Ương cá biển trong mương: các đối tượng nhưcá Chẽm hoặc cá Mú
Malaba có thể được ương trong mương từcỡ1.5 cm với cá Chẽm và 3.0
cm chiều dài toàn thân với cá Mú. Nếu ương cá Giò thì cần phải xây dựng
và thửnghiệm trước kếhoạch vận chuyển con giống cỡlớn ra lồng nuôi
thương phẩm vì việc này tương đối khó khăn do cá rất nhạy cảm với tổn
thương cơhọc và hàm lượng oxy hòa tan thấp. Mật độ ương từ3.000 ÷
5.000 con/m3 với cá CHẽm; 1.800 ÷ 3.000 con/m3
với cá Mú Malaba. Mật độ ương ban đầu với cá Bớp 4 – 5 cm có thểlà 1.000 con/m3
nhưng cần phải được giảm dần (đặc biệt là vềsinh khối) do cá phát triển rất nhanh,
i.e. tăng 0.6 ÷ 1.0 cm/ngày. Trong 7 ngày ương đầu, cho cá ăn thức ăn
viên của INVE (800 ÷ 1,200 µm).
36 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2498 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu MS5: Xây dựng mô hình nuôi không thải nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Molasses 2)
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
14
Thí nghiệm 2
Các thông số chuẩn
Các hệ thống lắng thụ động do thực vật phù du chiếm ưu thế được đặc thù bởi độ pH
cao (>8.5) và hàm lượng DO cao (<8 mg/L) đo lường được trong thời gian thí nghiệm
(xem hình 5). Ở nghiệm thức BFP cả DO & pH đều thấp hơn (p<0.05) so với nghiệm
thức PSP, cho thấy các vi khuẩn dị dưỡng chiếm ưu thế (Funge-Smith and Briggs
1998). Sự thay đổi rất đáng kể (p<0.05) của môi trường trong hệ thống PSP (pH 8.14-
9.08; DO 9.74-19.16) cho thấy sự nguy hiểm của biến động môi trường theo kiểu tăng
giảm đột ngột do sự phát triển và suy tàn của tảo (Hargreaves 2006). Trong khi đó hệ
thống cho thấy sự ổn định của mình trong suốt thời gian thí nghiệm (pH 8.00-8.17;
DO 6.86-8.80).
Hình 5: Kết quả đo pH và Oxy hòa tan trong thí nghiệm 2.
Trong cả hai hệ thống, yếu tố nhiệt độ nước và độ mặn dao động trong khoảng cho
phép. Giá trị nhiệt độ nước trong hai hệ thống tương tự như nhau (15.3 – 21.0oC)
trong đa số trường hợp. Tuy nhiên, giá trị độ mặn thể hiện khác biệt có ý nghĩa
(P>0.01) và biến động khá lớn trong suốt thời gian thí nghiệm do có mưa. Độ mặn
trong hệ thống BFP thấp hơn (P<0.01) hẳn so với hệ thống PSP do có sự xáo trộn
nước cao hơn.
Phân tích dinh dưỡng
Nhìn chung, cả hai thí nghiệm đều làm giảm nồng độ các chất dinh dưỡng hòa tan
trong nước thải (p<0.05). Nồng độ các hợp chất nitơ vô cơ (TAN và NOx) trong
nước thải đều giảm hẳn một cách hiệu quả khi áp dụng phương pháp xử lý BFP. Hệ
thống BFP thể hiện kết quả tốt hơn hẳn so với hệ thống PSP trong việc xử lý các hợp
chất Nitơ NOx (p<0.01) và mức DIP (p<0.01). Quan trọng hơn, điều này chứng tỏ
rằng hệ thống BFP có tính hiệu quả cao hơn trong việc loại bỏ các độc chất trong
nước thải (xem hình 6).
Mức TN &TP trong nghiệm thức BFP cao hơn nhiều lần so với trong nghiệm thức
PSP (p<0.01). Nghiệm thức BFP cũng làm gia tăng đáng kể TN có trong nước chưa
xử lý (p<0.01). Ngược lại, nghiệm thức PSP lại có hàm lượng TN giảm đáng kể so
với nước thải chưa xử lý. Điều này cho thấy PSP tỏ ra hiệu quả hơn trong việc xử lý
các muối dinh dưỡng. Hàm lượng cao của cả TN & TP cũng cho thấy các muối dinh
dưỡng đã được chuyển sang dạng sinh khối.
7.0
7.5
8.0
8.5
9.0
9.5
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Week
pH
PSP
BFP
6
8
10
12
14
16
18
20
22
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Week
D
O
m
g/
L
PSP BFP
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
15
Có 2 đặc điểm của hệ thống BFP giải thích về sự gia tăng của các muối dinh dưỡng.
Trước hết BFP duy trì sự lơ lửng và “tiêu hóa” các chất hữu cơ. Thứ hai, sự hình
thành của các khối hạt vi khuẩn (gọi là floc) khiến cho TN và TP tăng cao. Do hàm
lượng của DON cao hơn (p<0.05) ở hệ thống BFP so với nước thải chưa xử lý, N có
thể được tích lũy dưới dạng DON như phỏng đoán của một số nghiên cứu trước đây
(Erler et al. 2005). Ngược lại, trong hệ thống PSP các vật chất hữu cơ (và muối dinh
dưỡng) sẽ bị lắng tụ trước khi trải qua quá trình tái khoáng hóa, làm tăng đột ngột
hàm lượng của các muối dinh dưỡng ở mùa sau (Preston et al. 2000). Nếu ta có thể
loại bỏ các khối hạt vi khuẩn (floc) ra khỏi hệ thống thì sẽ tăng được đáng kể khả
năng xử lý của hệ thống BFP. Vấn đề này sẽ được thảo luận tiếp ở phần sau. Cần có
thêm các nghiên cứu khác về sự tích lũy của DON để làm sáng tỏ vấn đề này.
0.0
0.5
1.0
1.5
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
WEEK
NO
x
m
g/
L
UNTREATED
PSP
BFP
0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
WEEK
TA
N
m
g/
L
UNTREATED
PSP
BFP
0.0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
WEEK
D
IP
m
g/
L
UNTREATED
PSP
BFP
0.0
1.0
2.0
3.0
4.0
5.0
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
WEEK
TN
m
g/
L
BFP
UNTREATED
PSP
0.0
0.5
1.0
1.5
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
WEEK
TP
m
g/
L
BFP
UNTREATED
PSP
0
20
40
60
80
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
WEEK
TS
S
m
g/
L
BFP
UNTREATED
PSP
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
WEEK
D
O
N
m
g/
L
BFP
PSP
UNTREATED
0
20
40
60
80
100
120
140
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
WEEK
C
hl
A
u
g/
L
BFP
UNTREATED
PSP
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
16
Hình 6: Mức độ dinh dưỡng trong thời gian thí nghiệm trong nước thải chưa xử lý và
trong hệ thống BFP và PSP.
TSS, một thông số khác đại diện cho sinh khối của cột nước, đã cho thấy xu hướng
gia tăng sinh khối trong hệ thống BFP (p<0.01) so với nước thải chưa xử lý và trong
hệ thống PSP. Hình 6 trình bày kết quả thu được khi phân tích hàm lượng của các
muối dinh dưỡng.
Có một điều rất lý thú là hàm lượng Chlorophyll a (Chl a) ở trong hệ thống BFP lại
cao hơn (p<0.05) so với trong nước thải chưa xử lý và trong đa số trường hợp đều cao
hơn trong hệ thống PSP qua suốt 3 tuần cuối của thí nghiệm (xem hình 6). Về nguyên
tắc thì hoạt động quang hợp sẽ suy giảm rất nhiều trong môi trường vi khuẩn dị dưỡng
chiếm ưu thế. Tuy vậy, các nghiên cứu khác cũng cho thấy việc bổ sung C không hệ
ảnh hưởng đến hàm lượng Chl a có trong hệ thống nuôi (Avnimelech 2001; Erler et
al. 2005; Hari et al. 2006). Hàm lượng Chl a cao trong hệ thống BFP có thể là do sự
tồn tại của thực vật phù du trong các khối cầu vi khuẩn. Hargreaves (2006) đã mô tả
rằng các khối cầu vi khuẩn trong hệ thống BFP được hình thành thì các tế bào tảo và
vi khuẩn sống bám trên chúng. Vì thế mà ta cần phải xem xét tỉ trọng của thực vật phù
du có trong quần xã. Mặc dù hàm lượng Chl a cao hơn trong hệ thống BFP, cấu trúc
của quần xã cho thấy tỉ trọng của thực vật phù du thấp hơn so với hệ thống PSP (xem
hình 7).
Sinh khối thực vật nổi được ước tính thông qua mức ChlA với mối tương quan thể
hiện theo công thức sau: 1 mg ChlA = 200mg chất khô (Pagand et al. 2000). Chúng
tôi đã ước tính thử phần đóng góp của thực vật phù du vào trong hàm lượng TSS đo
đạc được. Các biểu đồ dưới đây cho thấy sự khác biệt trong cấu trúc quần xã giữa các
nghiệm thức. Hệ thống PSP có quần xã sinh vật bị thực vật phù du chiếm ưu thế
(57%). Chỉ có 43% là các hạt lơ lửng bao gồm vi khuẩn, động vật phù du và các vật
chất khác. Ngược lại, quần xã BFP có tỉ lệ thực vật phù du thấp hơn (41%) với 59%
còn lại giả định là sinh khối của vi khuẩn.
Hình 7: Tỷ lệ thực vật phù du trong quá trình thí nghiệm.
Thảo luận: Tăng lượng C có trong BFPs lên đến 30g C L-1 giúp loại bỏ gần hết các
muối dinh dưỡng hòa tan chỉ trong vòng 12 giờ và kéo dài thời gian này trước khi quá
trình tái khoáng hóa bắt đầu. Điều này cho thấy khi đảm bảo hàm lượng C cao, nước
thải chỉ cần được lưu giữ trong hệ thống xử lý có 12 giờ. Nếu kéo dài quá 24 giờ thì
quá trình tái khoáng hóa sẽ xảy ra làm cho phức tạp thêm vấn đề và làm giảm hiệu
PSP
0%
20%
40%
60%
80%
100%
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Week
TS
S
m
g/
L
Other
Phytoplankton
BFP
0%
20%
40%
60%
80%
100%
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Week
TS
S
m
g/
L
Other
Phytplankton
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
17
quả xử lý của hệ thống. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy C tham gia
vào quá trình chuyển hóa của DON. Tuy vậy, cần có những nghiên cứu bổ sung để
khẳng định phát hiện này.
Thí nghiệm tiếp theo đã sử dụng C với hàm lượng cao hơn để khẳng định tác dụng
của nó lên một hệ thống xử lý nước thải có nước chảy liên tục mà ở đó thực vật phù
du chiếm ưu thế. Hàm lượng C cao và các điều kiện thuận lợi để phát triển biofloc đã
chuyển hệ thống sang hệ có quần xã vi khuẩn chiếm ưu thế. Quần xã vi khuẩn này có
các đặc thù sau:
o Cường độ quang hợp thấp thể hiện qua độ pH thấp và ổn định hơn (do sự
phóng thích của CO2 vào trong tầng nước) và hàm lượng oxy hòa tan thấp (do
vi khuẩn sử dụng oxy hòa tan) (Hargreaves 2006).
o Hàm lượng muối dinh dưỡng cao (Burford, Thompson et al. 2003)
o Giàu vật chất hữu cơ (có thể đo lường được qua các thông số nitơ và phốt pho
tổng cộng (Avnimelech 2003; Ebeling, et al. 2006).
o Hàm lượng chất rắn lơ lửng cao và tỉ trọng thấp của tảo trong sinh khối chung
(Burford et al. 2003).
Sự chuyển đổi của hệ thống từ tự dưỡng sang dị dưỡng đã được thể hiện thông qua sự
khác biệt của các thông số DO và pH. Các thông số này đều thấp hơn ở hệ thống dị
dưỡng (BFP) so với hệ thống tự dưỡng (PSP). Cả hai hệ thống đều duy trì các thông
số môi trường quan trọng trong khoảng phù hợp về sinh học, đáp ứng được tiêu chuẩn
của Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA) trong suốt thời gian thử nghiệm. Biện pháp bổ
sung nguồn C để giảm độ pH đã được thảo luận trong nhiều công trình nghiên cứu
(Pote et al. 1990; Avnimelech 2003). Nghiên cứu của chúng tôi khẳng định tính xác
thực của biện pháp này nhờ hiệu quả tương tự lên DO and pH bằng cách đưa rỉ đường
vào hệ thống BFP. Trong NTTS, việc đảm bảo tính ổn định của môi trường nuôi được
coi là yếu tố quan trọng hàng đầu (DPI&F 2006). Nghiên cứu này cho thấy hệ thống
BFP vừa đảm bảo chất lượng nước, vừa duy trì được sự ổn định cần thiết của nó.
Cả hai loại quần xã có tảo và vi khuẩn chiếm ưu thế đều đồng hóa các muối dinh
dưỡng hòa tan. Sự suy giảm về hàm lượng của các muối dinh dưỡng trong cả hai hệ
thống của nghiên cứu này đã khẳng định điều đó. Tuy vậy, hệ thống BFP tỏ ra hữu
hiệu hơn trong việc xử lý TAN và NOx, đều là những chất gây độc tiềm năng đối với
sinh vật nuôi. Độc tính của NH3 dạng tự do phụ thuộc vào độ pH và nhiệt độ
(Hargreaves 1998). Vì thế mà hàm lượng TAN thấp cùng với độ pH thấp đã hạn chế
được nguy cơ bị nhiễm độc NH3 tự do trong hệ thống BFP. NO2- cũng là một chất độc
tiềm năng và có thể tích lũy khi quá trình nitrat hóa diễn ra không hòan toàn
(Hargreaves 1998). Sự suy giảm rõ rệt của NOx (Nitrate+Nitrite) so với hàm lượng
của chúng trong nước thải không qua xử lý cho thấy trong hệ thống xử lý bằng biofloc
(BFP), quá trình đồng hóa đã lấn át quá trình nitrat hóa. Đồng hóa loại bỏ sự hiện diện
của NOx và ngăn cản quá trình nitrat hóa.
Nghiên cứu này đã trình diễn tiềm năng sử dụng công nghệ biofloc để xử lý nước thải
trong một hệ thống nuôi tuần hoàn. Chúng ta hoàn toàn không cần phải xả thải nước
thải này vào môi trường vì phương pháp trên đã giúp loại bỏ các chất độc hại có trong
nước. Nhờ vậy mà hàm lượng TN và TP cao trong ao nuôi không còn là mối quan
ngại cho sức khỏe của động vật nuôi. Trong khi đó thì cả TAN and NO2 đều thấp mà
vẫn đảm bảo hàm lượng DO cần thiết. Lượng chất rắn lơ lửng cao có thể ảnh hưởng
đến sức khỏe của cá nuôi như đã bàn luận ở phần trước vì thế mà ao xử lý bằng công
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
18
nghệ biofloc phải nằm tách biệt khỏi ao nuôi. Để đảm bảo hiệu quả cao nhất, cần có
biện pháp tách lọc để nước khi được bơm trở lại ao nuôi có nhu cầu oxy sinh học
(BOD) và hàm lượng chất rắn lơ lửng thấp. Schneider et al. (2007) cũng đã có kết
luận tương tự khi thử sử dụng một “lò phản ứng vi khuẩn” để xử lý nước thải trong hệ
thống nuôi tuần hoàn. Thiết bị lọc lấy flocs này cần phải được nghiên cứu một cách cụ
thể nhưng trước mắt có thể sử dụng một bộ lọc cơ như lưới lọc hoặc thùng lọc. Hình 8
mô tả phác thảo một hệ thống nuôi tuần hoàn có ao xử lý chất thải bằng công nghệ
biofloc được sử dụng để nuôi tôm hoặc một đối tượng ăn mùn xác hữu cơ để tận dụng
các sản phẩm giàu dinh dưỡng này và giúp cho các hạt vi khuẩn luôn lơ lửng trong
nước.
Hình 8. Phác thảo thiết kế hệ thống tuần hoàn tái sử dụng nước với ao xử lý bằng
công nghệ biofloc được xây riêng
Kết luận
Kết quả các nghiên cứu đã thực hiện cho thấy công nghệ biofloc nếu được dùng như
một phần độc lập của hệ thống tuần hoàn tái sử dụng nước là công nghệ hứa hẹn nhất
cho sự hình thành của một hệ thống nuôi khép kín, không xả thải ra môi trường.
