Nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp dệt may Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010

LỜI MỞ ĐẦU Bước vào thế kỷ XXI, nền kinh tế Việt Nam có nhiều khởi sắc sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Từ chỗ nền kinh tế không đáp ứng đủ nhu cầu cho nhân dân, đến nay Việt Nam được đánh giá là nước có mức tăng trưởng kinh tế cao nhất khu vực Đông Nam Á và đứng thứ hai thế giới sau Trung Quốc. Thành tựu to lớn trên có được một phần xuất phát từ đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc tập trung mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn, trong đó có ngành công nghiệp Dệt - May. Với lợi thế về lao động cùng các chính sách khuyến khích đầu tư trong nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam ngành Dệt May Việt Nam đã có những bước phát triển khá nhanh. Trong hơn 5 năm qua, Dệt May Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ với tốc độ phát triển bình quân ở mức hai con số và trở thành một trong những ngành kinh tế xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Các sản phẩm dệt may Việt Nam đã bước đầu tạo được vị thế trên thị trường trong và ngoài nước. Dệt May hiện đang sử dụng gần 5% lao động toàn quốc (hơn 20% lao động trong khu vực công nghiệp), đóng góp 8% GDP, kim ngạch xuất khẩu luôn đứng thứ hai (sau xuất khẩu dầu thô) và đóng góp hơn 16 % trong kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tuy nhiên đằng sau tốc độ tăng trưởng cao trong suốt những năm qua, ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đã và đang mắc phải rất nhiều những hạn chế. Nguyên phụ liệu dệt may nhập khẩu đến 90%, năng suất lao động thấp, vốn đầu tư sử dụng không hiệu quả trong khi hai ngành Dệt và May phát triển thiếu cân đối một cách trầm trọng làm cho chất lượng tăng trưởng yếu kém. Hơn nữa, hiện nay Việt Nam đang trên chặng nước rút gia nhập WTO, Dệt May Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội mới nhưng cũng rất nhiều những thách thức khi mà nội lực không thể đảm bảo cho một sự tăng trưởng có chất lượng cao. Mục tiêu phát triển ngành Công nghiệp Dệt May đến năm 2010 của Chính phủ là nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, từng bước đưa ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam thành ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, tăng nguồn ngoại tệ, góp phẩn tăng trưởng kinh tế, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước, tạo nhiều việc làm cho xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện những mục tiêu nói trên thì việc nghiên cứu thực trạng chất lượng tăng trưởng ngành Dệt May Việt Nam đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành Dệt May đóng một vai trò quan trọng. Nó phù hợp với yêu cầu thực tế của ngành, trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị bước vào một giai đoạn lịch sử mới của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO. Xuất phát từ thực tế yêu cầu đó, Luận văn Tốt nghiệp này đã tập trung nghiên cứu đề tài “ Nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 ”. Đề tài được thực hiện với mục đích nghiên cứu lý luận và ứng dụng vào thực tiễn ngành Dệt May Việt Nam, từ đó đề xuất các quan điểm, phương hướng và giải pháp để nâng cao chất lượng tăng trưởng cho ngành Dệt May trong thời gian tới. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong Chuyên đề bao gồm phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê mô tả, suy luận logic Kết cấu Luận văn bao gồm những phần sau: - Chương I: Đánh giá chất lượng tăng trưởng ngành Dệt May - Chương II: Thực trạng chất lượng tăng trưởng ngành Dệt May Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005 - Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành Dệt May Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010. Chuyên đề được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo GS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng, giảng viên Khoa Kế hoạch và Phát triển - trường Đại học Kinh tế Quốc dân và chú Hà Ngọc Quang, Trưởng Phòng Kinh tế Ngành - Vụ Tổng hợp Kinh tế quốc dân - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

doc118 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2889 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp dệt may Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông và tăng năng lự giao hàng. Đa dạng hoá và nâng cao đẳng cấp mặt hàng; phát triển các mặt hàng có giá trị gia tăng cao; những mặt hàng không chịu áp đặt hạn ngạch. Các nhà máy Việt Nam còn sản xuất phần lớn các mặt hàng sản phẩm trung bình như sơ mi, áo jacket, thể thao…từ vải bông, vải pha T/C, vải polyeste; tỷ lệ các mặt hàng có giá trị gia tăng thấp. Để đa dạng hoá và nâng cao đẳng cấp mặt hàng cần nâng cao kỹ năng quản lý về phát triển sản phẩm và giao hàng, chú trọng khâu thiết kế và công nghệ phù hợp. Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ cho ngành may trong các hoạt động, tạo các nguồn lực hỗ trợ nguồn nguyên liệu, phụ liệu cho ngành may xuất khẩu. Các hoạt động này có thể thực hiện thông qua việc xây dựng các trung tâm cung cấp nguyên phụ liệu; đầu tư mới một số nhà máy sản xuất phụ liệu; tăng cường các hoạt động thương mại; cung cấp thông tin thị trường, tư vấn và hỗ trợ kỹ thuật trong kiểm tra phân tích nguyên phụ liệu; tư vấn các rào cản kỹ thuật có thể gặp phải, cũng như từng bước phát triển công tác thiết kế mẫu mã, thúc đẩu ngành may xuất khẩu theo phương thức FOB và đồng thời mỏ rộng thị phần tại thị trường nội địa. Thứ hai, ưu tiên thứ hai là sản xuất vải và phụ liệu phục vụ may xuất khẩu. Trong sản xuất vải, khâu nhuộm – hoàn tất đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vải đáp ứng được yêu cầu của thị trường về giá cả và chất lượng, làm tăng lòng tin của khách hàng. Cạnh tranh về cung cấp hàng dệt sẽ ngày càng tăng. Từ sau năm 2005, thuế hàng dệt sẽ giảm, vải của các nước thuộc ASEAN có sức cạnh tranh sẽ được sử dụng tại Việt Nam. Chỉ những sản phẩm dệt có sức cạnh tranh quốc tế mới có thể tồn tại. Đầu tư vào sợi dệt là phải lựa chọn công nghệ nâng cao chất lượng, tạo ra các sản phẩm có chất lượng tốt, đặc biệt là khâu nhuộm. Với ngành dệt nhuộm, bên cạnh đầu tư thiết bị cần đặc biệt quan tâm tới việc chuyển giao công nghệ quản lý và vận hành máy. Trong giai đầu cần có tư vấn quốc tế, sau đó thay thế bằng các chuyên gia Việt Nam. Điều này xuất phát từ thực trạng thiếu hụt trình độ kỹ thuật trong nước đối với công đoạn nhuộm hoàn tất. Trong khi vải dệt sản xuất tại các công ty có vốn đầu tư nước ngoài có khả năng cạnh tranh tương đối thì vải của các doanh nghiệp dệt trong nước sản xuất ra lại không ổn định về chất lượng sản phẩm trong công đoạn nhuộm hoàn tất trong đó một phần là do chất lượng vải mộc bị biến động từ khâu nguyên liệu, kéo sợi và dệt vải. Sự thiếu tích luỹ kỹ thuật trong nước này là một trở ngại mang tính quyết định đến sự phát triển của ngành dệt Việt Nam. Công đoạn nhuộm hoàn tất đóng một