Nâng cao chất lượng tự học các môn khoa học xã hội trong các trường Đại học

TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Để đáp ứng xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, ngay từ cuối thế kỷ XX, khoa học giáo dục đã chuyển từ quan điểm dạy học “lấy người dạy làm trung tâm”, sang quan điểm “lấy người học làm trung tâm” trong nhà trường từ tiểu học đến đại học. Đó là cả một cuộc cách mạng về giáo dục. Thực chất của cuộc cách mạng đó là chuyển từ chỗ lấy “việc dạy làm trung tâm” sang lấy “việc học làm trung tâm”. Khi “lấy việc học làm trung tâm” thì phương pháp học tập trở nên có vai trò đặc biệt quan trọng. Tự học là hình thức học tập không thể thiếu của sinh viên trong các trường Đại học. Tổ chức hoạt động tự học một cách hợp lý, khoa học, có chất lượng không chỉ là trách nhiệm của sự nghiệp giáo dục – đào tạo của các trường Đại học mà còn là trách nhiệm to lớn của cá nhân toàn sinh viên. Trong quá trình học tập, việc xác định mục đích, xây dựng động cơ, lựa chọn phương pháp, hình thức tự học hợp lý là việc cần thiết. Song quan trọng là sinh viên phải có hệ thống kĩ năng tự học bởi muốn có kĩ năng nghề nghiệp trước hết phải có kĩ năng làm việc độc lập, trên cơ sở phát huy tính tích cực nhận thức để chiếm lĩnh tri thức. Vì tri thức là sản phẩm của hoạt động nắm vững tri thức và có tay nghề thì việc rèn luyện hệ thống kĩ năng tự học một cách thường xuyên và nghiêm túc được chú trọng ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Như vậy để hoạt động học tập của sinh viên có hiệu quả, sinh viên phải có tri thức và kĩ năng tự học. Trong chương trình Đại học có nhiều nội dung môn học khác nhau, trong đó quá trình học tập các môn khoa học xã hội chiếm số lượng không nhỏ. Việc học tốt các môn này giúp cho sinh viên thế giới quan phương pháp luận duy vật biện chứng,rèn luyện bản lĩnh chính trị dân chủ cách mạng cùng với việc rèn luyện kĩ năng hoạt động thực tiễn đây là điều không thể thiếu đối với mỗi sinh viên. Để học tốt môn học khoa học xã hội và nhân văn thì việc tự học đóng vai trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay việc tự học của sinh viên còn nhiều bất cập, đa số sinh viên khi tiếp xúc với các môn khoa học khoa học xã hội và nhân văn còn khá lúng túng trong việc tìm ra phương pháp học tập hợp lý. Vì vậy với kiến thức nhỏ về vấn đề tự học của sinh viên em xin mạnh dạn chọn đề tài: Nâng cao hiệu quả chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên trong trường Đại học. Tiểu luận chắc chắn còn nhiều thiếu sót nên em mong được sự góp ý của cô giúp em hoàn thành tiểu luận tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn! II. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 1. Mục tiêu Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực tiễn định hướng phương pháp tự học cho sinh viên trong trường Đại học hiện nay, đề xuất các giải pháp tự học cho sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên trong các trường Đại học. 2. Nhiệm vụ - Làm rõ lý luận về chất lượng tự học của sinh viên trong trường Đại học. - Đánh giá thực trạng việc tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên trong các trường Đại học. - Đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng tư học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên trong các trường Đại học. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Đề tài tập trung nghiên cứu việc nâng cao chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn cuả sinh viên trong các trường Đại học. IV. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Cơ sơ lí luận: dựa trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản về giáo dục đào tạo, lí luận phương pháp giáo dục hiện đại. - Phương pháp nghiên cứu: duy vật biên chứng, phân tích tổng hợp, so sánh, kháo sát thực tế sinh viên một số trường

doc46 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7285 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao chất lượng tự học các môn khoa học xã hội trong các trường Đại học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tầm quan trọng các môn học khoa học xã hội và nhân văn hay chưa, đã nắm vững, bản chất, nội dung vấn đề, nội dung bài học đến đâu, biết liên hệ, vận dụng lí luận vào thực tiễn như thế nào… Hai là, chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn được đánh giá bằng kết quả học tập thông qua các bài kiểm tra học trình, kiểm tra giữa kỳ, kiểm tra cuối kỳ. Ba là, thể hiện qua chất lượng tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài, chất lượng thảo luận, xêmina. Trong các giờ thảo luận, xêmina, việc sinh viên tham gia đóng góp ý kiến xây dựng bài như thế nào, có sôi nổi hay không, có giải quyết được vấn đề hay không… điều đó đánh giá được việc chuẩn bị bài của sinh viên và chất lượng tự học của sinh viên trong trường Đại học. Bốn là, thông qua hoạt động thực tiễn công tác đoàn thể trong lớp, trong nhà trường. Đây là một tiêu chí quan trọng, thông qua hoạt động này có thể đánh giá được việc vận dụng những kiến thức khoa học xã hội và nhân văn trong thực tiễn hoạt động công tác đoàn của sinh viên đến đâu, từ đó đánh giá được chất lượng tự học của sinh viên. 1.2. Vai trò của tự học đối với sinh viên và đặc