Lời cảm ơn
Báo cáo này trình bày một phần thông tin của Dự án “Nuôi thâm canh cá biển trong
ao bằng mương nổi” - CARD VIE 062/04 do chương trình Hợp tác Phát triển và
Nghiên cứu Nông nghiệp tài trợ thông qua Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
của Việt Nam. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Queensland Department of Primary
Industries and Fisheries, đặc biệt là Adrian Collins, Ben Russell và Blair Chilton cho
những nỗ lực xây dựng dự án ban đầu của họ. Chúng tôi cũng cảm ơn các đối tác
nghiên cứu phía Việt Nam do TS. Hoàng Tùng (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và
Đào tạo Quốc tế, Trường Đại học Nha Trang) chủ trì vì những sự giúp đỡ và ủng hộ
quan trọng trong suốt thời gian thực hiện dự án này.
Lưới
chắn Máy sục khí – F7
hoặc tương tự để
cung cấp O2 và
xáo trộn nước
Xả cạn để loại bùn
định kỳ
Tôm Bạc Thẻ nuôi ở
mật độ thấp và
không dùng thức ăn
bổ sung – tôm ăn
tảo và các khối hạt
vi khuẩn (floc)
Nước sạch tầng
mặt được tái sử
dụng cho ao nuôi
Quạt nước
Ao nuôi Bio-floc
Pond
Nước thải giàu chất hữu
cơ từ ao nuôi cá bơm
sang ao xử lý biofloc
Hệ thống
mương nổi
Cấp nước bổ
sung, bù vào
lượng nước
bốc hơi
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
19
Tài liệu tham khảo
American Public Health Association (1989). Standard Methods for the examination of water
and wastewater. L. S. Clesceri, A. E. Greenberg and R. R. Trussell. Washington, Port
City Press: 10-31 - 10-35.
Avnimelech, Y. (1999). Carbon/nitrogen ratio as a control element in aquaculture systems.
Aquaculture 176(3-4): 227-235.
Avnimelech, Y. (2003). "Control of microbial activity in aquaculture systems: active
suspension ponds." World Aquaculture Dec: 19-21.
Boyd, C. E. (1995). Chemistry and efficacy of amendments used to treat water and soil
quality imbalances in shrimp ponds. In: Swimming through troubled water -
Proceedings of the special session on shrimp farming, San Diego, The World
Aquaculture Society.
Boyd, C. E. (2002). Understanding pond pH. Global Aquaculture Advocate June: 74-75.
Brune, D. E., G. Schwartz, et al. (2003). Intensification of pond aquaculture and high rate
photosynthetic systems. Aquacultural Engineering 28(1-2): 65-86.
Burford, M. A., P. J. Thompson, et al. (2003). Nutrient and microbial dynamics in high-
intensity, zero-exchange shrimp ponds in Belize. Aquaculture 219(1-4): 393-411.
DPI&F (2006). Australian Prawn Farming Manual - Health Management for Profit. Nambour,
Queansland Complete Printing Services.
Ebeling, J. M., M. B. Timmons, et al. (2006). Engineering analysis of the stoichiometry of
photoautotrophic, autotrophic, and heterotrophic removal of ammonia-nitrogen in
aquaculture systems. Aquaculture 257(1-4): 346-358.
Erler, D., P. Songsangjinda, et al. (2005). Preliminary investigation into the effect of carbon
addition on Growth, water quality and nutrient dynamics in Zero-exchange shrimp
(Penaeus monodon) culture systems. Asian Fisheries Science 18.
Schuenhoff, A. and L. Mata (2004). Seaweed provides both biofiltration, marketable product.
Global Aquaculture Advocate February: 62-63.
Funge-Smith, S. J. and M. R. P. Briggs (1998). Nutrient budgets in intensive shrimp ponds:
implications for sustainability. Aquaculture 164(1-4): 117-133.
Koo, K.H., Masser, M.P. & B.A. Hawcroft (1995) An in-pond raceway system incorporating
removal of fish wastes. Aquacultural Engineering 14:175-187
Hargreaves, J. A. (1998). "Nitrogen biogeochemistry of aquaculture ponds." Aquaculture
166(3-4): 181-212.
Hargreaves, J. A. (2006). Photosynthetic suspended-growth systems in aquaculture. In:
Aquacultural Engineering: Design and Selection of Biological Filters for Freshwater
and Marine Applications 34(3): 344-363.
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
20
Hari, B., B. Madhusoodana Kurup, et al. (2006). The effect of carbohydrate addition on water
quality and the nitrogen budget in extensive shrimp culture systems. Aquaculture
252(2-4): 248-263.
Jorgensen, N. O. G., N. Kroer, et al. (1994). Utilization of Dissolved Nitrogen by
heterptrophic bacterioplankton: Effect of Substrate C/N ratio. Applied and
Environmental Microbiology 60(11): 4124-4133.
Krom, M. D., J. Erez, et al. (1989). Phytoplankton nutrient uptake dynamics in earthen marine
fishponds under winter and summer conditions. Aquaculture 76(3-4): 237-253.
McIntosh, D., T. M. Samocha, et al. (2001). Effects of two commercially available low-
protein diets (21% and 31%) on water and sediment quality, and on the production of
Litopenaeus vannamei in an outdoor tank system with limited water discharge.
Aquacultural Engineering 25(2): 69-82.
Neori, A., T. Chopin, et al. (2004). Integrated aquaculture: rationale, evolution and state of the
art emphasizing seaweed biofiltration in modern mariculture. Aquaculture 231(1-4):
361-391.
Obaldo, L. G. and D. H. Ernst (2002). Zero-exchange shrimp production. Global Aquaculture
Advocate June: 56-57.
Pagand, P., J.-P. Blansheton, et al. (2000). The use of high rate algal ponds for the treatment
of marine effluent from a recirculating fish rearing system. Aquaculture Research 31:
729-736.
Palmer, P. J., Ed. (2005). Wastewater remediation options for prawn farms. Brisbane, DPI&F
Publications. 93pp.
Palmer, P. (2007) Sand worms trialled at prawn farm. Qld Aquaculture News 30:5
Pote, J. W., T. P. Cathcart, et al. (1990). Control of high pH in aquacultural ponds.
Aquacultural Engineering 9: 173-186.
Preston, N. P., C. J. Jackson, et al. (2000). Prawn farm effluent: composition, origin and
treatment. CSIRO. CRC & Fisheries Research & Development Corporation: 1-71.
Schneider, O., V. Sereti, et al. (2007). Kinetics, design and biomass production of a bacteria
reactor treating RAS effluent streams. Aquacultural Engineering 36(1): 24-35.
Van Wyk, P. (1999). Chapter 4 - Principles of Recirculating System Design, Harbour Branch
Oceanographic Institution: 59-99.
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
21
Kết hợp nuôi tôm Sú và ương giống cá biển trong ao không thay
nước
Hoàng Tùng1*, Michael Burke2, Bành Thị Quyên Quyên1 & Daniel Willett2
1 Trường Đại học Nha Trang, Việt Nam. Email: htunguof@gmail.com
2 Department of Primary Industries and Fisheries, Queensland, Australia.
TÓM TẮT
Mô hình nuôi tôm Sú mật độ thấp kết hợp với ương thâm canh con giống cá biển
bằng mương nổi trong ao đã được xây dựng và thử nghiệm. Kết quả cho thấy chất
lượng nước ao tốt và ổn định trong suốt 4 tháng nuôi không thay nước với nhiều đợt
ương giống cá Chẽm, cá Mú và cá Giò. Tôm nuôi đạt kích thước lớn và có hệ số sử
dụng thức ăn cao. Các khó khăn phát sinh như sự thất thoát của cá ương trong mương
vào ao, Artemia sinh khối không phát triển được trong ao chứa và trục trặc của hệ
thống cấp khí cũng được xác định và có hướng khắc phục. Nghiên cứu này đã đặt nền
móng quan trọng để xây dựng một mô hình nuôi kết hợp theo hướng bền vững, cho
phép tái sử dụng nước trong ao nuôi để loại trừ các tác động môi trường có thể của
nghề nuôi trồng thủy sản.
Từ khóa: nuôi kết hợp, cá biển, tôm, xử lý sinh học.