vai trò rất quan trọng để ra đời những sản phẩm dệt có giá trị cao. Công đoạn nhuộm hoàn tất của Việt Nam mắc phải những hạn chế về màu sắc không đồng đều giữa các lô hàng, trong cùng một tấm vải, độ bền mầu còn thấp; và cả những hạn chế trong công đoạn hoàn tất để tạo ra các đặc tính chức năng và hình thức ngoại quan của vải. Xuất phát từ những hạn chế trên có thể thấy rằng ngành dệt không nên tập trung vào việc mở rộng về số lượng mà nên tập trung vào các khu vực trọng yếu làm tăng chất lượng sản phẩm và lòng tin khách hàng, ví dụ như khâu nhuộm và hoàn tất. Thứ ba, về phát triển nguồn nguyên liệu bông, xơ sợi tổng hợp Phát triển nguyên liệu bông xơ cũng cần được quan tâm song phải dựa trên khả năng phát triển của thị trường, cơ sở hạ tầng về tưới tiêu và năng lực sản xuất thực tế. Do còn những khó khăn chưa thể giải quyết về cơ sở hạ tầng cho sản xuất bông có tưới, chủ yếu dựa vào nước trời, cạnh tranh với các cây trồng khác ngày càng gay gắt nên giai đoạn 2006 – 2010 vừa phục hồi sản xuất bông ở các vùng truyền thống, vừa đẩy mạnh sản xuất ở các vùng có lợi thế. Khả năng phát triển diện tích bông xơ khả thi ở mức 20.000 tấn bông xơ vào năm 2010, với doanh thu khoảng 400 tỷ (25 triệu USD). Trong bối cảnh giá dầu mỏ tăng cao và năng lực cung xơ sợi tổng hợp quá cao so với nhu cầu sử dụng, việc đầu tư sản xuất xơ sợi tổng hợp chỉ hiệu quả ở mức đầu tư lớn và đi từ sản xuất chip, nên chỉ đầu tư nhà máy sợi Polyeste công suất khoảng 120.000 tấn hoặc kêu gọi đầu tư nước ngoài. Một số mục tiêu và phương hướng nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành Dệt May Mục tiêu chung: Phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong cả nước; tạo nhiều việc làm trong xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. Nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành dệt may nhằm đạt các mục tiêu: Dịch chuyển và tái cơ cấu lại nền kinh tế, đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các khu vực. Hình thành khu vực thiết kế, dịch vụ và thương mại dệt may nhằm lôi cuốn phát triển sản xuất tại các khu vực khác. Đảm bảo tạo nhiều việc làm Hướng tới sản xuất và kinh doanh các sản phẩm dệt may có giá trị gia tăng cao phục vụ xuất khẩu và đáp ứng thị trường nội địa. Đảm bảo doanh nghiệp phát triển bền vững cùng với môi trường bền vững. Một số mục tiêu cụ thể b.1. Mục tiêu về tăng trưởng Chỉ tiêu Giai đoạn 2006-2010 Tăng trưởng bình quân 15 -16 % - Tăng trưởng xuất khẩu hàng năm 15-16% Có thể thấy rằng mục tiêu tăng trưởng này của ngành dệt may là có thể đạt được trong giai đoạn tới. Trong 4 năm liên tục, từ năm 2001 cho đến năm 2005, tốc độ tăng trưởng của ngành dệt may luôn đạt trên 16%. Sang năm 2006 nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành công nghiệp dệt may Việt Nam nói riêng sẽ có được nhiều cơ hội mới. Điều này hứa hẹn một tốc độ tăng trưởng cao cho ngành trong giai đoạn 2006 – 2010. Bảng 11: Mục tiêu tăng trưởng của ngành dệt may Chỉ tiêu Đơn vị 2004 2005 2010 GDP triệu USD 45.477 49.297 71.766 Tốc độ tăng GDP % - 8,4 7,8 GDP/người USD/người 554,6 587 763 Tốc độ tăng dân số % - 2,44 2,28 Dự báo dân số VN tr. người 82 84 94 Doanh thu nội địa triệu USD 1.180 1.300 2.800 Tiêu thụ dệt may/người VN USD/người 14.39 15,48 29,79 Tốc độ tăng tiêu thụ dệt may/năm % - 7,55 13,99 Tỷ lệ tiêu thụ dệt may/GDP/người % 2,59 2,64 3,9 Bình quân tiêu thụ/năm m2 vải/ng 9,5 10,22 14,75 Nguồn: Hiệp hội Dệt May Việt Nam b.2 Mục tiêu về chi phí trung gian - Về nguyên phụ liệu Về nguồn nguyên liệu bông, từ đầu năm 2001 Chính phủ đã đặt ra mục tiêu nâng diện tích trồng bông từ 33.000 ha hiện nay lên 120.000 ha vào năm 2010, nhằm đưa sản lượng bông xơ lên 20.000 tấn vào năm 2010. Về nguồn nguyên liệu sợi, giai đoạn từ nay đến năm 2010 hứa hẹn sự cải thiện trong việc cung cấp nguồn nguyên liệu quan trọng này với việc nhà máy lọc dầu Dung Quất dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào năm 2009 và nhà máy lọc dầu Nghi Sơn dự kiến triển khai xây dựng trước năm 2010. Công nghiệp hóa dầu phát triển sẽ kéo theo các nhà máy xơ sợi tổng hợp cho ngành dệt may. Khi đó ngành dệt may Việt Nam sẽ được đáp ứng 50% nguồn nguyên liệu xơ sợi từ trong nước. Bảng 13: Các chỉ tiêu chủ yếu của ngành dệt may giai đoạn 2006 – 2010 Chỉ tiêu Đơn vị Thực hiện Mục tiêu Tính 2004 2005 2010 Doanh thu Nội địa Xuất khẩu Triệu USD Triệu USD Triệu USD 5.566 1.180 4.386 6.100 1.300 4.830 12.800 2.800 10.000 2. Sử dụng lao động Ngàn người 2000 2.100 2.500 3. Sản phẩm chính - Bông xơ - Sợi tổng hợp - Sợi - Vải - SP dệt kim - SP may 1000 tấn 1000 tấn 1000 tấn Triệu m2 Triệu SP Triệu SP 10,5 - 239,0 518,2 142,2 926,0 11 - 260 600 150 1.100 20 260 350 1.000 230 1.800 4. Tỷ lệ nội địa hoá % 32 38 45 Nguồn: Hiệp hội Dệt May Việt Nam Về nguồn phụ liệu, một điểm yếu của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam, bên cạnh những cường quốc dệt may như Trung Quốc, sẽ rất khó có cơ hội tạo ra thị trường xuất khẩu cho công nghiệp sản xuất phụ liệu dệt may từ nay cho đến năm 2010. Trong giai đoạn này chúng ta chỉ nên tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ dệt may với mục tiêu thay thế một phần nhập khẩu. Khả năng có thể xuất khẩu sản phẩm hỗ trợ dệt may chỉ có thế xuất hiện sau năm 2015, khi ngành công nghiệp hoá dầu đã được đầu tư và Chương trình quốc gia về công nghiệp cơ khí chế tạo đã phát huy tác dụng, các nhà máy nguyên phụ liệu dệt may FDI được xây dựng trong giai đoạn 2006 – 2010 phát huy hết công suất sản xuất. Danh mục một số dự án đầu tư được nêu dưới đây sẽ giúp ta thấy được rõ khả năng phát triển của công nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành dệt may. Bảng 14: Danh mục một số dự án đầu tư Đơn vị: Tỷ đồng Năm 2010 Năm 2015 Năm 2020 Cơ khí dệt may 784 208 16 Hoá chất 2.320 2.640 2.960 Phụ liệu may 624 32 3.712 Tổng 3.728 2.880 6.688 Nguồn: Hiệp hội Dệt May Việt Nam Về các chi phí trung gian khác Theo như đã phân tích trong phần trước, chi phí vận chuyển ở Việt Nam cao hơn nhiều lần so với các nước khác nên khi xuất khẩu ra thị trường thế giới, giá cả sản phẩm dệt may Việt Nam bị đội lên khá cao. Trong thời gian tới, chính phủ sẽ điều chỉnh một số loại chi phí cầu cảng, chi phí đường bộ cùng với việc nâng cấp cơ sở hạ tầng. Việc cải thiện tình trạng này có thể sẽ giúp doanh nghiệp hạ giá thành vận chuyển ít nhất là 30%. Gần đây, Hiệp hội Dệt may Việt Nam đã kiến nghị tới Chính phủ nhằm qui hoạch lại các cảng biển và đặc biệt lưu ý các cảng cho tầu công-ten-nơ, nên cổ phần hoá việc điều hành cảng để tạo nên sự cạnh tranh và giúp các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hạ chi phí. Về phí công đoàn, nếu như theo quy định của Nhà nước trước đây, phí này là do chủ doanh nghiệp đóng, vì vậy sẽ chiếm một phần lớn trên đơn giá sản phẩm. Theo xu hướng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, phương hướng để giải quyết tình trạng bất lợi cho chủ doanh nghiệp này là công đoàn viên sẽ tự đóng công