I. NHẬN THỨC :
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác giáo dục. Từ Nghị quyết TW2 khóa VIII đã nêu rõ “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân”.
Nghị quyết cũng đã định hướng về chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đưa dất nước trở thành một nước công nghiệp. Làm tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, từng bước hội nhập với khu vực, với thế giới. Khi đất nước đã phát triển đạt tới trình độ cao về khoa học công nghệ đang tiến tới nền kinh tế tri thức và một xã hội thông tin. Đã tiếp tục khẳng định mục tiêu giáo dục mầm non phù hợp với các điều kiện và yêu cầu của từng nơi, đảm bảo hầu hết trẻ 5 tuổi được học qua chương trình mẫu giáo 5 tuổi để chuẩn bị vào lớp một.
Trường mẫu giáo là nơi có trách nhiệm tổ chức thực hiện mục tiêu kế hoạch đào tạo những thế hệ trẻ mầm non, trở thành những đứa trẻ khỏe mạnh, nhanh nhẹn, cơ thể phát triển cân đối hài hòa, giàu lòng thương yêu, biết quan tâm nhường nhịn những người xung quanh, thật thà, lễ phép, mạnh dạn, hồn nhiên, thông minh, ham hiểu biết, yêu thích cái đẹp, quý trọng cái đẹp, nhất là trẻ 5 tuổi, cần được giáo dục chăm sóc trẻ có một số kỹ năng sơ đẳng như: quan sát, ghi nhớ, so sánh, phân tích, tổng hợp, suy luận, phán đoán để trẻ vào trường phổ thông, trẻ thích được đi học.
Nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ là nhiệm vụ mục tiêu cơ bản nhất của trường mầm non. Thực hiện được mục tiêu này là góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục mầm non. Công tác giáo dục phải được nhân dân ta nhận thức rõ tầm quan trọng của ngành học mầm non. Chính vì vậy việc nâng cao công tác chăm sóc giáo dục trẻ, đặc biệt quan tâm đến chất lượng trẻ 5 tuổi để trẻ được phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ là nền móng hình thành nhân cách trẻ, làm cơ sở vững chắc cho các bậc học tiếp theo.
Vì vậy, đào tạo thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước phải cần có một đội ngũ giáo viên tâm huyết với nghề và hiểu biết nghiệp vụ, có phẩm chất ý chí vươn lên, đồng thời phải có trí thức về đường lối quan điểm của Đảng.
Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ từng độ tuổi là pháp lệnh Nhà nước do Bộ Giáo dục - Đào tạo ban hành được thực hiện thống nhất trên phạm vi cả nước.
Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ là công cụ chủ yếu để Nhà nước lãnh đạo và giám sát hoạt động nuôi dạy trẻ ở trường mầm non, đồng thời cũng là căn cứ pháp lý để nhà trường và giáo viên cùng tổ chức công tác giáo dục trẻ.
Những năm gần đây, trẻ em có sự tăng tốc trong sự phát triển thể lực, có mối quan hệ chặt chẽ giữa dinh dưỡng - sức khỏe và phát triển nhận thức - vốn sống. Việc hình thành các kỹ năng vận động, sự phối hợp khéo léo giữa các giác quan phụ thuộc vào quá trình rèn luyện của trẻ, môi trường chăm sóc giáo dục trẻ.
Ở lứa tuổi mầm non nói chung, trẻ mẫu giáo từ 3-6 tuổi nói riêng, hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo đối với sự phát triển của trẻ. Do nhu cầu giao tiếp của trẻ với người lớn, trẻ với trẻ cùng lứa tuổi, trẻ với môi trường nhiên thiên và môi trường xã hội đã trở nên mạnh mẽ, trẻ với nguyện vọng được tự lực- tự chơi, tự khám phá tìm hiểu.
Bên cạnh kiểu tư duy trực quan hành động, xuất hiện kiểu tư duy trực quan hình tượng đó là tiền đề phát triển tư duy lô gích, rất cần thiết ở tuổi học đường sau này.
Sự lớn lên và phát triển của trẻ đều phải trải qua những đặc điểm chung nhưng ta nhận thấy rằng trẻ em ngày nay phát triển sớm hơn cả về tâm sinh lý, tình cảm, trí tuệ, các khuynh hướng, nhu cầu, hứng thú, thị hiếu, thẩm mỹ của trẻ ngày càng trở nên đa dạng phong phú, trẻ phát triển sớm, hiểu biết nhiều, nói năng mạch lạc hơn.
Sự phát triển của trẻ ở lứa tuổi mầm non mang tính tổng thể. Vì vậy chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non trước hết phải đảm bảo sự cân đối hài hòa giữa các mặt, chăm sóc sức khỏe, an toàn nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục cần đảm bảo tác động đến trẻ, thích hợp, đúng đắn, đúng lúc, phù hợp với từng lứa tuổi của trẻ.
Công tác nâng cao chất lượng các hoạt động của trẻ là nhiệm vụ hàng đầu, là nhiệm vụ trọng tâm của trường. Cần tìm ra một số biện pháp, phương thức để nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trong nhà trường nhằm thực hiện tốt mục tiêu của trường đề ra.
21 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9414 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một vài biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục trẻ 5 tuổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HUYỆN THUẬN AN
TRƯỜNG MẪU GIÁO HOA CÚC 2
_________________
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
MỘT VÀI BIỆN PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
TRẺ 5 TUỔI
Người thực hiện: Nguyễn Thị Hoa
Chức danh: phó Hiệu trưởng
Số điện thoại cơ quan: 0650. 3 722 120
Năm học: 2010 - 2011
I. NHẬN THỨC :
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác giáo dục. Từ Nghị quyết TW2 khóa VIII đã nêu rõ “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân”.
Nghị quyết cũng đã định hướng về chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đưa dất nước trở thành một nước công nghiệp. Làm tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, từng bước hội nhập với khu vực, với thế giới. Khi đất nước đã phát triển đạt tới trình độ cao về khoa học công nghệ đang tiến tới nền kinh tế tri thức và một xã hội thông tin. Đã tiếp tục khẳng định mục tiêu giáo dục mầm non phù hợp với các điều kiện và yêu cầu của từng nơi, đảm bảo hầu hết trẻ 5 tuổi được học qua chương trình mẫu giáo 5 tuổi để chuẩn bị vào lớp một.