1. MỞ ĐẦU
Thử nghiệm ương con giống cá Chẽm (Lates calcarifer) cỡ lớn bằng mương nổi
SMART trong ao nuôi tôm đã được thực hiện thành công tại Khánh Hòa trong khuôn
khổ của Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi CARD VIE062/04
(Hoang et al. 2007). Mặc dù mục tiêu cơ bản của dự án là góp phần gia tăng sản lượng
con giống cá biển cỡ lớn và mở hướng tận dụng các ao nuôi tôm bị bỏ hoang đã đạt
được, việc xây dựng một mô hình nuôi không thay nước để hạn chế sự lây lan của
bệnh dịch và các tác động xấu có thể lên môi trường là hết sức cần thiết.
Khi cá Chẽm được ương trong mương nổi, chất thải của cá và thức ăn thừa được
dòng nước đưa ra khỏi mương để vào ao chứa. Việc loại bỏ các chất thải này dựa vào
các quá trình chuyển hóa vật chất tự nhiên nếu trong ao chứa không có các đối tượng
ăn mùn xác hữu cơ. Các muối dinh dưỡng hình thành sẽ được tảo sử dụng một phần.
Phần lớn còn lại sẽ tích tụ trong bùn đáy của ao. Hạn chế lớn nhất của mô hình này là
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
22
ở chỗ lượng chất thải từ mương vào ao không ổn định (mà thay đổi theo vụ ương)
khiến cho chất lượng nước trong ao dễ biến động do tảo phát triển mạnh rồi tàn lụi vì
thiếu muối dinh dưỡng.
Nghiên cứu này sử dụng Artemia để tận dụng các vật chất hữu cơ thải ra từ
mương nổi. Về lý thuyết, việc hình thành của một quần thể Artemia trong ao sẽ đem
lại nhiều lợi ích khác nữa. Nếu được nuôi dưỡng tốt thì cả Artemia trưởng thành và
con non đều sẽ được hệ thống nâng nước “bơm” vào trong mương. Cá ương nhờ thế
có thể tiếp cận được với một nguồn thức ăn sống bổ dưỡng với nhiều kích cỡ khác
nhau. Tuy nhiên, để có thể duy trì ổn định nguồn dinh dưỡng cho tảo phát triển (cũng
là thức ăn của Artemia), chúng tôi lựa chọn phương án thả nuôi tôm Sú (Penaeus
monodon) ở mật độ thấp. Khi được nuôi trong ao với mật độ từ 5 ÷ 15 con/m2, tôm
Sú thường lớn nhanh, đạt kích thước lớn khi thu hoạch và vì thế có thể bán với giá
cao. Đối tượng nuôi phụ này do đó có thể tạo thêm thu nhập cho người ương cá.
Lượng thức ăn nhỏ đưa xuống ao hàng ngày và chất thải của tôm sẽ giúp duy trì
nguồn dinh dưỡng nhất định cho tảo trong ao nuôi. Nhờ đó chất lượng nước sẽ được
cải thiện (Hoang et al. 2007b).
Báo cáo này trình bày thiết kế của mô hình và những kết quả ban đầu mà chúng
tôi đã thu được khi nuôi tôm Sú Penaeus monodon trong ao chứa kết hợp với ương
giống các đối tượng cá Chẽm (Lates calcarifer), cá Mú Malaba (Epinephelus
malabaricus) và cá Giò (Rachycentron canadum) sử dụng mương nổi là nhân tố sản
xuất chính.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1 Thiết kế mô hình
Thử nghiệm được tiến hành trong một ao nuôi ven biển có diện tích 2000-m2,
nằm cách đầm Nha Phu (Khánh Hòa) khoảng 1 km (Hình 1). Bạt nhựa được sử dụng
để tạo vách ngăn giữa ao, hình thành dòng chảy tròn trong ao khi vận hành máy quạt
nước công suất 2 HP của Đài Loan. Quạt này được vận hành 4 giờ mỗi ngày, từ 05:00
÷ 07:00 và từ 15:00 ÷ 17:00. Sáu mương nổi SMART-1 (thể tích 3 m3/mương) và một
mương nổi SMART-2 (thể tích 6 m3) được đặt ở một đầu ao (Hình 2). Cá được ương
trong các mương này lên kích thước lớn hơn. Tôm Sú và Artemia được nuôi trong ao
chứa. Lưới chắn mặt mương được dùng để ngăn ngừa cá Chẽm ương trong mương
xâm nhập vào trong ao trở thành địch hại cho tôm nuôi.
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
23
Hình 1: Điểm thử nghiệm. Ao thử nghiệm ở phía bên trái (dấu mũi tên)
Hình 2: Mương nổi SMART-1 (trái) và hoạt động cải tạo ao (phải)
Trước khi tiến hành thử nghiệm, ao chứa được rút cạn nước và phơi nắng 7 ngày.
Tiếp theo vôi nông nghiệp được rải đều mặt đáy ao với liều lượng 7 kg/100 m2. Sau
đó nước được cấp vào ao từ mương dẫn và để lắng 3 ngày trước khi xử lý bằng
chlorine (25 ppm). Một tuần sau tiến hành kéo dây xích sắt trên nền đáy để khuấy đảo,
phát tán muối dinh dưỡng vào trong cột nước, giúp tảo phát triển. Sau một tuần nữa
thả Artemia nauplii vào ao với mật độ 5 cá thể/L liên tục trong 4 tuần (mỗi tuần 1 lần).
Cùng lúc đó thả giống tôm Sú. Cho tôm ăn thức ăn công nghiệp (của Grobest) từ tuần
thứ 2 trở đi.
2.2 Nguồn tôm cá giống
Cá Chẽm giống cỡ 20 mm chiều dài toàn thân được mua và vận chuyển trong túi
PE đóng oxy với mật độ 500 con/túi (5 L). Cá giống khỏe và không có bất cứ dấu hiệu
bất thường gì. Trước khi vận chuyển, cá đã được lọc phân cỡ để đảm bảo sự đồng
đều. Thời gian vận chuyển khoảng 1 giờ. Cá được thuần cho quen với nhiệt độ nước
ao trong khoảng 30 phút rồi thả vào mương nổi.
Cá Mú Malaba (Epinephelus malabaricus, chiều dài tổng cộng 5 cm) và cá Giò
(Rachycentron canadum, chiều dài tổng cộng từ 2 ÷ 10 cm) được sản xuất nhân tạo ở
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
24
miền Cửa Lò và Cát Bà và vận chuyển nhiều đợt bằng đường bộ vào Nha Trang. Mật
độ vận chuyển là 2.000 con/bể (500 L). Nước trong bể vận chuyển được duy trì trong
khoảng 22 ÷ 23oC và sục khí liên tục. Trong suốt quá trình vận chuyển (24 giờ) không
tiến hành thay nước. Không cho cá ăn 24 giờ trước khi vận chuyển.
Tôm Sú giống PL15 (Penaeus monodon) mua từ trại giống địa phương được kiểm
tra bệnh bằng phương pháp PCR. Kết quả cho thấy tôm mạnh khỏe, không nhiễm
bệnh. Tôm giống được vận chuyển về điểm thử nghiệm trong các túi nhựa đóng oxy
với mật độ 1,000 PLs/túi (2 L). Ban đầu thử nghiệm sử dụng trứng bào xác của
Artemia thu từ Great Lake (USA) để làm nguồn cung cấp nauplii thả vào ao nuôi cho
2 lần thả đầu tiên. Tuy vậy, sau đó thử nghiệm chuyển sang dùng dòng Artemia Vĩnh
Châu (Việt Nam) cho 2 đợt tiếp theo vì nghi ngờ dòng Great Lake không thích ứng
được với điều kiện của ao nuôi. Với cả 2 dòng, trứng bào xác được tẩy trùng và làm
mỏng vỏ bằng chlorine 200 ppm trước khi ấp. Sau khi nở 24 giờ, Artemia nauplii
được thu và thả đều vào trong ao.
Hình 3: Thu mẫu phân tích chất lượng nước (trái) và cho cá ăn (phải)
2.3 Quan trắc chất lượng nước
Các yếu tố môi trường quan trọng như nhiệt độ nước, độ pH, hàm lượng oxy hòa
tan (DO) được đo đạc 2 lần/ngày vào lúc 06:00 ÷ 07:00 và 14:00 ÷ 15:00. Do không
tiến hành thay nước trong toàn bộ thời gian thử nghiệm nên độ mặn không thay đổi
nhiều và chỉ được kiểm tra hai ngày một lần. Hàng tuần, tiến hành thu mẫu nước ao
(Hình 3) và phân tích hàm lượng NH3-N, NO2-, NO3- và PO43- bằng các bộ phân tích
nhanh (do Đức sản xuất) thương dùng trong nuôi cá cảnh.
