Nâng cao chất lượng giáo dục Trung học cơ sở trên địa bàn huyện Thanh Chương trong tình hình hiện nay

A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 1.2.1. Ý nghĩa lý luận 1.2.2. Ý nghĩa thực tiễn 2. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu nghiên cứu 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu 3.2. Phạm vi nghiên cứu 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Đề tài sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta. - Đề tài chú trọng phương pháp lịch sử và lôgic, kết hợp lịch sử với lôgic, phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp, điều tra thống kê 5. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC 1.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG TA VỀ GIÁO DỤC 1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ TRONG CHIẾN LƯỢC GIÁO DỤC HIỆN NAY VÀ NHỮNG YẾU TỐ QUY ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Chương 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010 2.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 2.2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN THANH CHƯƠNG TỪ 2005 ĐẾN 2010 Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở HUYỆN THANH CHƯƠNG TỈNH NGHỆ AN TRONG THỢI GIAN TỚI 3.1. PHƯƠNG HƯỚNG CHUNG 3.2. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC THCS KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN

doc61 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8066 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao chất lượng giáo dục Trung học cơ sở trên địa bàn huyện Thanh Chương trong tình hình hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới, khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại của dân, do dân và vì dân, bảo đảm công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước”. Việc nâng cao chất lượn giáo dục ở cấp Trung học cơ sở trong thời kỳ mới phải gắn bó với địa phương và từng vùng kinh tế – xã hội. Sự phát triển kinh tế – xã hội đòi hỏi phải được quán triệt sâu sắc trong mọi hoạt động giáo dục Trung học cơ sở với quá trình giáo dục từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến tổ chức giáo dục, để phục vụ phát triển kinh tế – xã hội địa phương và cộng đồng. Mặt khác, giáo dục Trung học cơ sở phải nhấn mạnh mục tiêu dân trí, nhân lực và phát huy sâu sắc truyền thống văn hoá vùng. Cấp Trung học cơ sở phải được xây dựng trên tình thần gắn bó chặt chẽ trong hệ thống giáo dục thống nhất và hoàn chỉnh. Phải gải quyết tốt các mối quan hệ sau đây: - Giữa Trung học cơ sở và Trung học phổ thông, trung học nghề. - Giữa chỉnh thể của bản thân Trung học cơ sở với các phân hệ ngành dọc của hệ thống giáo dục quốc dân. - Giữa hệ thống giáo dục với sự phát triển kinh tế – xã hội với tư cách là phân hệ trong cấu trúc xã hội vĩ mô. Từ các quan điểm trên, mục tiêu cụ thể của giáo dục phổ thông nói chung và giáo dục Trung học cơ sở nói riêng trong toàn huyện thời gian tới sẽ là: - Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, giáo dục. Gắn việc đổi mới nội dung với đổi mới phương pháp trong giảng dạy và học tập. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. - Củng cố mạng lưới trường lớp, mở rộng quy mô một cách hợp lý, thực hiện phổ cập giáo dục nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh. Củng cố, duy trì kết quả xoá mù chữ, thực hiện phổ cập Trung học phổ thông hoặc trung học chuyên nghiệp phù hợp với nhu cầu và điều kiện của từng địa phương. - Xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục có phẩm chất chính trị và đạo đức, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, chuẩn hoá về trình độ đào tạo, coi trọng cả ba mặt đào tạo và bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ, đánh giá và sử dụng. Nâng số lượng giáo viên có trình độ đại học và trên đại học. - Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất nhà trường theo hướng kiên cố hoá, chuẩn hoá, hiện đại hoá. Tăng số lượng trường Trung học cơ sở đạt chuẩn quốc gia . Hiện đại hoá trang thiết bị đồ dùng dạy học, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy học tập và quản lý. - Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, huy động mọi nguồn lực, khơi dậy tiềm năng để phát triển giáo dục và xây dựng xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho các trường ngoài công lập hoạt động. Tiếp tục đổi mới quản lý theo hướng gọn nhẹ, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục. 3.1.2. Mục tiêu, phương hướng của tỉnh và huyện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVI đã xác định cụ thể phương hướng, nhiệm vụ và các mục tiêu của giáo dục - đào tạo trong những năm 2005 - 2010 là: "Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá XIII) với quan điểm giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Phấn đấu nâng cao tỷ lệ phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở một cách vững chắc. Đẩy mạnh xã hội hoá, duy trì và phát triển hợp lý quy mô giáo dục - đào tạo. Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục toàn diện. Tăng nhanh số trường đạt chuẩn quốc gia, từng bước nâng chuẩn đội ngũ giáo viên. Đầu tư thực hiện quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực, phát triển giáo dục chuyên nghiệp phục vụ CNH - HĐH. Bổ sung và điều chỉnh các chính sách phát triển giáo dục phù hợp"…( () Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVI - tr.17 ). Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Thanh Chương lần thứ 28 đã xác định mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 cho giáo dục - đào tạo là: …"Giáo dục trung học cơ sở: đẩy mạnh tiến bộ để duy trì và nâng cao tỷ lệ phổ cập giáo dục Trung học cơ sở . Tăng tỷ lệ học sinh so với dân số trong độ tuổi lên 90%. Phấn đấu có ít nhất 12 trường đạt chuẩn quốc gia".( () Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Thanh Chương, lần thứ 28. trang 9 ) Trên tinh thần các chủ trương và quan điểm chỉ đạo của Bộ, của tỉnh và nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện, Đề án 02 của Ban thường vụ huyện uỷ Thanh Chương đã nêu rõ: "Duy trì và củng cố kết quả phổ cập giáo dục, nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Tăng tỉ lệ học sinh trung học cơ sở so với dân số trong độ tuổi lên 93% vào năm 2010. Mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo; tăng cường công tác hướng nghiệp; nâng cao chất lượng giảng dạy môn kỹ thuật, giáo dục lao động, dạy nghề phổ thông góp phần tăng nhanh tỷ lệ được đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội; chuẩn bị cho thanh thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương. Đẩy mạnh phát triển giáo dục ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, phấn đấu giảm bớt sự chênh lệch về giáo dục giữa các vùng, miền và loại hình giáo dục trong tỉnh. Chăm lo việc học tập của con em đồng bào dân tộc thiểu số, con em các gia đình thuộc diện chính sách và các gia đình nghèo"…( () Đề án số 02 của Ban Thưường vụ huyện uỷ huyện Thanh Chương về công tác giáo dục. ) Phải làm chuyển biến hơn nữa nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với giáo dục - đào tạo nói chung và trung học cơ sở nói riêng nhằm phát triển vững chắc giáo dục THCS trong thời gian tới. Để thực hiện được nhiệm vụ trên trong tình hình hiện nay phải tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ sở và các hoạt động giáo dục - đào tạo để đảm bảo giáo dục - đào tạo phát triển đúng hướng, phục vụ nhiệm vụ chính trị. Quan tâm đầu tư cho giáo dục, coi đầu tư giáo dục là yếu tố quan trọng để đầu tư cho phát triển. Giáo dục - đào tạo phối hợp chặt chẽ với các ngành xây dựng kế hoạch, quy hoạch, các đề án phát triển giáo dục - đào tạo nhằm phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Phát triển quy mô, phải chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, góp phần đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. 3.2. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC THCS 3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục và đào tạo Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là đại biểu trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng tỏ rằng: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, trước hết là tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với sự nghiệp giáo dục. Các cấp uỷ Đảng cần nhận thức đúng đắn và thấm nhuần quan điểm của Đảng xem giáo dục và đào tạo là “quốc sách hàng đầu”. “Giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo bệ Tổ quốc, là nột lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”( () Văn kiện hội nghị lần thứ II – BCHTW khoá VIII, Nxb CTQG HN ) Các cấp uỷ Đảng cần quán triệt hơn nữa Nghị quyết Hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương khoá VIII để thấy được vị trí, vai trò quan trọng của sự nghiệp giáo dục trong xã hội trước mắt và lâu dài, từ đó có quan điểm đầu tư đúng mức cho giáo dục. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đói với sự nghiệp giáo dục thể hiện ở việc củng cố, phát triển các tổ chức cơ sở Đảng trong các trường học. Các chi bộ, tổ chức đảng ở các trường học phải làm tốt công tác tư tưởng chính trị, phải giữ gìn sự đoàn kết nội bộ. Phải thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc phê bình và tự phê bình trong xây dựng Đảng. Đảm bảo công khai, công bằng và bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi của cán bộ, giáo viên, đảm bảo lợi ích của mọi thành viên theo chính sách và pháp luật của nhà nước. Thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ giáo viên có phẩm chất, năng lực đáp ứng được yêu cầu mục tiêu của sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Các chi bộ, các tổ chức Đảng ở trong trường học phải xây dựng đạo đức cách mạng, lối sống giản dị, trong sáng, lành mạnh. Tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân và các tổ chức quần chúng nhân dân. Nâng cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh chống mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, đòi hỏi các cấp uỷ Đảng, các tổ chức cơ sở Đảng phải làm tốt công tác thông tin định kỳ, để cán bộ giáo viên tiếp cận nhanh với chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Song song với củng cố tổ chức cơ sở Đảng trong trường học, cấp uỷ đảng các cấp cần chú trọng công tác bồi dưỡng kết nạp Đảng viên mới trong đội ngũ cán bộ giáo viên tiêu biểu, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên của cấp uỷ Đảng các cấp, bỏi hiện nay tỷ lệ đảng viên trong ngành giáo dục còn quá thấp, mức chênh lệch giữ các vùng, miền, các cấp học còn lớn. Muốn làm được điều này các tổ chức cơ sở đảng trong trường học phải làm tốt công tác đào tạo nguồn để lựa chọn, giúp đỡ bồi dưỡng, kết nạp những giáo viên ưu tú có đủ tiêu chuẩn. Cần quan tâm trước hết là bồi bưỡng các cán bộ quản lý, các đồng chí phụ trách đoàn thể, các giáo viên có thành tích xuất sắc, các tổ trưởng bộ môn trong nhà trường. Các chi bộ đảng phải có kế hoạch phát triển đảng viên cụ thể, phân công chỉ đạo sát sao, chặt chẽ để mạng lại hiệu quả thiết thực, tránh làm qua loa đại khái. 3.2.2. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên 3.2.2.1 Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục Trong sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc"; "Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém". Nếu có cán bộ tốt ngang tầm thì việc xây dựng đường lối sẽ đúng đắn và là điều kiện tiên quyết để đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi. Không có đội ngũ cán bộ tốt thì dù có đường lối chính sách đúng cũng khó có thể biến thành hiện thực được. Muốn biến đường lối, thành hiện thực, cần phải có con người sử dụng lực lượng thực tiễn - đó là đội ngũ cán bộ cách mạng cùng với quần chúng cách mạng. Chính vì vậy xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục giỏi là biện pháp có tính quyết định đối với vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục. Để xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục giỏi đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục đòi hỏi phải thực hiện đúng quy trình của công tác cán bộ từ khâu đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, bố trí sử dụng và chính sách đối với cán bộ. Trước mắt cần tập trung vào các công tác sau đây: Thứ nhất, tập trung xây dựng , hoàn chỉnh quy trình, quy chế đánh giá cán bộ. Đánh giá cán bộ là khâu rất quan trọng trong công tác cán bộ. Đánh giá đúng là căn cứ để lựa chọn, sắp xếp, bố trí, đề bạt, sử dung cán bộ đúng với năng lực sở trường, là căn cứ cho việc quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng , rèn luyện cán bộ, để cho cán bộ nhận thấy khuyết điểm mà sửa chữa và phát huy ưu điểm của mình. Nếu đánh giá sai sẽ dẫn tới dùng người sai, các phần tử cơ hội có điều kiện luồn sâu, leo cao, quay lại làm mất đoàn kết nội bộ và làm cho cán bộ tốt bi quan, chán nản. Yêu cầu của quy trình, quy chế đánh giá cán bộ phải thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, khách quan, công tâm. Việc đánh giá cán bộ phải do cấp uỷ đánh giá và kết luận. Kết quả đánh giá phải được công khai cho mỗi cán bộ trong đơn vị được biết. Đánh giá cán bộ là việc khó, do vậy phải gắn với tiêu chuẩn, chức danh, chức trách của cán bộ. Gắn với công việc và hoàn cảnh cụ thể, môi trường mà cán bộ hoạt động. Phải xây dựng các tiêu chí