Trường mẫu giáo là nơi có trách nhiệm tổ chức thực hiện mục tiêu kế hoạch đào tạo những thế hệ trẻ mầm non, trở thành những đứa trẻ khỏe mạnh, nhanh nhẹn, cơ thể phát triển cân đối hài hòa, giàu lòng thương yêu, biết quan tâm nhường nhịn những người xung quanh, thật thà, lễ phép, mạnh dạn, hồn nhiên, thông minh, ham hiểu biết, yêu thích cái đẹp, quý trọng cái đẹp, nhất là trẻ 5 tuổi, cần được giáo dục chăm sóc trẻ có một số kỹ năng sơ đẳng như: quan sát, ghi nhớ, so sánh, phân tích, tổng hợp, suy luận, phán đoán để trẻ vào trường phổ thông, trẻ thích được đi học.
Nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ là nhiệm vụ mục tiêu cơ bản nhất của trường mầm non. Thực hiện được mục tiêu này là góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục mầm non. Công tác giáo dục phải được nhân dân ta nhận thức rõ tầm quan trọng của ngành học mầm non. Chính vì vậy việc nâng cao công tác chăm sóc giáo dục trẻ, đặc biệt quan tâm đến chất lượng trẻ 5 tuổi để trẻ được phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ là nền móng hình thành nhân cách trẻ, làm cơ sở vững chắc cho các bậc học tiếp theo.
Vì vậy, đào tạo thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước phải cần có một đội ngũ giáo viên tâm huyết với nghề và hiểu biết nghiệp vụ, có phẩm chất ý chí vươn lên, đồng thời phải có trí thức về đường lối quan điểm của Đảng.
Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ từng độ tuổi là pháp lệnh Nhà nước do Bộ Giáo dục - Đào tạo ban hành được thực hiện thống nhất trên phạm vi cả nước.
Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ là công cụ chủ yếu để Nhà nước lãnh đạo và giám sát hoạt động nuôi dạy trẻ ở trường mầm non, đồng thời cũng là căn cứ pháp lý để nhà trường và giáo viên cùng tổ chức công tác giáo dục trẻ.
Những năm gần đây, trẻ em có sự tăng tốc trong sự phát triển thể lực, có mối quan hệ chặt chẽ giữa dinh dưỡng - sức khỏe và phát triển nhận thức - vốn sống. Việc hình thành các kỹ năng vận động, sự phối hợp khéo léo giữa các giác quan phụ thuộc vào quá trình rèn luyện của trẻ, môi trường chăm sóc giáo dục trẻ.
Ở lứa tuổi mầm non nói chung, trẻ mẫu giáo từ 3-6 tuổi nói riêng, hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo đối với sự phát triển của trẻ. Do nhu cầu giao tiếp của trẻ với người lớn, trẻ với trẻ cùng lứa tuổi, trẻ với môi trường nhiên thiên và môi trường xã hội đã trở nên mạnh mẽ, trẻ với nguyện vọng được tự lực- tự chơi, tự khám phá tìm hiểu.
Bên cạnh kiểu tư duy trực quan hành động, xuất hiện kiểu tư duy trực quan hình tượng đó là tiền đề phát triển tư duy lô gích, rất cần thiết ở tuổi học đường sau này.
Sự lớn lên và phát triển của trẻ đều phải trải qua những đặc điểm chung nhưng ta nhận thấy rằng trẻ em ngày nay phát triển sớm hơn cả về tâm sinh lý, tình cảm, trí tuệ, các khuynh hướng, nhu cầu, hứng thú, thị hiếu, thẩm mỹ của trẻ ngày càng trở nên đa dạng phong phú, trẻ phát triển sớm, hiểu biết nhiều, nói năng mạch lạc hơn.
Sự phát triển của trẻ ở lứa tuổi mầm non mang tính tổng thể. Vì vậy chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non trước hết phải đảm bảo sự cân đối hài hòa giữa các mặt, chăm sóc sức khỏe, an toàn nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục cần đảm bảo tác động đến trẻ, thích hợp, đúng đắn, đúng lúc, phù hợp với từng lứa tuổi của trẻ.
Công tác nâng cao chất lượng các hoạt động của trẻ là nhiệm vụ hàng đầu, là nhiệm vụ trọng tâm của trường. Cần tìm ra một số biện pháp, phương thức để nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trong nhà trường nhằm thực hiện tốt mục tiêu của trường đề ra.
II./ TÌNH HÌNH:
Thuận lợi:
Trường được sự quan tâm sâu sát của các cấp lãnh đạo Phòng - bộ phận chuyên trách mầm non, sự hỗ trợ của Chính quyền địa phương và có sự phối kết hợp tốt với các ban ngành, đoàn thể, các bậc phụ huynh học sinh.
Công tác nâng cao chất lượng giáo dục, nhất là trẻ 5 tuổi ở các trường mầm non – mẫu giáo là chủ đề năm học, là nhiệm vụ trọng tâm trong mục tiêu phát triển nhà trường trong năm học 2010-2011 và những năm tiếp theo.
Khó khăn:
- Trường còn thiếu biên chế giáo viên so với định mức. Các giáo viên có biên chế thâm niên cao nhưng hạn chế sức phấn đấu để đạt chuẩn nghề nghiệp của giáo viên mầm non. Có phần hạn chế tính sáng tạo, linh động trong việc đầu tư, tổ chức các hoạt động đa dạng phong phú cho trẻ, để trẻ có điều kiện trãi nghiệm - vận dụng vốn sống, phát huy tính tích cực, sáng tạo khi được tham gia các hoạt động theo chương trình giáo dục mầm non mới.
Do điều kiện kinh tế ở địa phương gặp nhiều khó khăn. Đa số bố mẹ các cháu là công nhân, nên không có thời gian để phối kết hợp thực hiện các biện pháp giáo dục trẻ cùng với nhà trường, cùng tạo điều kiện, cơ hội cho trẻ được củng cố kiến thức, ôn luyện, rèn các kỹ năng thường xuyên.
III./ BIỆN PHÁP:
Cùng với Nhà trường nhận định rõ những mặt mạnh, mặt yếu về thực trạng của trường, đội ngũ giáo viên. Tôi đã mạnh dạn chỉ đạo thực hiện một số biện pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn hoàn thành nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ tốt hơn.
