MS5: Xây dựng mô hình nuôi không thải nước

Ương cá biển trong mương: các đối tượng nhưcá Chẽm hoặc cá Mú Malaba có thể được ương trong mương từcỡ1.5 cm với cá Chẽm và 3.0 cm chiều dài toàn thân với cá Mú. Nếu ương cá Giò thì cần phải xây dựng và thửnghiệm trước kếhoạch vận chuyển con giống cỡlớn ra lồng nuôi thương phẩm vì việc này tương đối khó khăn do cá rất nhạy cảm với tổn thương cơhọc và hàm lượng oxy hòa tan thấp. Mật độ ương từ3.000 ÷ 5.000 con/m3 với cá CHẽm; 1.800 ÷ 3.000 con/m3 với cá Mú Malaba. Mật độ ương ban đầu với cá Bớp 4 – 5 cm có thểlà 1.000 con/m3 nhưng cần phải được giảm dần (đặc biệt là vềsinh khối) do cá phát triển rất nhanh, i.e. tăng 0.6 ÷ 1.0 cm/ngày. Trong 7 ngày ương đầu, cho cá ăn thức ăn viên của INVE (800 ÷ 1,200 µm).

pdf36 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2498 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu MS5: Xây dựng mô hình nuôi không thải nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Molasses 2) Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 14 Thí nghiệm 2 Các thông số chuẩn Các hệ thống lắng thụ động do thực vật phù du chiếm ưu thế được đặc thù bởi độ pH cao (>8.5) và hàm lượng DO cao (<8 mg/L) đo lường được trong thời gian thí nghiệm (xem hình 5). Ở nghiệm thức BFP cả DO & pH đều thấp hơn (p<0.05) so với nghiệm thức PSP, cho thấy các vi khuẩn dị dưỡng chiếm ưu thế (Funge-Smith and Briggs 1998). Sự thay đổi rất đáng kể (p<0.05) của môi trường trong hệ thống PSP (pH 8.14- 9.08; DO 9.74-19.16) cho thấy sự nguy hiểm của biến động môi trường theo kiểu tăng giảm đột ngột do sự phát triển và suy tàn của tảo (Hargreaves 2006). Trong khi đó hệ thống cho thấy sự ổn định của mình trong suốt thời gian thí nghiệm (pH 8.00-8.17; DO 6.86-8.80). Hình 5: Kết quả đo pH và Oxy hòa tan trong thí nghiệm 2. Trong cả hai hệ thống, yếu tố nhiệt độ nước và độ mặn dao động trong khoảng cho phép. Giá trị nhiệt độ nước trong hai hệ thống tương tự như nhau (15.3 – 21.0oC) trong đa số trường hợp. Tuy nhiên, giá trị độ mặn thể hiện khác biệt có ý nghĩa (P>0.01) và biến động khá lớn trong suốt thời gian thí nghiệm do có mưa. Độ mặn trong hệ thống BFP thấp hơn (P<0.01) hẳn so với hệ thống PSP do có sự xáo trộn nước cao hơn. Phân tích dinh dưỡng Nhìn chung, cả hai thí nghiệm đều làm giảm nồng độ các chất dinh dưỡng hòa tan trong nước thải (p<0.05). Nồng độ các hợp chất nitơ vô cơ (TAN và NOx) trong nước thải đều giảm hẳn một cách hiệu quả khi áp dụng phương pháp xử lý BFP. Hệ thống BFP thể hiện kết quả tốt hơn hẳn so với hệ thống PSP trong việc xử lý các hợp chất Nitơ NOx (p<0.01) và mức DIP (p<0.01). Quan trọng hơn, điều này chứng tỏ rằng hệ thống BFP có tính hiệu quả cao hơn trong việc loại bỏ các độc chất trong nước thải (xem hình 6). Mức TN &TP trong nghiệm thức BFP cao hơn nhiều lần so với trong nghiệm thức PSP (p<0.01). Nghiệm thức BFP cũng làm gia tăng đáng kể TN có trong nước chưa xử lý (p<0.01). Ngược lại, nghiệm thức PSP lại có hàm lượng TN giảm đáng kể so với nước thải chưa xử lý. Điều này cho thấy PSP tỏ ra hiệu quả hơn trong việc xử lý các muối dinh dưỡng. Hàm lượng cao của cả TN & TP cũng cho thấy các muối dinh dưỡng đã được chuyển sang dạng sinh khối. 7.0 7.5 8.0 8.5 9.0 9.5 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Week pH PSP BFP 6 8 10 12 14 16 18 20 22 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Week D O m g/ L PSP BFP Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 15 Có 2 đặc điểm của hệ thống BFP giải thích về sự gia tăng của các muối dinh dưỡng. Trước hết BFP duy trì sự lơ lửng và “tiêu hóa” các chất hữu cơ. Thứ hai, sự hình thành của các khối hạt vi khuẩn (gọi là floc) khiến cho TN và TP tăng cao. Do hàm lượng của DON cao hơn (p<0.05) ở hệ thống BFP so với nước thải chưa xử lý, N có thể được tích lũy dưới dạng DON như phỏng đoán của một số nghiên cứu trước đây (Erler et al. 2005). Ngược lại, trong hệ thống PSP các vật chất hữu cơ (và muối dinh dưỡng) sẽ bị lắng tụ trước khi trải qua quá trình tái khoáng hóa, làm tăng đột ngột hàm lượng của các muối dinh dưỡng ở mùa sau (Preston et al. 2000). Nếu ta có thể loại bỏ các khối hạt vi khuẩn (floc) ra khỏi hệ thống thì sẽ tăng được đáng kể khả năng xử lý của hệ thống BFP. Vấn đề này sẽ được thảo luận tiếp ở phần sau. Cần có thêm các nghiên cứu khác về sự tích lũy của DON để làm sáng tỏ vấn đề này. 0.0 0.5 1.0 1.5 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 WEEK NO x m g/ L UNTREATED PSP BFP 0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 WEEK TA N m g/ L UNTREATED PSP BFP 0.0 0.1 0.2 0.3 0.4 0.5 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 WEEK D IP m g/ L UNTREATED PSP BFP 0.0 1.0 2.0 3.0 4.0 5.0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 WEEK TN m g/ L BFP UNTREATED PSP 0.0 0.5 1.0 1.5 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 WEEK TP m g/ L BFP UNTREATED PSP 0 20 40 60 80 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 WEEK TS S m g/ L BFP UNTREATED PSP 0.0 0.5 1.0 1.5 2.0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 WEEK D O N m g/ L BFP PSP UNTREATED 0 20 40 60 80 100 120 140 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 WEEK C hl A u g/ L BFP UNTREATED PSP Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 16 Hình 6: Mức độ dinh dưỡng trong thời gian thí nghiệm trong nước thải chưa xử lý và trong hệ thống BFP và PSP. TSS, một thông số khác đại diện cho sinh khối của cột nước, đã cho thấy xu hướng gia tăng sinh khối trong hệ thống BFP (p<0.01) so với nước thải chưa xử lý và trong hệ thống PSP. Hình 6 trình bày kết quả thu được khi phân tích hàm lượng của các muối dinh dưỡng. Có một điều rất lý thú là hàm lượng Chlorophyll a (Chl a) ở trong hệ thống BFP lại cao hơn (p<0.05) so với trong nước thải chưa xử lý và trong đa số trường hợp đều cao hơn trong hệ thống PSP qua suốt 3 tuần cuối của thí nghiệm (xem hình 6). Về nguyên tắc thì hoạt động quang hợp sẽ suy giảm rất nhiều trong môi trường vi khuẩn dị dưỡng chiếm ưu thế. Tuy vậy, các nghiên cứu khác cũng cho thấy việc bổ sung C không hệ ảnh hưởng đến hàm lượng Chl a có trong hệ thống nuôi (Avnimelech 2001; Erler et al. 2005; Hari et al. 2006). Hàm lượng Chl