cụ thể để đánh giá, thang đánh giá cho từng chức danh, từng cương vị trong đó tiêu chí quan trọng nhất là uy tín và hiệu quả công việc thực tế. Tránh tình trạng đánh giá chung chung, chiếu lệ hoặc "dĩ hoà vi quý" Mọi cán bộ đều phải được đánh giá thường xuyên, định kỳ. Đối với cán bộ trước khi đề bạt, bổ nhiệm cần phải được đánh giá cụ thể, kết luận rõ ràng và có hồ sơ lưu giữ kết quả đánh giá để theo dõi, kiểm tra mức độ phấn đấu của cán bộ trên cương vị mới. Thứ hai, xây dựng quy chế tuyển chọn cán bộ mới. Thực tế trong những năm qua phòng giáo dục Thanh Chương chưa xây dựng được quy chế cụ thể để tuyển chọn những giáo viên giỏi vào đội ngũ cán bộ quản lý ở các trường. Công tác tuyển chọn cán bộ quản lý chủ yếu dựa vào các kỳ thi giáo viên dạy giỏi các cấp hoặc là sự giới thiệu của cấp uỷ Đảng, chính quyền cơ sở nên nhiều lúc chưa thực sự khách quan, dân chủ nhiều khi còn mang nặng cảm tính. Để khắc phục tình trạng trên nhằm làm tốt công tác phát hiện, lựa chọn đúng nhân tài phải xây dựng các quy trình, quy chế tuyển chọn cán bộ. Quy chế tuyển chọn cán bộ cần quán triệt quan điểm trọng dụng người có tài, có đức thực sự, không câu nệ vào bằng cấp, cơ cấu, quá trình cống hiến vv. Mọi người đều được bình đẳng trong việc lựa chọn vào cương vị lãnh đạo. Ai có tài, có đức đều được trọng dụng. Khắc phục tư tưởng "sống lâu lên lão lãng", khắc phục tình trạng "ô dù", cảm tình, "ê kíp", bè phái, cục bộ, kéo bè, kéo cánh hoặc đưa họ hàng thân thích vào bộ máy. Để có cơ sở cho việc lựa chọn được nhiều cán bộ tốt, tạo chủ động về nguồn cán bộ, cần mở rộng diện nguồn, có nguồn tại chỗ, nguồn từ xa, nguồn lâu dài. Có chính sách thu hút số sinh viên xuất sắc tốt nghiệp các trường Đại học cao đẳng về công tác tại huyện nhà. Thứ ba, thực hiện nghiêm túc quy trình, quy chế bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển cán bộ quản lý trên địa bàn. Để thực hiện nghiêm túc quy định bổ nhiệm, miễm nhiệm cán bộ theo quy định tại điều lệ các nhà trường, từ nay trở đi yêu cầu trong quyết định phải ghi rõ thời hạn bổ nhiệm chức vụ là một nhiệm kỳ (5 năm). Hết thời hạn bổ nhiệm cán bộ được đánh giá theo nhiệm kỳ và phải tổ chức bổ nhiệm lại từ khâu thăm dò tín nhiệm đến thu thập các ý kiến đánh giá, nhận xét của cấp uỷ Đảng, chính quyền cơ sở, nếu cần thiết phải lấy ý kiến từ học sinh và phụ huynh. Trong thời hạn giữ chức vụ nếu cán bộ vi phạm kỷ luật hoặc không hoàn thành nhiệm vụ thì phải tiến hành miễn nhiệm trước thời hạn, không nhất thiết phải chờ hết nhiệm kỳ mới miễn nhiệm. Kiên quyết khắc phục tình trạng đã "lên" không "xuống" đã "vào" không "ra". Phải coi việc lên, xuống là việc bình thường, không nặng nề về tâm lý. Phải xây dựng quy định và mở rộng hình thức từ chức nếu cán bộ không đảm đương được chức trách, nhiệm vụ hoặc qua thăm dò không còn tín nhiệm thì động viên họ nên từ chức. Khi cán bộ đã giữ cùng một chức vụ tại một đơn vị quá hai nhiệm kỳ thì nhất thiết phải luân chuyển. Trường hợp không luân chuyển được thì phải tiến hành miễn nhiệm. Việc luân chuyển hoặc miễn nhiệm cán bộ quá hai nhiệm kỳ phải được tiến hành đồng loạt không nên để tình trạng ngoại lệ. 3.2.2.2. Xây dựng đội ngũ giáo viên Giáo viên là nhân tố quyết định trong việc nâng cao chất lượng giáo dục của các nhà trường. Vai trò, vị trí của người thầy đã được khẳng định ở truyền thống “Tôn sư trọng đạo” của dân tộc và ngày nay, tiếp tục được cả xã hội thừa nhận trong sự nghiệp trồng người của Đảng và nhà nước ta. Người thầy không chỉ dạy chữ mà còn dạy người. Người thầy có vai trò rất lớn đối với sự hình thành và phát triển tri thức, nhân cách cho học sinh, xây đắp nền dân trí cho đất nước, đào tạo toàn bộ nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát hiện, bồi dưỡng nhân tài trên tất cả các lĩnh vực cho đất nước. Vai trò và vị trí ấy đòi hỏi rất lớn ở người thầy về năng lực và nhân cách, về đức, tài, người thầy thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, xã hội đang có những chuyển biến lớn lao tác động về mọi mặt. Yêu cầu đối với người giáo viên phải có sự nỗ lực vận động rất lớn mới có thể gánh vác được trách nhiệm nặng nề nhưng rất vẻ vang này. Để thực hiện được những mục tiêu giáo dục đã đề ra, việc xây dựng đội ngũ giáo viên trong các trường Trung học cơ sở cần chú ý đến những công tác quan trọng như sau: + Công tác tiếp nhận, tuyển dụng, bố trí giáo viên. Trong quá trình phát triển ở những năm đầu của thời kỳ đổi mới, do cơ chế thị trường tác động cùng với sự vận động chính sách của tỉnh, đội ngũ giáo viên của huyện Thanh Chương đã có nhiều biến động lớn. Tuy đến nay về cơ bản đã đáp ứng về số lượng, nhưng so với quy định biên chế của ngành chưa đủ. Trong những năm qua, do phân công, phân cấp tổ chức bộ máy và quản lý cán bộ ở tỉnh Nghệ An chưa rõ ràng dẫn đến nhiều chỗ chồng chéo, thiếu trách nhiệm. Cơ quan tuyển dụng không gắn với cơ quan sử dụng. Tình trạng này diễn ra trong một thời gian dài dẫn đến chất lượng một bộ phận viên chức ngành giáo dục được tiếp nhận và tuyển dụng không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Khi tuyển dụng không căn cứ vào phẩm chất, năng lực thực tế của giáo viên mà chỉ xem xét qua bằng cấp dẫn đến tình trạng chạy theo bằng cấp, người được tuyển dụng có bằng cấp “thật” nhưng kiến thức “dởm”. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo viên giảng dạy ở cấp Trung học cơ sở. Hiện nay UBND tỉnh Nghệ An đã phân công, phân cấp quản lý cán bộ, giáo viên ngành giáo dục về cho UBND huyện, điều này đã tăng cường tính chủ động cho cơ quan quản lý. Nhưng để công tác tiếp nhận, tuyển dụng và bố trí giáo viên được thực chất đi vào chiều sâu, căn cứ tuyển dụng phải coi trọng phẩm chất và năng lực giảng dạy của người giáo viên, khắc phục tình trạng chỉ dựa vào bằng cấp hoặc nể nang quen biết, cần tập trung xây dựng quy trình tiếp nhận và tuyển dụng phù hợp, khách quan, công bằng đúng đối tượng. Việc bố trí giáo viên phải đúng người, đúng việc, có quan điểm lịch sử cụ thể và phù hợp với hoàn cảnh của từng đối tượng. + Công tác đánh giá giáo viên. Đánh giá giáo viên là một việc làm hết sức quan trọng của ngành giáo dục song trong nhiều năm liền ngành giáo dục chưa xây dựng được chuẩn để đánh giá giáo viên, hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo mới xây dựng xong chuẩn đánh giá giáo viên tiểu học, còn chuẩn đánh giá giáo viên Trung học cơ sở và Trung học phổ thông chưa có. Năm 2002, UBND tỉnh Nghệ An đã ban hành quyết định số 109/2002/QĐ-UB, năm 2006 UBND tỉnh đã ban hành quyết định số 86/2006/QĐ-UB về ban hành quy định đánh giá xếp loại giáo viên và chính sách cho giáo viên