đoàn phí thay vì chủ doanh nghiệp sẽ đóng toàn bộ. Đối với chi phí hạn ngạch, bản chất là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội nên đây là khoản chi phí rất khó kiểm soát. Vì Việt Nam được dự đoán là sẽ gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới WTO vào năm 2006 nên chi phí này sẽ không còn do hạn ngạch dệt may sẽ không còn áp dụng đối với các nước thành viên WTO từ sau năm 1/1/2005. b.3 Về mối quan hệ giữa hai ngành Dệt và May Để khắc phục tình trạng lạc hậu trầm trọng của ngành Dệt so với ngành May cần phải tăng cường đầu tư cho ngành Dệt phát triển nhanh hơn gấp nhiều lần. Trong đó chú trọng khâu sản xuất dệt, nhuộm, hoàn tất vải và phụ liệu cung cấp cho may xuất khẩu. Với nhu cầu sử dụng vải là hơn 3,5 tỷ m2/năm vào năm 2010, dự kiến vẫn phải nhập khẩu khoảng 60%, để đảm bảo năng lực sản xuất trong nước đạt 1 tỷ m2/năm vào năm 2010 thì ngành dệt may phải đầu tư cho khâu dệt, nhuộm vải khoảng 2,3 tỷ USD. b.4 Về khả năng cạnh tranh của sản phẩm Có thể thấy tình hình phát triển công nghiệp dệt may thế giới và khu vực sau khi bãi bỏ hạn ngạch đang có nhiều biến động. Cạnh tranh trong lĩnh vực dệt may ngày càng trở nên gay gắt hơn gấp bội. Đối thủ lớn nhất của dệt may Việt Nam là Trung Quốc trên cả hai mặt trận nội địa lẫn xuất khẩu. Trung Quốc là nước đã hội nhập nhanh và sản xuất tất cả các loại đầu vào có thể sử dụng trong sản xuất đồ may mặc với giá thành rẻ...Trung Quốc dễ đạt tới tính kinh tế do sản xuất quy mô lớn mang lại, chi phí sản xuất ở Trung Quốc thấp và Trung Quốc có thể chủ động được về công nghệ và tư liệu sản xuất nhờ vào tiềm lực khoa học công nghệ khá do doanh nghiệp dệt may Trung Quốc đã có sự chuẩn bị đầu tư mạnh mẽ vào tài sản cố định, phát triển công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh khi chuẩn bị gia nhập WTO. Phương hướng cho ngành dệt may Việt Nam là tập trung làm thế nào để cạnh tranh với Trung Quốc tại các thị trường thứ ba hơn là làm thế nào để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Việt Nam cũng cần chủ động tranh thủ những kẽ hở của hàng xuất khẩu Trung Quốc đồng thời tạo ra khả năng cạnh tranh bằng những nét độc đáo, riêng có của sản phẩm Việt Nam. Về dài hạn, những biện pháp cải cách sẽ có vai trò tối quan trọng, bởi vì khi cơ chế thị trường được đẩy sâu và phát triển rộng khắp hơn thì các ngành sản xuất Việt Nam mới có điều kiện nhận rõ và phát huy các lợi thế cạnh tranh của mình trước hàng xuất khẩu của Trung Quốc. b.5 Về khả năng mở rộng thị trường Đối với thị trường nội địa, cùng với mức thu nhập của người dân Việt Nam ngày một nâng cao thì chi phí dành cho hàng dệt may cùng được tăng lên, hứa hẹn một dung lượng thị trường nội địa khá lớn trong những năm tới. Mục tiêu của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2010 là dung lượng thị trường bán lẻ nội địa tăng ở mức 15%/năm. Đối với thị trường xuất khẩu, mặc dù trong những năm qua, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam có những bước nhảy vọt nhưng thị phần trên thị trường quốc tế còn rất nhỏ bé (3,2% thị trường Mỹ, 0,95% thị trường EU và 2,9% thị trường Nhật Bản). Gia nhập tổ chức WTO sẽ mang lại cho dệt may Việt Nam nhiều cơ hội được tiến sâu hơn nữa vào 3 trung tâm kinh tế lớn này của thế giới, giống như Trung Quốc đã được hưởng lợi vài năm trước đây và bây giờ Trung Quốc đã chiếm 28% tổng kim ngạch xuất khẩu quần áo và 15,8% tổng kim ngạch hàng dệt thế giới. Phương hướng cho ngành dệt may Việt Nam trong những năm tới là thúc đẩy chiếm lĩnh các thị trường khó tính trên thế giới như Mỹ, EU và Nhật Bản. Mục tiêu về tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 là 15 - 16%, trong đó chú trọng nhiều nhất vào thị trường Mỹ. b.6 Về vấn đề bảo vệ môi trường Như trên đã phân tích, vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay là khâu yếu nhất của ngành công nghiệp dệt may. Vì vậy, phương hướng trong thời gian tới là phải thúc đẩy và tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong các doanh nghiệp dệt may nhằm hướng tới nâng cao chất lượng tăng trưởng cho ngành. Phương hướng này được đề ra xuất phát từ hai nguyên nhân sau đây: Sự phát triển của ngành dệt may kéo theo sự gia tăng đáng kể các loại chất thải cả về khối lượng cũng như mức độ nguy hại, gây ô nhiễm môi trường, có thể gây hậu quả tiêu cực cho môi trường tự nhiên và ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe con người. Trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, từ 1/1/2005, chế độ hạn chế nhập khẩu bằng hạn ngạch đã dỡ bỏ với các nước thành viên của tổ chức WTO. Theo đó các nước sẽ tăng cường sử dụng các hàng rào phi thuế quan để hạn chế nhập khẩu từ các nước đang phát triển như yêu cầu về nhãn mác sinh thái, yêu cầu về môi trường và điều kiện lao động v.v…Mặt khác Việt Nam đã ban hành luật môi trường không chỉ là vấn đề chủ quan mà còn là yêu cầu đối với ngành dệt may. Vì vậy tăng tốc đầu tư phát triển ngành dệt may gắn liền với vấn đề bảo vệ môi trường là một thực tế khách quan đối với ngành dệt may Việt Nam. Đáp ứng các yêu cầu về môi trường để hội nhập kinh tế quốc tế và hạn chế các tác động tiêu cực từ mặt trái của toàn cầu hoá, trong những năm tới cần thực hiện được các mục tiêu cụ thế sau: Cập nhật các chính sách cũng như các yêu cầu về môi trường của các thị trường tiềm năng của ngành dệt may Việt Nam Đảm bảo 100% máy móc, thiết bị đã qua sử dụng, nhập khẩu vào nước ta phải được kiểm định. IV. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 - 2010 1. Giải pháp phát triển nguồn nguyên - phụ liệu Về mặt chiến lược lâu dài, xây dựng và phát triển cơ sở nguyên - phụ liệu trong nước được coi là một trong những vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết nhằm tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm dệt may, nâng cao giá trị gia tăng trong tổng giá trị của sản phẩm. Đối với nguyên liệu cho ngành Dệt – May, sản phẩm của công nghiệp Dệt được dùng làm nguyên liệu chính cho công nghiệp May. Hiện nay, sản phẩm của công nghiệp Dệt trong nước không đảm bảo được yêu cầu về chất lượng và số lượng cho công nghiệp May hàng xuất khẩu. Bởi vậy, giải quyết nguyên liệu cho công nghiệp May nghĩa là phải đảm bảo nguyên liệu cho công nghiệp Dệt và Sợi. Trong các loại nguyên liệu thì Việt Nam có điều kiện tốt nhất trong phát triển hai loại nguyên liệu là bông xơ và tơ tằm. Do đó cần tập trung phát triển hai nguồn nguyên liệu này trong tương lai thông qua các giải pháp sau đây: Để chủ động nguyên liệu cho dệt may cần các chính sách quy hoạch vùng trồng nguyên liệu để đảm bảo không chỉ mở rộng diện tích trồng bông, dâu mà còn tăng năng suất chất lượng. Có thể mở rộng diện tích trồng bông theo các cách sau: Trồng xen canh với các loại cây ngắn ngày khác như ngô, đậu… Khuyến khích nông dân chuyển sang trồng bông vì đây là ngành đòi hỏi đầu tư thấp, nhanh thu hoạch, đầu ra đã có sẵn (được các công ty bông bao tiêu sản phẩm), được Chính phủ trợ giúp về mặt kỹ thuật, vốn, sử dụng đất giúp nông dân ổn định sản xuất, ổn định lợi nhuận. Hình thành các khu trồng bông lớn, sử dụng các giống bông có năng suất cao, chất lượng tốt, áp dụng mô hình trang trại trồng bông ở một số địa phương. Để đảm bảo tính chủ động, Nhà nước không đưa ra chỉ tiêu cứng về diện tích trồng nguyên liệu cho từng vùng mà chỉ làm nhiệm vụ khuyến cáo và đầu tư cơ sở hạ tầng cho vùng quy hoạch phục vụ cho cây nguyên liệu và không chịu trách nhiệm về những thiệt hại nếu có khi nông dân không thực hiện theo quy hoạch. Gắn kết các tác nhân tham gia sản xuất cây nguyên liệu. Khuyến khích doanh nghiệp, nhà khoa học, nông dân cùng hợp tác trong sản xuất nguyên liệu với việc phân phối hài hoà lợi ích giữa các bên tham gia. Về khoa học kỹ thuật phải tiếp tục hoàn thiện về giống cây, con như các giống bông lai, giống dâu, giống tằm. Bên cạnh nhiệm vụ sản xuất giống, công tác xác định thời vụ, chế độ chăm sóc, công tác phòng trừ dịch bệnh cần tiếp tục được quan tâm. Các công ty bông tiếp tục cung cấp giống, thuốc trừ sâu bệnh, một phần phân bón cho nông dân. Sau khi thu hoạch, các hộ nông dân sẽ trả lại vốn đầu tư ban đầu cho công ty bằng sản phẩm. Nhà nước tăng thêm đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật về phát triển giống và công tác khuyến nông. Sử dụng giải pháp tăng năng suất bông hạt bằng cách: Lai tạo các giống bông cho năng suất cao. Áp dụng các phương pháp phòng trừ sâu bệnh mới, hiệu quả cao. Nghiên cứu về chất đất, môi trường sinh thái nhằm lựa chọn giống bông thích hợp với từng vùng khác nhau để cây bông dồn sự phát triển vào hạt bông. Nghiên cứu để kéo mùa thu hoạch bông về mùa khô, vừa cho năng suất bông hạt cao, vừa đảm bảo chất lượng Liên doanh với ngành tơ tằm để đầu tư xây dựng nhà máy kéo sợi Spunsilk cung cấp cho ngành dệt. Thành lập các quỹ hỗ trợ cây bông, dâu tằm tơ phát triển. Tăng cường thu hút đầu tư của nước ngoài đồng thời huy động các nguồn vốn trong nước đầu tư sản xuất các sản phẩm hoá dầu phục vụ cho dệt may. Nguyên phụ liệu là khâu yếu nhất trong ngành Dệt – May. So với May, ngành Dệt đòi hỏi vốn đầu tư lớn hơn, rủi ro nhiều hơn mà hiệu quả trực tiếp không cao. Vì vậy cần có chính sách thu hút FDI vào lĩnh vực này nhằm chủ động chủ động về nguồn nguyên liệu thay thế nhập khẩu và hoàn tất dây chuyền sản xuất sơi - dệt - nhuộm – may để nâng cao tỷ lệ nội địa hoá, tạo giá trị gia tăng cao trong sản phẩm dệt may Việt Nam. Đối với phụ liệu cho ngành may, hiện nay tại Việt Nam chỉ có một số các cơ sở nhỏ sản xuất một số chủng loại phụ liệu may chính như cúc nhựa, khoá kéo, chỉ may, mếch dính, bao bì, nhãn mác; không thể đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu nội địa mà còn không đáp ứng được về chất lượng của các đơn đặt hàng từ các thị trường lớn như thị trường Mỹ. Để khắc phục tình trạng này có thể thực hiện một số giải pháp sau đây: Tạo dựng môi trường đầu tư, khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh các sản phẩm làm phụ liệu cho dệt may Tập trung vốn đầu tư cho các dự án đột phá cho từng doanh nghiệp trọng yếu đã được xác định như các trung tâm tạo mẫu và các vùng công nghiệp phụ trợ, các cơ sở sản xuất phụ liệu cho ngành dệt may. Cần xây dựng các công trình phát triển công nghiệp phụ trợ và công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng các danh mục sản phẩm hỗ trợ dự kiến phát triển để thu hút sự tham gia, phát huy tính chủ động trong công việc này của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Mở rộng thị trường tiêu thụ phụ liệu ngành may cả tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Phát triển mạnh hệ thống tiếp thị, phát triển thương mại, xúc tiến đầu tư quốc tế. Ngoài việc củng cố và mở rộng những thị trường truyền thống, cần có các giải pháp khuyến khích các thành phần kinh tế kể cả tư nhân trong các hoạt động phát triển thị trường. Tổ chức và hỗ trợ thành lập các trung tâm tiếp thị tìm kiếm thị trường tiêu thụ và đối tượng cung cấp sản phẩm hỗ trợ trong và ngoài nước, làm cầu nối giữa các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt là giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp nội địa. Đồng thời hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính để điều tiết dung lượng thị trường nội địa, nâng cao sức mua của thị trường nội địa để phát triển sản xuất chính và cũng là gián tiếp phát triển công nghiệp hỗ trợ. Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện các cơ sở giao thông, vận tải như các bến cảng, sân bay, đường sắt, đường bộ, giao thông đô thị, hình thành các kho tàng, điểm tập trung hàng hoá ở các vùng Kinh tế trọng điểm để gia tăng điều kiện hỗ trợ phát triển công nghiệp. Ưu tiên và ưu đãi việc xây dựng một số khu, cụm công nghiệp hỗ trợ ở các vùng kinh tế trọng điểm với mục tiêu để các dự án công nghiệp hỗ trợ nằm trong các khu, cụm công nghiệp này sẽ được ưu tiên, ưu đãi về thuế, tiền thuê đất và các dịch vụ khác với mức hấp dẫn cao hơn so với ở nơi khác. Giải pháp về thiết bị và công nghệ Tiếp tục duy trì thiết bị, công nghệ sử dụng nhiều lao động nhằm tận dụng ưu thế về nguồn lao động của Việt Nam. Trong thời gian vừa qua, ngành Dệt – May đã thực hiện đầu tư công nghệ theo chính sách “ hai tầng”: tầng đầu tư vốn và tầng nhiều lao động. Bên cạnh việc đầu tư mới các thiết bị công nghệ hiện đại nhằm sản xuất các mặt hàng chất lượng cao, ngành vẫn duy trì thiết bị công nghệ cũ. Không những thế, trong những năm khủng hoảng kinh tế khu vực, do nhiều doanh nghiệp nước ngoài lâm vào tình trạng phá sản nên Việt Nam đã mua được một số thiết bị công nghệ second – hand với giá rẻ nhưng vẫn sử dụng tốt. Trong những năm tới, chính sách này của ngành Dệt – May nên tiếp tục được thực hiện. Chúng ta không có đủ nguồn vốn để có thể đầu tư mới đồng loạt các thiết bị công nghệ tiên tiến. Việc đào tạo cán bộ, công nhân để tiếp thu công nghệ mới và sử dụng có hiệu quả các thiết bị cũng không thể thực hiện ngay được. Mặt khác các thiết bị cũ vẫn còn sử dụng được, nếu loại bỏ sẽ vô cùng lãng phí, nó còn góp phần giải quyết việc làm rất hữu hiệu. Tất nhiên, việc đầu tư thiết bị và công nghệ mới là rất cần thiết nhưng nó sẽ được thực hiện từ từ, đồng thời với việc thanh lý các thiết bị công nghệ quá cũ không thể sử dụng được nữa. Đầu tư công nghệ mới nhằm đáp ứng những đòi hỏi của thị trường. Nhờ công nghệ cao, ngành Dệt – May đã sản xuất được những mặt hàng cao cấp. Tuy nhiên, lượng mặt hàng này chưa nhiều, mới chiếm tỷ lệ khoảng 20 – 25%, còn lại khoảng 75-80% giá trị xuất khẩu là các mặt hàng cấp thấp và xuất dưới hình thức gia công là chủ yếu. Giá các sản phẩm gia công trong những năm qua thường thấp, trong khi giá máy móc, thiết bị phụ tùng, hoá chất, thuốc nhuộm, phụ liệu may mặc… lại cao. Sự cố gắng đạt được cán cân thương mại thông qua xuất khẩu hàng hoá trong tình hình tiềm lực công nghệ của ngành Dệt – May nước ta không cao (thiếu kỹ năng cần thiết để xác định và đánh giá công nghệ nhập) nên rất dễ bị “ lép vế ” trong đàm phán mua bán công nghệ, dễ gặp rủi ro khi nhập công nghệ không phù hợp. Vì vậy đối với ngành Dệt – May nước ta, việc nhập công nghệ không thể thay thế và việc tự tạo công nghệ là hai vấn đề song song cần làm. Trong quá trình chuyển giao các công nghệ mới cần chú ý: Lựa chọn kỹ càng công nghệ nhập Cần chủ động lập kế hoạch nhập khẩu công nghệ theo đòi hỏi của sản xuất. Tự tìm kiếm thiết bị công nghệ kết hợp với sự giới thiệu của các hãng nước ngoài khi nhập công nghệ. Nhập công nghệ về cần phải chú ý tới tính đồng bộ để phát huy hiệu quả sản xuất tối đa (giữa các công nghệ nhập, giữa công nghệ nhập với công nghệ đang sử dụng). Tạo đủ điều kiện, tiền đề cần thiết trước khi nhập thiết bị công nghệ (cơ sở hạ tầng, vốn, lao động…), tránh tình trạng thiết bị công nghệ nhập về đắp chiếu nằm chờ được đưa vào sử dụng. Nhập những thiết bị công nghệ với khoảng cách không quá xa về trình độ so với công nghệ của ngành hiện tại, nếu không sẽ rất khó duy trì và mở rộng. Trong khi nền kinh tế nước ta còn kém phát triển thì việc nhập khẩu thiết bị công nghệ quá cao thường vượt quá khả năng sử dụng khiến hiệu quả đầu tư thấp. Tổ chức cơ quan kiểm tra, giám sát công nghệ nhập cho toàn ngành. Thực hiện “đồng hoá” công nghệ nhập Các máy móc nhập về cần được duy trì sản xuất hàng ngày ( gồm vận hành và bảo dưỡng định kỳ). Tự thiết kế, chế tạo những phụ tùng hay hỏng nếu có thể. Phát huy hết công suất của thiết bị nhập về. Những năm trước đây, ngành Dệt – May Việt Nam đã từng thực hiện một số bước “đồng hoá” công nghệ nhập thành công. Đó là việc ngành tự chế tạo được một phần lớn phụ tùng cho máy dệt 1511M của Trung Quốc và máy dệt Sakamoto của Nhật. Một số nhà máy đã cải tiến bộ lăng trụ máy dệt khăn mặt, cải tiến máy dệt khổ hẹp thành máy dệt khổ rộng. Ngành cũng đã tự chế tạo được một số máy ở một số công đoạn: máy xe sợi len, máy sản xuất dây go, máy sản xuất khổ dệt, máy hồ mắc, máy dệt kiểu 1511M, máy dệ kiểu Sakamoto, máy dệt to, máy dệt khăn mặt, máy kiểm vải, máy tẩy nhuộm BC-3, máy dập nút đồng, máy hồ cổ áo, máy xé khổ, máy cắt vòng…Tuy nhiên, lượng máy này không nhiều (chỉ chiếm khoảng 2,4%) lại mới chỉ chế tạo theo loại hình đơn chiếc. Các máy móc dù là nhập về hay tự chế tạo đều phải mang tính ứng dụng cao. Nó phải tạo ra những sản phẩm không chỉ để xuất khẩu mà còn đáp ứng được thị trường trong nước. Coi trọng phần mềm trong phát triển công nghệ. Tăng cường phần thông tin sẽ cho phép hiểu thấu đáo thiết bị và giúp con người sử dụng nó một cách có hiệu quả. Có làm chủ được kỹ thuật mới, sử dụng một cách thành thạo thì từ đó mới nảy ra các sáng chế, cải tiến được. Bởi vậy khi tiếp nhận máy móc cần phải tiếp nhận cả kiến thức và kinh nghiệm của bên giao. Tất nhiên khi tiếp nhận máy móc, thiết bị ta biết cách vận hành và bảo trì chúng theo đúng quy trình. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, việc chuyển giao công nghệ mới chỉ là chuyển giao năng lực vận hành và bảo dưỡng các hệ thống sản xuất chứ chưa thể có năng lực thiết lập hoặc mở rộng hệ thống sản xuất, chưa thể phát triển các mặt hàng và quy trình sản xuất. Việc tiếp nhận công nghệ đầy đủ nhiều khi rất tốn kém nếu mua trực tiếp từ bên giao ngoài hợp đồng mua thiết bị. Ngành có thể thực hiện nhiều cách khác rẻ hơn như mua tư liệu về tự nghiên cứu, thuê chuyên gia đào tạo cán bộ, công nhân về các lĩnh vực cần thiết, về phần tổ chức quản lý có thể đi tham quan khảo sát nước ngoài. Việc tiếp nhận công nghệ có thể thực hiện dưới nhiều hình thức như mua, nhận viện trợ, nhận công nghệ cùng nguyên liệu làm gia công sản phẩm cho các công ty nước ngoài, chuyển giao bằng hình thức liên doanh…Trong nước cũng cần thực hiện chuyển giao công nghệ với mọi thành phần kinh tế. Điều đó có nghĩa là những thiết bị công nghệ được thay thế ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước nên chuyển giao lại cho các cơ sở sản xuất ngoài quốc doanh, đặc biệt là các cơ sở sản xuất tư nhân. Với tính năng động vốn có, các doanh nghiệp tư nhân thường thành công trong việc cải tiến các thiết bị cũ và đưa vào hoạt động sản xuất một cách hiệu quả. Bên cạnh đó ngành Dệt – May cũng cần chú ý tạo ra công nghệ nội sinh bằng cách: Tự thiết kế lấy máy móc để phát triển sản xuất ( trừ trường hợp máy làm ra đắt hơn máy nhập khẩu), cải tiến, nâng cao năng suất máy cho phù hợp với điều kiện Việt Nam và phù hợp với đặc trưng của thị trường. Khuyến khích tạo ra các bí quyết sản xuất những mặt hàng mới. Ngoài ra còn một số giải pháp khác đối với việc đầu tư phát triển công nghệ: Tăng cường các viện nghiên cứu. Tập trung vốn nghiên cứu ứng dụng và phát triển các công nghệ đã được chuyển giao. Tổ chức hệ thống thông tin kinh tế - xã hội công nghệ ngành Dệt – May Xây dựng kho thông tin khoa học công nghệ ngành Dệt – May. Tăng cường các trường đào tạo, đẩy mạnh liên kết giữa ngành Dệt – May với các trường đào tạo. Củng cố đầu tư trang thiết bị, đầu tư chất xám cho các nhà máy cơ khí trong ngành. Hình thành thị trường công nghệ dệt may và có các chính sách khuyến khích phát triển thị trường công nghệ Dệt – May. Giải pháp về nguồn nhân lực Nhân lực là nền tảng của tăng trưởng. Kinh nghiệm của các quốc gia phát triển trên thế giới đã chỉ rõ điều đó. Ngành dệt may có lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ nhưng năng suất lao động còn thấp. Hàng triệu lao động nhưng chủ yếu là tự đào tạo, thiếu bài bản nên tình trạng thiếu lao động có tay nghề tiếp tục phổ biến. Số lượng công nhân có tay nghề cao còn thấp, số cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật được đào tạo đúng với thực tiễn càng hiếm hơn. Các cơ sở đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp. Vì vậy tăng cường đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn lao động là chiến lược lâu dài để nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành dệt may. Để đáp ứng yêu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm, thời gian giao hàng và để tăng năng suất thì việc trang bị các kỹ năng quản lý là rất cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Cán bộ quản lý kinh tế - kỹ thuật cần thường xuyên được bồi dưỡng và sát hạch nghiệp vụ; áp dụng các kỹ năng quản lý tiên tiến để nâng cao hiệu quả quản lý ở các doanh nghiệp dệt may. Cung cấp các khoá đào tạo về kỹ năng bán hàng. Đào tạo các chuyên gia marketing ( bao gồm các kỹ năng thiết kế, làm mẫu, bán hàng ) là rất quan trọng đối với các nhà máy sản xuất hàng may mặc ở Việt Nam để tăng giá trị gia tăng. Đối với khâu thiết kế sản phẩm: Đây là khâu yếu của ngành dệt may Việt Nam. Đội ngũ các nhà thiết kế mẫu, mốt mới được đào tạo trong những năm gần đây và còn ít kinh nghiệm thực tế. Để nhanh chóng nắm bắt với trình độ quốc tế, cần tập trung đầu tư mạnh cho đội ngũ thiết kế cả trình độ kiến thức và cơ sở vật chất cho thực hành, đẩy mạnh các hoạt động giao lưu cả trong và ngoài nước để học hỏi và trao đổi kinh nghiệm. Mở rộng hệ thống đào tạo chuyên ngành