn được xác định khi thành lập doah nghiệp và trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, sẽ bị coi là Hành vi vi phạm pháp luật nếu Doanh nghiệp hoạt động trong ngành nghề bị cấm kinh doanh , kinh doanh mà không đủ điều kiện, không đủ số vốn tối thiểu hay cá nhân người trực tiếp thực hiện , quản lý kinh doanh của doanh nghiệp không có chứng chỉ hành nghề do pháp luật quy định. Tại sao pháp luật đã quy định doanh nghiệp có thể “ kinh doanh mọi ngành nghề pháp luật không cấm ” mà lại còn có quy định “kinh doanh đúng ngành nghề ghi trong giấy chứng nhân đăng ký kinh doanh” ? Quy dịnh của điều 9 Luật doanh nghiệp về nghĩa vụ doanh nghiệp là “hoạt động kinh doanh theo đúng ngành nghề đã ghi trong giấy chứng nhận ĐKKD; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật kho kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện”. Quy định này nhằm bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp khác , các nhà đầu tư và người tiêu dùng . Nhà đầu tư và các doanh nghiệp khác sẽ tìm hiểu thông tin thị trường nghiên cứu phân bổ các ngành nghề kinh doanh và phân bổ ccs doanh nghiệp trên địa bàn để lựa chọn ý tưởng cho phù hợp địa bàn, thị trường. Vì vậy , buộc doanh nghiệp kinh doanh đúng ngành nghề đã đăng ký. Khi không kinh doanh phải khai báo để xoá ngành nghề kinh doanh đã đăng ký đảm bảo thông tin về ngành nghề kinh doanh trên Giấy chứng nhận ĐKKD luôn có sự phù hợp với thực tế thông thường. Mặt khác , quy định trên còn giúp cho nhà nước đánh giá chính xác mức độ đầu tư đối với các ngành nghề kinh doanh để có chính sách phù hợp. Trong thời gian 6 năm thực hiện Luật doanh nghiệp năm 1999, thường xảy ra tình trạng doanh nghiệp thường kê khai ngành nghề kinh doanh thật nhiều nhưng thực tế lại chỉ kinh doanh 1, 2 ngành nghề chính . Tuy có chính sách xoá bỏ những ngành nghề không tiến hành kinh doanh khỏi hồ sơ trong vòng 1 năm nhưng điều này chính là một điểm đen , một sự khó kiểm soát đối với doanh nghiệp . Luật doanh nghiệp 2005 với những quy định mới đã phần nào giải quyết được vấn đề này. Tại sao trường hợp này , công ty L lại thực hiện ĐKKD như vậy? Thứ nhất , có một nguyên nhân rất khó có thể xaỷ ra nhưng vẫn có thể kể đến : Do trình độ hiểu biết Luật doanh nghiệp của công ty này còn hạn chế, chưa hêỉu được và lý giải được cặn kẽ những quy định của pháp luật. Khi tìm hiểu tới vấn đề này, công ty muốn lợi dụng sự quy định mang tính khái quát này của Luật doanh nghiệp để coi là chưa chặt chẽ của pháp luật. Tuy nhiên, Doanh nghiệp có thể đã không tìm hiểu kỹ về văn bản hướng dẫn, giải thích Luật đi kèm để nhận biết vấn đề này theo chiều hướng rõ rầng hơn. Thứ hai , nguyên nhân khác nữa có thể là do Công ty L muốn lợi dụng sự khái quát của Lụât doanh nghiệp khi muốn bổ sung, thay đổi ngành nghề kinh doanh hay sản xuất kinh doanh một ngành nghề khác mà không phải đăng ký lại hoặc đăng ký bổ sung ngành nghề. àĐây là 2 nguyên nhân để Công ty L có thể đã nghĩ đến hoặc gặp phảikhi tiến hành ĐKKD ở phòng ĐKKD tỉnh P.Tuy nhiên, theo thông tư 07/2001/TTLT/BTC-TCTK đã quy định mọt cách rõ rang cụ thể, chúng ta có thể thấy được sự quản lý chặt chẽ của pháp luật về ngành nghề kinh doanh. Ngoài ra , việc quy định chung chung về ngành nghề kinh doanh theo bản ĐKKD của công ty L còn gây ra một chướng ngại khác. Đó là việc khó xác định lệ phí ĐKKD. Theo điều 24 Luật doanh nghiệp và Điều 23 nghị định 88/2006/NĐ-CP thì lệ phí ĐKKD được xác định theo số lượng ngành nghề ĐKKD. Căn cứ để tính số lượng ngành nghề ĐKKD để thu phí ĐKKD là ngành cấp 4 trong hệ thống ngành Kinh tế quốc dân. Theo Mục 4 Thông tư số 97/2006/TT-BTC quy định tại b.6. Lệ phí cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cung cấp thông tin về đăng ký kinh doanh: - Lệ phí cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cung cấp thông tin về đăng ký kinh doanh là khoản thu đối với các hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, cơ sở giáo dục, đào tạo tư thục, dân lập, bán công; cơ sở y tế tư nhân, dân lập, cơ sở văn hóa thông tin, khi được được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cung cấp thông tin về đăng ký kinh doanh. - Mức thu lệ phí cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với từng loại đối tượng thực hiện theo nguyên tắc sau: + Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, cơ sở giáo dục, đào tạo tư thục, dân lập, bán công, cơ sở y tế tư nhân, dân lập, cơ sở văn hóa thông tin do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp nhà nước: Không quá 200.000 đồng/1 lần cấp; + Chứng nhận đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh; chứng nhận đăng ký hoạt động cho chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của doanh nghiệp: Không quá 20.000 đồng/1 lần (chứng nhận hoặc thay đổi); + Cấp bản sao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận thay đổi đăng ký kinh doanh hoặc bản trích lục nội dung đăng ký kinh doanh: Không quá 2.000 đồng/1 bản. .... Ngoài ra , doanh nghiệp còn có thể sử dụng ngành nghề kinh doanh để cấu thành lên tên của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp có ĐKKD ngành nghề đó. Thế nên, khi thực hiện thay đổi ngành nghề kinh doanh đã dùng thì doanh nghiệp cũng phải đổi tên , kéo theo các thủ tục pháp lý khác nữa. Tiểu kết Việc xác định ngành nghề đối với mỗi doanh nghiệp hiện nay còn rất khó khăn .Chính vì thế nên dự kiểm soát của Nhà nước đối với ngành nghề kinh doanh cũng đang là một vấn đề khá phức tạp.Luật pháp nước ra hiện nay cho phép doanh nghiệp tiến hành một hoặc nhiều ngành nghề nên việc kiểm soát là không đơn giản Mặt khác bên cạnh việc xếp những ngành nghề cấm kinh doanh , kinh doanh có điều kiện… thì chúng ta còn phải xác định được những ngành nghề được khuyến khích. Trog từng thời ký phát triển kinh tế - xã hội , Nhà nước xác định những lĩnh vực của nển kinh tế quốc dân, trong đó có những ngành nghề ưu tiên và dành những ưu đãi đầu tư cho các dự án đầu tư những lĩnh vực này. Thành viên hợp pháp của công ty TNHH do thừa kế Việc Hội đồng thành viên công ty TNHH M ( sau đây gọi là công ty M ) quyết định như vậy là Sai với nguyên tắc và quy định của pháp luật. Cơ sở pháp lý Bộ luật dân sự 2005 Điều 635 - Người thừa kế Điều 637 - Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại Luật doanh nghiệp 2005 Điều 45- Xử lý phần vốn góp trong các trường hợp khác Nghị định số 88/2006/NĐ-CP Điều 33 – Đăng ký thay đổi thành viên công ty TNHH 2 thành viên trở lên Điều 29 – Đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty TNHH, công ty cổ phần Nội dung Ta đặt giả sử thành viên ( đã chết ) của công ty M là ông X. Và P là người thừa kế hợp pháp của ông X. Như vậy , P có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ Tài sản do người chết để lại . Theo quy định của khoản 1 điều 637 BLDS 2005: Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại trừ trườg hợp có thoả thuận khác . Trừ trường hợp có thoả thuận khác như : Khoản 3 , khoản 4 điều 45 Luật doanh nghiệp .còn lại P đương nhiên là thành viên của Hội đồng thành vien công ty M. Xét thấy trong trường hợp này, Họi đồng thành viên công ty M không thể tự quyết định được việc ông P có phải là thành viên công ty hay không. Ông P ở đây sẽ “đương nhiên” trở thành thành viên công ty theo quy định tại Khoản 1 điều 45 Luật doanh nghiệp 2005. Khi ông P đã là thành viên trong công ty, thành viên sang lập công ty M phải thực hiện thủ tục đăng ký thay đổi thành viên công ty TNHH 2 thành viên trở lên trong trường hợp thay đổi thành viên do thừa kế. Theo khoản 3 điều 33 nghị định số 88/2006/NĐ-CP : Trường hợp thay đổi thành viên do thừa kế , trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày quyết định thay đổi , công ty gửi thông báo đến phong ĐKKD nơi công ty đã ĐKKD.Nội dung thông báo gồm : Tên, địa chỉ , trụ sở chính ,số và ngày cấp Giấy chứng