điểm các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên trong trường Đại học 1.2.1. Sinh viên và một số đặc điểm tâm lý của sinh viên ảnh hưởng đến quá trình tự học Sinh viên là nhóm người đã tốt nghiệp phổ thông trung học nằm trong độ tuổi từ 18-25 tuổi, được đào tạo trong các trường Đại học, Cao đẳng nhằm xây dựng đội ngũ trí thức có trình độ và năng lực cho xã hội. Sinh viên mang một số đặc điểm tâm lý cơ bản sau: Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa tuổi sinh viên là sự phát triển tự ý thức. Nhờ có tự ý thức phát triển, sinh viên có những hiểu biết, thái độ, có khả năng đánh giá bản thân để chủ động điều chỉnh sự phát triển bản thân theo hướng phù hợp với xu thế xã hội. Chẳng hạn sinh viên đang học ở các trường Cao đẳng, Đại học sư phạm, họ nhận thức rõ ràng về những năng lực, phẩm chất của mình, mức độ phù hợp của những đặc điểm đó với yêu cầu của nghề nghiệp, qua đó họ sẽ xác định rõ ràng mục tiêu học tập, rèn luyện và thể hiện bằng hành động học tập hàng ngày trong giờ lên lớp, thực tập nghề hay nghiên cứu khoa học. Nhờ khả năng tự đánh giá phát triển mà sinh viên có thể nhìn nhận, xem xét năng lực học tập của mình, kết quả học tập cao hay thấp phụ thuộc vào ý thức, thái độ, vào phương pháp học tập của họ. Ở sinh viên đã bước đầu hình thành thế giới quan để nhìn nhận, đánh giá vấn đề cuộc sống, học tập, sinh hoạt hàng ngày. Sinh viên là trí thức tương lai, ở họ sớm nảy sinh nhu cầu, khát vọng thành đạt. Học tập ở đại học là cơ hội tốt để sinh viên được trải nghiệm bản thân, vì thế, họ rất thích khám phá, tìm tòi cái mới, đồng thời, họ thích bộc lộ những thế mạnh của bản thân, thích học hỏi, trau dồi, trang bị vốn sống, hiểu biết cho mình, dám đối mặt với thử thách để khẳng định mình. Một đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở lứa tuổi này là tình cảm ổn định của sinh viên, trong đó phải đề cập đến tình cảm nghề nghiệp-một động lực giúp họ học tập một cách chăm chỉ, sáng tạo, khi họ thự sự yêu thích và đam mê với nghề đã lựa chọn. Sinh viên là lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người. Họ là lớp người giàu nghị lực, giàu ước mơ và hoài bão. Tuy nhiên, do quy luật phát triển không đồng đều về mặt tâm lý, do những điều kiện, hoàn cảnh sống và cách thức giáo dục khác nhau, không phải bất cứ sinh viên nào cũng được phát triển tối ưu, độ chín muồi trong suy nghĩ và hành động còn hạn chế. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào tính tích cực hoạt động của bản thân mỗi sinh viên. Bên cạnh đó, sự quan tâm đúng mực của gia đình, phương pháp giáo dục phù hợp từ nhà trường sẽ góp phần phát huy ưu điểm và khắc phục những hạn chế về mặt tâm lý của sinh viên. Tuy nhiên, điều quan trọng và quyết định chính là ở sự nỗ lực và tinh thần tự giác, tích cực, chủ động trong học tập của bản thân mỗi sinh viên. Tất cả những đặc điểm trên có ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình tự học của sinh viên về cả nhận thức, tình cảm và hành động. Bên cạnh những mặt tích cực trên đây, sinh viên còn có những hạn chế nhất định: do tác động của nền kinh tế thị trường nên một số sinh viên không xác định được động cơ và mục đích học tập của bản thân, việc chọn ngành học không phải do lựa chọn của bản thân mà chỉ vì ý muốn của bố mẹ hay theo “mốt” mà thôi; trong quá trình học tập, tuy là những người có tri thức song nhận thức ở một số sinh viên còn kém về ý thức học tập và rèn luyện bản thân, nhiều sinh viên chưa thích nghi với môi trường mới nên dễ sa vào các tệ nạn xã hội, chất lượng học tập kém hiệu quả. 1.2.2. Tầm quan trọng của hoạt động tự học đối với sinh viên. Trong tiến trình phát triển chung của nhân loại, sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia đều dựa trên nền tảng tri thức, muốn có tri thức phải phát triển giáo dục. Như Bác Hồ từng nói: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, có sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”. Ý thức được tầm quan trọng đó, nước ta coi giáo dục và đào tạo là quốc sách, Đảng và Nhà nước ta đang nỗ lực xây dựng một xã hội học tập với phương hướng, con đường thực hiện là kết hợp đến trường, giáo dục từ xa và tự học. Trong đó, tự học để trưởng thành là vô cùng quan trọng. Tri thức nhân loại là vô tận do đó muốn hiểu được kho tàng tri thức đó trước tiên con người phải biết tự mình đào sâu suy nghĩ, tự tìm tòi học hỏi, tức là phải có khả năng tự học. Tự học là nói đến nội lực của người học, chất lượng của học tùy thuộc chủ yếu vào nội lực, đòi hỏi ý chí của bản thân sinh viên. Hiện nay, việc đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình đào tạo và phương pháp dạy học trong giáo dục Đại học và Cao đẳng là một trong những yêu cầu cần thiết. Một trong những đòi hỏi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường Đại học là giúp cho sinh viên có khả năng tự hoc, tự nghiên cứu. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII khẳng định: “đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp dạy học tiên tiến và phương tiện dạy học hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên, nhất là sinh viên Đại học”. Có thể nói, tự học là nhân tố trực tiếp trong việc nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường Đại học. Khi một học sinh trở thành một sinh viên Đại học, họ bắt đầu làm quen với phương thức học tập hoàn toàn mới. Ở phổ thông trung học, học sinh chỉ cần nắm vững những kiến thức được cô giáo truyền giảng ở trên lớp và giáo viên liên tục kiểm tra, đánh giá học sinh và có giao bài tập cụ thể. Song ở đại hoc thì khác hẳn, tự học là phương pháp, cách thức cơ bản của mỗi sinh viên phải quán triệt. Bởi vì, phương hướng chủ yếu của trường Cao đẳng, Đại học trong giai đoạn này là nhanh chóng biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo mà thực chất là làm cho sinh viên tự hoàn thiện và làm phong phú thêm vốn tri thức bằng sự nỗ lực tự học, tự nghiên cứu. Sinh viên đại học, học phương pháp là chủ yếu. Giờ đây, thầy cô giáo đóng vai trò là những người hướng dẫn học tập, và các giờ lên lớp chỉ cung cấp được những kiến thức cơ bản nhất, những tài liệu cơ bản, còn việc học tập của sinh viên là sắp xếp trình tự, thời gian để nghiên cứu nắm tài liệu cơ sở và cả tài liệu tham khảo mở rộng. Thêm vào đó, không còn sự kiểm tra sát sao của giáo viên, kết quả học tập dồn hết vào kỳ thi hết học phần, hết môn. Kết quả này phụ thuộc vào bản thân sinh viên là chủ yếu. Công tác tự học của sinh viên ngày càng tăng lên, ngày càng đòi hỏi nhiều cố gắng nỗ lực vì chỉ có việc tự học mới trang bị cho mình kiến thức mới nhất, khoa học nhất và thu được nhiều kinh nghiệm cho thực tiễn hoạt động và đạt kết quả như mong muốn. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng tự học còn góp phần nâng cao thành tích, hoạt động trí tuệ của sinh viên trong việc hiểu và tiếp thu tri thức mới. Tự học với sự nỗ lực và tư duy sáng tạo đã tạo điều kiện cho việc tìm hiểu tri thức một cách sâu sắc, hiểu rõ bản chất của vấn đề. Trong quá trình tự học, sinh viên sẽ gặp phải nhiều vấn đề mới và việc đi tìm lời giải đáp cho những vấn đề ấy là cách tố nhất để kích thích hoạt động trí tuệ cho sinh viên. Nếu thiếu đi sự nỗ lực tự học của bản thân sinh viên thì kết quả không thể cao cho dù điều kiện ngoại cảnh có thuận lợi đến mấy (giáo viên giỏi, tài liệu hay và đầy đủ…). Tự học được tổ chức tốt không những cung cấp cho sinh viên những kiến thức mới mà còn giúp họ rất nhiều trong công việc sau này. Họ có năng lực hoạt động thực tiễn hay không? Chất lượng công tác như thế nào? Phụ thuộc lớn vào chất lượng tự học. Xã hội ngày càng phát triển và ngày càng có nhiều phát kiến vĩ đại thì cần phải có những con người toàn diện. Do đó, sinh viên cần trang bị cho mình những tri thức toàn diện. muốn có tri thức toàn diện con đường tốt nhất là tự học. Không chỉ có vậy, tự học còn có vai trò to lớn trong việc giáo dục và hình thành nhân cách cho sinh viên. Việc tự học rèn luyện cho sinh viên thói quen độc lập suy nghĩ, độc lập giải quyết vấn đề khó khăn trong học tập, trong cuộc sống giúp cho họ tự tin hơn trong việc lựa chọn cuộc sống của mình. Hơn thế, tự học thúc đẩy sinh viên lòng ham học hỏi, ham hiểu biết, khát khao vươn tới đỉnh cao của khoa học, sống có hoài bão ước mơ. Do đó, mỗi sinh viên hãy xây dựng cho mình một thói quen, một phương pháp để nâng cao chất lượng tự học một cách tốt nhất. Như vậy, có thể khái quát rằng: tự học là một hình thức học nhằm giúp cho người học lĩnh hội, củng cố kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo. Trong quá trình tự học, người học tự xử lý kiến thức đã lĩnh hội, tìm tòi, khám phá tri thức mới, vận dụng tri thức vào giải quyết các nhiệm vu học tập, từng bước biến tri thức của người dạy thành kiến thức của bản thân. Từ đó, giúp cho người học phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, hình thành niềm tin khoa học, sự hứng thú, say mê học tập. Kết quả học tập và rèn luyện, năng lực hoạt động thực tiễn của sinh viên có được thông qua kết quả tác động tổng hợp của các hoạt động gồm: giáo dục-đào tạo trong nhà trường, tự học tập, tự tu dưỡng bản thân của sinh viên…Trong các hoạt động đó, hình thức tự học, tự tu dưỡng đặc biệt là chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn có vị trí rất quan trọng, là nhân tố trực tiếp góp phần tạo nên kết quả về chất lượng học tập và rèn luyện của sinh viên trong trường Đại học. 1.2.3. Đặc điểm các môn khoa học xã hội và nhân văn Các môn khoa học xã hội và nhân văn trong trường Đại học bao gồm: triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, tâm lý học, giáo dục học,…nghiên cứu sự vận động, biến đổi và phát triển của tự nhiên, xã hội và con người, vì vậy việc tự học các môn khoa học xã học này là nền tảng cho các môn khoa học khác và tạo một thế giới quan, cách nhìn nhận vấn đề của bản thân một cách khách quan hơn. Về đặc điểm các môn khoa học xã hội và nhân văn xét một cách tổng thể, nó mang tính phổ biến bởi lẽ khoa học xã hội và nhân văn là khoa học nghiên cứu về xã hội, con người và cộng đồng người. Từ trước đến nay, làm bất cứ việc gì cũng đòi hỏi đến những hiểu biết về xã hội, con người và cộng đồng người cho nên kiến thức khoa học xã hội và nhân văn hiện hữu khắp mọi nơi và cần … Nghiên cứu các môn khoa học xã hội và nhân văn liên quan mật thiết đến lĩnh vực chính trị xã hội, đạo đức nhân cách, tư tưởng văn hóa của dân tộc cho nên đây là một lĩnh vực quan trọng. Chúng ta