2.4 Quản lý, chăm sóc và kiểm tra tốc độ tăng trưởng
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
25
Cá giống được cho ăn nhiều lần trong ngày từ 06:30 đến 17:30, mỗi lần cách
nhau 2 giờ. Thức ăn là loại viên của INVE (Thailand) cho cá biển và GROBEST
(Vietnam) cho tôm. Thức ăn viên, chuyên dụng cho cá biển của INVE (kích thước hạt
800 ÷ 1200 µm) chỉ được dùng trong tuần đầu tiên do lúc này cá đòi hỏi thức ăn có
kích thước nhỏ, đều và chìm chậm. Với cá Chẽm, đây là loại thức ăn mà cá giống đã
quen sử dụng khi còn trong bể ương tại trại sản xuất giống. Thức ăn viên của
GROBEST (loại dành cho tôm, cỡ 2 ÷ 3 mm) được dùng cho cá ăn từ tuần thứ 2 trở đi
(Hình 3). Khoảng nửa giờ trước khi cho cá ăn, trộn thức ăn viên với vitamin C và áo
bằng dầu mực. Khẩu phần ăn hàng ngày vào khoảng 10 ÷ 18% khối lượng thân của cá
và được điều chỉnh theo nhu cầu thực của cá giống cũng như điều kiện thời tiết. Kích
thước, khối lượng thân của cá khi bắt đầu và kết thúc thử nghiệm được đo đạc và ghi
chép lại. Để theo dõi tốc độ tăng trưởng của cá, định kỳ thu mẫu ngẫu nhiên 30 con
hàng tuần.
Tôm được cho ăn 2 lần/ngày vào lúc 09:00 và 18:00. Khẩu phần ăn hàng ngày là
10% sinh khối tôm nuôi trong tháng đầu và 5% cho 3 tháng còn lại. Thức ăn viên cho
tôm được rải đều khắp ao kết hợp với kiểm tra hai nhá cho ăn. Sức khỏe của tôm được
theo dõi bằng cách kiểm tra tôm trong nhá cho ăn và khi tôm đã lớn bằng chài.
3. KẾT QUẢ
3.1 Vận chuyển cá
Với cá Chẽm việc vận chuyển không có gì khó khăn do quãng đường vận chuyển
từ trại giống đến nơi thử nghiệm ngắn. Do con giống cá Mú Malaba và cá Giò không
có ở địa phương chúng tôi đã tiến hành vận chuyển cá giống từ Cửa Lò và Cát Bà về
Nha Trang. Độ dài của quãng đường là 1.000 – 1.400 km và phải mất đến 24 giờ hoặc
hơn để đưa cá về đến nơi. Nhìn chung, kết quả vận chuyển cá Mú Malaba tốt hơn cá
Giò rất nhiều. Tỉ lệ chết trong vận chuyển thấp hơn 5%, chủ yếu là do cá đói ăn nhau
trong quá trình vận chuyển với mật độ cao. Cá bắt mồi ngay khi về đến địa điểm thử
nghiệm.
Mật độ vận chuyển (2.000 con cá Mú 4 cm hoặc cá Giò 5 cm, 1.000 con cá Giò
10 cm trong bể chứa 400 L nước biển sạch) đã áp dụng tỏ ra phù hợp. Mặc dù không
được cho ăn 24 giờ trước khi vận chuyển, cá vẫn “nôn” thức ăn chưa tiêu hóa hết vào
nước bể và cùng với chất thải của chúng làm cho chất lượng nước trong bể vận
chuyển xấu đi. Hiện trạng này cho thấy cần phải thiết kế các bể vận chuyển có trang
bị hệ thống lọc đơn giản để có thể nhanh chóng loại bỏ các chất thải này. Probiotics
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
26
cũng nên được sử dụng để loại trừ NH3. Nhiệt độ nước được duy trì trong khoảng 22
÷ 24oC tỏ ra rất thích hợp với cá Mú Malaba và cá Giò giống. Cá Giò nhạy cảm với
nhiệt độ nước và hàm lượng oxy hòa tan hơn là cá Mú Malaba. Chúng trở nên kém
linh hoạt và có tỉ lệ hao hụt cao hơn khi nhiệt độ giảm xuống cỡ 20oC. Chúng tôi đã
thử vận chuyển cá 20 ngày tuổi (có chiều dài toàn thân khoảng 2 cm) ở hai mức nhiệt
độ 22 ÷ 24oC và 26 ÷ 27oC. Kết quả cho thấy toàn bộ cá vận chuyển ở mức nhiệt độ
thấp hơn đã chết sau khoảng 3 ÷ 4 giờ. Ở mức nhiệt độ cao hơn, tỉ lệ sống là 42% sau
24 giờ vận chuyển nhưng cá rất yếu, có thể do những tổn thương cơ học và đói.
3.2 Kết quả ương cá giống
Tổng cộng có 7 đợt ương đã được thực hiện (2 cho cá Chẽm, 2 cho cá Mú và 3
cho cá Giò) trong thời gian thử nghiệm là 4 tháng. Cá phát triển tốt trong mương
nhưng tỉ lệ sống có khác biệt lớn giữa các đối tượng (Bảng 1, 2). Cũng giống như các
thử nghiệm trước đã thực hiện, cá Chẽm giống 2-cm đạt kích thước 4 ÷ 5 cm chỉ sau 2
tuần và 6 ÷ 8 cm sau 3 tuần ở nhiệt độ nước 29 ÷ 31oC. Tỉ lệ sống thay đổi tùy theo
đợt ương, đạt 51 đến 78 % và có liên hệ mật thiết với chất lượng và độ đồng đều của
cá giống. Cá Chẽm dùng cho đợt ương thứ 2 được mua từ RIA3 không được đều về
kích thước. Vì thế tỉ lệ hao hụt trong tuần đầu tiên là khá lớn khiến cho tỉ lệ sống của
toàn đợt chỉ đạt 51%, thấp hơn so với mức kỳ vọng.
Bảng 1: Kết quả ương cá Chẽm và cá Mú Malaba trong mương nổi
Cá Chẽm Cá Mú Malaba Các thông số
Đợt 1 Đợt 2 Đợt 1 Đợt 2
Cỡ thả (cm) 2,0 ± 0,1 2,3 ± 0,8 5,2 ± 0,4 6,3 ± 0,5
Cỡ thu hoạch (cm) 6,2 ± 1,1 8,4 ± 1,0 11,0 ± 0,7 6,9 ± 0,4
Thời gian ương (day) 23 41 41 10
Tốc độ tăng trưởng
(cm/ngày)
0,182 0,149 0,141 0,086
Số lượng cá thả 30,000 20,000 2,000 5,000
Số lượng cá thu 23,400 10,202 1,921 4,960*
Tỉ lệ sống (%) 78,0 51,0 96,0 99,2*
*số liệu vào ngày thứ 7 của đợt ương, 2 ngày trước khi cá chết do bão làm hỏng hệ thống dẫn khí
vào ngày 05/08/2007
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
27
Bảng 2: Kết quả ương cá Giò
Các thông số Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3
Cỡ thả Chiều dài (cm)
Khối lượng (g)
5,1 ± 0,3 10,9 ± 1,1
7,7 ± 2,1
9,0 ± 1,0
Cỡ thu hoạch Chiều dài (cm)
Khối lượng (g)
10,2 ± 1,6
4,5 ± 2,1
51,0 ± 16,1
12,3 ± 1,5*
Thời gian ương (ngày) 16 44 10
Số cá thả 4,000 1,000 1,500
Số cá thu 2,080 582 1,456*
Tỉ lệ sống (%) 52,0 58,2 97,1*
*số liệu vào ngày thứ 7 của đợt ương, 2 ngày trước khi cá chết do bão làm hỏng hệ thống dẫn khí
vào ngày 05/08/2007
Hình 4: theo chiều kim đồng hồ từ trái qua (a) cho cá Giò giống ăn, (b) cá bắt mồi
mạnh, (c) cá Giò khi thu hoạch và (d) cá Mú Malaba khi thu hoạch
Cá mú Malaba phát triển rất tốt trong mương nổi. Đợt ương thứ 2 cho thấy mật
độ ương có thể tăng lên cỡ 5.000 ÷ 10.000 con/mương SMART-1 nếu kinh phí đầu tư
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
28
sản xuất không bị hạn chế. Cá làm quen rất nhanh với thức ăn công nghiệp, đặc biệt là
thức ăn cho tôm của Grobest sau một tuần được cho ăn bằng thức ăn viên (có giá rất
cao) của INVE. Tỉ lệ sống cao và sức khỏe tốt của cá giống khi thu hoạch cho thấy
chúng ta có thể ương cá Mú giống bằng thức ăn viên sẵn có trên thị trường và có thể
giảm chi phí ương vì giá của thức ăn cho tôm của Grobest chỉ bằng 1/5 giá thức ăn
viên cho cá biển của INVE. Loại này, tuy vậy, vẫn rất cần thiết cho cá trong tuần đầu
tiên vì có hàm lượng chất dinh dưỡng cao, đồng đều về kích cỡ và có độ nổi tốt.