không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mặc dù quyết định này tập trung vào đánh giá, phân loại số giáo viên yếu kém nhưng nó đã góp phần rất lớn cho ngành Giáo dục trong công tác sàng lọc đội ngũ, đưa ra khỏi dây chuyền giảng dạy những giáo viên không đủ phẩm chất năng lực hoặc yếu về sức khoẻ. Song song với nó là việc giải quyết chế độ chính sách cho số giáo viên nói trên. Để làm tốt công tác đánh giá giáo viên cần tập trung vào các vấn đề cơ bản sau đây: Thứ nhất: Xác định công tác đánh giá giáo viên phải đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ, tổ chức cơ sở Đảng và của toàn ngành giáo dục, phải thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong đánh giá xếp loại. Đánh giá giáo viên phải được tiến hành thường xuyên, định kỳ. Đánh giá phải gắn với bồi dưỡng, bố trí sử dụng và đãi ngộ giáo viên. Thứ hai: Phải bảm đảm công tác đánh giá giáo viên được tiến hành đúng quy trình, thực hiện tốt nguyên tắc chính xác, công bằng, dân chủ khách quan. Đánh giá giáo viên phải dựa trên phẩm chất, năng lực giảng dạy, kỹ năng nghề nghiệp, nghiệp vụ sư phạm và hiệu quả công tác. Thứ ba: Phải coi trọng công tác xử lý sau đánh giá. Kiên quyết sàng lọc, không bố trí đứng lớp đối với những giáo viên được đánh giá yếu về phẩm chất, kém về năng lực hoặc không đủ sức khoẻ để giảng dạy và phải giải quyết chính sách dứt điểm, phù hợp đối với số giáo viên không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ theo quyết định 109/2002/QĐ-UB ngày 04/12/2002 và UBND tỉnh Nghệ An đã ban hành quyết định số 86/2006/QĐ-UB của UBND tỉnh Nghệ An. + Công tác bồi dưỡng giáo viên Phải tăng cường công tác tự học tập, tự bồi dưỡng trong đội ngũ giáo viên, coi công tác tự học tập, tự bồi dưỡng của đội ngũ giáo viên là một quy định bắt buộc, coi tự học, tự đào tạo là con đường phát triển suốt đời của người giáo viên. Tự học, tự vươn lên trong cuộc sống và công tác là con đường đầu tư chất xám, trí tuệ cho sự nghiệp trồng người của giáo viên. Thực hiện tốt công tác bồi dưỡng giáo viên: Trước hết cần tăng cường bồi dưỡng tư tưởng, chính trị cho đội ngũ giáo viên. Nội dung bồi dưỡng cần tập trung vào việc nâng cao nhận thức các Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết, Chỉ thị về giáo dục và Luật giáo dục mà Đảng và nhà nước đã ban hành. Đội ngũ cán bộ, giáo viên làm công tác giáo dục phải nhận thức sâu sắc rằng sự nghiệp giáo dục cũng như sự nghiệp chính trị, kinh tế - xã hội, có ý nghĩa sống còn đối với đất nước cả trước mắt và lâu dài. Về công tác bồi dưỡng chuyên môn: Tiếp tục thực hiện tốt công tác bồi dưỡng thường xuyên và theo định kỳ. Trong những năm trước mắt, tích cực thúc đẩy việc bồi dưỡng chuẩn hoá giáo viên THCS. Ngành giáo dục phải tạo điều kiện thuận lợi về thời gian, kinh phí để giáo viên đi học đạt chuẩn và trên chuẩn. Đối với bộ phận giáo viên chưa đạt chuẩn hoá, ngành tiếp tục phối hợp với trường Cao đẳng Sư phạm của Tỉnh mở lớp tại chỗ để bồi dưỡng vào các dịp hè và cần có kế hoạch tổ chức bồi dưỡng các lớp chuyên đề, bồi dưỡng nghiệp vụ cho giáo viên. Trong công tác bố trí đội ngũ giáo viên ở các trường cần lưu ý bố trí xen kẽ, đừng để tình trạng dạy chéo môn quá bất cập giữa các trường. Thường xuyên nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy, coi đây là trọng tâm của việc nâng cao chất lượng giáo viên. Muốn vậy phải tiến hành dự giờ, thăm lớp, tổ chức tốt sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề, tăng cường công tác Hội thảo, Hội giảng, chống dạy chay, dạy nhồi nhét cho học sinh. Đồng thời phải tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra chuyên môn, thẳng thắn phê bình và tự phê bình, không cào bằng, không né tránh, kiên quyết xử lý với những trường hợp vi phạm quy chế chuyên môn, những trường hợp vi phạm đạo đức, tác phong, lối sống của giáo viên + Tạo động lực để nâng cao chất lượng đội ngũ: Trong những thay đổi sâu sắc của nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, việc tạo những động lực cho đội ngũ giáo viên phải có sự đổi mới, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh giáo dục mới, do đó: Động viên, phát huy phẩm chất nhà giáo, sự tôn vinh cũng như sự đòi hỏi ngày càng cao của xã hội đối với người thầy. Xây dựng đội ngũ đoàn kết, gắn bó hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau về các mặt chuyên môn, đời sống .. Thực hiện tốt các chính sách chế độ của nhà nước, của ngành đối với giáo viên như: Làm tốt công tác thi đua, biểu dương, khen thưởng kịp thời bằng cả vật chất tinh thần đối với những giáo viên có thành tích xuất sắc. Sử dụng tốt, có hiệu quả các nguồn lực kinh tế để khuyến khích, để động viên các giáo viên có những sáng kiến kinh nghiệm hay, có sự say mê, tìm tòi sáng tạo trong việc tự làm đồ dùng dạy học phục vụ cho việc nâng cao chất lượng giờ dạy, bài dạy. Thực hiện tốt chế độ thưởng phạt rõ ràng trong đội ngũ giáo viên. Hàng năm Phòng giáo dục kết hợp tốt với hội khuyến học, khuyến dạy của huyện để động viên, khen thưởng những giáo viên có thành tích xuất sắc trong giảng dạy và nghiên cứu đúc rút kinh nghiệm. Phối hợp tốt với Phòng nội vụ huyện để kịp thời tham mưu cho UBND huyện nâng lương trước thời hạn cho giáo viên có thành tích xuất sắc. 3.2.3. Nâng cao chất lượng toàn diện cho học sinh Mục tiêu giáo dục của nước ta là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức, có sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh là góp phần quan trọng cho việc đào tạo, phát triển nguồn lực con người, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở đất nước ta hiện nay. Chất lượng toàn diện của học sinh được đánh giá trên các mặt: Đạo đức (ý thức thái độ, động cơ học tập, mối quan hệ ứng xử trong trường ngoài xã hội cùng những hành vi khác … ), học tập (được đánh giá bằng kết quả các môn học). Để nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh về các mặt đạo đức, học tập, và phẩm chất nhân cách khác, cần thực hiện những giải pháp sau: 3.2.3.1. Giáo dục đạo đức Cấu trúc nhân cách con người bao gồm đức và tài. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đức là cái gốc, còn tài là cái quan trọng. Mục tiêu cao cả nhất của giáo dục đạo đức là làm cho thế hệ trẻ của chúng ta có được đạo lý làm người với những truyền thống đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam xưa và nay. Để khắc phục những tình trạng sa sút về phẩm chất đạo đức của một bộ phận học sinh và xây dựng phẩm chất nhân cách của con người mới xã hội chủ nghĩa, trung tâm cần thực hiện tốt những giải pháp sau: + Trước hết phải xác định rõ thực trạng nguyên nhân sa sút ở một bộ phận học sinh trong tình hình hiện nay. + Phải nắm được những đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh Trung học cơ sở để từ đó có thể đề ra những phương pháp giáo dục và lối hành xử thích hợp đối với lứa tuổi này. Các em đã bắt đầu sự bộc lộ thiên hướng tư duy độc lập và có những nhận thức khá sâu sắc về mọi khía cạnh của cuộc sống. Các em đang bước đầu khẳng định cái “tôi” của mình, vì vậy trong việc giáo dục đạo đức cần tránh lối giáo huấn áp đặt, nhồi nhét mắng mỏ, doạ nạt khi các em có những hành vi nào đó. + Học sinh không những là đối tượng mà còn là chủ thể của giáo dục. Vì vậy cần phải coi trọng vai trò của chủ thể trong quá trình giáo dục, cần đẩy mạnh quá trình tự giáo dục của học sinh. Nhà giáo cần phải có những biện pháp động viên, khơi dậy tính tích cực của chủ thể, làm cho các em hào hứng, phấn khởi tích cực tiếp nhận sự giáo dục. + Điều quan trọng hơn cả là phải tạo được môi trường sư phạm lành mạnh trong đó nhân tố quyết định công tác giáo dục chính trị - đạo đức, lối sống, nhân cách chính là đội ngũ các thầy cô giáo, người thầy giáo cho học sinh bằng chính toàn bộ lối sống và nhân cách của mình. Tóm lại, trong bối cảnh lịch sử, xã hội có nhiều biến động như hiện nay, công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, đạo đức để hình thành một lý tưởng sống chính là tiền đề để tạo lập tính bền vững của chất lượng giáo dục và đào tạo. 3.2.3.2. Nâng cao chất lượng học tập cho học sinh Ngày nay, theo quan điểm hiện đại, học sinh vừa là khách thể vừa là chủ thể của giáo dục. Học là hoạt động trung tâm trong quá trình dạy học, là hoạt động tích cực, tự lực, sáng tạo của học sinh. Nhận thức như vậy để có thể có những giải pháp tích cực trong việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Những giải pháp đó là: + Trước hết cần có những nhận thức mới về mối quan hệ dạy và học. Hoạt động dạy học là quá trình thống nhất bao gồm quá trình dạy và quá trình học là hệ thống tác động lẫn nhau giữa giáo viên và học sinh. Trong khi chúng ta đề cao vai trò của người học, lấy học sinh làm trung tâm không có nghĩa là hạ thấp vai trò của giáo viên. Trong quá trình nhận thức, giáo viên là người quyết định là người hướng dẫn, cố vấn, mẫu mực của học sinh. + Trong mối quan hệ giữa dạy và học, có mối quan hệ giữa phương pháp dạy và phương pháp học, để nâng cao chất lượng học phải có sự đổi mới đồng bộ từ hai phía. Để lựa chọn phương pháp dạy phù hợp với đối tượng, giáo viên phải căn cứ vào mục đích, nội dung từng bài, căn cứ vào đặc điểm, trình độ nhận thức của học sinh … Điều quan trọng là kích thích được hứng thú, tính tích cực hoạt động của học sinh để từ đó học sinh có khả năng tự lựa chọn cho mình phương pháp học phù hợp. + Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh phải được thực hiện thường xuyên nhằm đào tạo thói quen về nề nếp học tập, buộc các em phải học bài, làm bài đầy đủ, nắm vững những tri thức, kỹ năng cần thiết. + Thường xuyên đổi mới phương pháp giáo dục theo hướng phát triển tự học, tự rèn luyện nếp tư duy sáng tạo, phát triển phong trào tự học một cách thường xuyên và rộng khắp trong học sinh. Cần cương quyết xoá bỏ lối học theo kiểu “thầy đọc trò chép, học vẹt, học tủ, học thuộc lòng mà không hiểu bản chất”. + Trong việc học, cần xoá bỏ sự lệch lạc coi trọng mục tiêu học tập lên, xem nhẹ mục tiêu ra đời, nặng kiến thức lý thuyết, nhẹ kỹ năng thực hành, tăng cường giáo dục nhân văn, xoá bỏ sự lệch lạc thiên về khoa học kỹ thuật, nhẹ về nhân văn xã hội. + Mỗi giáo viên ở từng bộ môn cụ thể cần tạo điều kiện để học sinh củng cố lòng tin về sức mình, giúp học sinh nhận thức rõ ý nghĩa của bộ môn, tăng cường những tình uống có vấn đề trong dạy học ..v.v.. 3.2.4. Nâng cao chất lượng giáo dục Mầm non, chất lượng giáo dục Tiểu học làm cơ sở cho việc nâng cao chất lượng giáo dục trung học cơ sở Để nâng cao chất lượng dạy và học ở Trung học cơ sở trước hết cần nâng cao chất lượng ở các cấp học trước đó. Đây là mối quan hệ biện chứng tác động trực tiếp tới kết quả học tập giáo dục của các cấp học sau. Vì thế, chăm lo phát triển giáo dục Mầm non, khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn lực để mở rộng hệ thống giáo dục mầm non trên các địa bàn dân cư, đặc biệt ở vùng miền núi, vùng dân tộc thiểu số. Tiếp tục đa dạng hoá các loại hình trường học, duy trì và phát triển các loại hình công lập, bán công, dân lập và tư thục phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương để mở rộng khả năng tiếp nhận, huy động trẻ ra lớp. Bảo đảm chất lượng trong hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ phát triển toàn diện, hài hoà về thể chất, tình cảm, trí tuệ và thẩm mỹ. Đẩy mạnh các hoạt động tư vấn cho các bậc phụ huynh của trẻ em về phương pháp nuôi dạy trẻ bảo đảm trẻ được chăm sóc giáo dục khoa học. Giáo dục mầm non có chất lượng tốt sẽ là tiền đề tốt cho giáo dục Tiểu học. Tiếp tục củng cố kết quả xoá mù chữ và phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi, huy động hết số trẻ trong độ tuổi ra lớp nhất là trẻ từ 6 đến 10 tuổi. Có biện pháp đảm bảo thực hiện tốt các quy định của Luật Giáo dục, Luật chăm sóc trẻ em cam kết giữa gia đình và nhà trường, cấp uỷ Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể (hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên, hội nông dân, tổ dân phố,…) thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, động viên thành viên trong tổ chức mình thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, động viên con em học tập, một trong các nghĩa vụ quan trọng thực hiện quyền con người. Thực hiện tốt các chính sách về giáo dục dân tộc, chế độ chính sách cho người dạy, người học theo quy định. Đa dạng hoá các loại hình học tập (mở các lớp ghép, các lớp học chương trình 100 tuần ở vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn,… bổ túc tiểu học và trung học cơ sở nhằm duy trì kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và THCS), mở rộng các lớp 1,2,3 ở khu lẻ nhằm thu hút hết học sinh trong độ tuổi ra lớp. Tăng cường các lớp học 2 buổi/ngày và trên 5 buổi/tuần, lớp bán trú nhất là các xã đồng bằng, nơi có điều kiện. Tăng cường đầu t đội ngũ, cơ sở vật chất cho giáo dục tiểu học vùng có đạo nhât là vùng công giáo, xã an toàn khu và vùng miền núi khó khăn. Chú ý đẩy mạnh hoạt động Đội Thiếu niên Tiền phong, Sao nhi đồng. Quan tâm đúng mức, hài hoà giữa giáo dục văn hoá với giáo dục đạo đức, giáo dục ý thức lao động đáp ứng mục tiêu giáo dục tiểu học. 3.2.5. Đa dạng hoá các loại hình trường lớp Trên cơ sở phân luồng học sinh sau mỗi cấp học, việc đa dạng hoá các loại hình trưường lớp sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi nhằm thoả mãn cơ hội học tập cho người