1/. Xây dựng kế hoạch chỉ đạo để nâng cao chất lượng trẻ 5 tuổi
2/. Chỉ đạo thực hiện chương trình
3/. Thường xuyên bồi dưỡng phương thức soạn giảng, hình thức tổ chức hoạt động, đa dạng phong phú
4/. Thực hiện công tác kiểm tra, rút kinh nghiệm và đề ra hướng khắc phục
Cụ thể như sau:
1/ Xây dựng kế hoạch chỉ đạo để nâng cao chất lượng trẻ 5 tuổi:
Đầu năm họp chung với kế hoạch chuyên môn của trường, dựa vào thế mạnh, tay nghề của đội ngũ giáo viên để xây dựng kế hoạch chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ 5 tuổi.
Trong cuộc hợp đầu năm, tập thể cán bộ giáo viên cùng nhau đưa ra phương hướng thực hiện nhiêm vụ năm học của cá nhân dựa theo công tác được phân công, đánh giá những ưu khuyết - điểm của năm trước, phân tích những khuyết điểm hạn chế, từ đó đề ra những biện pháp cụ thể cần thực hiện và nhất trí cao là cùng nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục của trường, chú trọng chất lượng giáo dục trẻ 5 tuổi. Xây dựng kế hoạch cụ thể theo yêu cầu mục tiêu của ngành học phù hợp với tình hình thực trạng của trường. Nhà trường tổ chức Hội nghị cán bộ công chức đầu năm, phát động chị em trong tập thể tham gia đăng ký thi đua với từng chỉ tiêu cụ thể:
Cụ thể về chất lượng học sinh:
98 % cháu đến lớp đều, ăn mặc sạch sẽ
85 % trẻ tham gia tích cực các hoạt động, năng động, sáng tạo
90 % trẻ thực hiện được các yêu cầu của cô
80 % trẻ biết dùng các kỹ năng cơ bản để giải quyết các bài tập, tình huống cô đưa ra. Biết ghi nhận so sánh kết quả
2/. Chỉ đạo thực hiện chương trình:
Chỉ đạo thực hiện chương trình, nắm vững mục tiêu chương trình chăm sóc giáo dục mầm non mới, hướng tới phát huy tính tích cực, sáng tạo ở trẻ, phát triển ngôn ngữ, tư duy trẻ, rèn luyện và hình thành một số kỹ năng cơ bản, kỹ năng sống nơi trẻ: nắm vững nội dung, phương thức giáo dục trẻ đối với từng hoạt động chăm sóc giáo dục cụ thể, kết hợp với kinh nghiệm thực tiển của mình mà có biện pháp chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ hỗ trợ giáo viên, nhất là những giáo viên gặp khó khăn trong chuyên môn, nhất là trong đầu tư soạn giảng- tổ chức thực hiện các hoạt động đa dạng cho trẻ có cơ hội được trãi nghiệm vốn sống và vận dụng kiến thức vào thực tiển, được thử nghiệm, được luyện tập và rèn được một số kỹ năng cơ bản cần thiết.
Đồng thời xây dựng kế hoạch, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên, giúp giáo viên có khả năng vận dụng sáng tạo các phương pháp giáo dục vào từng đối tượng cụ thể. Nhất là những giáo viên lớn tuổi hay theo qui cũ, không có sáng tạo, giáo viên mới ra trường. Phải có kế hoạch cụ thể các nội dung, phương pháp giáo dục trong chương trình, phù hợp với tình hình thực tế của lớp mình phụ trách, với khả năng của trẻ trong lớp. Đảm bảo cho giáo viên thực hiện đúng, đủ và thực hiện có sự linh động sáng tạo. ( nội dung hoạt động được mở rộng phong phú, hình thức hoạt động đa dạng được tổ chức theo ý tưởng riêng của từng giáo viên- thu hút, lôi cuốn được trẻ tích cực trong suốt quá trình hoạt động, đồ dùng dạy học - đồ chơi mang tính động và mở, thời gian hoạt động không cố định tuyệt đối mà có thể gia giảm tùy theo hứng thú của trẻ, chú ý đến hoạt động nhóm nhỏ và cá nhân, chú ý phát triển tư duy, suy đoán với những câu gợi ý gợi mở, những tình huống yêu cầu trẻ giải quyết …
3/. Thường xuyên bồi dưỡng phương thức soạn giảng, hình thức tổ chức hoạt động, đa dạng phong phú:
Do trình độ của giáo viên không đều, thường xuyên thăm lớp dự giờ, bồi dưỡng phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động cho chị em giáo viên, trao đổi kinh nghiệm trong chuyên môn để giáo viên có cơ hội học tập lẫn nhau và giúp đỡ nhau nâng cao tay nghề. Xây dựng đội ngũ giáo viên nồng cốt cho việc nâng cao chất lượng thực hiện chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Công việc này tôi bắt đầu từ tháng 9 đầu năm học, hàng tháng đều triển khai về phương thức đặc thù của từng loại hoạt động, tổ chức thao giảng dạy tốt, rút kinh nghiệm các hoạt động.
Đầu tư các hoạt động “Khám phá - Rèn kỹ năng sống” cho trẻ phù hợp thực tế qua các hoạt động, hướng dẫn giáo viên tổ chức thực hiện trên các tiết thao giảng ở trường, thao giảng huyện: cụ thể một vài hoạt động như sau
* Hoạt động “ Làm quen với toán” Chủ đề: Bản thân, nội dung về số lượng, qua đề tài Pha nước tắc trong hoạt động cô cho trẻ quan sát và thực hiện các thao tác thực như:
- Quan sát bảng công thức, qui trình thực hiện, cho trẻ phát biểu tự do
- Quan sát cô thực hiện đong - đếm lượng nước chính vào ly lớn
- Theo dõi cô cho số lượng đường vào ly
- Quan sát nhận xét, nhận xét sự việc theo khả năng của trẻ, cô có thể gợi hỏi để trẻ trả lời được theo sự vật đang quan sát ( đường lắng xuống đáy ly)
- Sau đó cô thực hiện thao tác khuấy đều, cho trẻ nhận xét tiếp, xác định một vài vấn đề: cái gì biến mất, khi biến mất nó đi đâu ( hòa tan trong nước), trạng thái nước hiện tại như thế nào so với lúc ban đầu ( trong hơn - đục hơn )
- Cô vắt lần lượt một nửa quả tắc vào, nhận xét ( hạt nổi, hạt chìm, khuấy đều, nhận xét chất tan – không tan, xác định số lượng quả tắc…
- Cho trẻ nếm thử, cho biết kết quả mùi vị của nước ?, cảm giác
- Cho trẻ nêu ích lợi của nước tắc đối với sức khỏe, giáo dục dinh dưỡng
- Cho trẻ bắt đầu thực hành, cô nhắc nhở trẻ thực hiện các khâu vệ sinh trước - trong và sau khi chế biến để an toàn thực phẩm – dinh dưỡng. Khi thực hành chú ý đong và đếm số lượng theo đơn vị tính của từng nhóm khác nhau.