nhận ĐKKD của công ty; Họ ,tên, số giấy chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác …quốc tịch, phần vốn gop của thành viên để lại thừa kế, của từng người nhận thừa kế . Thời điểm thừa kế Họ, tên, chữ ký của người đại diện theo pháp luật của công ty. … Khi nhận thông báo , Phòng ĐKKD trao giấy biên nhận và đăng ký thay đổi thành viên trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Khi ông P trở thành thành viên của công ty, ông P sẽ được hưởng đầy đủ quyền và nghĩa vụ đối với thành viên công ty mà pháp luật quy định. Theo Điều 41 và điều 42 Luật doanh nghiệp 2005 quy định về quyền và nghiã vụ thành viên công ty .Ngoài ra ông P còn có thể thực hiện điều 43, 44 của Luật này . Tóm lại , việc HĐTV công ty M không chấp nhận ông P là thành viên công ty là một sai lầm và cần phải có điều chỉnh lại bằng những căn cứ cụ thể của pháp luật. Ngoài ra , khi trở thành thành viên công ty , ông P phải có trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ của thành viên hội đồng thành viên. Theo Điều 56 Luật doanh nghiệp , ông P được hưởng các mức tiền thù lao, lương, thưởng… như mọi thành viên khác theo điều lệ công ty quy định. Trường hợp ông X (đã chết) là người đại diện chính thức của công ty .Thì theo khoản 2 điều 12 Nghị định số 139/2007/NĐ-CP : “Đối với công ty TNHH có 2 thành viên, nếu có thành viên là cá nhân làm người đại diện theo pháp luật của công ty…bị mất…thì thành viên còn lại đương nhiên làm người đại diện theo pháp luật của công ty cho đến khi có quy định mới của công ty” Sau đó , hội đồng thành viên công ty M tiếp tục làm thủ tục thay đổi người đại diện theo pháp luật cuả công ty TNHH theo điều 29 , nghị đinh 88/2006/NĐ-CP.Bao gồm các nội dung Tên , địa chỉ trụ sở chính và ngày cấp GCN ĐKKD của công ty Họ tên , giấy tờ hợp pháp và thông tin liên quan của người dang là đại diện theo pháp luật của công ty và người thay thế là đại diện theo pháp luật của công ty . Họ tên và chữ ký của chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc các thầnh viên hội đồng thành viên trong trường hợp chủ tịch HĐTV lâm vào tình trạng đặc biệt. àKèm theo thông báo phải có quyết định bằng văn bản và bản sao biên bản họp của hội đồng thành viên về việc thay đổi người đại diện theo pháp luật của côg ty. Các quyết định , biên bản họp củat Hội đồng thành viên phải ghi rõ những nội dung chính được sửa đổi bổ sung trong Điều lệ công ty . àKhi nhận thông báo , phòng ĐKKD trao giấy biên nhận và đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty TNHH trong thời hạn 7 ngày làm việc , kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Khi nhận giấy chứng nhận ĐKKD mới , doanh nghiệp phải nộp lại bản gốc giấy chứng nhận ĐKKD cũ . Tiểu kết Qua tình huống cụ thể này chúng ta tìm hiểu được rõ hơn về những trườg hợp xử lý phần vốn góp trong 1 số trường hợp mà cụ thể ở đây là thừa kế.Qua đó chúng ta thấy rõ được những quyền , nghĩa vụ mà thành viên của công ty TNHH 2 thành viên trởlên phải thực hiện. Tuy nhiên trên thực tế nhiều khi khi xảy ra những trường hợp mà như người dân luon luôn phải chịu thiệt thòi khi không tìm được vị trí của mình trong vai trò là người thừa kế hợp pháp .Họ có thể không được công nhận là thành viên hợp pháp do doanh nghiệp mau chóng làm các thủ tục thay đổi nội bộ công ty khi có 1 thành viên chết . Mặt khác , có một nghịch lý đã xảy ra là : với lợi nhuận , quyền lợi như trên thì người được hưởng thừa kế không dễ dàng được hưởng trọn vẹn nhưng nếu công ty làm ăn thua lỗ hoặc số vốn cam kết của thành viên đã chết còn nợ thì lại phải trả đầy đủ. Chính vì thế , người dân đã rất thiệt thòi trước sự sắp đặt của từng doanh nghiệp. Vậy nên, cần phải có những quy định nhiều hơn nữa , rõ rang hơn nữa để chúng ta không bị thiệt thòi khi rơi vào tình trạg như thế này. Một số vấn đề về thực trạng pháp luật ĐKKD hiện nay Thực trạng pháp luật về đăng ký kinh doanh hiện nay đã được bàn