a cao trong hệ thống BFP có thể là do sự tồn tại của thực vật phù du trong các khối cầu vi khuẩn. Hargreaves (2006) đã mô tả rằng các khối cầu vi khuẩn trong hệ thống BFP được hình thành thì các tế bào tảo và vi khuẩn sống bám trên chúng. Vì thế mà ta cần phải xem xét tỉ trọng của thực vật phù du có trong quần xã. Mặc dù hàm lượng Chl a cao hơn trong hệ thống BFP, cấu trúc của quần xã cho thấy tỉ trọng của thực vật phù du thấp hơn so với hệ thống PSP (xem hình 7). Sinh khối thực vật nổi được ước tính thông qua mức ChlA với mối tương quan thể hiện theo công thức sau: 1 mg ChlA = 200mg chất khô (Pagand et al. 2000). Chúng tôi đã ước tính thử phần đóng góp của thực vật phù du vào trong hàm lượng TSS đo đạc được. Các biểu đồ dưới đây cho thấy sự khác biệt trong cấu trúc quần xã giữa các nghiệm thức. Hệ thống PSP có quần xã sinh vật bị thực vật phù du chiếm ưu thế (57%). Chỉ có 43% là các hạt lơ lửng bao gồm vi khuẩn, động vật phù du và các vật chất khác. Ngược lại, quần xã BFP có tỉ lệ thực vật phù du thấp hơn (41%) với 59% còn lại giả định là sinh khối của vi khuẩn. Hình 7: Tỷ lệ thực vật phù du trong quá trình thí nghiệm. Thảo luận: Tăng lượng C có trong BFPs lên đến 30g C L-1 giúp loại bỏ gần hết các muối dinh dưỡng hòa tan chỉ trong vòng 12 giờ và kéo dài thời gian này trước khi quá trình tái khoáng hóa bắt đầu. Điều này cho thấy khi đảm bảo hàm lượng C cao, nước thải chỉ cần được lưu giữ trong hệ thống xử lý có 12 giờ. Nếu kéo dài quá 24 giờ thì quá trình tái khoáng hóa sẽ xảy ra làm cho phức tạp thêm vấn đề và làm giảm hiệu PSP 0% 20% 40% 60% 80% 100% 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Week TS S m g/ L Other Phytoplankton BFP 0% 20% 40% 60% 80% 100% 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Week TS S m g/ L Other Phytplankton Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 17 quả xử lý của hệ thống. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy C tham gia vào quá trình chuyển hóa của DON. Tuy vậy, cần có những nghiên cứu bổ sung để khẳng định phát hiện này. Thí nghiệm tiếp theo đã sử dụng C với hàm lượng cao hơn để khẳng định tác dụng của nó lên một hệ thống xử lý nước thải có nước chảy liên tục mà ở đó thực vật phù du chiếm ưu thế. Hàm lượng C cao và các điều kiện thuận lợi để phát triển biofloc đã chuyển hệ thống sang hệ có quần xã vi khuẩn chiếm ưu thế. Quần xã vi khuẩn này có các đặc thù sau: o Cường độ quang hợp thấp thể hiện qua độ pH thấp và ổn định hơn (do sự phóng thích của CO2 vào trong tầng nước) và hàm lượng oxy hòa tan thấp (do vi khuẩn sử dụng oxy hòa tan) (Hargreaves 2006). o Hàm lượng muối dinh dưỡng cao (Burford, Thompson et al. 2003) o Giàu vật chất hữu cơ (có thể đo lường được qua các thông số nitơ và phốt pho tổng cộng (Avnimelech 2003; Ebeling, et al. 2006). o Hàm lượng chất rắn lơ lửng cao và tỉ trọng thấp của tảo trong sinh khối chung (Burford et al. 2003). Sự chuyển đổi của hệ thống từ tự dưỡng sang dị dưỡng đã được thể hiện thông qua sự khác biệt của các thông số DO và pH. Các thông số này đều thấp hơn ở hệ thống dị dưỡng (BFP) so với hệ thống tự dưỡng (PSP). Cả hai hệ thống đều duy trì các thông số môi trường quan trọng trong khoảng phù hợp về sinh học, đáp ứng được tiêu chuẩn của Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA) trong suốt thời gian thử nghiệm. Biện pháp bổ sung nguồn C để giảm độ pH đã được thảo luận trong nhiều công trình nghiên cứu (Pote et al. 1990; Avnimelech 2003). Nghiên cứu của chúng tôi khẳng định tính xác thực của biện pháp này nhờ hiệu quả tương tự lên DO and pH bằng cách đưa rỉ đường vào hệ thống BFP. Trong NTTS, việc đảm bảo tính ổn định của môi trường nuôi được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu (DPI&F 2006). Nghiên cứu này cho thấy hệ thống BFP vừa đảm bảo chất lượng nước, vừa duy trì được sự ổn định cần thiết của nó. Cả hai loại quần xã có tảo và vi khuẩn chiếm ưu thế đều đồng hóa các muối dinh dưỡng hòa tan. Sự suy giảm về hàm lượng của các muối dinh dưỡng trong cả hai hệ thống của nghiên cứu này đã khẳng định điều đó. Tuy vậy, hệ thống BFP tỏ ra hữu hiệu hơn trong việc xử lý TAN và NOx, đều là những chất gây độc tiềm năng đối với sinh vật nuôi. Độc tính của NH3 dạng tự do phụ thuộc vào độ pH và nhiệt độ (Hargreaves 1998). Vì thế mà hàm lượng TAN thấp cùng với độ pH thấp đã hạn chế được nguy cơ bị nhiễm độc NH3 tự do trong hệ thống BFP. NO2- cũng là một chất độc tiềm năng và có thể tích lũy khi quá trình nitrat hóa diễn ra không hòan toàn (Hargreaves 1998). Sự suy giảm rõ rệt của NOx (Nitrate+Nitrite) so với hàm lượng của chúng trong nước thải không qua xử lý cho thấy trong hệ thống xử lý bằng biofloc (BFP), quá trình đồng hóa đã lấn át quá trình nitrat hóa. Đồng hóa loại bỏ sự hiện diện của NOx và ngăn cản quá trình nitrat hóa. Nghiên cứu này đã trình diễn tiềm năng sử dụng công nghệ biofloc để xử lý nước thải trong một hệ thống nuôi tuần hoàn. Chúng ta hoàn toàn không cần phải xả thải nước thải này vào môi trường vì phương pháp trên đã giúp loại bỏ các chất độc hại có trong nước. Nhờ vậy mà hàm lượng TN và TP cao trong ao nuôi không còn là mối quan ngại cho sức khỏe của động vật nuôi. Trong khi đó thì cả TAN and NO2 đều thấp mà vẫn đảm bảo hàm lượng DO cần thiết. Lượng chất rắn lơ lửng cao có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của cá nuôi như đã bàn luận ở phần trước vì thế mà ao xử lý bằng công Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 18 nghệ biofloc phải nằm tách biệt khỏi ao nuôi. Để đảm bảo hiệu quả cao nhất, cần có biện pháp tách lọc để nước khi được bơm trở lại ao nuôi có nhu cầu oxy sinh học (BOD) và hàm lượng chất rắn lơ lửng thấp. Schneider et al. (2007) cũng đã có kết luận tương tự khi thử sử dụng một “lò phản ứng vi khuẩn” để xử lý nước thải trong hệ thống nuôi tuần hoàn. Thiết bị lọc lấy flocs này cần phải được nghiên cứu một cách cụ thể nhưng trước mắt có thể sử dụng một bộ lọc cơ như lưới lọc hoặc thùng lọc. Hình 8 mô tả phác thảo một hệ thống nuôi tuần hoàn có ao xử lý chất thải bằng công nghệ biofloc được sử dụng để nuôi tôm hoặc một đối tượng ăn mùn xác hữu cơ để tận dụng các sản phẩm giàu dinh dưỡng này và giúp cho các hạt vi khuẩn luôn lơ lửng trong nước. Hình 8. Phác thảo thiết kế hệ thống tuần hoàn tái sử dụng nước với ao xử lý bằng công nghệ biofloc được xây riêng Kết luận Kết quả các nghiên cứu đã thực hiện cho thấy công nghệ biofloc nếu được dùng như một phần độc lập của hệ thống tuần hoàn tái sử dụng nước là công nghệ hứa hẹn nhất cho sự hình thành của một hệ thống nuôi khép kín, không xả thải ra môi trường. Lời cảm ơn Báo cáo này trình bày một phần thông tin của Dự án “Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi” - CARD VIE 062/04 do chương trình Hợp tác Phát triển và Nghiên cứu Nông nghiệp tài trợ thông qua Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn của Việt Nam. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Queensland Department of Primary Industries and Fisheries, đặc biệt là Adrian Collins, Ben Russell và Blair Chilton cho những nỗ lực xây dựng dự án ban đầu của họ. Chúng tôi cũng cảm ơn các đối tác nghiên cứu phía Việt Nam do TS. Hoàng Tùng (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Quốc tế, Trường Đại học Nha Trang) chủ trì vì những sự giúp đỡ và ủng hộ quan trọng trong suốt thời gian thực hiện dự án này. Lưới chắn Máy sục khí – F7 hoặc tương tự để cung cấp O2 và xáo trộn nước Xả cạn để loại bùn định kỳ Tôm Bạc Thẻ nuôi ở mật độ thấp và không dùng thức ăn bổ sung – tôm ăn tảo và các khối hạt vi khuẩn (floc) Nước sạch tầng mặt được tái sử dụng cho ao nuôi Quạt nước Ao nuôi Bio-floc Pond Nước thải giàu chất hữu cơ từ ao nuôi cá bơm sang ao xử lý biofloc Hệ thống mương nổi Cấp nước bổ sung, bù vào lượng nước bốc hơi Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 19 Tài liệu tham khảo American Public Health Association (1989). Standard Methods for the examination of water and wastewater. L. S. Clesceri, A. E. Greenberg and R. R. Trussell. Washington, Port City Press: 10-31 - 10-35. Avnimelech, Y. (1999). Carbon/nitrogen ratio as a control element in aquaculture systems. Aquaculture 176(3-4): 227-235. Avnimelech, Y. (2003). "Control of microbial activity in aquaculture systems: active suspension ponds." World Aquaculture Dec: 19-21. Boyd, C. E. (1995). Chemistry and efficacy of amendments used to treat water and soil quality imbalances in shrimp ponds. In: Swimming through troubled water - Proceedings of the special session on shrimp farming, San Diego, The World Aquaculture Society. Boyd, C. E. (2002). Understanding pond pH. Global Aquaculture Advocate June: 74-75. Brune, D. E., G. Schwartz, et al. (2003). Intensification of pond aquaculture and high rate photosynthetic systems. Aquacultural Engineering 28(1-2): 65-86. Burford, M. A., P. J. Thompson, et al. (2003). Nutrient and microbial dynamics in high- intensity, zero-exchange shrimp ponds in Belize. Aquaculture 219(1-4): 393-411. DPI&F (2006). Australian Prawn Farming Manual - Health Management for Profit. Nambour, Queansland Complete Printing Services. Ebeling, J. M., M. B. Timmons, et al. (2006). Engineering analysis of the stoichiometry of photoautotrophic, autotrophic, and heterotrophic removal of ammonia-nitrogen in aquaculture systems. Aquaculture 257(1-4): 346-358. Erler, D., P. Songsangjinda, et al. (2005). Preliminary investigation into the effect of carbon addition on Growth, water quality and nutrient dynamics in Zero-exchange shrimp (Penaeus monodon) culture systems. Asian Fisheries Science 18. Schuenhoff, A. and L. Mata (2004). Seaweed provides both biofiltration, marketable product. Global Aquaculture Advocate February: 62-63. Funge-Smith, S. J. and M. R. P. Briggs (1998). Nutrient budgets in intensive shrimp ponds: implications for sustainability. Aquaculture 164(1-4): 117-133. Koo, K.H., Masser, M.P. & B.A. Hawcroft (1995) An in-pond raceway system incorporating removal of fish wastes. Aquacultural Engineering 14:175-187 Hargreaves, J. A. (1998). "Nitrogen biogeochemistry of aquaculture ponds." Aquaculture 166(3-4): 181-212. Hargreaves, J. A. (2006). Photosynthetic suspended-growth systems in aquaculture. In: Aquacultural Engineering: Design and Selection of Biological Filters for Freshwater and Marine Applications 34(3): 344-363. Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 20 Hari, B., B. Madhusoodana Kurup, et al. (2006). The effect of carbohydrate addition on water quality and the nitrogen budget in extensive shrimp culture systems. Aquaculture 252(2-4): 248-263. Jorgensen, N. O. G., N. Kroer, et al. (1994). Utilization of Dissolved Nitrogen by heterptrophic bacterioplankton: Effect of Substrate C/N ratio. Applied and Environmental Microbiology 60(11): 4124-4133. Krom, M. D., J. Erez, et al. (1989). Phytoplankton nutrient uptake dynamics in earthen marine fishponds under winter and summer conditions. Aquaculture 76(3-4): 237-253. McIntosh, D., T. M. Samocha, et al. (2001). Effects of two commercially available low- protein diets (21% and 31%) on water and sediment quality, and on the production of Litopenaeus vannamei in an outdoor tank system with limited water discharge. Aquacultural Engineering 25(2): 69-82. Neori, A., T. Chopin, et al. (2004). Integrated aquaculture: rationale, evolution and state of the art emphasizing seaweed biofiltration in modern mariculture. Aquaculture 231(1-4): 361-391. Obaldo, L. G. and D. H. Ernst (2002). Zero-exchange shrimp production. Global Aquaculture Advocate June: 56-57. Pagand, P., J.-P. Blansheton, et al. (2000). The use of high rate algal ponds for the treatment of marine effluent from a recirculating fish rearing system. Aquaculture Research 31: 729-736. Palmer, P. J., Ed. (2005). Wastewater remediation options for prawn farms. Brisbane, DPI&F Publications. 93pp. Palmer, P. (2007) Sand worms trialled at prawn farm. Qld Aquaculture News 30:5 Pote, J. W., T. P. Cathcart, et al. (1990). Control of high pH in aquacultural ponds. Aquacultural Engineering 9: 173-186. Preston, N. P., C. J. Jackson, et al. (2000). Prawn farm effluent: composition, origin and treatment. CSIRO. CRC & Fisheries Research & Development Corporation: 1-71. Schneider, O., V. Sereti, et al. (2007). Kinetics, design and biomass production of a bacteria reactor treating RAS effluent streams. Aquacultural Engineering 36(1): 24-35. Van Wyk, P. (1999). Chapter 4 - Principles of Recirculating System Design, Harbour Branch Oceanographic Institution: 59-99. Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 21 Kết hợp nuôi tôm Sú và ương giống cá biển trong ao không thay nước Hoàng Tùng1*, Michael Burke2, Bành Thị Quyên Quyên1 & Daniel Willett2 1 Trường Đại học Nha Trang, Việt Nam. Email: htunguof@gmail.com 2 Department of Primary Industries and Fisheries, Queensland, Australia. TÓM TẮT Mô hình nuôi tôm Sú mật độ thấp kết hợp với ương thâm canh con giống cá biển bằng mương nổi trong ao đã được xây dựng và thử nghiệm. Kết quả cho thấy chất lượng nước ao tốt và ổn định trong suốt 4 tháng nuôi không thay nước với nhiều đợt ương giống cá Chẽm, cá Mú và cá Giò. Tôm nuôi đạt kích thước lớn và có hệ số sử dụng thức ăn cao. Các khó khăn phát sinh như sự thất thoát của cá ương trong mương vào ao, Artemia sinh khối không phát triển được trong ao chứa và trục trặc của hệ thống cấp khí cũng được xác định và có hướng khắc phục. Nghiên cứu này đã đặt nền móng quan trọng để xây dựng một mô hình nuôi kết hợp theo hướng bền vững, cho phép tái sử dụng nước trong ao nuôi để loại trừ các tác động môi trường có thể của nghề nuôi trồng thủy sản. Từ khóa: nuôi kết hợp, cá biển, tôm, xử lý sinh học. 1. MỞ ĐẦU Thử nghiệm ương con giống cá Chẽm (Lates calcarifer) cỡ lớn bằng mương nổi SMART trong ao nuôi tôm đã được thực hiện thành công tại Khánh Hòa trong khuôn khổ của Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi CARD VIE062/04 (Hoang et al. 2007). Mặc dù mục tiêu cơ bản của dự án là góp phần gia tăng sản lượng con giống cá biển cỡ lớn và mở hướng tận dụng các ao nuôi tôm bị bỏ hoang đã đạt được, việc xây dựng một mô hình nuôi không thay nước để hạn chế sự lây lan của bệnh dịch và các tác động xấu có thể lên môi trường là hết sức cần thiết. Khi cá Chẽm được ương trong mương nổi, chất thải của cá và thức ăn thừa được dòng nước đưa ra khỏi mương để vào ao chứa. Việc loại bỏ các chất thải này dựa vào các quá trình chuyển hóa vật chất tự nhiên nếu trong ao chứa không có các đối tượng ăn mùn xác hữu cơ. Các muối dinh dưỡng hình thành sẽ được tảo sử dụng một phần. Phần lớn còn lại sẽ tích tụ trong bùn đáy của ao. Hạn chế lớn nhất của mô hình này là Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 22 ở chỗ lượng chất thải từ mương vào ao không ổn định (mà thay đổi theo vụ ương) khiến cho chất lượng nước trong ao dễ biến động do tảo phát triển mạnh rồi tàn lụi vì thiếu muối dinh dưỡng. Nghiên cứu này sử dụng Artemia để tận dụng các vật chất hữu cơ thải ra từ mương nổi. Về lý thuyết, việc hình thành của một quần thể Artemia trong ao sẽ đem lại nhiều lợi ích khác nữa. Nếu được nuôi dưỡng tốt thì cả Artemia trưởng thành và con non đều sẽ được hệ thống nâng nước “bơm” vào trong mương. Cá ương nhờ thế có thể tiếp cận được với một nguồn thức ăn sống bổ dưỡng với nhiều kích cỡ khác nhau. Tuy nhiên, để có thể duy trì ổn định nguồn dinh dưỡng cho tảo phát triển (cũng là thức ăn của Artemia), chúng tôi lựa chọn phương án thả nuôi tôm Sú (Penaeus monodon) ở mật độ thấp. Khi được nuôi trong ao với mật độ từ 5 ÷ 15 con/m2, tôm Sú thường lớn nhanh, đạt kích thước lớn khi thu hoạch và vì thế có thể bán với giá cao. Đối tượng nuôi phụ này do đó có thể tạo thêm thu nhập cho người ương cá. Lượng thức ăn nhỏ đưa xuống ao hàng ngày và chất thải của tôm sẽ giúp duy trì nguồn dinh dưỡng nhất định cho tảo trong ao nuôi. Nhờ đó chất lượng nước sẽ được cải thiện (Hoang et al. 2007b). Báo cáo này trình bày thiết kế của mô hình và những kết quả ban đầu mà chúng tôi đã thu được khi nuôi tôm Sú Penaeus monodon trong ao chứa kết hợp với ương giống các đối tượng cá Chẽm (Lates calcarifer), cá Mú Malaba (Epinephelus malabaricus) và cá Giò (Rachycentron canadum) sử dụng mương nổi là nhân tố sản xuất chính. 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 2.1 Thiết kế mô hình Thử nghiệm được tiến hành trong một ao nuôi ven biển có diện tích 2000-m2, nằm cách đầm Nha Phu (Khánh Hòa) khoảng 1 km (Hình 1). Bạt nhựa được sử dụng để tạo vách ngăn giữa ao, hình thành dòng chảy tròn trong ao khi vận hành máy quạt nước công suất 2 HP của Đài Loan. Quạt này được vận hành 4 giờ mỗi ngày, từ 05:00 ÷ 07:00 và từ 15:00 ÷ 17:00. Sáu mương nổi SMART-1 (thể tích 3 m3/mương) và một mương nổi SMART-2 (thể tích 6 m3) được đặt ở một đầu ao (Hình 2). Cá được ương trong các mương này lên kích thước lớn hơn. Tôm Sú và Artemia được nuôi trong ao chứa. Lưới chắn mặt mương được dùng để ngăn ngừa cá Chẽm ương trong mương xâm nhập vào trong ao trở thành địch hại cho tôm nuôi. Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 23 Hình 1: Điểm thử nghiệm. Ao thử nghiệm ở phía bên trái (dấu mũi tên) Hình 2: Mương nổi SMART-1 (trái) và hoạt động cải tạo ao (phải) Trước khi tiến hành thử nghiệm, ao chứa được rút cạn nước và phơi nắng 7 ngày. Tiếp theo vôi nông nghiệp được rải đều mặt đáy ao với liều lượng 7 kg/100 m2. Sau đó nước được cấp vào ao từ mương dẫn và để lắng 3 ngày trước khi xử lý bằng chlorine (25 ppm). Một tuần sau tiến hành kéo dây xích sắt trên nền đáy để khuấy đảo, phát tán muối dinh dưỡng vào trong cột nước, giúp tảo phát triển. Sau một tuần nữa thả Artemia nauplii vào ao với mật độ 5 cá thể/L liên tục trong 4 tuần (mỗi tuần 1 lần). Cùng lúc đó thả giống tôm Sú. Cho tôm ăn thức ăn công nghiệp (của Grobest) từ tuần thứ 2 trở đi. 2.2 Nguồn tôm cá giống Cá Chẽm giống cỡ 20 mm chiều dài toàn thân được mua và vận chuyển trong túi PE đóng oxy với mật độ 500 con/túi (5 L). Cá giống khỏe và không có bất cứ dấu hiệu bất thường gì. Trước khi vận chuyển, cá đã được lọc phân cỡ để đảm bảo sự đồng đều. Thời gian vận chuyển khoảng 1 giờ. Cá được thuần cho quen với nhiệt độ nước ao trong khoảng 30 phút rồi thả vào mương nổi. Cá Mú Malaba (Epinephelus malabaricus, chiều dài tổng cộng 5 cm) và cá Giò (Rachycentron canadum, chiều dài tổng cộng từ 2 ÷ 10 cm) được sản xuất nhân tạo ở Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 24 miền Cửa Lò và Cát Bà và vận chuyển nhiều đợt bằng đường bộ vào Nha Trang. Mật độ vận chuyển là 2.000 con/bể (500 L). Nước trong bể vận chuyển được duy trì trong khoảng 22 ÷ 23oC và