- Cô bao quát chặt chẽ quá trình thực hiện của trẻ qua từng khâu, để kịp thời điều chỉnh bổ sung kiến thức chính xác, hướng láy, nhắc nhỡ trẻ thực hiện được, đúng đạt và yêu cầu của cô đề ra. Cho từng trẻ được thực hiện tất cả các thao tác mà trước đó đã được quan sát theo dõi cô thực hiện.
- Trẻ thực hiện xong qui trình và có được sản phẩm ( ly nước tắc ), gợi ý trẻ chia - mời mọi người xung quanh và thưởng thức ly nước do chính tay mình tạo nên. Tuy nhiên để chú ý việc an toàn lao động của trẻ trong hoạt động: cô làm giúp trẻ một vài khâu như: cắt đôi quả tắc (1/2), một phần ba quả chanh (1/3 ) trước khi trẻ tiến hành thực hiện…
- Cần chuẩn bị thêm một số vật liệu để có thể bù vào các hư hỏng do thao tác của một số trẻ còn lúng túng, vụn về.
* Hoạt động “ Làm quen môi trường xung quanh” Chủ đề: Gia đình, nội dung An toàn thực phẩm qua đề tài “ Màu trong thức ăn” .
Trong hoạt động trẻ được quan sát các hình ảnh gần gũi sát thực tế, được so sánh, suy luận, phán đoán tình huống, được thực hiện, và rèn kỹ năng các thao tác: giả, lượt, dầm, loại bỏ hạt dưa, vắt, nhồi, bóp, nặn bánh, rót chất lõng vào thố, vào bịt, cột, buột miệng bịt bằng thun…. Sau khi tự tay tạo ra các loại màu đẹp từ thiên nhiên trẻ được cô tạo điều kiện cho trẻ so sánh màu của thiên nhiên và màu hóa học trong cùng đơn vị đo đếm về số lượng. Sau khi so sánh trẻ được thực hiện pha chế, ngửi mùi thơm và nếm, thưởng thức một loại thực phẩm với các màu khác nhau của trẻ và cô vừa tạo nên ( cô chọn làm một thức ăn, thức uống trong một số loại có thể thực hiện ngay sau đó: pha chế nước quả, sinh tố bịt, cho màu vào bột gạo có đường, có béo, cho trẻ nặn bánh - đem hấp chín, cô đổ rau câu …). Cô có thể tạo điều kiện cho mỗi nhóm thực hiện một món hoặc mỗi nhóm thực hiện một màu trong cùng một món. Phần thưởng thức chú ý giao lưu giữa các nhóm để trẻ được nếm mùi vị của nhiều màu trong món ăn, thức uống đó. Tuy nhiên cô phải chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ “ Bé làm nội trợ” sạch và các loại thực phẩm cần dùng trong hoạt động phù hợp, vừa tay trẻ, tạo điều kiện tốt cho trẻ tham gia hoạt động hăng say.
- Tạo tâm thế nhẹ nhàng- tự nhiên để vào hoạt động. Cô cho trẻ vận động theo nhạc hoặc tập một bài thể dục theo nhạc. Sau đó cho trẻ nêu một số vấn đề liên quan đến cơ thể và sức khỏe sau khi vận động. ( vd : sau khi tập thể dục con cảm thấy như thế nào? Trẻ trả lời tự do theo cảm nhận của trẻ: có trẻ cảm thấy vui, có trẻ cảm thấy mệt, có trẻ cảm thấy khát nước, thấy cơ thể nhẹ - có cảm giác bay bay lên, thấy đói bụng, muốn vận động tiếp, muốn chơi trò chơi gần giống như thế, muốn ngồi xuống nghỉ…)
- Cô cho trẻ nêu ích lợi của việc vận động phù hợp đối với sức khỏe, chú ý đặt các câu hỏi gợi ý để khai thác vốn hiểu biết của trẻ, nếu cần cô bổ sung ý cho đầy đủ hơn.
- Cô gợi hỏi trẻ: Trong cuộc sống, theo các con mình chỉ tập thể dục và vận động như thế thì đã đủ chưa ? Còn cần những yếu tố nào nửa? ( khai thác ở trẻ: cần phải ăn uống, cần phải ngủ, nghỉ ngơi, cần được vui chơi- giải trí… )
- Việc ăn uống rất quan trọng đối với sự sống. Vậy khi ăn uống chúng ta phải chọn lựa những đồ ăn - thức uống như thế nào ? để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và đầy đủ dinh dưỡng cho sức khỏe. ( khai thác vốn sống của trẻ )
- Cho trẻ xem một số hình ảnh trình chiếu ở file powerpoint về thực phẩm không an toàn được làm từ các loại phẩm màu hóa học độc hại. Để trẻ có sự so sánh về các màu tự nhiên trước - sau khâu chế biến và các màu hóa học trước - sau khâu chế biến ra thành phẩm. Thực phẩm có màu đậm – nổi bật từ màu hóa học ( tạo ra từ màu bột, màu nước ) thường chứa chất đội, có hại cho sức khỏe: bánh, kẹo, mứt, nước uống có ga ( có màu xanh dương, màu hồng đậm, đỏ đậm, màu nâu đen, màu cam đậm). Màu ấy bám ngay vào lưỡi của trẻ sau khi vừa uống xong và các hình ảnh ngộ độc thực phẩm, bệnh, khám bệnh.