Kết quả thu được với cá Giò kém hơn so với cá Chẽm và cá Mú. Cá bắt mồi tốt,
lớn nhanh. Tuy vậy tỉ lệ sống không cao, đặc biệt là với 2 đợt ương đầu. Quan sát cho
thấy cá có thể đã bị nhiễm ký sinh trùng (gọi là “ký sinh trung mùa xuân”, Nguyễn
Quang Huy - RIA1) do chúng đã bị nhiễm tại trại sản xuất giống trước khi chuyển về
địa điểm thử nghiệm. Cả cá sống và cá chết đều đã được chuyển đến phòng thí
nghiệm của Bộ môn Bệnh học Thủy sản (Trường Đại học Nha Trang) để kiểm tra.
Tuy nhiên, không có kết luận rõ ràng về nguyên nhân gây chết hoặc tác nhân gây
bệnh. Chúng tôi đã tiến hành tắm cho cá bằng nước ngọt (theo hướng dẫn của ông
Nguyễn Quang Huy – RIA1) và hạn chế được một phần tỉ lệ hao hụt của cá. Cá Giò
ương vẫn chết rải rác hàng ngày. Những con cá nhiễm bệnh bơi lội chậm chập trên
mặt nước, bỏ ăn và mang của chúng bị thối rữa. Ngoài ra không có dấu hiệu gì khác.
Cá chết sau khoảng 3 – 4 ngày từ khi có dấu hiệu bị bệnh và rất gầy do bỏ ăn.
Hình 5: Cá Giò giống chết có mang bị thối rữa
Các đợt ương còn cho thấy cá Giò rất nhạy cảm với hàm lượng oxy hòa tan của
nước. Sức khỏe của cá có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng hoặc cá có thể chết chỉ sau
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
29
một thời gian rất ngắn được lưu giữ trong môi trường có hàm lượng oxy hòa tan thấp,
i.e. khoảng 5 phút trong xô nhựa 20 L có chứa 150 con cá giống. Vì thế mà việc vận
chuyển cá giống đến và từ mương nổi là rất khó khăn đặc biệt sau thời gian ương khi
kích thước của cá đã lên đến 15 ÷ 25 cm. Việc ương giống cá Giò vì thế nên được tiến
hành ở các vũng vịnh ven biển, có địa hình được che chở khỏi sóng gió. Điều này sẽ
giúp loại trừ chi phí chuẩn bị, cải tạo ao và chi phí xử lý và duy trì chất lượng nước.
Nếu sử dụng mương nổi SMART-2 (tự nổi, thể tích hoạt động 6 m3; Hoang & Burke
2007) thì ta có thể kéo cả mương nổi bằng thuyền nhỏ đến địa điểm nuôi thương
phẩm và vận chuyển cá một cách dễ dàng vào các lồng nuôi. Quan trọng hơn, cá
giống luôn được giữ trong môi trường nước, không bị stress và làm quen dần với sự
thay đổi môi trường sống. Tuy nhiên, sử dụng mương nổi để ương cá từ cỡ 4 cm lên
cỡ lớn hơn vẫn là một giải pháp khá hiệu quả.
3.3 Kết quả nuôi tôm Sú
Tôm nuôi đã được thu hoạch sau 114 ngày nuôi. Tổng lượng tôm thu được là 286
kg. Tôm có kích cỡ lớn và rất đều, trung bình 29,2 g/con. Kết quả này tốt hơn nhiều
so với các trại nuôi xung quanh. Trong thời gian khoảng vài năm trở lại đây để có thể
nuôi tôm đạt kích thước này sau 4 tháng là rất khó. Nhờ kích thước lớn, tôm thu
hoạch được có giá bán cao – khoảng 7,86 đô la Úc/kg. Tuy vậy, tỉ lệ sống chỉ đạt
32,6%, kém nhiều so với kỳ vọng (i.e. 75 – 80% hoặc 700 kg) chủ yếu là do tôm bị cá
Chẽm thoát ra từ mương ăn thịt.
Hình 6: Tôm Sú nuôi trong ao chứa một tháng trước khi thu hoạch (trái) và tại
thời điểm thu hoạch (phải)
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
30
Hình 7: Cá Chẽm (Lates calcarifer) giống thoát ra từ mương nổi đã trở thành địch hại
cho tôm nuôi trong ao
Khoảng 120 con cá Chẽm cỡ lơn (110 – 340 g, những con nhỏ hơn không đếm)
đã bị bắt tại thời điểm thu hoạch. Ngoài ra, trong thời gian thử nghiệm chúng tôi đã
bắt hơn 100 con từ ao nuôi bằng chài. Tiến hành mổ mẫu 10 con cho kết quả 60% có
xác tôm trong dạ dày (Hình 7). Số còn lại ruột đầy thức ăn viên cho tôm. Thử nghiệm
đã sử dụng tổng cộng 344 kg để nuôi tôm. Hiệu suất sử dụng thức ăn (FE) vì thế đạt
0,83. Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) của tôm, nếu có thể tính được sẽ thấp hơn 1,2
do trong ao còn có cá và một số sinh vật nhỏ khác.
3.4 Phân tích tài chính
Ngoài mục đích ổn định môi trường nuôi thì lợi nhuận thu được từ hệ thống nuôi
kết hợp này cũng rất quan trọng, đặc biệt khi so sánh với nuôi đơn tôm hoặc chỉ ương
giống cá biển trong ao. Bản phân tích tài chính này được thực hiện trên cơ sở chi phí
thực tế của thử nghiệm và giá trị của cá giống trên thị thường tại thời điểm thu hoạch.
Cơn bão đêm ngày 4 rạng sáng ngày 5/08/2007 vào Nha Trang đã làm đứt ống dẫn
khí từ máy thổi trung tâm đến mương nổi khiến toàn bộ cá giống đang được ương
trong mương chết vì thiếu oxy hòa tan trước khi sự cố này được phát hiện. Sự cố do
thiên tai gây ra này đã ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận kỳ vọng từ mô hình nuôi. Vì thế,
chúng ta có thể xem xét 3 tình huống khác nhau.
Với tình huống 1, giả sử cá giống ương trong mương được bán ngay trước khi
xảy ra sự cố ngày 05/08/2007 thì lợi nhuận của cả đợt sẽ là A$ 2.737 cho 2.000-m2 ao
hoặc tương đương với A$ 27.374 nếu qui đổi cho 1 ha ao với 2 đợt sản xuất hay A$
41.061 với 3 đợt sản xuất một năm. Trong tình huống thứ 2, nếu giá trị của số cá bị
chết do sự cố không được tính, số tiền lỗ sẽ là A$ 1.699 cho đợt sản xuất 4 tháng. Tuy
vậy, nếu việc ngăn chặn cá giống từ mương xâm nhập vào ao được thực hiện một
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
31
cách hiệu quả, sản lượng tôm thu hoạch được vào cuối vụ sẽ là từ 500 ÷ 700 kg, tương
đương với giá trị khoảng A$ 3.930 ÷ 5.502. Phần gia tăng từ nguồn thu từ tôm nuôi sẽ
là A$ 1.682 ÷ 3.254, hoàn toàn có thể bù cho sự cố của cá ương và đem lại một lợi
nhuận nhỏ.