luận rất nhiều. Nhưng vì nó là một vấn đề nổi cộm nên khi nghiên cứu về Luật doanh nghiệp mới chúng ta không thể không nhắc đến . Như vậy, hạn chế đầu tiên chúng ta nhìn thấy là những hạn chế từ hệ thống đăng ký kinh doanh : (Theo VietNamNet.) Ông Lê Quang Mạnh - Trưởng phòng Đăng ký kinh doanh, Cục Phát triển nghiệp nhỏ và vừa, Bộ Kế hoạch - Đầu tư cho rằng, đăng ký kinh doanh là thủ tục hành chính đầu tiên của DN gia nhập thị trường. Tuy nhiên, hệ thống đăng ký kinh doanh hiện nay còn tồn taị nhiều hạn chế. Hiện nay, thủ tục gia nhập thị trường của DN được thực hiện ở nhiều cơ quan khác nhau. Một DN muốn khởi sự kinh doanh phải đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh; sau đó đăng ký mã số thuế  tai cơ quan thuế và đăng ký khắc dấu tại công an.  Ông Mạnh thừa nhận trong hồ sơ DN phải thực hiện còn có quá nhiều trùng lặp, đồng thời DN cũng chưa có được một mã số duy nhất. Năng lực bộ máy đăng ký kinh doanh còn nhiều hạn chế. Điều dễ nhận thấy nhất là chất lượng, tiêu chuẩn và cách thức thực hiện đăng ký kinh doanh ở các địa phương còn nhiều điểm khác nhau. Do hạ tầng kỹ thuật còn yếu nên việc chia sẽ thông thông tin với DN dường như là không thể. Thậm chí việc trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lý nhiều khi cũng không thực hiện được do thiếu sự chuẩn hoá về thông tin mà quan trọng nhất là chưa có được một mã số xác định thống nhất cho mỗi DN. Có một thực tế đang lưu ý, đối với các doanh nghiệp đang hoạt động, việc thiếu một cơ sở dự liệu có tính pháp lý về các doanh nghiệp đã kinh doanh là nguyên nhân tạo ra chi phí giao dịch giữa các DN rất lớn. DN không thể khai thác thông tin có tính pháp lý, đáng tin cậy với chi phí thấp về đối tác của mình nhất là khi đối tác lại đăng ký kinh doanh ở một địa phương khác. Ông Mạnh ví dụ, một DN ở Hà Nội muốn tìm kiếm thông tin về một đối tác ở tỉnh khác thông qua đối tác thứ 3; DN phải liên hệ với phóng đăng ký kinh doanh nơi đối tác đặt trụ sở. Việc này không hễ dễ dàng và đòi hỏi tốn kém. Nếu chúng ta có một cơ sở dữ liệu quốc gia về đằng ký kinh doanh được kết nối với nhau thì mọi việc sẽ trở nên dễ dàng và ít tốn kém hơn. - Để khắc phục cho thực trạng này: Ông Nguyễn Văn Trung, Cục trưởng, Cục DN phát triển DN nhỏ và vừa cho biết, Thủ tướng Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Kế hoạch - Đầu tư phối hợp với các bộ ngành xây dựng các thủ tục cho việc xác định nhân thân của người thành lập và quản lý DN; đồng thời xây dựng mô hình một cửa liên thông giữa các thủ tục đăng ký kinh doanh, khắc dấu và cấp mã số thuế cho DN. Giải pháp cụ thể đầu tiên được các cơ quan quản lý tính đến là ngiên cứu và thực hiện việc áp dụng một mã số DN duy nhất cho mỗi DN. Mã số này sẽ được chấp nhận và sử dụng tại tất cả các cơ quan quản lý nhà nước về DN. Tiếp theo đó, các cơ quan đăng ký kinh doanh, thuế và công an sẽ cùng thống nhất và đồng bộ hoá thủ tục đăng ký kinh doanh, gia nhập thị trường cho DN qua cơ chế "một cửa liên thông" cho tất cả các khâu. Song song với việc cải cách hành chính, cơ quan quản lý sẽ cho xây dựng một cơ sở dữ liệu toàn quốc về đăng ký kinh doanh để chia sẻ thông tin giữa các cơ quan kinh doanh và cung cấp thông tin cho DN. Ông Mạnh cho rằng, việc chuẩn hóa các quy trình đăng ký kinh doanh sẽ tạo ra tiền đề cho giai đoạn tin học hoá và tự độn Được biết, hiện nay, Bộ Kế hoạch - Đầu tư đã bắt đầu khởi động Chương trình đổi mới công tác đăng ký kinh doanh. Công tác chuẩn bị sẽ được tiến hành từ nay đến giữa năm 2007. Sau đó sẽ triển khai ra toàn bộ 64 tỉnh thành. Sau khi hoàn thành, việc đăng ký kinh doanh sẽ trở nên dễ dàng với cơ chế một của liên thông, tất cả các khâu đăng ký kinh doanh, thuế và dấu chũng chỉ có một bộ hồ sơ chung, một mã số duy nhất cho 1 DN. Và như thế có thể hy vọng vào việc thay đổi những hạn chế trong đăng ký kinh doanh như hiện nay. Ngoài ra, còn là hạn chế từ hệ thống các loại giấy