Các thực phẩm có màu nhạt - đẹp được tạo từ nguồn gốc tự nhiên chứa nhiều vitamin, chất dinh dưỡng, có mùi thơm khi chế biến ( được tạo ra từ các loại rau củ, hoa quả ) như: Xôi, rau câu, bánh hấp, nước ép trái cây, …
- Cho trẻ xem thực tế một số màu cô tạo từ rau củ hoa quả: màu đỏ của dưa hấu; của quả gấc, màu xanh của lá dứa, màu vàng của quả thơm, màu cam của quả cam, màu hồng của dâu tây, màu nâu nhạt của quả chanh muối - tắc muối dầm ra, màu trắng đục của dừa xay…. Cho trẻ nêu các thao tác có thể thực hiện trong quá trình tạo ra các màu trên, cô bổ sung các thao tác cần và những lưu ý khi thực hiện thao tác.
- Song song đó cho trẻ làm quen một số loài cây lá có thể dùng tạo màu, tạo mùi được dùng chế biến trong thức ăn: lá dứa, quả dưa hấu, dừa xay, quả dâu tây, quả cam, quả thơm, quả gấc… .
- Cho trẻ chia nhóm và cùng cô chuẩn bị vị trí các nhóm thực hiện tạo màu từ các loại rau củ quả cô đã chuẩn bị. Cho trẻ rửa tay sạch trước khi thực hiện:
. Nhóm tạo màu xanh từ lá dứa: bạn cắt lá dứa thì dùng kéo sạch, cắt ngang lá khoảng 1cm; bạn khác giã lá, cho lá đã cắt vào cối, dùng chài giã nhuyễn, cho ra chén; bạn khác sẽ cho một ít nước chín vào, khấy đều và lược màu vào 1 chén khác qua cái rây loại bỏ xơ
. Nhóm tạo màu đỏ từ dưa hấu: bạn dùng muỗn lấy phần dưa đỏ ra dĩa từ một nửa quả dưa cô vừa bổ ra; các bạn dầm, sẽ xúc dưa vào ly, dùng muỗn dầm nát đều và cho dưa ra tô; bạn khác sẽ dùng muỗn loại bỏ hạt dưa ra dĩa nhỏ
. Nhóm tạo màu hồng từ quả dây tây: dùng kẹp cho dây đã được loại bỏ cuống và rửa sạch vào ly, dùng muỗn dầm nát đều.
. Nhóm tạo màu vàng từ quả thơm: dùng muỗn cho thơm đã sắc miếng vào ly và dầm nát.
. Nhóm vắt nước cốt dừa: bạn dùng muỗn xúc dừa xay cho vào cái vợt lượt cà phê hoặc cho vào túi vải nhỏ vừa tay trẻ (4-5 muỗn); đặt vợt vào một cái tô to; một bạn mang bao tay ni lông thực hiện thao tác nhồi, bạn khác cho ít nước chín vào, nhồi tiếp và và bó vắt nước vào một tô khác.
. Nhóm tạo màu cam từ quả cam: thực hiện thao tác vắt nước cam lần lượt một nửa quả với dụng cụ vắt cam ( cam đã được gọt võ xanh và bổ đôi )
Sau khi các nhóm thực hiện xong, cùng đặt các tô màu thành hàng ngang để cùng quan sát
- Cho trẻ so sánh giữa màu tự nhiên và màu hóa học ( lấy 2 ly nước như
nhau, cô lần lượt cho số giọt màu bằng nhau vào, khấy đều cho trẻ nhận xét độ
đậm nhạt của nước trong 2 cái ly, cho trẻ suy đoán vì sao màu trong thực phầm được chế biến từ màu hóa học thường có màu đậm, trông rất bắt mắt và không phai màu khi để trong thời gian dài.
- Tiếp tục cô cùng trẻ pha chế nước quả với các loại màu tự nhiên vừa
tạo nên hoặc cô tiến hành đổ rau câu. Để trẻ thưởng thức được mùi thơm của
màu xanh từ lá dứa và mùi béo của màu trắng từ dừa xay.
Cô có thể sáng tác lời mới cho bài đồng dao, hò - vè vui, theo đề tài và cho trẻ đọc khi kết thúc hoạt động để khắc sâu kiến thức:
“ Rềnh rềnh ràng ràng , Đi chợ mua hàng.
Ôi chao nhiều quá !
Hồng hồng cam cam, Xanh xanh đỏ đỏ,
Chú ý mẹ ơi !
Thông báo khắp nơi, An toàn thực phẩm.
Thức ăn màu đậm, Độc hại vô cùng.
Không mua không dùng, ai ơi xin nhớ,
Xin nhớ xin nhớ, cái mà xin nhớ. ”
- Khi được thưởng thức món ăn có công sức đóng góp của trẻ, trẻ sẽ rất
vui, rất ấn tượng và khắc sâu về những kiến thức, kỹ năng, cảm xúc, cảm giác
khi được tham gia tất cả các khâu và thực hiện được các yêu cầu của cô trong
quá trình diễn ra hoạt động.
* Các đề tài khác:
So sánh phân loại cô tổ chức cho trẻ chơi trãi nghiệm theo nhóm như:
Phân loại: Cô cho các loại đậu có cùng số lượng ( gam ) như nhau ở mỗi nhóm, trộn lẫn các loại đậu vào nhau, đưa ra tình huống: các con suy nghĩ xem có bao nhiêu cách ? để phân loại các loại đậu này, cho trẻ phát biểu nên phân nhóm theo những đặc điểm nào ( trẻ sẽ nêu tự do theo ý trẻ: phân loại theo màu sắc, phân loại theo dạng ( dài, tròn), phân theo kích thước ( to - bé ) Cho trẻ phân theo ý trẻ ở mỗi nhóm. Các nhóm nêu kết quả phân loại ( cho trẻ xem kết quả phân loại không giống nhau của mỗi nhóm ) trẻ học được nhiều điều ở nhóm bạn mình đang tham gia và các nhóm khác.
Trẻ chơi với các loại hạt đậu: đậu xanh, đậu đen, đậu hòa lan ( trắng dài), đậu phộng, đậu nành, và các dụng cụ để phân loại: rổ nhỏ; dụng cụ dùng để đong: ly nhựa nhỏ có kích thước không giống nhau ở mỗi nhóm, que kem dùng để gạt khi đong; bịt ni lông ( 2 loại cho mỗi nhóm và số lượng khác nhau) để đổ hạt vào bịt sau khi đong; que nhỏ hoặc số: để ghi nhớ kết quả sau đong, dây dún hoặc dây thun để buột miệng bịt khi bịt đã đầy.