Bảng 2: Phân tích tài chính cho mô hình nuôi với thời gian 4 tháng
Hạng mục Số lượng Giá đơn vị
(A$)
Tổng (A$)
Chi phí vận hành thực tế
Tôm giống 30.000 con 0,0021 64,3
Thức ăn cho tôm 344 kg 1,57 540,6
Cá giống
Chẽm
Mú Malaba
Giò
50.000 con
7.000 con
6.500 con
2,857,0
3,000,0
3,214,3
Thức ăn cho cá
INVE
Grobest*
25
67
15,71
1,57
392,8
105,2
Trứng bào xác Artemia 3 kg 80,00 240,0
Cải tạo ao 400,0
Điện, xăng dầu 4 tháng 200,00 800,0
Công nhân 4 tháng 200,00 800,0
Chi khác 300,0
Thuê ao 4 tháng 100,0 400,0
Khấu hao hệ thống mương 4 months 200,0 800,0
TỔNG CHI 13.714,3
Thu nhập
Cá Chẽm 5.529,0
Cá Mú Malaba 5.109,6
Cá Giò 3.565,1
Tôm Sú 2.248,0
TỔNG THU 16.451,7
Lợi nhuận/4 tháng/2.000 m2 2.737,4
Lợi nhuận qui đổi cho 1 ha/năm với 2 vụ sản xuất 27.374,1
Lợi nhuận qui đổi cho 1 ha/năm với 3 vụ sản xuất 41.061,2
Sau cùng, chúng ta thấy rằng thử nghiệm này mới chỉ là bước đầu tiên để kiểm
chứng mô hình nuôi kết hợp không thay nước. Qua thử nghiệm các hạn chế đã được
phát hiện và nếu thực hiện lại, chắc chắn sẽ được khắc phục một cách hiệu quả, để
đảm bảo lợi nhuận của hệ thống. Nói như thế là vì các sự cố như cá Chẽm giống từ
mương xâm nhập vào ao hay hư hỏng của đường ống khí do bão hoàn toàn có thể
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
32
ngăn chặn được khi triển khai mô hình này ở qui mô thương mại do hệ thống nuôi sẽ
được thiết lập một cách chắc chắn hơn. Hệ thống nuôi kết hợp không nay nước này
chắc chắn là một trong những lựa chọn mà người nuôi tôm hoặc ương cá ở Việt Nam
có thể xem xét và ứng dụng. Trong thời gian tới cần có những nghiên cứu bổ sung để
hoàn thiện nó.
3.5 Chất lượng nước ao nuôi
Hệ thống nuôi kết hợp không thay nước này đã được thiết kế để tăng cường tính
ổn định của môi trường nuôi nơi mà các vật chất được tuần hoàn nhờ vào các quá
trình tự nhiên và sinh học. Thực tế cho thấy mục tiêu này là khả dĩ vì cả tôm và cá
nuôi đều phát triển tốt. Thêm vào đó, hoạt động quan trắc môi trường đã hỗ trợ thêm
cho nhận định này (Bảng 3).
Thất vọng duy nhất đó chính là dự kiến nuôi sinh khối Artemia trong ao chứa
không thực hiện được. Trong nhiều nguyên nhân có thể nghĩ đến thì khả năng Artemia
nauplii bị cạnh tranh hoặc tiêu diệt bởi copepods là khá cao. Do sản phẩm chính của
hệ thống nuôi kết hợp này là con giống cá biển, việc phát triển quần thể Artemia trong
ao nuôi là hết sức quan trọng để vừa cung cấp thêm thức ăn sống cho cá, vừa giúp
chuyển đổi vật chất nhanh và dễ dàng hơn. Ở các thử nghiệm tiếp theo, cần thiết phải
tiến hành thả giống Artemia ngay sau khi xử lý nước ao xong và bơm tảo nuôi sẵn vào
ao để tạo màu nước, làm thức ăn cho chúng.
Bảng 3: Chất lượng nước ao trong thời gian thử nghiệm. ND: không phát hiện
được
Thông số Khoảng biến động TB ± S.D.
Nhiệt độ (oC) 26,4 ÷ 36,6 32,4 ± 2,1
pH 7,6 ÷ 8,6
Biến động pH trong ngày 0,1 ÷ 0,7
DO (mg/L) lúc 7 giờ sáng 3,3 ÷ 6,5 4,9 ± 0,8
DO (mg/L) lúc 2 giờ chiều 4,2 ÷ 14,8 9,7 ± 1,7
Độ kiềm (mg CaCO3/L) 90 ÷ 110 96 ± 7,0
Độ trọng Secchi (cm) 27 ÷ 55 36,6 ± 7,2
Độ măn (ppt) 28 ÷ 31 29,2 ± 1,2
NH3-N (mg/L) ND ÷ 0,2
NO2- (mg/L) ND
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
33
Mặc dù thiếu Artemia trong chuỗi thức ăn dự kiến, chất lượng nước ao nuôi vẫn
tốt và ổn định (Bảng 3). Biến động trong ngày của độ pH chỉ từ 0.2 đến 0.7, là điều
kiện lý tưởng cho tôm nuôi (MPEDA/NACA 2003). Có được kết quả này một phần là
do lượng dinh dưỡng từ mương vào ao và từ chất thải của tôm nuôi hay thức ăn thừa
là thấp. Các thử nghiệm trước của dự án đã cho thấy thức ăn được cá sử dụng rất hiệu
quả trong mương nổi nhờ vào thiết kế của mương và mật độ ương nuôi cao (Hoang et
al. 2007a,b). Mật độ và sinh khối thấp của tôm nuôi, kéo theo lượng thức ăn không
nhiều, cũng giúp ổn định môi trường. Các thông số thu thập được về độ trong cho
thấy tảo trong ao phát triển ở mức độ vừa phải và khá ổn định, giúp hấp thụ cả NH3-N
và NO2-. Cần lưu ý là trong suốt cả đợt thử nghiệm nước ao không hề được thay. Vì
thế có thể gọi hệ thống nuôi này là hệ thống nuôi không thay nước.
3.6 Các vấn đề quản lý
Mặc dù sự cố bão đã làm giảm đáng kể mức độ thành công của thử nghiệm,
nghiên cứu này đã thiết lập một bước quan trọng cho sự phát triển của mô hình kết
hợp (nuôi tôm ở mật độ thấp trong ao và ương thâm canh cá biển trong ao) đầy hứa
hẹn này. Thử nghiệm đã đem lại nhiều bài học và các hạn chế đều có thể khắc phục
được khi mô hình này được ứng dụng:
• Chất lượng của cá giống: cần khỏe mạnh, không nhiễm mầm bệnh và
tương đối đồng đều về kích thước. Tỉ lệ sống thấp hơn dự kiến của cá
Chẽm ở đợt ương thứ 2 hay hiện tượng cá Giò chết nhiều trong 2 đợt
ương đầu của thử nghiệm này là những minh chứng rõ ràng.
• Định kỳ phòng bệnh cho cá: một trong những thuận lợi của việc sử dụng
mương nổi để ương giống cá biển chính là ở khâu phòng bệnh và cần phải
được phát huy. Việc tắm nước ngọt cho cá Giò hay cá Mú có thể được
thực hiện một cách dễ dàng bằng cách bơm nước ngọt vào mương thay vì
bắt cá ra tắm trong bể chứa nước ngọt để hạn chế tối đa các tổn thương
hay stress cho cá. Đặc biệt với cá Mú khi được bắt ra khỏi mương bằng
vợt, vây lưng của con này có thể làm mù mắt những con khác làm giảm
đáng kể giá trị thương phẩm của cá (người mua không mua cá bị hỏng
mắt). Tương tự, với cá Giò được bắt ra khỏi mương để tắm thường có
biểu hiện bị stress.
• Hạn chế các rủi ro: cần có biện pháp để ngăn ngừa cá ương trong mương
thất thoát vào ao chứa nước hoặc hư hỏng của hệ thống cấp khí. Cá Chẽm
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
34
có thể bơi ngược dòng và thoát ra khỏi mương ngay tại vị trí của các ống
nâng nước. Ta chỉ cần bịt các ống này bằng lưới là có thể đảm bảo cá
không thoát ra. Bất cứ hư hỏng nào của hệ thống cấp khí đều đe dọa
nghiêm trọng sự tồn tại của cá ương trong mương. Cơn bão đầu tháng 8
đã tác động vào đúng điểm yếu nhất của hệ thống là đoạn nối từ ống cứng
PVC chạy trên bờ với ống nhựa mềm dẫn ra mương. Gió mạnh vào lúc
sau nửa đêm đã đẩy giàn mương ra xa hơn và kéo đứt mối nối, khiến cho
không khí không được chuyển vào mương làm cá chết ngạt. Cán bộ kỹ
thuật, do ẩn nấp trong nhà, đã không thể can thiệp kịp thời.