dệt may. Xây dựng mới trường đào tạo cán bộ quản lý kinh tế - kỹ thuật chuyên ngành dệt may với các nội dung tập trung cho quản lý sản xuất, quản lý chất lượng, phát triển sản phẩm, thương hiệu và kỹ thuật bán hàng v.v…Việc thiết lập và đưa vào hoạt động tổ chức đào tạo mới này phải căn cứ trên cơ sở các yêu cầu và tiềm năng trong tương lai, trong đó giải quyết các vấn đề khó khăn trong hệ thống đào tạo: thiếu tài liệu về quản lý trong lĩnh vực dệt may; đào tạo những chuyên gia đào tạo; bổ sung các thiết bị đào tạo. Đối với người lao động: cần được quan tâm để không ngừng nâng cao tay nghề, đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của thị trường cả trong và ngoài nước; đẩy mạnh hoạt động đào tạo công nhân lành nghề trong từng lĩnh vực trong dây chuyền sản xuất; cải thiện điều kiện làm việc và nâng cao thu nhập cho người lao động. Khuyến khích các doanh nghiệp lớn tổ chức các trung tâm đào tạo để tự đào tạo lực lượng lao động cho doanh nghiệp mình và các doanh nghiệp cùng ngành nghề khác trong khu vực. Bên cạnh đó, để mở rộng thị trường xuất khẩu cần đào tạo những chuyên gia pháp luật những người có khả năng am hiểu kinh doanh quốc tế, có đầy đủ trình độ để tư vấn và hỗ trợ trong hợp tác và kinh doanh quốc tế (am hiểu về khung pháp luật, đặc biệt các luật của Mỹ như luật bản quyền, luật chống phá giá, luật chống độc quyền, luật bảo vệ người tiêu dùng, các quy định về an toàn sản phẩm, bảo vệ môi trường và hải quan…) Hợp tác với các đơn vị, trường học trong và ngoài nước để thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo những kỹ sư chuyên ngành, công nhân kỹ thuật để bổ sung cho nguồn nhân lực hiện tại và cung cấp nhân lực cho các khu công nghiệp dệt may. Thực trạng thiếu nguồn cung cấp cán bộ kỹ thuật, kỹ sư công nghệ sản xuất trong lĩnh vực sợi - dệt - nhuộm cho các doanh nghiệp cũng lỹ giải cho khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam thời gian qua. Do đó cần đẩy mạnh việc đào tạo kỹ sư, công nhân trong lĩnh vực sợi - dệt - nhuộm. Phối hợp với các trường đại học để có chương trình đào tạo phù hợp với những dự án đầu tư theo chiều sâu. Các doanh nghiệp và trường cần có chính sách khuyến khích sinh viên theo học các ngành thuộc lĩnh vực dệt may ( công nghiệp sợi, dệt, nhuộm, hoá…) và chú trọng phát triển đội ngũ thiết kế thời trang. Hợp tác với nước ngoài mở trường đào tạo kỹ sư, nhà thiết kế, công nhân lành nghề cho ngành dệt may. Bên cạnh đó cần đầu tư nâng cao khả năng đào tạo, cơ sở vật chất cho giảng dạy và thực hành. Ngoài những chính sách về đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động, vấn đề ổn định, chăm lo và cải thiện đời sống công nhân qua cơ chế lương thưởng cũng là một vấn đề quan trọng không chỉ tạo cơ hội cho người lao động nâng cao năng suất lao động của bản thân mà còn tạo sự gắn kết lâu dài giữa người lao động với doanh nghiệp. Giải pháp về vốn Để ngành Dệt May thực hiện được các mục tiêu tăng trưởng trong giai đoạn 2006 – 2010 đòi hỏi cần phải có một lượng vốn đủ lớn, khoảng 3 tỷ USD, trong đó: Vốn đầu tư phát triển nguyên liệu dệt: 180 triệu USD Vốn cho các dự án dệt nhuộm: 2275 triệu USD Vốn cho các dự án may: 443 triệu USD Vốn cho các trung tâm thương mại dịch vụ: 14 triệu USD Vốn cho các trung tâm nghiên cứu triển khai, đào tạo: 96 triệu USD Việc tìm ra giải pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển là vấn đề lớn và cấp thiết, có tính quyết định tới việc đạt mục tiêu của ngành. Các nguồn vốn quan trọng được tính đến là từ các nhà đầu tư nước ngoài, nguồn vốn vay từ các quỹ đầu tư, vốn từ sử dụng quỹ đất khi di dời và một phần vốn rất đáng kể là từ thị trường chứng khoán khi các doanh nghiệp được phát hành cổ phiếu. Các doanh nghiệp cần thực hiện các giải pháp sau để huy động vốn vào đầu tư sản xuất: Sử dụng hiệu quả nguồn vốn tự có, vốn khấu hao để lại, vốn phát sinh từ bán hoặc cho thuê các thiết bị không sử dụng, bán giảm giá hàng hóa tồn kho, huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ cán bộ công nhân viên, người lao động. Nghiên cứu, áp dụng hình thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu để huy động vốn cho đầu tư phát triển. Trong 10 năm tới, thị trường chứng khoán là giải pháp quan trọng để các doanh nghiệp dệt may nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may nói riêng huy động vốn. Đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu và tạo sự liên kết về vốn giữa các thành phần kinh tế thông qua cổ phần hoá, giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp ngành dệt may. Khuyến khích, kêu gọi đầu tư cả trong và ngoài nước; kêu gọi vốn đầu tư từ các kiều bào nước ngoài. Phát huy hiệu quả hoạt động của Công ty tài chính dệt may, tăng vốn pháp định để tăng khả năng cho các doanh nghiệp dệt may vay trung và dài hạn, đa dạng hoá khách hàng, điều chỉnh lãi suất phù hợp để huy động vốn… Đẩy mạnh hoạt động thuê tài chính: Đây là giải pháp hấp dẫn đối với các doanh nghiệp thiếu vốn. Thuê tài chính là hình thức đầu tư tín dụng trung hạn và dài hạn bằng hiện vật đối với doanh nghiệp thiếu vốn, trên cơ sở lựa chọn các máy móc, thiết bị phù hợp với yêu cầu sử dụng của mình. Kết thúc thời gian thuê, bên thuê có thể mua lại các máy móc, thiết bị này theo thảo thuận. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nên phát triển uy tín, thương hiệu và chất lượng sản phẩm và dùng uy tín, thương hiệu của mình để thuê những thiết bị công nghệ nước ngoài. Trong bối cảnh Việt Nam đang đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, các hình thức hỗ trợ, lãi suất cho vay, đối tượng nhận hỗ trợ của tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước hiện tại về cơ bản đều không phù hợp với quy định của WTO nên cần có sự điều chỉnh bổ sung, nhất là theo quy định tại Nghị định 106/2004/NĐ-CP, danh mục đối tượng được vay vốn đầu tư chỉ có hiệu lực đến 31/12/2005. Để có được sự hỗ trợ từ Nhà nước cho các dự án đầu tư trọng điểm, ngành dệt may cần sớm hoàn thành quy hoạch, qua đó cần có sự đồng ý của chính phủ về danh mục các dự án được vay vốn đầu tư. Giải pháp về thị trường Thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là nguồn đầu tư của quá trình sản xuất kinh doanh, thị trường là vấn đề hết sức quan trọng mang tính sống còn của các doanh nghiệp. Để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh hàng may mặc trước tiên phải nghiên cứu thị trường một cách chu đáo. Mục tiêu đầu tiên khi quyết định đầu tư vào đâu, thị trường bao giờ cũng là yếu tố nghiên cứu hàng đầu. Thị trường trong nước Việt Nam có số dân khoảng 80 triệu người và có thể lên đến 100 triệu người vào năm 2010, là một thị trường rất rộng lớn và đầy tiềm năng về tiêu thụ hàng dệt may. Vì vậy việc phát triển thị trường nội địa cần phải có một chiến lược phát triển lâu dài và ổn định với phương châm hàng hoá ngành Dệt May là phải đảm bảo chất lượng, số lượng, giá cả hợp lý phù hợp người tiêu dùng. Để làm được điều đó ngành Dệt May cần