So sánh: - Cùng lượng (gam ) hạt như nhau mà đong vào số lượng bịt khác nhau. - Cùng số lượng bịt như nhau mà số lượng ly đong vào khác nhau. - Cùng số lượng hạt như nhau mà đong vào số lượng bịt khác nhau. (do kích cở của bịt không giống nhau )
- Cho trẻ đem cân tất cả số bịt đậu của từng nhóm, cho ra kết quả giống nhau. Cho trẻ ghi lại kết quả phân loại, kết quả đong đếm lên giấy . Qua đó trẻ trong các nhóm sẽ có nhiều thể hiện khác nhau, sau đó cùng treo các bảng ghi nhận kết quả của các nhóm lên bảng cùng xem chung và kiểm tra lại kết quả của nhau.
Các hoạt động này giúp trẻ phát triển tư duy và khả năng ghi nhớ, suy đoán rất tích cực, trẻ thấy rất cần sự hợp tác các bạn trong nhóm thật tốt để nêu kết quả và có thể giải thích – giải đáp các câu hỏi thắc mắc của cô, của bạn.
* Hoạt động vui chơi hàng ngày trẻ được thực hiện các nội dung “ Bé tập làm nội trợ” như: Bánh mì phết bơ, làm nước quả, trái cây ướp đường, làm muối đậu, muối mè, nhặt - rửa rau sống, nặn bánh, in bánh…. Trẻ được thực hiện và rèn các thao tác thường xuyên dần hình thành ở trẻ tính cẩn thận, khéo léo. Duy trì được hứng thú của trẻ sau hoạt động. Trẻ về nhà chia sẽ với ba mẹ, ông bà và người thân, gần gũi xung quanh trẻ về những hoạt động trẻ ở lớp.
Các hoạt động như trên trẻ rất hứng thú và thể hiện khá thành công, để lại ấn tượng sâu hơn, bản thân trẻ tự tin hơn, hình thành tính hợp tác trong nhóm cao hơn, trao đổi chia sẻ với bạn nhiều hơn, xóa dần thói ích kỹ, thụ động ở trẻ. Kích thích trẻ thích đi học, thích được đến trường mỗi ngày. Vì mỗi ngày đều có những hoạt động mới, được khám phá, được trãi nghiệm và thực hành.
Qua các hoạt động giáo viên nhận thấy rằng việc tổ chức các hoạt động tích hợp cho trẻ mang lại hiệu quả cao, giúp trẻ phát triển được nhiều mặt. tuy nhiên cũng cần bổ sung, thay đổi hình thức tổ chức như:
* Sưu tầm lựa chọn một số trò chơi dân gian nhẹ nhàng, hỗ trợ cho việc rèn
luyện các khả năng - kỹ năng của trẻ. Gợi ý cho các giáo viên đưa vào các hoạt
động phù hợp để rèn trẻ tính kiên nhẩn và duy trì thời gian tham gia hoạt động lâu
hơn :
Cụ thể vài trò chơi như sau
TRÒ CHƠI : XOAY ĐŨA TRE
Mục đích :
- Rèn luyện các cơ ngón tay và sự khéo léo của đôi bàn tay.
- Trẻ biết cầm nắm nhiều đũa tre trong lòng bàn tay và biết xoay các ngón tay cùng một lúc.
- Trẻ biết khi nào đến lượt mình đi.
Chuẩn bị:
- Khoảng 20 cây đũa bằng các nhánh trúc nhỏ
Tổ chức: chơi từng đôi trẻ
* Luật chơi:
. Biết lấy 1 cây đũa không đụng vào cây khác
. Biết dùng 1 cây đũa chấm vào lỗ rổng, không đụng vào cây đũa khác
* Cách chơi:
. Hai trẻ chơi với nhau
. Oẳn tù tì xem bạn nào đi trước
. Trẻ cầm 1 nắm đũa tre trong lòng bàn tay và dùng sức của tất cả các ngón tay xoay theo chiều kim đồng hồ 1 cái và thả tất cả đũa xuống. trẻ chọn cây đũa nào dễ lấy nhất ( lấy không đụng vào cây khác và tìm lỗ rổng chấm đầu đũa vào ( không đụng vào đũa khác) bạn được 1 điểm ( được 1 cây đũa ). Tiếp tục đi như thế đến khi nào bạn lấy đũa bị đụng vào cây đũa khác lúc này bạn mất lượt đi.
Hai bạn chơi đến khi nào còn 1 cây đũa cuối cùng là kết thúc cuộc chơi. Mỗi bạn sẽ đếm số đũa của mình, ai nhiều đũa hơn thì bạn đó sẽ thắng và được thưởng 1 bông hoa . Nếu 2 bạn muốn chơi tiếp thì oẳn tù tì lần
TRÒ CHƠI : XOAY BÔNG DỤ
Mục đích:
- Rèn luyện các cơ ngón tay và sự khéo léo của đôi bàn tay.
- Trẻ biết phối hợp sự nhanh nhạy của đôi tay, đôi chân và mắt.
- Rèn luyện tính cẩn thận, nhanh nhen, khéo léo.
- Rèn tinh thần thi đua, tính đồng đội .
Chuẩn bị:
Khoảng 12 sợi dây dài khoảng 30-35 cm,
Đồ chơi ráp bông cũ ( 12 cái )
Vòng thể dục ( đủ số lượng trẻ chơi )
Hộp kem 1 kg cũ
Tổ chức: chơi theo nhóm nhỏ
* Luật chơi:
. Xoay bông dụ trước khi xuất phát
. Bông dụ phải còn xoay khi đi vượt qua hết các chướng ngại (4-5 )
* Cách chơi:
. Chia làm 2 đội, mỗi đội khoảng 5-6 bạn ( có thể hơn ). Bạn đầu tiên lấy 1 vòng thể dục đeo vào 1 bên vai
. Lấy tiếp 1 sợi dây và 1 đồ chơi ráp bông. Tự xỏ vào đồ chơi ráp bông
. Hai tay cầm 2 đầu dây bằng 2 ngón cái và ngón trỏ. Quay thật nhiều vòng từ trong ra ngoài. Hai tay căng dây ra thì chân bước đi qua 4-5 chướng ngại vật thật nhanh. Đến điểm dừng là bước qua chướng ngại vật cuối cùng, bông dụ vẫn còn quay . Trong lúc đi không bị té là được tính điểm bằng 1 vòng thể dục lấy từ vai ra.