đều biết rằng những sai lầm về kinh tế, kĩ thuật để lại hậu quả lớn nhưng có thể khắc phục được nhưng những sai lầm về chính tri – xã hội thì để lại hậu quả nặng nề và khó thể khắc phục và nếu có thì rất lâu. Vì vây, sinh viên trong trường Đại học kể cả khối kinh tế - kĩ thuật và khối xã hội – nhân văn phải nhận thức được tầm quan trọng của của các môn học khoa học xã hội và nhân văn, từ đó có phương pháp học tập, nghiên cứu, củng cố vững chắc kiến thức về khoa học xã hội và nhân văn làm điều kiện cho công tác sau này đạt hiệu quả cao. Trong thực tiễn, bất cứ công việc nào, bất cứ ngành nghề nào cũng như bất cứ ngành học nào cũng đều có độ khó, dễ riêng của nó, tùy theo cách cảm nhận, cách tiếp thu và lòng đam mê của mỗi người mà những cái đó trở nên dễ đối với những người này và cũng sẽ trở nên khó đối với người khác. Khi học các môn khoa học xã hội và nhân văn đòi hỏi người học phải chịu khó đọc nhiều tài liệu, nghiên cứu, tìm hiểu và nắm vững bản chất vấn đề, bởi vì học các môn này khá trừu tượng, nhiều thuật ngữ khó, có tính lý luận, tính khái quát cao, có sư liên hệ mật thiết với thực tiễn xã hội, luôn có sự thống nhất cao giữa tính khoa học và tính tư tưởng, luôn mang tính chiến đấu. Khi nghiên cứu nếu sinh viên không có phương pháp tự học tốt và không biết cách tiếp cận thì dễ bị sa vào trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật phong phú của triết học, kinh tế chính trị,…Vì vậy, sinh viên phải tự tìm cho mình một phương pháp nghiên cứu các môn học này một cách hiệu quả nhất. Chương 2. Thực trạng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên trong trường Đại học 2.1. Những kết quả đạt được trong quá trình tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên 2.1.1. Thực trạng nhận thức của sinh viên về việc tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn Xuất phát từ đặc điểm của sinh viên là được tuyển chọn qua các kì thi tuyển sinh Đại học và Cao đẳng với chất lượng đầu vào tương đối khá, có nhận thức cao, vì vậy đa phần sinh viên đã nhận thức tốt nhiệm vụ học tập và rèn luyện tại trường, có động cơ phấn đấu, học tập và rèn luyện để trở thành những trí thức giỏi góp phần xây dựng đất nước. Trong quá trình học tập, sinh viên cơ bản đã có nhận thức tốt về vị trí, vai trò của việc tự học, tự nghiên cứu là hình thức đòi hỏi tính độc lập cao, đặc biệt là đối với các môn khoa học xã hội và nhân văn, qua đó giúp bản thân củng cố, mở rộng, đào sâu, hệ thống hóa kiến thức, đồng thời sinh viên bước đầu cũng đã rèn luyện được kỹ năng, kỹ xảo, phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, vận dụng vào giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra một cách khoa học. Điều tra trên 304 ý kiến về việc lên kế hoạch học tập của sinh viên một số trường trên địa bàn Hà Nội cho thấy kết quả như sau: STT Rất quan trọng Quan trọng Từng lên kế hoạch Không lên kế hoạch 1 59,4% 2 42,76% 3 77,3% 4 22,7% Nhiều sinh viên đã chủ động tìm hiểu những đặc điểm yêu cầu của môn học, nắm được những thuận lợi, khó khăn trong quá trình học tập, qua đó rút ra những biện pháp khắc phục khó khăn, lập kế hoạch học tập và chuẩn bị đầy đủ về vật chất, tâm lý, thể lực cho quá trình học tập. Việc xây dựng kế hoạch nghiên cứu của cá nhân cơ bản đã có tính khoa học và đã được triển khai thực hiện nghiêm túc, phát huy vai trò vai trò chủ thể trong hoạt động nhận thức, biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo. 2.1.2. Thực trạng về việc tiến hành hoạt động tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên Đa số sinh viên đã tận dụng được thời gian trong việc tự học, chịu khó tìm tòi, nghiên cứu giáo trình, tài liệu, trên thư viện cũng như trên internet và các phương tiện thông tin khác. Theo kết quả điều tra đối với nhóm sinh viên trường Học viện Báo chí và tuyên truyền, sinh viên Đại học quốc gia, sinh viên Đại học Giao thông vận tải và sinh viên Đại học Thương mại trên địa bàn Hà Nội về việc có thường xuyên nghiên cứu tài liệu trên thư viện và internet trong giờ tự học hay không thì có 80% sinh viên thường xuyên, 18% thỉnh thoảng, 20% ít khi và 0% là chưa khi nào và đa số sinh viên thường dành 4–5 giờ cho việc tự học ở nhà hoặc bằng cách lên thư viện, đặc biệt là sinh viên sống trong kí túc xá của trường. Nhiều sinh viên như sinh viên Đại học Giao thông vận tải và Đại học Thương mại thường lên giảng đường tập trung nhóm để học, đặc biệt là vào mùa ôn thi. Với kết quả này cho thấy, việc tự nghiên cứu giáo trình tài liệu của sinh viên rất tích cực, tự giác. 2.1.3. Thực trạng về kết quả tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên Phần đông sinh viên đã nắm được những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác–Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, pháp luật của nhà nước và các kiến thức khoa học xã hội và nhân văn, biết liên hệ, vận dụng có hiệu quả những hình thức đã được học vào vào thực tiễn hoạt động rèn luyện, công tác của mình. Tỉ lệ sinh viên đạt kết quả học tập về các môn khoa học xã hội và nhân văn khá cao. Đa phần sinh viên đều vượt qua kì thi kết thúc các môn khoa học xã hội và nhân văn với kết quả tương đối cao, đặc biệt là sinh viên thuộc khối xã hội như sinh viên các trường Học