đổi mới công nghệ, nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm tốt, mẫu mã đẹp và đa dạng. Mặt khác, đẩy mạnh công tác quảng cáo, marketing, hoàn thiện mạng lưới bán hàng, đặc biệt ưu tiên vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo; mở các cửa hàng phục vụ đại chúng và siêu thị bán hàng cao cấp, thực hiện chương trình khuyến mãi, giảm giá phục vụ khách hàng để chiếm lĩnh thị trường nôi địa. Bảo vệ thị trường trong nước thông qua các biện pháp chống gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhập lậu. Đồng thời nghiên cứu, áp dụng các công cụ bảo vệ thị trường nội địa mà luật pháp quốc tế cho phép như các hàng rào kỹ thuật, các biện pháp vệ sinh dịch tễ, bảo vệ môi trường, thuần phong mỹ tục, an ninh quốc gia. Thị trường nước ngoài Mở rộng thị trường xuất khẩu là khâu đột phát trong chiến lược phát triển xuất khẩu hàng dệt may, là một trong những nhân tố quyết định sự tăng trưởng của ngành dệt may Việt Nam. Trong thời gian tới khi Việt Nam chưa trở thành thành viên chính thức của WTO, xuất khẩu dệt may Việt Nam được mở rộng hơn nữa ra thị trường thế giới và sẽ phải đối mặt với cạnh tranh khốc liệt từ các nước xuất khẩu hàng dệt may như Ấn Độ, Pakistan, Srilanca và đặc biệt là Trung Quốc. Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may nước ta trên thị trường quốc tế, cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ từ hạ giá thành sản xuất, đa dạng hoá kiểu dáng, mẫu mã cho tới liên kết hợp tác trong ngành, xây dựng thương hiệu, tập trung phân khúc thị trường mà Việt Nam có thế mạnh, hình thành các trung tâm giao dịch… Để cạnh tranh và thâm nhập vào thị trường, các nhà xuất khẩu đặc biệt là Trung Quốc đã thành công trong việc giảm giá thành sản phẩm và mở rộng quy mô hoạt động. Khả năng cạnh tranh về giá thành của Việt Nam bị hạn chế bởi quy mô sản xuất không lớn, còn hạn chế, công nghệ lạc hậu, nguồn nguyên liệu phải nhập khẩu nên không thể áp dụng chính sách như Trung Quốc. Có thể thấy khả năng tiếp thị, tiếp cận thị trường bên ngoài cũng là yếu tố quan trọng để tăng thị phần xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. Do đó, giải pháp chung để mở rộng thị trường xuất khẩu là: Về phía doanh nghiệp: phải nắm vững và xử lý cho được những yêu cầu của từng thị trường trong tổng thể chung. Một đặc điểm mà các doanh nghiệp Việt Nam cần phải quan tâm khi tham gia vào thị trường Hoa Kỳ là các doanh nghiệp thương mại của Mỹ chỉ nhập khẩu trọn gói các sản phẩm dệt may ( nhập theo hình thức FOB ) mà không thích nhập khẩu theo hình thức gia công. Do đó để mở rộng khả năng tiếp cận thị trường Mỹ, các doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ thị trường, thói quen tiêu dùng, mẫu mốt sản phẩm để có cách chào hàng phù hợp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may cần phải tìm hiểu các nguyên tắc, luật lệ chung của liên bang cũng như của từng bang trong các hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu…khi xâm nhập vào thị trường này. Để có thể thâm nhập sâu hơn vào thị trường EU, cần nhanh chóng đổi mới công nghệ để có thể đáp ứng được nhu cầu phức tạp và đa dạng của sản phẩm của khu vực thị trường này. Bên cạnh đó, cần phải tìm và hiểu các chính sách, biện pháp quản lý xuất nhập khẩu của EU mặc dù đây là việc rất khó, thường xuyên mất nhiều thời gian và tốn kém. Muốn xâm nhập sau hơn nữa vào thị trường Nhật Bản, vấn đề cốt yếu nhất là phải nâng cao chất lượng sản phẩm trong quá trình sản xuất và kiểm tra chất lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may phải nghiên cứu kỹ tiêu chuẩn chất lượng JIS và áp dụng vào quá trình sản xuất hàng dệt may xuất sang Nhật Bản. Bên cạnh đó cần phải tăng cường quan hệ để mở rộng bạn hàng, nắm lấy một số nhà phân phối chính. Về vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế, hàng DMVN không thể cạnh tranh về giá cả với các nước như Trung Quốc, Ấn Độ hay Inđonêsia vì các nước này không phải nhập nhiều nguyên liệu các sản phẩm dệt may như Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam cần phải có chiến lược phát triển bằng việc nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua việc đẩy mạnh áp dụng hệ thống CSM (hệ thống được các nhà bán lẻ hàng đầu tại các thị trường Châu Âu, Nhật Bản, Mỹ công nhận rộng rãi) và đảm bảo thời gian giao hàng nhanh. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần chú ý đến khâu thiết kế sản phẩm với mẫu mã phù hợp. Mỗi doanh nghiệp nên học tập các nhà phân phối hàng dệt may lớn nhất trên thế giới để thiết lập một loại sản phẩm nổi bật cho mình và các bộ sưu tập theo mùa. Các doanh nghiệp nên chú ý đến việc xây dựng và đăng ký thương hiệu cho sản phẩm của mình, cả trong nước và thị trường mục tiêu, tự tìm cho mình một mặt hàng chuyên biệt khi thâm nhập vào thị trường thế giới, tăng cường các chuỗi liên kết giữa các doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh. Về phía ngành Dệt May: Thành lập các văn phòng đại diện hoặc các trung tâm thương mại ở những thị trường tiềm năng như Mỹ, Hồng Kông, Nhật Bản, Eu…để hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, tiếp thị, triển lãm, giới thiệu và quảng cáo nhãn hiệu hàng hóa. Cần có sự phối hợ, trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp và các tham tán thương mại ở các nước. Mở rộng quan hệ và hợp tác chặt chẽ với các kiều bào ở nước ngoài để tìm kiếm, tiếp thị và mở rộng thị trường tiêu thụ. Tổ chức các chuyến khảo sát, thăm viếng các hội chợ quốc tế, thu thập thông tin để tiếp cận người tiêu dùng và khuếch trương sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới. Giải pháp về vấn đề bảo vệ môi trường Xây dựng và ban hành chiến lược môi trường dệt may và thể chế hoá bằng các văn bản pháp quy cho ngành Dệt May phù hợp với quy hoạch môi trường tổng thể. Tập trung xử lý triệt để 100% các nguồn ô nhiễm nước nghiêm trọng tại các khu công nghiệp hoặc tại các công ty dệt may. Đánh giá kiểm soát chất lượng nước cấp và nước thải tại các khu công nghiệp, doanh nghiệp, đề ra các biện pháp xử lý và tái sử dụng nhằm hạn chế lượng nước thải công nghiệp. Triển khai chương trình 100% các khu công nghiệp dệt may có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường. Có cơ chế, chính sách và biện pháp đồng bộ để xử lý triệt để với các cơ sở may dệt may đang gây ô nhiễm về nước, không khí, tiếng ồn. Triển khai thực hiện chương trình sản xuất sạch hơn trong ngành Dệt May, sử dụng hợp lý các nguồn nguyên liệu đầu vào, áp dụng tiêu chuẩn môi trường, tiêu chuẩn sản phẩm, tạo môi trường lao động tốt cho người lao động như SA8000, ISO14000. Xây dựng và thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ trong ngành dệt may theo hướng thân thiện với môi trường. Các cơ sở sản xuất môi trường mới xây dựng phải có công nghệ sạch hoặc có các thiết bị giảm thiểu ô nhiễm, xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường. Tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học công nghệ về môi trường. Từ đó có thế đánh giá chính xác hiện trạng môi trường cũng như hoạch định các chính sách quản lý môi trường, giải quyết các suy thoái và sự cố môi trường. 