. Nếu không đạt những yêu cầu trên sẽ không được tính điểm. Đội nào được nhiều vòng thể dục, đội đó sẽ thắng.
TRÒ CHƠI : GÁNH RƠM
Mục đích:
Trẻ biết đặt đòn gánh cân đối ở giữa 2 vai. Biết giữ thăng bằng quang gánh
Rèn tính mạnh dạn,tự tin, khéo léo khi đi qua cầu khỉ.
Chuẩn bị:
Một cầu tre dài khoảng 1,5- 2m ( tre to có đường kính khoảng 10-15 cm, chẻ làm đôi ) đặt cạnh nhau cặp sát lại thành đôi cầu song song.
2 bụt gỗ cao 20 cm
Nhiều bó rơm, nhiều đòn gánh bằng tre ( tùy theo số lượng trẻ tham gia chơi ) có thể đổi rơm thành : củi, lúa, khoai, nước…
Tổ chức: chơi cá nhân, hoặc từng đôi trẻ, nhóm nhỏ
* Luật chơi:
. Gánh rơm đi qua cầu khỉ không bị lọt cầu
* Cách chơi:
. Trẻ chơi cá nhân hoặc từng đôi trẻ.
. Trẻ lấy đòn gánh để ngang lên 2 vai, 2 bạn khác móc 2 bó rơm lên cùng 1 lúc. Trẻ dùng 2 tay giữ đòn gánh sao cho cân bằng. Nếu đi nữa đường đi 1 đầu bị nhõng, bị mất thăng bằng hoặc bị lọt cầu thì không được thưởng
. Ngược lại nếu trẻ đi qua cầu khỉ mà quang gánh giữ nguyên như lúc ban đầu thì coi như thắng cuộc và được thưởng.
* Những phương pháp, hình thức tổ chức đa dạng, phong phú, sáng tạo của giáo viên cũng như việc vận dụng những sáng kiến kinh nghiệm, đều có sự đánh giá ghi nhận kết quả đạt được của từng giáo viên và có nhân rộng những sáng tạo có hiệu quả để các giáo viên trong trường cùng nhau học tập kinh nghiệm của đồng nghiệp mình.
Quan tâm, nhắc nhỡ giáo viên đến việc rèn luyện thể chất cho trẻ, giúp trẻ phát triển cân đối hài hòa, tạo điều kiện, tạo mọi điều kiện để trẻ chống bệnh tật qua các giờ học thể dục, các hoạt động vui chơi, trò chơi vận động, trò chơi dân gian, hoạt động ngoài trời. Khi tổ chức phải chú ý đến sức khỏe trẻ, không quá lạm dụng các trò chơi vận động, chơi tự do chạy nhảy quá mạnh vì nó cũng không có lợi cho sức khỏe của những trẻ có thể lực kém.
Ngoài việc tổ chức thực hiện cho trẻ tham gia tốt các hoạt động ở trường, cần phải tuyên truyền phối hợp với các bậc phụ huynh học sinh cùng thống nhất các biện pháp rèn luyện chăm sóc giáo dục trẻ, để trẻ có điều kiện thực hiện các thao tác vệ sinh tự phục vụ, rèn các kỹ năng tạo hình…, để đạt được sự phát triển nhiều mặt, hài hòa cân đối.
Do đặc điểm cơ thể trẻ ở lứa tuổi mầm non rất dễ thích nghi với môi trường bên ngoài, chính vì vậy việc chăm sóc giáo dục trẻ cần phải phối kết hợp nhịp nhàng các hoạt động, các khâu trong trường: tạo môi trường “xanh sạch đẹp – an toàn thân thiện” bên trong - bên ngoài lớp học, tạo sân chơi rộng thoáng có đa dạng các loại đồ chơi ngoài trời, có nhiều cây xanh cây cảnh, tạo cảnh quan đẹp, không khí trong lành cho trẻ vui chơi, trãi nghiệm các kiến thức, vốn sống của trẻ.
Tạo cơ hội cho trẻ được tham gia chơi trò chơi tập thể mang tính đồng đội cao, tinh thần đồng đội nhân rộng, hòa nhập vào tập thể, để giáo dục và hình thành các hành vi văn minh, dần hình thành nhân cách cho trẻ, giáo dục lòng yêu nước, tình yêu quê hương, thái độ quan tâm chia sẽ, giúp đỡ mọi người xung quanh, người già yếu, khuyết tật, giáo dục giữ gìn truyền thống, phong tục tốt đẹp của địa phương, của dân tộc.
Tổ chức các hoạt động “Ngày hội ngày lễ” là một hình thức để trẻ thâm nhập vào cuộc sống, cộng đồng và xã hội như: ngày hội đến trường, ngày sinh nhật của trẻ, ngày tết Trung Thu, ngày tết Cô giáo, ngày tết Chú bộ đội, ngày tết Nguyên Đán, ngày Quốc tế phụ nữ 8/3, ngày sinh nhật Bác Hồ, lễ Tổng kết năm học, lễ Ra trường, ngày Quốc tế thiếu nhi…. Qua việc tham gia dự lễ hội, các cháu trở nên hồn nhiên vui tươi, mạnh dạn, phấn khởi, yêu thích đến trường của mình, yêu mến bạn bè, cô giáo và những người xung quanh, được tham gia biểu diễn văn nghệ, giúp trẻ tự tin hơn, cảm thụ nội dung giáo dục các bài hát tốt hơn, tạo tình cảm nơi trẻ sâu sắc hơn qua các chủ đề.
Được tham gia chơi trò chơi tập thể mang tính đồng đội cao, tinh thần đồng đội nhân rộng, hòa nhập vào tập thể, để giáo dục và hình thành các hành vi văn minh, dần hình thành nhân cách cho trẻ, giáo dục lòng yêu nước, tình yêu quê hương, thái độ quan tâm chia sẽ, giúp đỡ mọi người xung quanh, người già yếu, khuyết tật, giáo dục giữ gìn truyền thống, phong tục tốt đẹp của địa phương, của dân tộc.