sục khí liên tục. Trong suốt quá trình vận chuyển (24 giờ) không tiến hành thay nước. Không cho cá ăn 24 giờ trước khi vận chuyển. Tôm Sú giống PL15 (Penaeus monodon) mua từ trại giống địa phương được kiểm tra bệnh bằng phương pháp PCR. Kết quả cho thấy tôm mạnh khỏe, không nhiễm bệnh. Tôm giống được vận chuyển về điểm thử nghiệm trong các túi nhựa đóng oxy với mật độ 1,000 PLs/túi (2 L). Ban đầu thử nghiệm sử dụng trứng bào xác của Artemia thu từ Great Lake (USA) để làm nguồn cung cấp nauplii thả vào ao nuôi cho 2 lần thả đầu tiên. Tuy vậy, sau đó thử nghiệm chuyển sang dùng dòng Artemia Vĩnh Châu (Việt Nam) cho 2 đợt tiếp theo vì nghi ngờ dòng Great Lake không thích ứng được với điều kiện của ao nuôi. Với cả 2 dòng, trứng bào xác được tẩy trùng và làm mỏng vỏ bằng chlorine 200 ppm trước khi ấp. Sau khi nở 24 giờ, Artemia nauplii được thu và thả đều vào trong ao. Hình 3: Thu mẫu phân tích chất lượng nước (trái) và cho cá ăn (phải) 2.3 Quan trắc chất lượng nước Các yếu tố môi trường quan trọng như nhiệt độ nước, độ pH, hàm lượng oxy hòa tan (DO) được đo đạc 2 lần/ngày vào lúc 06:00 ÷ 07:00 và 14:00 ÷ 15:00. Do không tiến hành thay nước trong toàn bộ thời gian thử nghiệm nên độ mặn không thay đổi nhiều và chỉ được kiểm tra hai ngày một lần. Hàng tuần, tiến hành thu mẫu nước ao (Hình 3) và phân tích hàm lượng NH3-N, NO2-, NO3- và PO43- bằng các bộ phân tích nhanh (do Đức sản xuất) thương dùng trong nuôi cá cảnh. 2.4 Quản lý, chăm sóc và kiểm tra tốc độ tăng trưởng Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 25 Cá giống được cho ăn nhiều lần trong ngày từ 06:30 đến 17:30, mỗi lần cách nhau 2 giờ. Thức ăn là loại viên của INVE (Thailand) cho cá biển và GROBEST (Vietnam) cho tôm. Thức ăn viên, chuyên dụng cho cá biển của INVE (kích thước hạt 800 ÷ 1200 µm) chỉ được dùng trong tuần đầu tiên do lúc này cá đòi hỏi thức ăn có kích thước nhỏ, đều và chìm chậm. Với cá Chẽm, đây là loại thức ăn mà cá giống đã quen sử dụng khi còn trong bể ương tại trại sản xuất giống. Thức ăn viên của GROBEST (loại dành cho tôm, cỡ 2 ÷ 3 mm) được dùng cho cá ăn từ tuần thứ 2 trở đi (Hình 3). Khoảng nửa giờ trước khi cho cá ăn, trộn thức ăn viên với vitamin C và áo bằng dầu mực. Khẩu phần ăn hàng ngày vào khoảng 10 ÷ 18% khối lượng thân của cá và được điều chỉnh theo nhu cầu thực của cá giống cũng như điều kiện thời tiết. Kích thước, khối lượng thân của cá khi bắt đầu và kết thúc thử nghiệm được đo đạc và ghi chép lại. Để theo dõi tốc độ tăng trưởng của cá, định kỳ thu mẫu ngẫu nhiên 30 con hàng tuần. Tôm được cho ăn 2 lần/ngày vào lúc 09:00 và 18:00. Khẩu phần ăn hàng ngày là 10% sinh khối tôm nuôi trong tháng đầu và 5% cho 3 tháng còn lại. Thức ăn viên cho tôm được rải đều khắp ao kết hợp với kiểm tra hai nhá cho ăn. Sức khỏe của tôm được theo dõi bằng cách kiểm tra tôm trong nhá cho ăn và khi tôm đã lớn bằng chài. 3. KẾT QUẢ 3.1 Vận chuyển cá Với cá Chẽm việc vận chuyển không có gì khó khăn do quãng đường vận chuyển từ trại giống đến nơi thử nghiệm ngắn. Do con giống cá Mú Malaba và cá Giò không có ở địa phương chúng tôi đã tiến hành vận chuyển cá giống từ Cửa Lò và Cát Bà về Nha Trang. Độ dài của quãng đường là 1.000 – 1.400 km và phải mất đến 24 giờ hoặc hơn để đưa cá về đến nơi. Nhìn chung, kết quả vận chuyển cá Mú Malaba tốt hơn cá Giò rất nhiều. Tỉ lệ chết trong vận chuyển thấp hơn 5%, chủ yếu là do cá đói ăn nhau trong quá trình vận chuyển với mật độ cao. Cá bắt mồi ngay khi về đến địa điểm thử nghiệm. Mật độ vận chuyển (2.000 con cá Mú 4 cm hoặc cá Giò 5 cm, 1.000 con cá Giò 10 cm trong bể chứa 400 L nước biển sạch) đã áp dụng tỏ ra phù hợp. Mặc dù không được cho ăn 24 giờ trước khi vận chuyển, cá vẫn “nôn” thức ăn chưa tiêu hóa hết vào nước bể và cùng với chất thải của chúng làm cho chất lượng nước trong bể vận chuyển xấu đi. Hiện trạng này cho thấy cần phải thiết kế các bể vận chuyển có trang bị hệ thống lọc đơn giản để có thể nhanh chóng loại bỏ các chất thải này. Probiotics Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 26 cũng nên được sử dụng để loại trừ NH3. Nhiệt độ nước được duy trì trong khoảng 22 ÷ 24oC tỏ ra rất thích hợp với cá Mú Malaba và cá Giò giống. Cá Giò nhạy cảm với nhiệt độ nước và hàm lượng oxy hòa tan hơn là cá Mú Malaba. Chúng trở nên kém linh hoạt và có tỉ lệ hao hụt cao hơn khi nhiệt độ giảm xuống cỡ 20oC. Chúng tôi đã thử vận chuyển cá 20 ngày tuổi (có chiều dài toàn thân khoảng 2 cm) ở hai mức nhiệt độ 22 ÷ 24oC và 26 ÷ 27oC. Kết quả cho thấy toàn bộ cá vận chuyển ở mức nhiệt độ thấp hơn đã chết sau khoảng 3 ÷ 4 giờ. Ở mức nhiệt độ cao hơn, tỉ lệ sống là 42% sau 24 giờ vận chuyển nhưng cá rất yếu, có thể do những tổn thương cơ học và đói. 3.2 Kết quả ương cá giống Tổng cộng có 7 đợt ương đã được thực hiện (2 cho cá Chẽm, 2 cho cá Mú và 3 cho cá Giò) trong thời gian thử nghiệm là 4 tháng. Cá phát triển tốt trong mương nhưng tỉ lệ sống có khác biệt lớn giữa các đối tượng (Bảng 1, 2). Cũng giống như các thử nghiệm trước đã thực hiện, cá Chẽm giống 2-cm đạt kích thước 4 ÷ 5 cm chỉ sau 2 tuần và 6 ÷ 8 cm sau 3 tuần ở nhiệt độ nước 29 ÷ 31oC. Tỉ lệ sống thay đổi tùy theo đợt ương, đạt 51 đến 78 % và có liên hệ mật thiết với chất lượng và độ đồng đều của cá giống. Cá Chẽm dùng cho đợt ương thứ 2 được mua từ RIA3 không được đều về kích thước. Vì thế tỉ lệ hao hụt trong tuần đầu tiên là khá lớn khiến cho tỉ lệ sống của toàn đợt chỉ đạt 51%, thấp hơn so với mức kỳ vọng. Bảng 1: Kết quả ương cá Chẽm và cá Mú Malaba trong mương nổi Cá Chẽm Cá Mú Malaba Các thông số Đợt 1 Đợt 2 Đợt 1 Đợt 2 Cỡ thả (cm) 2,0 ± 0,1 2,3 ± 0,8 5,2 ± 0,4 6,3 ± 0,5 Cỡ thu hoạch (cm) 6,2 ± 1,1 8,4 ± 1,0 11,0 ± 0,7 6,9 ± 0,4 Thời gian ương (day) 23 41 41 10 Tốc độ tăng trưởng (cm/ngày) 0,182 0,149 0,141 0,086 Số lượng cá thả 30,000 20,000 2,000 5,000 Số lượng cá thu 23,400 10,202 1,921 4,960* Tỉ lệ sống (%) 78,0 51,0 96,0 99,2* *số liệu vào ngày thứ 7 của đợt ương, 2 ngày trước khi cá chết do bão làm hỏng hệ thống dẫn khí vào ngày 05/08/2007 Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 27 Bảng 2: Kết quả ương cá Giò Các thông số Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Cỡ thả Chiều dài (cm) Khối lượng (g) 5,1 ± 0,3 