phép kinh doanh : Tại Việt Nam, giấy phép kinh doanh tồn tại dưới nhiều hình thức và tên gọi khác nhau như: giấy phép hoạt động, giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, thông báo chấp nhận... Đây chính là những loại giấy tờ cần thiết bên cạnh “Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh” mà thiếu nó, doanh nghiệp không thể tiến hành hoạt động được. Theo thống kê sơ bộ, hiện nay tại Việt Nam đang có hơn 300 loại giấy phép kinh doanh do các Bộ, Ngành ban hành đang có hiệu lực; ngoài ra con số các giấy phép kinh doanh do các địa phương (cấp Tỉnh, Thành phố, thậm chí cấp Quận, Huyện...) ban hành thì khó có thể thống kê chính xác (1). Tìm hiểu và phân tích việc cấp, mục tiêu và tác dụng của giấy phép kinh doanh tại Việt Nam có thể rút ra một số nhận định sau:Về cơ quan cấp giấy phép: Nhìn chung tại Việt Nam hệ thống cơ quan cấp giấy phép kinh doanh khá đa dạng và phức tạp. Cấp Bộ, cấp Cục hoặc Tổng cục chiếm khoảng 30% giấy phép; Cấp Sở của các tỉnh chiếm nhiều nhất khoảng trên 50% giấy phép; Cấp Ban hoặc Trung tâm chiếm khoảng 12% giấy phép; còn lại là những cơ quan cấp thấp hơn như Quận, Huyện... Về thủ tục cấp giấy phép: Như trên đã phân tích, giấy phép kinh doanh về bản chất là biện pháp quản lý hành chính và việc cấp phép được thực hiện dựa trên cơ chế xin – cho. Điều này cộng với những bất cập và phức tạp trong quản lý hành chính làm cho thủ tục cấp phép trở nên rất phiền hà. Cùng một loại giấy phép mỗi địa phương quy định hồ sơ mỗi kiểu. Để hoàn thành bộ hồ sơ này doanh nghiệp phải thực hiện rất nhiều việc, xin rất nhiều xác nhận khác nhau, mỗi lần xác nhận là một lần phải xin để được cho, do vậy mức độ phức tạp càng trở nên lớn hơn, quá trình xin phép phải kéo dài, chi phí khá tốn kém. Việc phải sử dụng phương pháp "đi cửa sau" hoặc tận dụng tối đa các mối "quan hệ quen biết" để có được giấy phép, nhất là vào những lĩnh vực kinh doanh có tỷ suất lợi nhuận cao trở nên phổ biến. Điều này là một nhân tố làm cho môi trường kinh doanh càng ngày càng thiếu sự minh bạch. Về thời gian và chi phí cấp phép: Đây là những thông tin khá nhạy cảm do vậy trong các cuộc điều tra chính thức ít nhận được kết quả trả lời. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp đã cho rằng, tùy theo mức độ hấp dẫn của từng lĩnh vực kinh doanh mà thời gian và chi phí cấp phép, nhất là những loại chi phí không chính thức có sự khác nhau, và đây là những khoản chi không nhỏ. Mặc dù không phủ nhận tác dụng và sự cần thiết của một số loại giấy phép kinh doanh, tuy nhiên đánh giá tổng quát, hệ thống giấy phép của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập. Hệ thống giấy phép phần nào đã làm hạn chế quyền tự do kinh doanh của người dân, vẫn còn thể hiện sự phân biệt đối xử và khuyến khích việc tạo ra lợi thế độc quyền, làm giảm sự năng động của nền kinh tế... Sự cần thiết thay thế mô hình quản lý bằng giấy phép sang mô hình kinh doanh không cần giấy phép : Từ khi Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư chung ra đời, việc bãi bỏ những "giấy phép con" đã được tiến hành khá mạnh mẽ. Tuy nhiên quá trình này tiến hành rất khó khăn và chậm chạp, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn kinh tế đất nước. Gần đây xu hướng phục hồi các giấy phép đã bị bãi bỏ đang là một vấn đề đáng báo động. Theo sự đánh giá của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thì: năm 2002, Thủ tướng chính phủ quyết định bãi bỏ 186 giấy phép con, số còn lại khoảng 160 giao cho các bộ, ngành rà soát tự bãi bỏ hoặc chuyển thành điều kiện kinh doanh. Nhưng đến năm 2004, thực tế số giấy phép con đã tăng lên đến 246, đến tháng 6 năm 2005 con số này đã là 301(2)! Rất nhiều loại giấy phép được ban hành chủ yếu do sự "bất lực" về quản lý và vẫn còn thể hiện tư duy "cấm đoán" (3). Để thực hiện một cách triệt để tinh thần của Luật Doanh nghiệp, mở rộng tối đa quyền tự do kinh doanh của