viện Báo chí và tuyên truyền và Đại học Quốc gia. Đồng thời sinh viên thuộc khối kinh tế cũng có nhiều cố gắng và hứng thú với những môn học này nên phần đa đều đạt điểm trên trung bình. Xét chung, có 95% sinh viên đạt yêu cầu, trong đó có 50–60% khá và giỏi. Bên cạnh đó còn có nhiều nhóm sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học về đề tài thuộc các môn khoa học xã hội và nhân văn như Kinh tế chính trị học, Tâm lý học, Giáo dục học,…và đạt kết quả cao. Đây chính là kết quả của việc nhận thức được tầm quan trọng của việc tự học các môn khoa học này. 2.2. Một số hạn chế trong quá trình tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn Sinh viên đa số thường được tiếp cận những môn khoa học xã hội và nhân văn trong những kỳ học đầu tiên bởi đây là những môn cơ bản. Do từ học sinh phổ thông lên nên cách học và cách tiếp cận vấn đề đôi khi chưa khoa học. Bên cạnh sinh viên khối xã hội còn có sinh viên khối kinh tế-kỹ thuật trong đó có không ít sinh viên cho rằng không cần thiết phải học những môn này, nhiều quan điểm cho rằng những môn học này trừu tượng, không có tính thực tiễn mà chỉ là lý luận suông, khô khan, khó hiểu nên họ thờ ơ vơi môn học này. Trong khi học, có khi chỉ căn cứ vào tài liệu sách giáo khoa, giáo trình, ít tham khảo tài liệu, chọn nội dung học để thi chỉ mang tích chất đối phó, học tủ, học thuộc lòng một cách máy móc mà không suy nghĩ. Kết quả là kiến thức không bền vững và vấn đề quan trọng là không rèn luyện cho sinh viên sự suy luận, tính logic về nội dung kiến thức. Việc nắm hệ thống các môn khoa học xã hội và nhân văn nhất là hiểu bản chất, kĩ năng phân tích khái quát, tổng hợp vấn đề… ở sinh viên còn chưa cao, khả năng liên hệ, vận dụng lí luận vào thực tiễn của một số sinh viên còn hạn chế. Đặc biệt, một số sinh viên lười học, lười rèn luyện. Nhiều sinh viên chưa tận dụng hết thời gian trong tự học cũng như thời gian nhàn rỗi, chưa lập được kế hoạch tự học một cách khoa học. Mặt khác, đặc điểm các môn khoa học xã hội và nhân văn là phải đọc nhiều, nghiên cứu nhiều tài liệu, giành nhiều thời gian tự học nhưng sinh viên còn chủ quan, ít đào sâu suy nghĩ. Kết quả điều tra về việc tự nghiên cứu các môn khoa học xã hội và nhân văn trong những ngày nghỉ, giờ nghỉ thì có 50% trả lời ít khi, 25% thỉnh thoảng, 20% thường xuyên, 50% chưa khi nào. Kết quả này cho thấy, tuy sinh viên đã có ý thức tự giác trong việc đầu tư thời gian tự học nhưng việc tận dụng thời gian cho việc tự học chưa nhiều. Số sinh viên tìm đến thư viện không nhiều, chỉ lác đác vài bạn đến thư viện những ngày bình thường và có nhiều hơn một chút khi mùa thi đến. Nhân viên quản lý thư viện nhiều trường cho biết, một ngày bình quân chỉ có khoảng vài chục em đến đây ngồi học, tìm tòi tư liệu.Trong khi đó, giờ giảng dạy của giảng viên trên lớp không có gì hơn ngoài một cái micrô cứ theo kiểu “mạnh thầy thầy cứ nói”, còn lớp học đông đúc thì “mạnh trò, trò ngủ”. Sinh viên chưa có phương pháp học phù hợp, chịu ảnh hưởng của phương pháp truyền thống là học thuộc lòng, chưa có thái độ và tâm lý học tập đúng đắn nên không tích cực tham gia vào bài giảng của giảng viên, chưa đào sâu nghiên cứu tài liệu theo yêu cầu của giảng viên đưa ra, chưa có thói quen hoặc lười làm việc đóng góp vào bài giảng của giảng viên. Qua điều tra về việc sinh viên đóng góp ý kiến xây dựng bài trong các giờ giảng các môn khoa học xã hội và nhân văn thì có 20% sinh viên là thường xuyên, 32% thỉnh thoảng, 40% ít khi và 80% chưa khi nào. Trong quá trình học, phần lớn sinh viên còn lệ thuộc vào bài giảng của giảng viên, chưa tích cực nghiên cứu giáo trình tài liệu. Do đó, trong giờ thảo luận ít tham gia tranh luận hoặc ý kiến tranh luận chưa sâu, cách lập luận giải quyết vấn đề thiếu tính logic. Ví dụ với môn chuyên đề Chủ nghĩa xã hội tại lớp Giáo dục chính trị khóa 28 – Học viện Báo chí và tuyên truyền, giảng viên yêu cầu sinh viên về làm câu hỏi để tiết sau lên lớp giảng viên kiểm tra và thảo luận, nhưng chỉ có số ít sinh viên có ý thức làm ở nhà, còn lại là lên lớp mượn tài liệu của bạn chép để đối phó. Trong giờ thảo luận thì rất ít sinh viên tham gia tranh luận xây dựng bài. Trong quá trình đào tạo, phần lớn sinh viên thường ở vị trí khách thể, thụ động tiếp thu kiến thức và tìm cách tái hiện những điều giảng viên đã giảng trên lớp. Thêm nữa, tâm lí quen “đọc-chép” mỗi khi trên lớp cũng dẫn tới tình trạng thụ động của sinh viên, nếu giảng viên không đọc thì sinh viên cũng không chép, chỉ ngồi nghe và thưc tế là kiến thức đọng lại trong đầu khi đó sẽ rất ít,thậm chí là không có gì. Trong khi đó sinh viên cũng không có thói quen đọc giáo trình và tài liệu liên quan đến môn học đó khi ở nhà. Cách thức học tập này đã trở thành một thói quen của không ít sinh viên. Điều này dẫn đến sinh viên nắm bản chất vấn đề còn hạn chế, tiếp thu kiến thức thụ động, lập luận theo giáo viên. Tại một hội thảo về cải tiến phương pháp giảng dạy đại học mới đây, một giáo sư ở Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã cảnh báo lối học thụ động ở sinh viên. Để kiểm nghiệm cách học thụ động này đến đâu, vị giáo sư đã làm cuộc điều tra : chỉ đứng giảng trên lớp cho sinh viên (và cả học viên cao học) ghi chép, kết quả chỉ 40% đạt điểm kiểm tra trên trung bình. Nếu chỉ hướng dẫn đầu sách tham khảo, kết quả trên 60 % sinh viên đạt điểm trung bình. Trong hai tuần này, tinh thần học tập của sinh viên không mấy thích thú, thậm chí có người nằm ngủ gật. Thực trạng nữa ở sinh viên là trong mỗi giờ học, chuyện sinh viên phát biểu ý kiến là rất ít thay vào đó là “Giảng viên nêu vấn đề, sinh viên cúi mặt xuống bàn...” Đó là việc các thầy cô đứng trên bục giảng và yêu cầu nhiều lần các sinh viên trả lời câu hỏi. Thế nhưng rất ít có cánh tay nào giơ lên. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến không khí học tập trong lớp vì chỉ có sự làm việc một chiều. Thông qua việc tiến hành khảo sát bằng câu hỏi “tại sao sinh viên giờ lười phát biểu?” ở một số bạn sinh viên nằm rải rác ở một số trường Đại học ở Hà Nội và đây là những nguyên nhân chính: 1. Do sinh viên quá lười học, không chịu chuẩn bị bài trước ở nhà nên không đủ kiến thức để trả lời những câu hỏi của thầy cô; 2. Vì sợ phát biểu sai bị bạn bè cười nhạo và đôi khi sợ bị thầy cô la (hoặc có thể bị trừ điểm) thì ngại; 3. Trong lớp không ai giơ tay phát biểu mà mình phát biểu thì sợ bị coi là "chảnh"; 4. Có khi câu hỏi quá khó vượt ngoài kiến thức hiểu biết; 5. Có thể sinh viên không cảm thấy hứng thú với môn học, giảng viên giảng bài chưa cuốn hút... nên sinh viên chọn cách ngồi chép bài là hơn; 6. Tán chuyện hoặc không tập trung nghe giảng nên không hiểu rõ câu hỏi; 7. Đôi khi câu hỏi được đặt ra quá dễ, bạn nào cũng biết rồi nên không ai giơ tay phát biểu vì không có hứng; 8. Không khí trong lớp học không được sôi động; 9. Không tự tin vào bản thân, ngại ngùng khi phải đứng lên và trả lời trước đám đông. 2.3. Nguyên nhân của thực trạng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên Trước hết, xét về những kết quả đạt được nêu trên là do một số nguyên nhân cơ bản sau: Một là: sinh viên cơ bản đã nhận thức đầy đủ và sâu sắc vị trí, vai trò, của việc tự học, tự nghiên cứu các môn khoa học xã hội và nhân văn, đã có tính tự giác, tích cực trong tự học, tự rèn, xây dựng độn cơ học tập, rèn luyện đúng đắn, trau dồi kiến thức về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi nhiệm vụ và trách nhiệm của sinh viên. Hai là: trong quá trình giáo dục–đào tạo, được sự quan tâm thường xuyên của Đảng ủy, Ban giám hiệu trường, sự chỉ đạo, hướng dẫn của các phòng ban, trực tiếp là các khoa đã quan tâm đến việc đổi mới toàn diện về nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, trong đó chú trọng bồi dưỡng nâng cao chất lượng tự học, tự rèn luyện cho sinh viên. Ba là: đội ngũ cán bộ quản lý có kinh nghiệm trong quản lý sinh viên, có trình độ năng lực công tác tốt, duy trì nghiêm các chế độ, có sự kiểm tra đôn đốc, nhắc nhở và bồi dưỡng sinh viên nâng cao chất lượng tự học, xây dựng được môi trường học tập, rèn luyện tốt đảm bảo được tính định hướng trong quá trình học tập, rèn luyện của sinh viên. Tuy nhiên thực trạng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên còn tồn tại một số hạn chế đã nêu trên là do: Một là, do tác động của mặt trái kinh tế thị trường và các tệ nạn xã hội đã dẫn đến một số sinh viên có nhận thức chưa đúng về vị trí, vai trò của của việc học tập các môn khoa học xã hôi và nhân văn, tư tưởng ngại học và vi phạm kỉ luật trong học tập, thi cử là điều khó tránh khỏi. Hai là, phương pháp học tập của sinh viên có nhiều tiến bộ song nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu đề ra. Họ có trình độ nhận thức song việc nắm bắt phương pháp học ở bậc đại học còn hạn chế. Ba là, công tác quản lý sinh viên trong các giờ tự học, thảo luận, xêmina còn có nhiều bất cập, giáo viên chưa tổ chức hợp lí hoạt động thảo luận, trao đổi cho sinh viên. Bốn là, trong những năm gần đây, số lượng môn học tăng lên, trong khi đó đội ngũ giảng viên lại thiếu, cường độ giảng dạy lớn. Một bộ phận giáo viên có phần e ngại khi đổi mới, tìm kiếm phương pháp giảng dạy theo hướng hiện đại. Chương 3. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên trong trường Đại học Để nâng cao chất lượng tự học nói chung và chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn trong các trường Đại học nói riêng hiện nay cần có những giải pháp mang tính đồng bộ, sự kết hợp của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan đó là những yếu tố trực tiếp chi phối đến hoạt động và chất lượng tự học của sinh viên. Vì vậy cần tập trung vào bốn giải pháp cơ bản sau: 3.1. Nâng cao nhận thức của sinh viên đối với việc tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn Đây là giải pháp quan trọng cả trong lí luận và thực tiễn người học. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói muốn học tập, rèn luyện có kết quả tốt thì phải có động cơ đúng, trách nhiệm cao, tự học, tự rèn luyện cũng giống như “mài ngọc luyện vàng”, ngọc càng mài càng sáng vàng càng luyện càng trong. Người cũng chỉ ra rằng: năng lực của con người không phải tự nhiên mà có mà do rèn luyện mà nên, trong đó tự học được xem như điều kiện tiên quyết để hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực toàn diện của cá nhân. Điều quan trọng hàng đầu ở đây là sinh viên phải xác định rõ mục đích học tập và xây dựng động cơ học tập đúng đắn. Sinh viên phải xác định được mục đích của việc học, học để thi cho có điểm số cao hay là học để lấy bằng cấp. Chúng ta phải xác định được học là để tiếp thu tri thức khoa học về tự nhiên, xã hội, tư duy; những tri thức, kĩ năng về nghề nghiệp để nâng cao nhận thức của cá nhân và vận dụng để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Từ nhận thức đúng đắn mục đích của việc học tập mà mỗi người phấn đấu không ngừng trong học tập rèn luyện để hoàn thành nhiệm vụ của tập thể và nhà trường giao cho. Mỗi sinh viên cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc về vị trí, vai trò của việc tự học, tự nghiên cứu; cần thấy tự học, tự nghiên cứu là hình thức đòi hỏi tính độc lập cao, qua đó giúp cho bản thân củng cố, mở rộng, đào sâu, hệ thống hóa kiên thức, đồng thời rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, vận dụng vào giả quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra một cách khoa học. Sinh viên phải nắm vững mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ giáo dục – đào tạo, có động cơ học tập đúng đắn; trên cơ sở đó xây dựng cho mình ý thức trách nhiệm và thái độ học tập nhằm không ngừng nâng cao chất lượng, thực hiện tốt mục đích của giáo dục - đào tạo, điều đó chỉ trở thành hiện thực khi bản thân sinh viên tham gia một cách chủ động, tích cực vào mọi khâu của quá trình giáo dục đào tạo. Ý thức trách nhiệm, động cơ học tập đúng đắn còn thể hiện ở việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ trách nhiệm của cá nhân với tập thể lớp; giữa học tập tại trường và công tác sau này, từ đó có sự nỗ lực vươn lên vượt mọi khó khăn tìm ra con đường, biện pháp tự học, tụ nghiên cứu để nắm vững làm chủ tri thức khoa học. Để có được động cơ, thái độ, trách nhiệm học tập đúng đắn, nhất thiết phải thông qua công tác giáo dục của nhà trường và đặc biệt là quá trình tự giáo dục, sự nỗ lực, tự giác vươn lên của người học. Ngay từ đầu, mỗi sinh viên cần phải tự giác quán triệt một cách nghiêm túc về mục tiêu, yêu cầu đào tạo của nhà trường cũng như yêu cầu về phẩm chất và năng lực của sinh viên. Phải nhận thức đúng đắn việc tập đó là “học để biết, học để làm người, làm cán bộ, học để phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân”. Muốn vậy, mỗi sinh viên phải chủ động tìm hiểu những đặc điểm, yêu cầu của môn học, nắm được những thuận lợi khó khăn trong quá trình học tập. Qua đó, rút ra những biện pháp khắc phục khó khăn, lập kế hoạch học tập và chuẩn bị đầy đủ về vật chất, tâm lý, thể lực cho quá trình học tập. Ngoài ra, từng sinh viên phải luôn tự ý thức, tự rèn luyện bản thân, xây dựng ý chí và nghị lực để sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, trở ngại trong học tập, luôn đặt ra những yêu cầu cao trong học tập để tự mình phấn đấu vươn lên. Đồng thời, tích cực đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, tư tưởng ngại khó, ngại khổ, tư tưởng ỉ lại, trông chờ vào các mối quan hệ để được điểm cao. Trên thực tế, những hạn chế này vẫn tồn tại ở không ít sinh viên, cần được khắc phục dần dần. Tự học tức là phải học mọi lúc, mọi nơi, tận dụng thời gian, dành công sức, tranh thủ học tập, học ở trường, lớp, sách vở và học ở bạn bè, học ở tất cả mọi người; gặp điều hay, lẽ phải ở bất kì đâu, bất kì người nào mà thấy có ý nghĩa với bản thân thì phải gắng nhớ và học cho bằng được. Từ những điều ấy sẽ làm cho nhận thức của mỗi người cao hơn, bản thân sẽ tự tin hơn khi giải quyết các tình huống ở thực tiễn. 3.2. Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy học Chương trình, nội dung dạy học phải được đổi mới theo hướng đảm bảo thực hiện mục đích giáo dục toàn diện của Đảng, đảm bảo tính hiện đại, tính tư tưởng, tính giáo dục, không ngừng tăng cường tính thực tiễn, đồng thời phải không ngừng làm cho các kiến thức mang tính chất tổng hợp, khách quan, đáp ứng với sự phát triển tư duy của người học. Phương pháp dạy học phải tiếp tục đổi mới theo hướng “dạy cách học” nhằm trang bị cho người học phương pháp tự học, tự nghiên cứu để họ có thể sử dụng suốt đời. Tăng cường các phương pháp dạy học thực hành, đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học nhằm nâng cao trình độ hiện đại của các phương pháp dạy học. Vì vậy, phương pháp dạy học của giảng viên có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tư duy tích cực của sinh viên. Trong một bài học, giảng viên nên kết hợp nhiều phương pháp giảng dạy để sinh viên có thể nắm bắt bài học một cách tốt nhất. Đa số sinh viên được khảo sát mong muốn giảng viên áp dụng các phương pháp dạy học tích cực để tích cực hoá người học trong các giờ học. Có 88,8% sinh viên muốn các bài giảng của giảng viên gồm cả những tri thức mới không có trong giáo trình; 73,3% sinh viên thích được giảng viên giao làm những bài tiểu luận để giúp họ phát triển khả năng suy nghĩ độc lập, tư duy phê phán; 82,4% sinh viên thích giảng viên hỏi, khuyến khích sinh viên đặt câu hỏi, hướng dẫn sinh viên đào sâu suy nghĩ để hiểu bản chất hơn là thuyết trình suốt cả tiết học; 85,6% sinh viên muốn khi bắt đầu mỗi môn học, giáo viên nêu yêu cầu, hướng dẫn phương pháp học, tài liệu tham khảo và cách khai thác thông tin từ các tài liệu tham khảo này; 79,2% sinh viên mong muốn