10,9 ± 1,1 7,7 ± 2,1 9,0 ± 1,0 Cỡ thu hoạch Chiều dài (cm) Khối lượng (g) 10,2 ± 1,6 4,5 ± 2,1 51,0 ± 16,1 12,3 ± 1,5* Thời gian ương (ngày) 16 44 10 Số cá thả 4,000 1,000 1,500 Số cá thu 2,080 582 1,456* Tỉ lệ sống (%) 52,0 58,2 97,1* *số liệu vào ngày thứ 7 của đợt ương, 2 ngày trước khi cá chết do bão làm hỏng hệ thống dẫn khí vào ngày 05/08/2007 Hình 4: theo chiều kim đồng hồ từ trái qua (a) cho cá Giò giống ăn, (b) cá bắt mồi mạnh, (c) cá Giò khi thu hoạch và (d) cá Mú Malaba khi thu hoạch Cá mú Malaba phát triển rất tốt trong mương nổi. Đợt ương thứ 2 cho thấy mật độ ương có thể tăng lên cỡ 5.000 ÷ 10.000 con/mương SMART-1 nếu kinh phí đầu tư Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 28 sản xuất không bị hạn chế. Cá làm quen rất nhanh với thức ăn công nghiệp, đặc biệt là thức ăn cho tôm của Grobest sau một tuần được cho ăn bằng thức ăn viên (có giá rất cao) của INVE. Tỉ lệ sống cao và sức khỏe tốt của cá giống khi thu hoạch cho thấy chúng ta có thể ương cá Mú giống bằng thức ăn viên sẵn có trên thị trường và có thể giảm chi phí ương vì giá của thức ăn cho tôm của Grobest chỉ bằng 1/5 giá thức ăn viên cho cá biển của INVE. Loại này, tuy vậy, vẫn rất cần thiết cho cá trong tuần đầu tiên vì có hàm lượng chất dinh dưỡng cao, đồng đều về kích cỡ và có độ nổi tốt. Kết quả thu được với cá Giò kém hơn so với cá Chẽm và cá Mú. Cá bắt mồi tốt, lớn nhanh. Tuy vậy tỉ lệ sống không cao, đặc biệt là với 2 đợt ương đầu. Quan sát cho thấy cá có thể đã bị nhiễm ký sinh trùng (gọi là “ký sinh trung mùa xuân”, Nguyễn Quang Huy - RIA1) do chúng đã bị nhiễm tại trại sản xuất giống trước khi chuyển về địa điểm thử nghiệm. Cả cá sống và cá chết đều đã được chuyển đến phòng thí nghiệm của Bộ môn Bệnh học Thủy sản (Trường Đại học Nha Trang) để kiểm tra. Tuy nhiên, không có kết luận rõ ràng về nguyên nhân gây chết hoặc tác nhân gây bệnh. Chúng tôi đã tiến hành tắm cho cá bằng nước ngọt (theo hướng dẫn của ông Nguyễn Quang Huy – RIA1) và hạn chế được một phần tỉ lệ hao hụt của cá. Cá Giò ương vẫn chết rải rác hàng ngày. Những con cá nhiễm bệnh bơi lội chậm chập trên mặt nước, bỏ ăn và mang của chúng bị thối rữa. Ngoài ra không có dấu hiệu gì khác. Cá chết sau khoảng 3 – 4 ngày từ khi có dấu hiệu bị bệnh và rất gầy do bỏ ăn. Hình 5: Cá Giò giống chết có mang bị thối rữa Các đợt ương còn cho thấy cá Giò rất nhạy cảm với hàm lượng oxy hòa tan của nước. Sức khỏe của cá có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng hoặc cá có thể chết chỉ sau Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 29 một thời gian rất ngắn được lưu giữ trong môi trường có hàm lượng oxy hòa tan thấp, i.e. khoảng 5 phút trong xô nhựa 20 L có chứa 150 con cá giống. Vì thế mà việc vận chuyển cá giống đến và từ mương nổi là rất khó khăn đặc biệt sau thời gian ương khi kích thước của cá đã lên đến 15 ÷ 25 cm. Việc ương giống cá Giò vì thế nên được tiến hành ở các vũng vịnh ven biển, có địa hình được che chở khỏi sóng gió. Điều này sẽ giúp loại trừ chi phí chuẩn bị, cải tạo ao và chi phí xử lý và duy trì chất lượng nước. Nếu sử dụng mương nổi SMART-2 (tự nổi, thể tích hoạt động 6 m3; Hoang & Burke 2007) thì ta có thể kéo cả mương nổi bằng thuyền nhỏ đến địa điểm nuôi thương phẩm và vận chuyển cá một cách dễ dàng vào các lồng nuôi. Quan trọng hơn, cá giống luôn được giữ trong môi trường nước, không bị stress và làm quen dần với sự thay đổi môi trường sống. Tuy nhiên, sử dụng mương nổi để ương cá từ cỡ 4 cm lên cỡ lớn hơn vẫn là một giải pháp khá hiệu quả. 3.3 Kết quả nuôi tôm Sú Tôm nuôi đã được thu hoạch sau 114 ngày nuôi. Tổng lượng tôm thu được là 286 kg. Tôm có kích cỡ lớn và rất đều, trung bình 29,2 g/con. Kết quả này tốt hơn nhiều so với các trại nuôi xung quanh. Trong thời gian khoảng vài năm trở lại đây để có thể nuôi tôm đạt kích thước này sau 4 tháng là rất khó. Nhờ kích thước lớn, tôm thu hoạch được có giá bán cao – khoảng 7,86 đô la Úc/kg. Tuy vậy, tỉ lệ sống chỉ đạt 32,6%, kém nhiều so với kỳ vọng (i.e. 75 – 80% hoặc 700 kg) chủ yếu là do tôm bị cá Chẽm thoát ra từ mương ăn thịt. Hình 6: Tôm Sú nuôi trong ao chứa một tháng trước khi thu hoạch (trái) và tại thời điểm thu hoạch (phải) Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 30 Hình 7: Cá Chẽm (Lates calcarifer) giống thoát ra từ mương nổi đã trở thành địch hại cho tôm nuôi trong ao Khoảng 120 con cá Chẽm cỡ lơn (110 – 340 g, những con nhỏ hơn không đếm) đã bị bắt tại thời điểm thu hoạch. Ngoài ra, trong thời gian thử nghiệm chúng tôi đã bắt hơn 100 con từ ao nuôi bằng chài. Tiến hành mổ mẫu 10 con cho kết quả 60% có xác tôm trong dạ dày (Hình 7). Số còn lại ruột đầy thức ăn viên cho tôm. Thử nghiệm đã sử dụng tổng cộng 344 kg để nuôi tôm. Hiệu suất sử dụng thức ăn (FE) vì thế đạt 0,83. Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) của tôm, nếu có thể tính được sẽ thấp hơn 1,2 do trong ao còn có cá và một số sinh vật nhỏ khác. 3.4 Phân tích tài chính Ngoài mục đích ổn định môi trường nuôi thì lợi nhuận thu được từ hệ thống nuôi kết hợp này cũng rất quan trọng, đặc biệt khi so sánh với nuôi đơn tôm hoặc chỉ ương giống cá biển trong ao. Bản phân tích tài chính này được thực hiện trên cơ sở chi phí thực tế của thử nghiệm và giá trị của cá giống trên thị thường tại thời điểm thu hoạch. Cơn bão đêm ngày 4 rạng sáng ngày 5/08/2007 vào Nha Trang đã làm đứt ống dẫn khí từ máy thổi trung tâm đến mương nổi khiến toàn bộ cá giống đang được ương trong mương chết vì thiếu oxy hòa tan trước khi sự cố này được phát hiện. Sự cố do thiên tai gây ra này đã ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận kỳ vọng từ mô hình nuôi. Vì thế, chúng ta có thể xem xét 3 tình huống khác nhau. Với tình huống 1, giả sử cá giống ương trong mương được bán ngay trước khi xảy ra sự cố ngày 05/08/2007 thì lợi nhuận của cả đợt sẽ là A$ 2.737 cho 2.000-m2 ao hoặc tương đương với A$ 27.374 nếu qui đổi cho 1 ha ao với 2 đợt sản xuất hay A$ 41.061 với 3 đợt sản xuất một năm. Trong tình huống thứ 2, nếu giá trị của số cá bị chết do sự cố không được tính, số tiền lỗ sẽ là A$ 1.699 cho đợt sản xuất 4 tháng. Tuy vậy, nếu việc ngăn chặn cá giống từ mương xâm nhập vào ao được thực hiện một Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 31 cách hiệu quả, sản lượng tôm thu hoạch được vào cuối vụ sẽ là từ 500 ÷ 700 kg, tương đương với giá trị khoảng A$ 3.930 ÷ 5.502. Phần gia tăng từ nguồn thu từ tôm nuôi sẽ là A$ 1.682 ÷ 3.254, hoàn toàn có thể bù cho sự cố của cá ương và đem lại một lợi nhuận nhỏ. Bảng 2: Phân tích tài chính cho mô hình nuôi với thời gian 4 tháng Hạng mục Số lượng Giá đơn vị (A$) Tổng (A$) Chi phí vận hành thực tế Tôm giống 30.000 con 0,0021 64,3 Thức ăn cho tôm 344 kg 1,57 540,6 Cá giống Chẽm Mú Malaba Giò 50.000 con 7.000 con 6.500 con 2,857,0 3,000,0 3,214,3 Thức ăn cho cá INVE Grobest* 25 67 15,71 1,57 392,8 105,2 Trứng bào xác Artemia 3 kg 80,00 240,0 Cải tạo ao 400,0 Điện, xăng dầu 4 tháng 200,00 800,0 Công nhân 4 tháng 200,00 800,0 Chi khác 300,0 Thuê ao 4 tháng 100,0 400,0 Khấu hao hệ thống mương 4 months 200,0 800,0 TỔNG CHI 13.714,3 Thu nhập Cá Chẽm 5.529,0 Cá Mú Malaba 5.109,6 Cá Giò 3.565,1 Tôm Sú 2.248,0 TỔNG THU 16.451,7 Lợi nhuận/4 tháng/2.000 m2 2.737,4 Lợi nhuận qui đổi cho 1 ha/năm với 2 vụ sản xuất 27.374,1 Lợi nhuận qui đổi cho 1 ha/năm với 3 vụ sản xuất 41.061,2 Sau cùng, chúng ta thấy rằng thử nghiệm này mới chỉ là bước đầu tiên để kiểm chứng mô hình nuôi kết hợp không thay nước. Qua thử nghiệm các hạn chế đã được phát hiện và nếu thực hiện lại, chắc chắn sẽ được khắc phục một cách hiệu quả, để đảm bảo lợi nhuận của hệ thống. Nói như thế là vì các sự cố như cá Chẽm giống từ mương xâm nhập vào ao hay hư hỏng của đường ống khí do bão hoàn toàn có thể Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 32 ngăn chặn được khi triển khai mô hình này ở qui mô thương mại do hệ thống nuôi sẽ được thiết lập một cách chắc chắn hơn. Hệ thống nuôi kết hợp không nay nước này chắc chắn là một trong những lựa chọn mà người nuôi tôm hoặc ương cá ở Việt Nam có thể xem xét và ứng dụng. Trong thời gian tới cần có những nghiên cứu bổ sung để hoàn thiện nó. 3.5 Chất lượng nước ao nuôi Hệ thống nuôi kết hợp không thay nước này đã được thiết kế để tăng cường tính ổn định của môi trường nuôi nơi mà các vật chất được tuần hoàn nhờ vào các quá trình tự nhiên và sinh học. Thực tế cho thấy mục tiêu này là khả dĩ vì cả tôm và cá nuôi đều phát triển tốt. Thêm vào đó, hoạt động quan trắc môi trường đã hỗ trợ thêm cho nhận định này (Bảng 3). Thất vọng duy nhất đó chính là dự kiến nuôi sinh khối Artemia trong ao chứa không thực hiện được. Trong nhiều nguyên nhân có thể nghĩ đến thì khả năng Artemia nauplii bị cạnh tranh hoặc tiêu diệt bởi copepods là khá cao. Do sản phẩm chính của hệ thống nuôi kết hợp này là con giống cá biển, việc phát triển quần thể Artemia trong ao nuôi là hết sức quan trọng để vừa cung cấp thêm thức ăn sống cho cá, vừa giúp chuyển đổi vật chất nhanh và dễ dàng hơn. Ở các thử nghiệm tiếp theo, cần thiết phải tiến hành thả giống Artemia ngay sau khi xử lý nước ao xong và bơm tảo nuôi sẵn vào ao để tạo màu nước, làm thức ăn cho chúng. Bảng 3: Chất lượng nước ao trong thời gian thử nghiệm. ND: không phát hiện được Thông số Khoảng biến động TB ± S.D. Nhiệt độ (oC) 26,4 ÷ 36,6 32,4 ± 2,1 pH 7,6 ÷ 8,6 Biến động pH trong ngày 0,1 ÷ 0,7 DO (mg/L) lúc 7 giờ sáng 3,3 ÷ 6,5 4,9 ± 0,8 DO (mg/L) lúc 2 giờ chiều 4,2 ÷ 14,8 9,7 ± 1,7 Độ kiềm (mg CaCO3/L) 90 ÷ 110 96 ± 7,0 Độ trọng Secchi (cm) 27 ÷ 55 36,6 ± 7,2 Độ măn (ppt) 28 ÷ 31 29,2 ± 1,2 NH3-N (mg/L) ND ÷ 0,2 NO2- (mg/L) ND Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 33 Mặc dù thiếu Artemia trong chuỗi thức ăn dự kiến, chất lượng nước ao nuôi vẫn tốt và ổn định (Bảng 3). Biến động trong ngày của độ pH chỉ từ 0.2 đến 0.7, là điều kiện lý tưởng cho tôm nuôi (MPEDA/NACA 2003). Có được kết quả này một phần là do lượng dinh dưỡng từ mương vào ao và từ chất thải của tôm nuôi hay thức ăn thừa là thấp. Các thử nghiệm trước của dự án đã cho thấy thức ăn được cá sử dụng rất hiệu quả trong mương nổi nhờ vào thiết kế của mương và mật độ ương nuôi cao (Hoang et al. 2007a,b). Mật độ và sinh khối thấp của tôm nuôi, kéo theo lượng thức ăn không nhiều, cũng giúp ổn định môi trường. Các thông số thu thập được về độ trong cho thấy tảo trong ao phát triển ở mức độ vừa phải và khá ổn định, giúp hấp thụ cả NH3-N và NO2-. Cần lưu ý là trong suốt cả đợt thử nghiệm nước ao không hề được thay. Vì thế có thể gọi hệ thống nuôi này là hệ thống nuôi không thay nước. 3.6 Các vấn đề quản lý Mặc dù sự cố bão đã làm giảm đáng kể mức độ thành công của thử nghiệm, nghiên cứu này đã thiết lập một bước quan trọng cho sự phát triển của mô hình kết hợp (nuôi tôm ở mật độ thấp trong ao và ương thâm canh cá biển trong ao) đầy hứa hẹn này. Thử nghiệm đã đem lại nhiều bài học và các hạn chế đều có thể khắc phục được khi mô hình này được ứng dụng: • Chất lượng của cá giống: cần khỏe mạnh, không nhiễm mầm bệnh và tương đối đồng đều về kích thước. Tỉ lệ sống thấp hơn dự kiến của cá Chẽm ở đợt ương thứ 2 hay hiện tượng cá Giò chết nhiều trong 2 đợt ương đầu của thử nghiệm này là những minh chứng rõ ràng. • Định kỳ phòng bệnh cho cá: một trong những thuận lợi của việc sử dụng mương nổi để ương giống cá biển chính là ở khâu phòng bệnh và cần phải được phát huy. Việc tắm nước ngọt cho cá Giò hay cá Mú có thể được thực hiện một cách dễ dàng bằng cách bơm nước ngọt vào mương thay vì bắt cá ra tắm trong bể chứa nước ngọt để hạn chế tối đa các tổn thương hay stress cho cá. Đặc biệt với cá Mú khi được bắt ra khỏi mương bằng vợt, vây lưng của con này có thể làm mù mắt những con khác làm giảm đáng kể giá trị thương phẩm của cá (người mua không mua cá bị hỏng mắt). Tương tự, với cá Giò được bắt ra khỏi mương để tắm thường có biểu hiện bị stress. • Hạn chế các rủi ro: cần có biện pháp để ngăn ngừa cá ương trong mương thất thoát vào ao chứa nước hoặc hư hỏng của hệ thống cấp khí. Cá Chẽm Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 34 có thể bơi ngược dòng và thoát ra khỏi mương ngay tại vị trí của các ống nâng nước. Ta chỉ cần bịt các ống này bằng lưới là có thể đảm bảo cá không thoát ra. Bất cứ hư hỏng nào của hệ thống cấp khí đều đe dọa nghiêm trọng sự tồn tại của cá ương trong mương. Cơn bão đầu tháng 8 đã tác động vào đúng điểm yếu nhất của hệ thống là đoạn nối từ ống cứng PVC chạy trên