4. PHÁC THẢO QUI TRÌNH
Phác thảo qui trình này được xây dựng như là một hướng dẫn căn bản cho các cá
nhân quan tâm muốn ứng dụng hoặc áp dụng mô hình này. Các chi tiết kỹ thuật cần
phải phải được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện sản xuất ở từng địa phương và
khả năng đầu tư của cơ sở:
• Kích thước ao: 2.000 m2 với độ sâu tối thiểu là 1,2 m. Độ sâu của mực
nước trong ao càng lớn càng tốt. Dùng bạt plastic để phân chia ao làm hai
phần tạo dòng chảy trong ao.
• Mương nổi: Dùng mương SMART-1 (3 m3, có giàn phao nâng đỡ) hoặc
SMART-2 (6 m3, tự nổi) (Hoang & Burke 2007). Tổng thể tích hoạt động
của cả hệ thống mương cỡ 30 ÷ 40 m3. Dùng một máy nén khí trung tâm
công suất 3 sức ngựa để vận hành hệ thống ống nâng nước. Các biện pháo
cần thiết phải được thực hiện để đảm bảo tính chắc chắn của hệ thống ống
cấp khí và phải có hệ thống báo động khi mất khí.
• Chuẩn bị ao: tương tự như qui trình cải tạo ao nuôi tôm. Khi đã cấp nước
đầy ao thì xử lý nước bằng chlorine (15 ppm). Nên dùng phân vô cơ để
giúp tảo phát triển và thả Artemia xuống ngay sau đó. Có thể dùng một túi
lưới lớn để bao bọc tòan bộ hệ thống mương nhằm ngăn ngừa cá giống
thoát ra ngoài ao và trở thành địch hại cho tôm nuôi.
• Thả và nuôi tôm: Mật độ thả tôm giống là 15 con/m2. Cần thả tôm giống
trước khi ương cá càng lâu càng tốt để giảm thiểu tỉ lệ hao hụt ngay cả khi
cá giống thoát được khỏi mương để vào ao vì tôm lớn lẩn tránh khỏi địch
hại dễ hơn nhiều. Trong 2 tuần đầu không cần cho ăn. Từ tuần thứ 3 trở đi
cho tôm ăn khoảng 5% khối lượng thân/ngày. Tôm nuôi có thể đạt 22 g
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
35
sau 3 tháng và trên 30 g sau 4 tháng. Với một ao nuôi 2.000-m2 sản lượng
có thể đạt 500 đến 700 kg tôm nếu chất lượng nước được đảm bảo và địch
hại được kiểm soát.
• Ương cá biển trong mương: các đối tượng như cá Chẽm hoặc cá Mú
Malaba có thể được ương trong mương từ cỡ 1.5 cm với cá Chẽm và 3.0
cm chiều dài toàn thân với cá Mú. Nếu ương cá Giò thì cần phải xây dựng
và thử nghiệm trước kế hoạch vận chuyển con giống cỡ lớn ra lồng nuôi
thương phẩm vì việc này tương đối khó khăn do cá rất nhạy cảm với tổn
thương cơ học và hàm lượng oxy hòa tan thấp. Mật độ ương từ 3.000 ÷
5.000 con/m3 với cá CHẽm; 1.800 ÷ 3.000 con/m3 với cá Mú Malaba. Mật
độ ương ban đầu với cá Bớp 4 – 5 cm có thể là 1.000 con/m3 nhưng cần
phải được giảm dần (đặc biệt là về sinh khối) do cá phát triển rất nhanh,
i.e. tăng 0.6 ÷ 1.0 cm/ngày. Trong 7 ngày ương đầu, cho cá ăn thức ăn
viên của INVE (800 ÷ 1,200 µm). Khoảng 3 ngày sau bắt đầu tập cho cá
ăn thức ăn tôm của GROBEST (2 mm) và cho cá ăn thuần túy thức ăn này
từ tuần thứ 2 trở đi. Trước khi ăn trộn thức ăn với Vitamin C và dầu mực
(20 mL cho mỗi kg thức ăn) và để yên 30 phút trong không khí cho khô
mặt lại.
• Quản lý chất lượng nước: các thông số quan trọng như DO, pH, nhiệt độ,
độ trong và độ mặn cần được quan trắc hàng ngày. Hàng tuần kiểm tra
NH3-N, độ kiềm và NO2-. Mỗi tuần sử dụng một túi 500 g chế phẩm vi
sinh Pondplus để duy trì chất lượng nước ao.
• Quản lý hệ thống: Cố gắng duy trì thường xuyên hoạt động ương cá biển
trong mương. Điều này giúp đảm bảo ổn định lượng dinh dưỡng từ
mương cung cấp cho ao, nhờ vậy ổn định mức độ phát triển của tảo. Cần
tập trung vào khâu nuôi tôm vì kinh nghiệm cho thấy đây là phương pháp
hiệu quả để quản lý chất lượng nước trong ao nuôi do hoạt động ương cá
thường không liên tục do nguồn cung cấp hoặc nhu cầu của thị trường hay
thay đổi.
• Hỗ trợ kỹ thuật: có thể tìm kiếm từ các chuyên gia nuôi trồng thủy sản ở
địa phương cho phù hợp với đối tượng nuôi mà bạn lựa chọn. Những vấn
đề liên quan đến mương nổi và nguyên lý hoạt động của mô hình nuôi kết
hợp này có thể tham khảo ý kiến của Queensland Department of Primary
Báo cáo Kỹ thuật số 5, Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi – CARD VIE 062/04
36
Industries & Fisheries tại Australia hoặc Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn hay Trường Đại học Nha Trang tại Việt Nam.
LỜI CẢM ƠN
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Trung tâm Khuyến ngư Khánh Hòa (KFEC) đã
nhiệt tình giúp đỡ và cho phép chúng tôi sử dụng cơ sở vật chất để thực hiện thử
nghiệm này. Xin chân thành cảm ơn các cá nhân KS. Hùynh Kim Khánh (KFEC), KS.
Ngô Văn Mạnh (Bộ môn Nuôi Hải sản), bạn Nguyễn Hồng Hiếu (N45, Trường Đại
học Nha Trang), TS. Đỗ Thị Hòa và các cán bộ tại Bộ môn Bệnh học Thủy sản
(Trường ĐH Nha Trang) đã giúp đỡ triển khai các hoạt động của dự án. Dự án này
chắc chắn sẽ không thể được thực hiện một cách hiệu quả nếu thiếu sự hỗ trợ liên tục
của Queensland Department of Primary Industries & Fisheries (Australia), Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, Văn phòng Chương trình CARD và Trường Đại học
Nha Trang.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hoang T., Luu T. P. & Huynh K.K. (2007) Trials of advanced nursing of barramundi
Lates calcarifer in in-pond floating raceways. Journal of Fisheries Science and
Technology 01/07: 12-18 (in Vietnamese).
Hoang T., Huynh K.K., Banh T.Q.Q, Nguyen D.M & Burke M. (2007) Use of
floating raceways for marine finfish fingerling production and potential for the
development of an integrated farming system. In: Proceeding of IMOLA
Symposium, Hue 19 – 20 April, 2007, pp 1 – 14. Hue University of Agriculture
and Forestry.
Hoang T. & Burke M. (2007) Floating raceways provide options for marine fish
fingerling production. Global Aquaculture Advocate Jul-Aug: 54-55.
MPEDA/NACA (2003) Shrimp Health Management Extension Manual. Prepared by
the Network of Aquaculture Centres in Asia-Pacific (NACA) and Marine
Products Export Development Authority (MPEDA), India, in cooperation with
the Aquatic Animal Health Research Institute, Bangkok, Thailand; Siam Natural
Resources Ltd., Bangkok, Thailand; and AusVet Animal Health Services,
Australia. Published by the MPEDA, Cochin, India.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nong_nghiep_80__9322.pdf