học. Cần phải duy trì và phát huy tốt các loại trường lớp hiện có ở các cấp học (công lập, bán công, dân lập, tư thục). Cần tổ chức tốt dạy nghề phổ thông, tăng cường các hình thức dạy nghề nhằm bổ sung kiến thức mới cập nhật và đảm bảo việc định hướng nghề nghiệp cho học sinh THCS tốt hơn, đồng thời sẽ làm tốt việc phân luồng học sinh. Chú trọng tổ chức ngoại khoá với các hình thức phù hợp giúp học sinh có thêm kiến thức và hiểu biết sâu sắc về xã hội, pháp luật và những điều cần thiết để có thể sẵn sàng đi vào cuộc sống. 3.2.6. Tăng cường đầu tư và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất, thiết bị dạy học Cơ sở vật chất được sử dụng trong các trường Trung học cơ sở hiện nay bao gồm: Phòng học, phòng thí nghiệm, phòng thực hành bộ môn, thư viện, thiết bị dạy học … đó là những phương tiện giúp cho việc truyền tải trong dạy học, tác động trực tiếp tới nhận thức học sinh, việc sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất, thiết bị dạy học là một trong những yếu tố tạo nên chất lượng giáo dục toàn diện của trung tâm. Mỗi giáo viên trong quá trình giảng dạy cần phải nhận thức được vị trí quan trọng của việc sử dụng các phương tiện vật chất và những thông tin tư liệu như một trong những công cụ hữu hiệu góp phần tạo nên chất lượng, hiệu quả của bài dạy. Quy hoạch đất đai hợp lý cho các trường, sao cho các trường đều có sân chơi, bãi tập, phòng thí nghiệm theo quy định của Bộ giáo dục - đào tạo. Các trường đều phải có công trình vệ sinh hợp quy cách. Thực hiện tốt phương châm " Nhà nước và nhân dân cùng làm " huy động tối đa mọi nguồn lực để xây dựng trường, lớp khang trang, tăng cường trang thiết bị dạy học cho các trường, không để trường nào thiếu thiết bị đồng bộ dạy học, phấn đấu các trường đều phải có nhà thư viện và có phòng thí nghiệm để dạy học. Tiếp tục thực hiện đề án kiên cố hoá trường lớp học của chính phủ, trong thời gian tới các trường Trung học cơ sở trên địa bàn huyện cần tập trung xây dựng mới, cải tạo hệ thống phòng học cũ theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá. Đối với những trường cận chuẩn quốc gia cần tập trung đầu tư xây dựng hệ thống các phòng học bộ môn: Âm nhạc, mỹ thuật, tin học, ngoại ngữ. Xây mới hoặc cải tạo từ phòng học cũ để có các phòng chức năng như phòng đoàn đội, phòng sinh hoạt tổ chuyên môn, phòng truyền thống .. Thư viện trung tâm phải là nơi cung cấp hướng dẫn cho giáo viên, học sinh tiếp thu những thông tin khoa học, giáo dục, kinh tế, chính trị … góp phần bổ trợ kiến thức, làm giầu thêm sự hiểu biết, kiến thức cho giáo viên, học sinh. Bằng các nguồn kinh phí từ các nguồn khác nhau nhà trường có thể đầu tư để trang bị sách, báo, tài liệu tham khảo, để nguồn đầu tư cho thư viện có hiệu quả phải có sự lựa chọn lọc nguồn sách báo, tránh tình trạng sách báo vừa thừa, vừa thiếu, gây nên sự lãng phí. Cần tổ chức khai thác, sử dụng tốt các thiết bị thí nghiệm, thực hành của các bộ môn vật lý, hoá học, sinh học đã được trang bị. Đây là yêu cầu quan trọng trong việc đổi mới phương pháp hiện nay. Để đạt được những yêu cầu đó cần tiến hành đồng bộ các biện pháp: Xây dựng cơ chế quản lý và sử dụng TBDH trong trung tâm, giáo viên phải biết sử dụng thành thạo các thiết bị dạy học của bộ môn, tổ chức thi tự làm đồ dùng dạy học, thi sử dụng thiết bị dạy học, về phía quản lý cần cương quyết chỉ đạo việc thực hiện sử dụng thiết bị dạy học, thực hiện các bài thí nghiệm thực hành, trong thanh tra chuyên môn và trong công tác thi đua cần gắn với việc sử dụng thiết bị dạy học trong từng môn học và có chế độ khen thưởng, trả công cho những thiết bị dạy học tự làm có giá trị. Dù còn nhiều khó khăn, song điều kiện hiện nay có thể thực hiện những yêu cầu đó. 3.2.7. Đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục Xã hội hoá giáo dục là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo dục, một con đường phát triển giáo dục ở nước ta. Để giải quyết tốt quá trình xã hội hoá giáo dục cần thực hiện tốt các giải pháp sau: + Trước hết cần làm cho xã hội nhận thức đúng vị trí vai trò có ý nghĩa quyết định của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, thấy rõ được thực trạng của địa phương, nhận thức rõ được trách nhiệm của xã hội đối với giáo dục. + Làm cho mọi người hiểu đúng “Xã hội hoá giáo dục” là một phương hướng lớn, có tính chiến lược lâu dài của Đảng, không nên coi đó là giải pháp tình thế và cũng không phải vì nghèo mà xã hội hoá giáo dục chỉ nhằm huy động sự đóng góp vật chất của xã hội thì chưa đủ mà xã hội hoá giáo dục là xã hội hoá cách làm giáo dục, huy động toàn dân chăm lo giáo dục: Như xây dựng trường lớp, giáo dục động viên tinh thần học tập, tạo môi trường giáo dục … + Phải tạo lập được cơ chế huy động mọi lực lượng xã hội tham gia chăm lo phát triển giáo dục, trong đó nêu cao vai trò lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo chặt chẽ của chính quyền, sự tham gia tích cực của đoàn thể, của từng gia đình đến việc học tập của con em với việc xây dựng gia đình văn hoá mới, sự hoạt động có hiệu quả của hội cha mẹ học sinh. Trung tâm phải là nòng cốt tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền, tỉnh để có những quốc sách lớn đúng, phù hợp với hoàn cảnh của tỉnh nhà. + Nâng cao chất lượng quản lý, chất lượng đội ngũ giáo viên, học sinh, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất và các nguồn kinh phí là yếu tố để thúc đẩy quá trình xã hội hoá giáo dục. 3.2.8. Đổi mới công tác quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo Đổi mới quản lý là một trong những giải pháp lớn, là khâu đột phá trong sự ngiệp đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục hiện nay. Chúng ta biết rằng quản lý nhà trường không chỉ đơn thuần là quản lý giáo viên, học sinh và những cơ sở vật chất mà còn là quản lý quá trình dạy và học. Kết quả cuối cùng của quản lý giáo dục là chất lượng và hiệu quả. Chất lượng quản lý giáo dục không thể tính ngay được bằng những con số đơn thuần như trong quản lý kinh tế. Quản lý giáo dục không tốt sẽ dễ dẫn đến tình trạng phát triển về hình thức nhưng chất lượng giảm, có thể có kết quả nhưng không hiệu quả, người cán bộ quản lý cần chú ý tới cả chuyên môn và khả năng tổ chức chỉ đạo, quản lý, phải là người được tập thể giáo viên và học sinh tôn trọng, tin tưởng. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: Đảng lãnh đạo củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, đổi mới công tác quản lý giáo dục và đào tạo; Chấn chỉnh công tác quản lý, lập lại trật tự kỷ cương, kiên quyết đẩy lùi các biểu hiện tiêu cực như “Thương mại hoá giáo dục’’ dạy thêm và học thêm tràn lan, thu góp trái quy định trong các nhà trường… “Triệt để khắc phục cách quản lý giáo dục theo cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, phân cấp mạnh mẽ. Giải quyết mạnh, có hiệu quả các vấn đề bức xúc, tăng cường trật tự kỷ cương trong trường học và toàn bộ hệ thống giáo dục”( () Nghị quyết 06-NQ/TW BCH TW khoá IX – trang 50 ). Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo, phát triển quy mô giáo dục và đào tạo, tạo tiền đề cho những bước phát triển tiếp theo. Hiện nay vấn đề phân cấp quản lý của ngành giáo dục đang bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập, theo kiểu “trăm hoa đua nở” ,mỗi địa phương mỗi kiểu, mỗi cách chưa có sự thống nhất trong cả nước, có nơi có lúc chồng chéo, bất cập, đặc biệt là ở cấp quản lý giáo dục ở cấp huyện. Phòng giáo dục là cơ quan giúp UBND huyện quản lý nhà nước về giáo dục trên địa bàn huyện, nhưng chỉ huy theo kiểu “không quân”. Hai yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh của một tổ chức là tài chính và tổ chức cán bộ lại do hai phòng chức năng là phòng tài chính và phòng nội vụ nắm giữ. Mặc dù theo chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2001-2010, là trao quyền tự chủ về tài chính và tổ chức cán bộ cho ngành giáo dục đến năm 2009 mới thực hiện được. Để giải quyết vấn đề trên thời gian tới cần tập trung giải quyết vấn đề phân công, phân cấp quản lý giáo dục một cách rõ ràng theo cơ cấu chức năng. Trao quyền chủ động tổ chức bộ máy và tài chính cho ngành giáo dục, tăng giảm bớt công tác hành chính sự vụ để phòng giáo dục làm tốt công tác chỉ đạo dạy và học trên địa bàn huyện. Phát triển đội ngũ giáo viên, coi trọng chất lượng và đạo đức sư phạm, đủ về số lượng, đạt chuẩn quốc gia, tăng dần giáo viên đạt trên chuẩn. Trọng dụng và khuyến khích mọi người tham gia học tập, thực hiện xã hội hoá giáo dục và đào tạo. Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý các nhà trường. Đưa các giáo viên có năng lực đi đào tạo trước khi bổ nhiệm. Tạo nguồn bổ sung theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, thực hiện bổ nhiệm theo thời hạn, sẵn sàng thay thế cán bộ quản lý khi không đáp ứng yêu cầu. Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra các nhà trường theo hướng đa dạng hoá các laọi hình thanh tra, kiểm tra. Chú trọng công tác thanh tra đột xuất và thanh tra toàn diện một nhà trường theo định kỳ, thanh tra theo chuyên đề. Làm tốt công tác xử lý sau thanh tra, làm cho công tác thanh tra phát huy tác dụng và hiệu quả tích cực của nó trong các hoạt động của nhà trường. Đổi mới công tác thi cử và kiểm định chất lượng giáo dục các nhà trường từ công tác thi chọn học sinh giỏi các cấp, các kỳ thi định kỳ đến các kỳ thi chọn giáo viên dạy giỏi. Công tác kiểm định chất lượng học sinh phải được tiến hành đồng bộ song song với quá trình dạy học. Đưa công tác kiểm định chất lượng học sinh đi vào thực chất, đánh giá đúng kết quả học tập của học sinh. Thực hiện tốt cuộc vận động “nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích” trong ngành giáo dục. Hàng năm tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm để từ đó phát huy những điểm mạnh, những thành tích đã đạt được, đồng thời tìm ra nguyên nhân của các tồn tại và yếu kém, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp khắc phục và thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ năm học. Tăng cường giao lưu học hỏi kinh nghiệm của các huyện điển hình tiên tiến trong và ngoài tỉnh, vận dụng sáng suốt Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp về phát triển giáo dục và đào tạo góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu :nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài” cho đất nước ta. KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN 1. KIẾN NGHỊ Nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng giáo dục Trung học cơ sở trên địa bàn huyện Thanh Chương nói riêng là một vấn đề lớn đòi hỏi không chỉ có sự nỗ lực của ngành giáo dục huyện nhà. Để thực hiện thắng lợi, có hiệu quả mục tiêu nâng cáo chất lượng giáo dục đòi hỏi sự phối hợp chỉ đạo chặt chẽ của toàn Đảng toàn dân, với ý thức trách nhiệm của một người quản lý của ngành giáo dục tôi xin mạnh dạn đề nghị một số vấn đề sau đây: 1.1. Đối với Đảng và nhà nước - Tiếp tục chỉ đạo các cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp quán triệt sâu sắc chủ trương đường lối về phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Làm cho chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước về giáo dục và đào tạo biến thành hiện thực. - Đề nghị nhà nước có chế độ đãi ngộ tương xứng với công sức lao động của đội ngũ cán bộ, giáo viên công tác trong ngành sư phạm, chính sách tiền lương phù hợp để giáo viên có thể sống bằng đồng lương của mình, làm cho họ thực sự “yêu nghề mến trẻ” xứng đáng là những “kỹ sư tâm hồn” là “tấm gương sáng” cho học sinh noi theo và được cả xã hội tôn vinh nghề dạy học. - Bộ Giáo dục và Đào tạo cần làm tốt vai trò tham mưu của mình đối với Đảng và nhà nước về giáo dục và đào tạo; làm tốt vai trò trách nhiệm của mình trước Đảng, Nhà nước và nhân dân nhất là vấn đề đổi mới nội dung chương trình và thay sách giáo khoa. Thu hút được đội ngũ các nhà khoa học giáo dục giỏi tham gia biên soạn sách giáo khoa cho bậc phổ thông theo hướng không nặng nề lý thuyết kinh điển nhưng phải phù hợp với xu thế chung của thời đại và phù hợp với trình độ của các nước trong khu vực và trên thế giới. - Tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục, nghiên cứu đảm bảo nội dung sách giáo khoa ổn định, tránh được hiện tượng sửa đổi bổ sung khi mới ban hành. Cung cấp tài liệu giảng dạy theo hướng tăng cường năng lực thực hành, tăng cướng giáo dục tư tưởng đạo đức, chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường và bổ sung ngân sách cho sự nghiệp giáo dục nhiều hơn nữa, đặc biệt là kinh phí chi thường xuyên để các trường có điều kiện hoạt động phục vụ cho việc giảng dạy và học tập. - Tiếp tục thực hiện tốt cuộc vận động “nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích” trong ngành giáo dục. Đổi mới hình thức thi cử, tăng cường công tác kiểm định chất lượng trong các trường học. 1.2. Đối với UBND tỉnh Nghệ An và Sở GD&ĐT - Tăng cường nguồn kinh phí để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các nhà trường trên địa bàn tỉnh, tạo cơ chế thu hút các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm trong và ngoài nước đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, đóng góp trí tuệ cho sự phát triển giáo dục và đào tạo tỉnh nhà. - Mở thêm các trường trung học nghề để phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp Trung học cơ sở không có điều kiện học lên Trung học phổ thông vào học các trường trung học nghề tại địa phương phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Thực hiện nghiêm túc nghị định 35/NĐ-CP của Chính phủ để bổ sung biên chế nhân viên phục vụ trong các nhà trường đặc biệt là nhân viên phụ trách thiết bị thí nghiệm. 