người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của doanh nghiệp cần phải cải tổ hệ thống cấp phép, tiếp tục bãi bỏ những giấy phép kinh doanh không thực sự cần thiết. Tuy nhiên những giải pháp theo hướng này cũng chỉ mang tính tình thế. Chừng nào còn duy trì cơ chế cấp phép thì chừng đó còn phải thường xuyên rà soát để loại bỏ. Để mở rộng tối đa quyền tự do kinh doanh của mọi người dân thì điều quan trọng hơn là phải chuyển một cách mạnh mẽ từ việc quản lý kinh doanh bằng giấy phép sang mô hình đăng ký kinh doanh theo các điều kiện kinh doanh không cần giấy phép. Điều kiện kinh doanh là các điều kiện mà doanh nghiệp phải đáp ứng khi kinh doanh một ngành nghề nhất định do pháp luật quy định. Trong suốt quá trình kinh doanh, doanh nghiệp phải hoàn toàn tự chịu trách nhiệm tuân thủ các điều kiện kinh doanh mà họ đã tự cam kết. Theo cơ chế này, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp đáp ứng đủ những điều kiện kinh doanh mà pháp luật đã quy định. Vai trò của các cơ quan nhà nước được thể hiện trong việc giám sát và phát huy vai trò giám sát của nhiều chủ thể khác nhau đối với việc tuân thủ các điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động và xử lý những trường hợp vi phạm. Doanh nghiệp sau khi hoàn tất các thủ tục đăng ký (mang tính kê khai), không cần phải xin các giấy phép kinh doanh, quá trình kinh doanh của họ sẽ bắt đầu bằng “Thông báo kinh doanh”. Đây là một dạng thông báo công khai của doanh nghiệp trước cơ quan quản lý nhà nước cam kết thực hiện các điều kiện kinh doanh đã qui định. Cơ quan nhà nước có quyền từ chối, không chấp nhận nhưng phải nêu rõ lý do và sự không chấp thuận đó phải được quy định trong thời gian hợp lý. Doanh nghiệp có quyền khởi kiện các quyết định của cơ quan nhà nước về những quyết định đó. Như vậy Nhà nước chỉ đóng vai trò ghi nhận chứ không chịu trách nhiệm về những điều kiện do doanh nghiệp kê khai. Do vậy doanh nghiệp có trách nhiệm lớn và thuờng xuyên về những cam kết kinh doanh đã đăng ký. Điểm khác nhau cơ bản mô hình quản lý theo kiểu cấp phép và điều kiện kinh doanh không cần giấy phép thể hiện ở chỗ: trong mô hình cấp phép, nền tảng hoạt động là cơ chế "xin - cho", còn trong điều kiện kinh doanh không cần giấy phép là sự đăng ký của doanh nghiệp và trách nhiệm chấp nhận của cơ quan nhà nước. Hành động đăng ký không chỉ là hành vi kê khai của doanh nghiệp mà còn là sự cam kết của doanh nghiệp trước xã hội. Tuy nhiên , để thực hiện cho việc ĐKKD theo các điều kiện kinh doanh không cần giấy phép chúng ta cần phải :Xây dựng mô hình giám sát doanh nghiệp theo cơ chế đăng ký kinh doanh không cần giấy phép: Coi trọng kỷ luật đăng ký không phải là buông lỏng quản lý mà chính là khởi đầu của quá trình quản lý. Đăng ký trước hết là hành vi kê khai của doanh nghiệp và quan trọng hơn là hành động tự xác định trách nhiệm, là sự cam kết của doanh nghiệp trước xã hội. Quá trình này chỉ đạt được hiệu quả khi sự cam kết tuân thủ các điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp được giám sát một cách chặt chẽ. Trong mô hình mới việc giám sát của cơ quan nhà nước cần phải tập trung vào các chức năng quan trọng hơn như tạo lập hành lang pháp lý an toàn, tạo môi trường ổn định, thông thoáng, sử dụng hợp lý các công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô, cung cấp thông tin... Bên cạnh đó tham gia vào việc giám sát còn cần phải bao gồm tất cả các chủ thể có liên quan nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Các cơ quan nhà nước là nhân tố trung tâm và đóng vai trò chính, các chủ thể có liên quan, kể cả nội bộ doanh nghiệp sẽ đóng vai trò hỗ trợ theo quyền và nghĩa vụ của mình để bảo vệ lợi ích trước hết của từng chủ thể và sau đó là lợi ích chung của toàn xã hội. Một số nội dung giám sát của các chủ thể theo mô hình giám sát mới có thể được mô tả như sau: Giám sát của Nhà nước Trong mô hình mới, Nhà nước vừa có vai trò