bờ với ống nhựa mềm dẫn ra mương. Gió mạnh vào lúc sau nửa đêm đã đẩy giàn mương ra xa hơn và kéo đứt mối nối, khiến cho không khí không được chuyển vào mương làm cá chết ngạt. Cán bộ kỹ thuật, do ẩn nấp trong nhà, đã không thể can thiệp kịp thời. 4. PHÁC THẢO QUI TRÌNH Phác thảo qui trình này được xây dựng như là một hướng dẫn căn bản cho các cá nhân quan tâm muốn ứng dụng hoặc áp dụng mô hình này. Các chi tiết kỹ thuật cần phải phải được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện sản xuất ở từng địa phương và khả năng đầu tư của cơ sở: • Kích thước ao: 2.000 m2 với độ sâu tối thiểu là 1,2 m. Độ sâu của mực nước trong ao càng lớn càng tốt. Dùng bạt plastic để phân chia ao làm hai phần tạo dòng chảy trong ao. • Mương nổi: Dùng mương SMART-1 (3 m3, có giàn phao nâng đỡ) hoặc SMART-2 (6 m3, tự nổi) (Hoang & Burke 2007). Tổng thể tích hoạt động của cả hệ thống mương cỡ 30 ÷ 40 m3. Dùng một máy nén khí trung tâm công suất 3 sức ngựa để vận hành hệ thống ống nâng nước. Các biện pháo cần thiết phải được thực hiện để đảm bảo tính chắc chắn của hệ thống ống cấp khí và phải có hệ thống báo động khi mất khí. • Chuẩn bị ao: tương tự như qui trình cải tạo ao nuôi tôm. Khi đã cấp nước đầy ao thì xử lý nước bằng chlorine (15 ppm). Nên dùng phân vô cơ để giúp tảo phát triển và thả Artemia xuống ngay sau đó. Có thể dùng một túi lưới lớn để bao bọc tòan bộ hệ thống mương nhằm ngăn ngừa cá giống thoát ra ngoài ao và trở thành địch hại cho tôm nuôi. • Thả và nuôi tôm: Mật độ thả tôm giống là 15 con/m2. Cần thả tôm giống trước khi ương cá càng lâu càng tốt để giảm thiểu tỉ lệ hao hụt ngay cả khi cá giống thoát được khỏi mương để vào ao vì tôm lớn lẩn tránh khỏi địch hại dễ hơn nhiều. Trong 2 tuần đầu không cần cho ăn. Từ tuần thứ 3 trở đi cho tôm ăn khoảng 5% khối lượng thân/ngày. Tôm nuôi có thể đạt 22 g Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 35 sau 3 tháng và trên 30 g sau 4 tháng. Với một ao nuôi 2.000-m2 sản lượng có thể đạt 500 đến 700 kg tôm nếu chất lượng nước được đảm bảo và địch hại được kiểm soát. • Ương cá biển trong mương: các đối tượng như cá Chẽm hoặc cá Mú Malaba có thể được ương trong mương từ cỡ 1.5 cm với cá Chẽm và 3.0 cm chiều dài toàn thân với cá Mú. Nếu ương cá Giò thì cần phải xây dựng và thử nghiệm trước kế hoạch vận chuyển con giống cỡ lớn ra lồng nuôi thương phẩm vì việc này tương đối khó khăn do cá rất nhạy cảm với tổn thương cơ học và hàm lượng oxy hòa tan thấp. Mật độ ương từ 3.000 ÷ 5.000 con/m3 với cá CHẽm; 1.800 ÷ 3.000 con/m3 với cá Mú Malaba. Mật độ ương ban đầu với cá Bớp 4 – 5 cm có thể là 1.000 con/m3 nhưng cần phải được giảm dần (đặc biệt là về sinh khối) do cá phát triển rất nhanh, i.e. tăng 0.6 ÷ 1.0 cm/ngày. Trong 7 ngày ương đầu, cho cá ăn thức ăn viên của INVE (800 ÷ 1,200 µm). Khoảng 3 ngày sau bắt đầu tập cho cá ăn thức ăn tôm của GROBEST (2 mm) và cho cá ăn thuần túy thức ăn này từ tuần thứ 2 trở đi. Trước khi ăn trộn thức ăn với Vitamin C và dầu mực (20 mL cho mỗi kg thức ăn) và để yên 30 phút trong không khí cho khô mặt lại. • Quản lý chất lượng nước: các thông số quan trọng như DO, pH, nhiệt độ, độ trong và độ mặn cần được quan trắc hàng ngày. Hàng tuần kiểm tra NH3-N, độ kiềm và NO2-. Mỗi tuần sử dụng một túi 500 g chế phẩm vi sinh Pondplus để duy trì chất lượng nước ao. • Quản lý hệ thống: Cố gắng duy trì thường xuyên hoạt động ương cá biển trong mương. Điều này giúp đảm bảo ổn định lượng dinh dưỡng từ mương cung cấp cho ao, nhờ vậy ổn định mức độ phát triển của tảo. Cần tập trung vào khâu nuôi tôm vì kinh nghiệm cho thấy đây là phương pháp hiệu quả để quản lý chất lượng nước trong ao nuôi do hoạt động ương cá thường không liên tục do nguồn cung cấp hoặc nhu cầu của thị trường hay thay đổi. • Hỗ trợ kỹ thuật: có thể tìm kiếm từ các chuyên gia nuôi trồng thủy sản ở địa phương cho phù hợp với đối tượng nuôi mà bạn lựa chọn. Những vấn đề liên quan đến mương nổi và nguyên lý hoạt động của mô hình nuôi kết hợp này có thể tham khảo ý kiến của Queensland Department of Primary Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04 36 Industries & Fisheries tại Australia hoặc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hay Trường Đại học Nha Trang tại Việt Nam. LỜI CẢM ƠN Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Trung tâm Khuyến ngư Khánh Hòa (KFEC) đã nhiệt tình giúp đỡ và cho phép chúng tôi sử dụng cơ sở vật chất để thực hiện thử nghiệm này. Xin chân thành cảm ơn các cá nhân KS. Hùynh Kim Khánh (KFEC), KS. Ngô Văn Mạnh (Bộ môn Nuôi Hải sản), bạn Nguyễn Hồng Hiếu (N45, Trường Đại học Nha Trang), TS. Đỗ Thị Hòa và các cán bộ tại Bộ môn Bệnh học Thủy sản (Trường ĐH Nha Trang) đã giúp đỡ triển khai các hoạt động của dự án. Dự án này chắc chắn sẽ không thể được thực hiện một cách hiệu quả nếu thiếu sự hỗ trợ liên tục của Queensland Department of Primary Industries & Fisheries (Australia), Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Văn phòng Chương trình CARD và Trường Đại học Nha Trang. TÀI LIỆU THAM KHẢO Hoang T., Luu T. P. & Huynh K.K. (2007) Trials of advanced nursing of barramundi Lates calcarifer in in-pond floating raceways. Journal of Fisheries Science and Technology 01/07: 12-18 (in Vietnamese). Hoang T., Huynh K.K., Banh T.Q.Q, Nguyen D.M & Burke M. (2007) Use of floating raceways for marine finfish fingerling production and potential for the development of an integrated farming system. In: Proceeding of IMOLA Symposium, Hue 19 – 20 April, 2007, pp 1 – 14. Hue University of Agriculture and Forestry. Hoang T. & Burke M. (2007) Floating raceways provide options for marine fish fingerling production. Global Aquaculture Advocate Jul-Aug: 54-55. MPEDA/NACA (2003) Shrimp Health Management Extension Manual. Prepared by the Network of Aquaculture Centres in Asia-Pacific (NACA) and Marine Products Export Development Authority (MPEDA), India, in cooperation with the Aquatic Animal Health Research Institute, Bangkok, Thailand; Siam Natural Resources Ltd., Bangkok, Thailand; and AusVet Animal Health Services, Australia. Published by the MPEDA, Cochin, India.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnong_nghiep_80__9322.pdf
Luận văn liên quan