1.3. Đối với huyện uỷ, UBND huyện Thanh Chương - Tăng cường chỉ đạo các cấp uỷ Đảng, chính quyền xã thực hiện nghiêm túc các đề án về giáo dục trên địa bàn huyện như đề án xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia, đề án kiên cố hoá trường lớp học, đề án phát triển ngành học Mầm non… - Chỉ đạo các ban ngành đoàn thể trong huyện làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục, làm cho công tác xã hội hoá giáo dục thực sự đi vào chiều sâu. Chỉ đạo thực hiện tốt công tác phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập Trung học cơ sở vững chắc trên địa bàn huyện. - Có chính sách thu hút số sinh viên tốt nghiệp các trường sư phạm đạt loại khá, giỏi về công tác tại huyện. Tăng cường xây nhà công vụ cho giáo viên để tạo điều kiện cho giáo viên ở xa có chỗ ở, ổn định, yên tâm công tác. 2. KẾT LUẬN Một xã hội phát triển, văn minh, giàu đẹp, một đất nước đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì không có con đường nào khác là đầu tư cho giáo dục. Bởi, nền giáo dục của một quốc gia nó sẽ quyết định sự thành bại của quốc gia đó. Một con người cụ thể muốn thành danh vọng, muốn góp ích cho xã hội thì con người đó phải có tri thức khoa học, có kỹ năng, kỹ xảo trong nghề nghiệp. Tri thức và kỹ năng, kỹ xảo đó có nguồn gốc từ giáo dục. Phải thực sự coi "giáo dục là quốc sách hàng đầu và đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển" thì mới có hiệu quả. Một con người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức là người vô dụng. Chính vì vậy, trong môi trường nhà trường phải biết kết hợp cả hai yếu tố đó để giáo dục và rèn luyện học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông nói chung và nâng cao chất lương giáo dục Trung học cơ sở nói riêng là điều kiện cơ bản để nâng cao dân trí, là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng cho việc đào tạo trẻ em trở thành công dân tốt của đất nước, là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, đặt cơ sở cho sự phát triển toàn diện con người Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do vậy, nó là nền tảng văn hoá, trí tuệ của đất nước, là sức mạnh tương lai của dân tộc. Trong những năm qua, sự nghiệp giáo dục và đào tạo huyện Thanh Chương đã đi vào ổn định và phát triển và thu được nhiều thành tựu đáng kể. Đảng bộ và nhân dân trong huyện đã quan tâm đầu tư cho giáo dục. Do vậy, các cấp học được duy trì, ổn định và từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Có được kết quả này là do có sự định hướng và chỉ đạo đúng đắn, có hiệu quả của Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện Thanh Chương; của Sở giáo dục và đào tạo Nghệ An, sự nỗ lực phấn đấu của ngành giáo dục Thanh Chương, sự quan tâm ủng hộ nhiệt tình của các cấp, các ngành trong toàn huyện. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, giáo dục Trung học cơ sở huyện Thanh Chương còn những hạn chế nhất định, đòi hỏi phải nâng cao chất lượng giáo dục để đáp ứng nhu cầu của thời kỳ mới. Việc nâng cao chất lượng giáo dục là một quá trình lâu dài, đòi hỏi cấp uỷ, chính quyền và toàn thể nhân dân trong huyện cùng quan tâm để tìm ra những bước đi đúng đắn, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của huyện. Vai trò có tính chất quyết định chất lượng giáo dục trước nhất là đội ngũ giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục. Họ là những người trực tiếp thực hiện công tác giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ, những chủ nhân tương tai cho đất nước. Để nâng cao chất lượng giáo dục Trung học cơ sở trên địa bàn huyện Thanh Chương trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần thực hiện tốt những giải pháp chủ yếu trên. Mỗi giải pháp có một vị trí và chức năng riêng, song các giải pháp đó có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Các giải pháp nêu trên phải được thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất mới có thể nâng cao chất lượng giáo dục Trung học cơ sở đáp ứng yêu cầu sự nghiệp giáo dục nói chung, của huyện Thanh Chương nói riêng trong giai đoạn hiện nay. Để các giải pháp đó có tính khả thi cao cần có sự chỉ đạo của cấp trên, sự phối hợp đồng bộ của các cấp, các ngành và sự nỗ lực của bản thân đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên bậc Trung học cơ sở huyện Thanh Chương. Với truyền thống anh hùng của Đảng bộ và nhân dân huyện Thanh Chương, với truyền thống hiếu học và học giỏi của nhân dân Thanh Chương, với ý thức xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh, lại có ánh sáng Nghị quyết của Đảng soi đường chỉ lối, chắc chắn trong những năm tới giáo dục và đào tạo huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An sẽ ngày càng phát triển, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng sự nghiệp cách mạng của địa phương trong thời kỳ mới ./. TÀI LIỆU THAM KHẢO Văn kiện Đại hội VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, 1996, Tr.210 Văn kiện Đại hội IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2001, Tr.127 C Mác - Ăngghen - Lênin - Xtalin: Bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, 1976, Tr21 Các Mác - Ăngghen - Lênin - Xtalin: Bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, 1976, Tr24 Các Mác - Ăngghen - Lênin - Xtalin: Bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, 1976, Tr37 Các Mác - Tư bản, Nxb Sự thật, Hà Nội 1960, quyển 1, tập 2, Tr 299 Lênin toàn tập, Nxb tiến bộ - Matxitcơva 1977, Tập 38, bản Tiếng Việt, Tr 118 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb chính trị Quốc gia, H.2002, trang 329 ĐCS VN - VKĐHTQ lần T9 - NXB CTQG 2001 - Tr2002 Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị tại Đại hội V, Nxb Sự thật, 1987, Tr18. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVI - tr.17 Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Thanh Chương, lần thứ 28. trang 9 Đề án số 02 của Ban Thường vụ huyện uỷ huyện Thanh Chương về công tác giáo dục. Văn kiện hội nghị lần thứ II – BCHTW khoá VIII, Nxb CTQG HN Nghị quyết 06-NQ/TW BCH TW khoá IX – trang 50 Báo cáo tổng kết năm học 2005-2006 đến 2009-2010 của Phòng GD&ĐT Thanh Chương, Nghệ An

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNâng cao chất lượng giáo dục Trung học cơ sở trên địa bàn huyện Thanh Chương trong tình hình hiện nay.doc
Luận văn liên quan