giám sát trực tiếp hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua tập trung kiểm tra và áp dụng các biện pháp để hạn chế, ngăn ngừa một cách có hiệu quả các tác động tiêu cực lớn hoặc nguy hại có thể xảy ra đối với xã hội, Nhà nước vừa là chủ thể trung tâm tạo điều kiện và thực hiện giám sát quá trình các chủ thể khác tham gia giám sát các doanh nghiệp. Vai trò giám sát trực tiếp của Nhà nước chỉ nên tập trung vào một số ngành nghề nhất định có tác động lớn đến lợi ích của toàn xã hội, an ninh quốc phòng hoặc những ngành mà người tiêu dùng không đủ khả năng bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình... Trong xu thế mới, Nhà nước cần cải tiến vai trò giám sát theo hướng thu hẹp chức năng giám sát trực tiếp và nâng cao vai trò tổ chức hệ thống giám sát. Trước hết Nhà nước cần tập trung xây dựng các “Tiêu chí đánh giá hoạt động của doanh nghiệp”, từ đó cần quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra, kiểm tra; quy định rõ thời điểm, thời gian thanh, tra kiểm tra và trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong quá trình thanh tra, kiểm tra; quy định bảo mật các thông tin mà doanh nghiệp phải cung cấp qua thanh tra, kiểm tra... Giám sát nội bộ doanh nghiệp Đây là hoạt động giám sát của các chủ thể trong doanh nghiệp như các cổ đông, chủ sở hữu doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp, người lao động... đối với doanh nghiệp. Đây là hình thức giám sát hiệu quả vì các chủ thể này rất nhiều thông tin, am hiểu thực chất hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và mục tiêu giám sát nhằm bảo vệ lợi ích của chính mình. Nội dung giám sát bao gồm bộ hoạt động của doanh nghiệp như: thực hiện chiến lược, kế hoạch và mục tiêu kinh doanh; tình hình tài chính; tình hình nhân sự; quan hệ giữa doanh nghiệp và cộng đồng... Cơ sở pháp lý và các công cụ để thực hiện giám sát nội bộ được quy định khá chi tiết và đầy đủ trong Luật Doanh nghiệp. Giám sát của chủ nợ và bạn hàng Các chủ nợ và các bạn hàng là những người có lợi ích trực tiếp và gắn chặt với lợi ích của doanh nghiệp. Sự giám sát của họ trước hết nhằm bảo vệ lợi ích của chính họ, tránh tình trạng doanh nghiệp không còn khả năng trả nợ hoặc không thực hiện hợp đồng. Để thực hiện việc giám sát của mình, chủ nợ và bạn hàng phải hết sức cẩn trọng trong việc lựa chọn doanh nghiệp để cho vay vốn hoặc ký kết các hợp đồng. Ngoài ra các chủ nợ và bạn hàng phải thường xuyên yêu cầu các con nợ phải cung cấp thông tin về hoạt động kinh doanh, kết hợp với việc thu thập thông tin từ những nguồn khác để có những tác động cần thiết đối với doanh nghiệp. Giám sát của các cơ quan báo chí và truyền thông Xã hội càng phát triển, vai trò của các cơ quan báo chí ngày càng tăng. Đây chính là kênh thông tin tới công chúng, khách hàng... về doanh nghiệp một cách nhanh chóng và rộng rãi nhất, qua đó tác động trực tiếp tới ứng xử của doanh nghiệp. Thông qua tác động tuyên truyền và định hướng công chúng, báo chí sẽ tạo nên một áp lực giám sát đối với doanh nghiệp, bắt buộc doanh nghiệp hải hành động hợp lý, đúng pháp luật, đúng đạo lý, tôn trọng lợi ích của toàn xã hội. Giám sát của các đối thủ cạnh tranh Đối thủ cạnh tranh cũng là các chủ thể có lợi ích gắn chặt với hoạt động của doanh nghiệp, do vậy sự giám sát của họ cũng hết sức thiết thực và có hiệu quả. Sự giám sát này thể hiện trước hết ở chỗ các đối thủ cạnh tranh sẽ tạo ra áp lực bắt buộc các doanh nghiệp phải nỗ lực cải tiến sản xuất, nâng cao chất lượng, hạ thấp chi phí, quan tâm toàn diện đến khách hàng và công chúng... Có thể nói đây là sự giám sát mang lại sự phát triển bền vững cho doanh nghiệp và cho xã hội. Công cụ giám sát chủ yếu chính là Luật Cạnh tranh, tuy nhiên để sự giám sát này mang lại hiệu quả việc nghiêm chỉnh chấp hành Luật Cạnh tranh cần phải được sự quan tâm và tác động tích cực từ phía chủ thể trung tâm là các cơ quan nhà nước. Giám