4/. Thực hiện công tác kiểm tra, rút kinh nghiệm:
Thực hiện thăm lớp dự giờ theo kế hoạch, kiểm tra giáo viên thực hiện các chuyên đề trong năm, thực hiện tích hợp lồng ghép phù hợp và xuyên suốt theo các chủ đề.
Ghi nhận các kết quả đạt được để bầu chọn giáo viên dự các hội thi do ngành tổ chức, làm cơ sở cho việc đánh giá xếp loại giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp và đánh giá cán bộ công chức cuối năm học. Qua đó thúc đẩy được tính sáng tạo của từng giáo viên.
Nhân rộng các bộ đồ dùng đồ chơi mang tính động và mở, sử dụng được nhiều trong các hoạt động, có tính sáng tạo và hướng gợi mở về nội dung chơi hình thức chơi, cách chơi. Tận dụng các nguyên vật liệu sẳn có ở địa phương, các loại phế phẩm, phế liệu... , hình thức có thể thay đổi không cố định cứng nhắc, để cô hướng dẫn trẻ phối hợp sử dụng sáng tạo trong quá trình chơi, và có thể cùng cô cùng bạn tự tạo ra các đồ dùng đồ chơi, phục vụ cho các hoạt động ở trường lớp và hướng dẫn bạn bè cùng tạo đồ chơi, cùng xây dựng nội dung chơi, cách chơi. Sử dụng có hiệu quả vào các hoạt động của trẻ một cách đa dạng phong phú.
Trong từng giai đoạn nhà trường đề ra tiêu chuẩn thi đua cụ thể, sau mỗi đợt thi đua đều có sự đánh giá xếp loại, rút kinh nghiệm, đề ra hướng khắc phục hạn chế, đi đôi với khen thưởng, đã tạo được động lực cho đội ngũ giáo viên cùng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ - tay nghề, tự rèn năng lực sư phạm, phẩm chất nghề nghiệp qua quá trình công tác.
Kết hợp chặt chẽ giũa gia đình và nhà trường nhằm chăm sóc giáo dục trẻ có hiệu quả tốt, phải thống nhất các biện pháp giáo dục. Mỗi lớp đều thành lập Ban đại diện cha mẹ học sinh và Bầu ban đại diện cha mẹ học sinh của trường,
Hàng năm nhà trường vận động phu huynh đóng góp kinh phí của Ban đại diện cha mẹ học sinh, để mua sắm bổ sung đồ dùng đồ chơi trong và ngoài lớp, tạo các đồ chơi ngoài trời, sân trường bắng các vật liệu sẳn có ở địa phương như: cây tre, cây tầm vông để làm các loại đồ chơi dân gian, như: cầu khỉ, cà kheo, làm giàn cho cây dây leo góc vườn rau cùa bé, nhà chồi ngoài trời cho trẻ chơi diễn kịch…, hỗ trợ giống các loại hoa - kiểng, trồng tặng cây xanh, cây cảnh bổ sung đa dạng sinh học, thu hút trẻ dạo chơi - quan sát quanh khuôn viên trường.
IV/. KẾT QUẢ:
Những biện pháp và cách thức phối hợp thực hiện như trên đến cuối năm đã đạt được kết quả như sau:
Mỗi ngày trẻ đến lớp trẻ có thêm niềm vui mới, lời trẻ đã nói với ba mẹ như thế. Những hoạt động ở trường trẻ nhớ rất rõ và kể lại rành rẻ cho người thân trong gia đình biết và có yêu cầu ba mẹ tổ chức các hoạt động đó ở nhà trong các ngày nghỉ cho trẻ được tham gia.
Nhìn trẻ tiến bộ, hăng hái trong các hoạt động, trẻ tươi cười nhiều hơn, năng động hơn.
Do được tham gia nhiều dạng hoạt động, đối với các hoạt động thực hiện bài tập trong các loại vở học phẩm trẻ cũng thực hiện hăng hái hơn, không chán ngán như ở đầu năm và các năm trước theo nhận xét của các giáo viên.
Tỉ lệ học sinh đạt:
- Đảm bảo sỉ số trẻ đến cuối năm, không bỏ đi học chữ như các năm trước
- 90 % trẻ tích cực, sáng tạo, trong các hoạt động, tạo các sản phẩm đẹp
- 90 % trẻ khỏe mạnh, nhanh nhẹn, linh hoạt, thoải mái trong các hoạt động
- 90 % trẻ giao tiếp diễn đạt mạch lạc, ứng xử tốt
- 90 % trẻ thực hiện được các yêu cầu, giải quyết được các tình huống cô đưa ra. Biết chia sẽ kết quả với cô với bạn.
* Kinh nghiệm:
Thực hiện tốt việc nâng cao chất lượng trẻ 5 tuổi là trách nhiệm quan trọng của nhà trường, nó thể hiện được tâm quyết đổi mới phương pháp tổ chức các hoạt động hàng ngày cho trẻ của giáo viên, thực hiện tốt chương trình giáo dục mầm non mới, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ theo yêu cầu mục tiêu đề ra.
Cần đưa ra những ý tưởng hoạt động dựa trên nội dung, chủ đề hoạt động, giúp giáo viên thiết kế các hình thức tổ chức hoạt động sao cho vừa nhẹ nhàng, trẻ vui vẽ, vừa tải được nội dung kiến thức cần thiết và có cơ hội rèn luyện được nhiều khả năng, kỹ năng cho trẻ.
Phải hiểu biết tình hình thực tế ở địa phương, thường xuyên giám sát theo dõi nhắc nhỡ giáo viên về nhiều mặt, những điều gì giáo viên chưa nắm vững phải được tháo gỡ, giải quyết thỏa đáng.
Tìm mọi biện pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy, phấn đấu đạt được mục tiêu của ngành đề ra. Từ đó phụ huynh học sinh nhận thấy được những kết quả đạt được trong nhà trường, họ tin tưỡng và có nhu cầu gởi con cháu đến học đông hơn không gởi con cháu ở các nhóm trẻ gia đình như trước đây.
Hoa Cúc 2, ngày 06 tháng 01 năm 2011
Người viết sáng kiến
Nguyễn Thị Hoa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một vài biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục trẻ 5 tuổi.doc