7. Giải pháp nâng cao đời sống cho lao động ngành dệt may Để giải quyết những khó khăn trước mắt về lao động, các doanh nghiệp phải chấp nhận lỗ để nâng lương cho công nhân. Có như vậy mới đảm bảo sản xuất đúng tiến độ và tránh được những rủi ro do vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, đây cũng chỉ được xem là biện pháp tạm thời. Giải pháp lâu dài đối với mỗi doanh nghiệp, để giữ và thu hút được lao động cần đảm bảo thu nhập ổn định cho người lao động. Mức lương trung bình của mỗi công nhân ở thành phố phải tối đa khoảng 1,2 – 1,5 triệu đồng/tháng. Như vậy đời sống người lao động mới được đảm bảo và họ mới yên tâm làm việc lâu dài. Đồng thời chuẩn bị tốt kế hoạch lương thưởng cho đội ngũ công nhân. Nếu thực hiện tốt khâu này, công nhân sẽ phấn khởi hơn và tiếp tục duy trì công việc. Mặt khác điều này thể hiện sự quan tâm của doanh nghiệp đối với người lao động. Từ đó doanh nghiệp sẽ tạo được sự an tâm và tin cậy cho công nhân để gắn bó với nghề, với xí nghiệp. Còn doanh nghiệp ổn định được việc sản xuất, kinh doanh, đồng thời tạo thêm nhiều thu nhập cho người lao động cũng như cho chính bản thân công ty. Ở tầm chiến lược, ngoài những nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp như tăng lương, tăng phúc lợi cho người lao động thì chính quyền cũng như chính doanh nghiệp đóng trên địa bàn đó cũng cần quan tâm giải quyết tới vấn đề nhà ở cho công nhân. Về lâu dài, Nhà nước cũng cần quy hoạch và di dời ngành sản xuất may về một số vùng phù hợp. Không nên để các nhà máy dệt và may gia công tập trung phát triển mạnh ở đô thị như hiện nay. - Sở Lao động thương binh và Xã hội phối hợp cùng các cơ quan chức năng khác tăng cường kiểm tra, thanh tra về việc sử dụng lao động của các doanh nghiệp nhằm đảm bảo thực hiện đúng theo các quy định của Luật Lao động. KẾT LUẬN Dệt – May là một ngành truyền thống lâu đời của nhân dân ta và là ngành có nhiều triển vọng trong tương lai. Suất đầu tư của ngành dệt may không lớn nhưng lại là ngành đòi hỏi nhiều lao động, đây cũng chính là lợi thế so sánh của Việt Nam để cùng hợp tác và phát triển trong xu thế phát triển chung của nền kinh tế toàn cầu và thực hiện chính sách xã hội, xoá đói giảm nghèo. Với vai trò to lớn của mình cùng những thành quả về tốc độ tăng trưởng trong kim ngạch xuất khẩu những năm qua, ngành công nghiệp Dệt May được đánh giá là một trong những mặt hàng chủ lực xuất khẩu trong ít nhất là 15 – 20 năm tới. Theo báo cáo “Đánh giá tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam” của Trung tâm thương mại thế giới UNCTAD/WTO (ITC) và Cục xúc tiến thương mại (Bộ Thương mại): Dệt May là một trong những ngành có tiềm năng xuất khẩu cao nhất của Việt Nam ở thời điểm hiện tại về mặt doanh thu xuất khẩu và sẽ vẫn giữ vững vai trò này trong tương lai. Vì vậy việc đẩy mạnh phát triển ngành dệt may để làm cơ sở phát triển chung của đất nước là hướng đi đúng và cần thiết. Tuy nhiên chất lượng tăng trưởng ngành DMVN còn thấp, chứa đựng rất nhiều hạn chế bên trong vấn đề tăng trưởng như năng suất lao động không cao, nguyên phụ liệu chủ yếu phải nhập khẩu, chi phí trung gian có xu hướng ngày càng tăng cùng với sự mất cân đối nghiêm trọng giữa hai ngành Dệt và May, biến ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam vô hình chung trở thành nơi gia công sản phẩm cho các nước khác. Việc gia nhập WTO của Việt Nam trong những năm tới càng đặt ra nhiều thách thức đòi hỏi ngành Dệt May Việt Nam phải nhanh chóng cải thiện chất lượng tăng trưởng của ngành để có thế cạnh tranh với các cường quốc trong lĩnh vực Dệt May của thế giới khác như Trung Quốc, Ấn Độ… Như vậy có thể thấy ngành Dệt May Việt Nam với cơ sở vật chất kỹ thuật nhỏ bé, hầu hết nguyên vật liệu, hoá chất, thuốc nhuộm, máy móc, thiết bị, phụ tùng…phải nhập khẩu nhưng lại phải cạnh tranh quốc tế sớm nhất, gay gắt nhất so với các ngành khác. Do vậy để Dệt May Việt Nam nhanh chóng tăng tốc phát triển, bên cạnh các giải pháp đã đề cập tới, luận văn xin đưa ra một số kiến nghị: Trong khi Việt Nam sắp trở thành thành viên của WTO, đề nghị Chính phủ cho tiếp tục áp dụng các nội dung phù hợp với quy định của WTO trong cơ chế chính sách hỗ trợ chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010. Để có thể tiếp nhận được là sóng di chuyển dệt may từ các nước phát triển, kiến nghị Chính phủ cho phép các doanh nghiệp mua các thiết bị đã qua sử dụng nếu đảm bảo các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật và môi trường. Cải cách các thủ tục hành chính, hải quan xuất nhập khẩu theo hướng tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý để thực hiện cơ chế một dấu, một cửa, đơn giản hoá các thủ tục rút ngắn thời gian hơn nữa, và quy định thời gian các cơ quan chức năng phải thực hiện rõ ràng. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, trốn thuế làm ảnh hưởng tới môi trường cạnh tranh lành mạnh. Hỗ trợ vốn ngân sách cho củng cố và nâng cao năng lực của Viện Kinh tế - Kỹ thuật Dệt May trở thành trung tâm thiết kế, kiểm tra chất lượng sản phẩm dệt may, thông tin và tư vấn chuyên ngành dệt may ngang tầm quốc tế. Hỗ trợ vốn ngân sách cho xây dựng một trường Quản trị Kinh doanh Dệt May Thời trang và cho công tác đổi mới chương trình đào tạo công nhân lành nghề dệt may cung ứng nhân lực chất lượng cao cho nhu cầu phát triển ngành dệt may. Hỗ trợ giá, giống, thuỷ lợi phí cho các cá nhân, đơn vị đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, ưu tiên đầu tư các công trình thuỷ lợi thuộc các vùng chuyên canh, thâm canh bông, dâu tằm. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Kinh tế Phát triển, Khoa Kế hoạch và Phát triển - Trường ĐH KTQD. Chiến lược “tăng tốc” phát triển ngành Dệt May đến năm 2010. Báo cáo tổng quan Tập đoàn Dệt – May Việt Nam. Quy hoạch phát triển ngành Dệt – May Việt Nam đến năm 2015 - Tầm nhìn đến năm 2020, Tập Đoàn Dệt May Việt Nam, Bộ Công nghiệp. Các tạp chí Kinh tế Phát triển, Con số & Sự kiện, Nghiên cứu Kinh tế, Công nghiệp, Thương mại, Thời báo Kinh tế Việt Nam. Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập WTO của Uỷ Ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế. Tổng quan về Hiệp định công tác công nghiệp ASEAN. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá và Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam, tầm nhìn tới 2020 của Bộ Công nghiệp. Cơ sở khoá học của một số vấn đề trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Quyết định số 55/2001/QĐ-TTg ngày 23 tháng 4 năm 2001 Phê duyệt Chiến lược phát triển và một số cơ chế, chính sách hỗ trợ thực hhiện Chiến lược phát triển ngành Dệt May Việt Nam năm 2010.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNâng cao chất lượng tăng trưởng ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010.DOC
Luận văn liên quan