sát của người tiêu dùng Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng có vị trí chi phối và quyết định hoạt động và sự tồn tại của doanh nghiệp. Người tiêu dùng đã trở thành một quyền lực thực sự đối với doanh nghiệp và sự giám sát của họ thông qua việc tẩy chay, khiếu nại, nêu ý kiến trước công luận... trở thành một áp lực to lớn bắt buộc doanh nghiệp phải thực hiện tốt những điều đã cam kết với khách hàng, phải hành động đúng. Địa vị của người tiêu dùng trong thực tế càng ngày càng cao khi họ được tập hợp trong các “Hiệp hội người tiêu dùng”. Thông qua hiệp hội của mình, tiếng nói của người tiêu dùng được thống nhất và do đó quyền lực giám sát càng ngày càng mạnh mẽ. KẾT LUẬN Hoạt động ĐKKD đối với doanh nghiệp hiện nay đã có nhiều biến sắc hơn so với trước đây. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều những bất cập do nhiều nguyên nhân khác nhau. Với nhiều những hạn chế của cơ quan ĐKKD, quyền lợi cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư không được bảo đảm. Ngược lại, về phía các doanh nghiệp, việc vạch ra những ý tưởng thực sự rõ ràng, minh bạch trong kinh doanh và thực hiện những ý tưởng đó còn có nhiều khúc mắc gây cản trở quá trình ĐKKD đối với các cơ quan tiến hành ĐKKD. Tóm lại, nguyên nhân không nằm trong tính pháp lý đã rõ ràng, cụ thể hay chưa mà chủ yếu thuộc về phía những người trực tiếp tiến hành hoạt động ĐKKD, cả bên có quyền và bên thực hiện nghĩa vụ nhiều khi vẫn còn mắc những sai lầm thường gặp như trên. Ngoài ra, còn một vấn đề dễ nhận thấy trong quá trình hoạt động tổ chức của chính các doanh nghiệp. Đó là sự chưa chặt chẽ, cụ thể và đúng pháp luật. Do đó trong doanh nghiệp, quyền lợi của chính các thành viên đã không được đảm bảo một cách toàn diện. Đôi khi còn xuất hiện trong các doanh nghiệp những cơ chế đóng làm hạn chế rất nhiều quyền tự do kinh doanh, tự do góp vốn … mà pháp luật cho phép các thành viên. Thực trạng đó là do nhiều nguyên nhân nhưng trước hết nó có hệ luỵ từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường mang lại. Trong cơ chế thị trường như hiện nay, con người sẽ coi trọng đồng tiền, lợi nhuận là trên hết nên có thể bỏ qua nhiều những nguyên tắc đạo đức truyền thống . MỤC LỤC ĐẶT VẤN ĐỀ 1 NỘI DUNG 3 Việc từ chối cấp ĐKKD với lý do : các thành viên không có hộ khẩu thường trú trên địa bàn tỉnh. 3 Cơ sở pháp lý 3 Nội dung - giải quyết vấn đề 3 Một số vấn đề khác 8 Ngành nghề kinh doanh – Kinh doanh mọi ngành nghề mà pháp luật không cấm 8 Cơ sở pháp lý 9 Nội dung - giải quyết vấn đề 10 Tiểu kết 16 Thành viên hợp pháp của công ty do thừa kế 17 Cơ sở pháp lý 17 Nội dung 17 Tiểu kết 20 Một số vấn đề về thực trạng pháp luật ĐKKD hiện nay 21 C. KẾT LUẬN 31 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Luật doanh nghiệp 2005; Luật đầu tư 2005; Bộ luật dân sự 2005; Nghị định số 88/2006/NĐ-CP; Nghị định số 139/2007/NĐ-CP; Thông tư số 97/2006/TT-BTC; Thông tư liên tịch số 07/2001/TTLT/BKH-TCTK; Giáo trình Luật thương mại – ĐH Luật HN; Giáo trình Luật Kinh tế - Đại học Kinh tế quốc dân; Giáo trình Luật Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội - Phạm Duy Nghĩa; Hỏi đáp Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương; Thông tin internet , sách báo Đề bài : Cho biết ý kiến của mình về các tình huống sau : Phòng ĐKKD tỉnh H từ chối cấp ĐKKD cho công ty TNHH X với lý do duy nhất là : các sáng lập viên không có hộ khẩu thường trú trên địa bàn tỉnh H. Phòng ĐKKD tỉnh P từ chối cấp ĐKKD cho công ty cổ phần L với nội dung ngành nghề kinh doanh là : “Kinh doanh mọi ngành nghề mà pháp luật không cấm kinh doanh” Hội đồng thành viên công ty TNHH M quyết định không chấp nhận ông P là thành viên công ty. Ông P là ngưới thừa kế hợp pháp của một thành viên (đã chết) của công ty M.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số vấn đề về thực trạng pháp luật Đăng ký kinh doanh hiện nay.doc
Luận văn liên quan