các môn học có nhiều giờ tự học (có hướng dẫn và giải đáp thắc mắc) hơn so với hiện nay. Một trong những nội dung của việc đổi mới phương pháp dạy học là dạy sinh viên tự học, tự nghiên cứu. Để nâng cao ý thức tự học, tự rèn luyện, sinh viên không những phải có thái độ, động cơ học tập đúng đắn mà còn phải có phương pháp tự học khoa học. Vì vậy, cần bồi dưỡng cho sinh viên một số kỹ năng cơ bản sau: một là kỹ năng lập kế hoạch học tập, phân bố thời gian hợp lý để thực hiện kế hoạch đó và biết cách kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch đề ra; hai là kỹ năng nghe giảng và ghi bài trên lớp; ba là kỹ năng học bài để nhớ lâu và biết vận dụng, liên hệ thực tiễn; bốn là kỹ năng hoạt động nhóm sao cho hiệu quả; năm là kỹ năng đọc sách và ghi chép trong quá trình đọc; sáu là kỹ năng nghiên cứu và giải quyết vấn đề trong học tập, nghien cứu khoa học cũng như hoạt động tập thể. Bên cạnh đó, giảng viên cũng cần phát huy vai trò của mình trong quá trình giảng dạy trực tiếp trên lớp: trước mỗi bài giảng, giảng viên chỉ rõ tài liệu mà sinh viên cần tìm đọc là những tài liệu nào? ở đâu? cần phải đọc những chỗ nào và ghi chép ra sao? Đồng thời, giáo viên nêu ra vấn đề sinh viên cần chuẩn bị trước thông qua những câu hỏi gợi mở hay những bài tập để yêu cầu sinh viên phải chuẩn bị trước khi buổi học diễn ra. Nhờ đó, có thể giúp người học hoàn toàn chủ động thực hiện nhiệm vụ của mình trong suốt buổi học. Sau mỗi bài giảng: giảng viên yêu cầu sinh viên về nhà tiếp tục nghiên cứu những phần trên lớp chưa thực hiện xong, giảng viên giới thiệu thêm tài liệu tham khảo yêu cầu sinh viên đọc thêm, đồng thời đưa ra những câu hỏi để kiểm tra khả năng tự đọc, tự nghiên cứu sách ở nhà của sinh viên. Để tạo nhu cầu tự thân cho mỗi sinh viên trong quá trình tự học tập, tự nghiên cứu thì các khoa chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn cần thường xuyên tổ chức sinh hoạt chuyên đề, hội thảo khoa học có sự giam gia của sinh viên. Trong đánh giá kết quả thu hoạch, tiểu luận…các khoa cũng cần phải đặt ra yêu cầu cao hơn cả về nội dung, phương pháp trình bày, kỹ năng lập luận, từ đó khắc phục thái độ tự thỏa mãn của sinh viên sau những lần viết thu hoạch, tiểu luận, tham luận khoa học của sinh viên nên tổ chức tiến hành rút kinh nghiệm để học tập đánh giá đúng khả năng trình độ tự học, tự nghiên cứu của bản thân, qua đó điều chỉnh phương pháp, khắc phục những hạn chế nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng tự học, tự nghiên cứu. Đồng thời, phải đổi mới về cách kiểm tra, đánh giá các môn khoa học xã hội và nhân văn. Cần sử dụng hệ thống các câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra, đánh giá việc lĩnh hội các phạm trù, khái niệm của sinh viên. Mặt khác, hệ thống các môn khoa học xã hội và nhân văn tất yếu phải kiểm tra, đánh giá bằng những bài thi tự luận được thiết kế theo cấu trúc sử dụng những vấn đề lí luận được học để luận chứng những vấn đề của thực tiễn xây dựng đất nước và đời sống hiện thực, qua đó kiểm tra tư duy lí luận và khả năng vận dụng thực tiễn của sinh viên. Từ đó, tự người học thấy được giá trị, vai trò của hệ thống lí luận các môn khoa học xã hội và nhân văn đối với thực tiễn. 3.3. Bảo đảm cơ sở vật chất, tài liệu phục vụ tự học tự nghiên cứu Đảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất cho quá trình tự học, tự nghiên cứu của sinh viên là một yêu cầu cần thiết. Trên cơ sở chương trình đào tạo đào tạo của nhà trường, cơ quan chức năng cần xây dựng và thiết kế chương trình phù hợp và cân đối giữa thời gian tự nghiên cứu với các chương trình dạy học khác nhau, phối hợp với khoa chuyên ngành bổ sung đưa vào chương trình nghiên cứu những nội dung có giá trị lý luận và đáp ứng được sự đòi hỏi của thực tiễn. Hiện nay, hầu hết các trường Đại học đều đã trang bị đầy đủ hệ thống thư viện với phòng đọc, phòng mượn sách, phòng máy để phục vụ cho việc học tập của sinh viên. Để phục vụ sinh viên tốt hơn, các cơ quan chức năng cần rà soát, tính số đầu sách, tài liệu tương ứng với số lượng sinh viên hàng năm để đảm bảo đầy đủ, bổ sung kịp thời tài liệu tham khảo có liên quan, tăng về số lượng và chủng loại các tài liệu cũng như sách tham khảo, sách chuyên khảo, chuyên đề khoa học đã được nghiệm thu, công bố; báo, tạp chí chuyên ngành. Bên cạnh đó, mở rộng, giao lưu liên kết mạng giữa các trường Đại học, các trung tâm nghiên cứu với nhau. Sử dụng tốt các hình thức, biện pháp, phương tiện dạy học vào trong quá trình đào tạo sinh viên nhằm sáng tỏ những điều cần trình bày của giảng viên và trực quan hóa các nội dung giảng dạy, giúp cho sinh viên tiếp thu dễ dàng, tham gia học tập một cách chủ động, tích cực. Hiện nay, trên các giảng đường của nhiều trường đều đã sử dụng micro, máy chiếu vào hoạt động học tập. Nhiều trường tiến hành lắp đặt mạng wifi tạo điều kiện cho sinh viên sử dụng internet trong quá trình học tập trên trường. 3.4. Phát huy vai trò tích cực của bản thân sinh viên trong việc nâng cao chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên trong trường Đại học 3.4.1. Nhận thức về vai trò tích cực của cá nhân sinh viên trong việc nâng cao chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn Thực tế cho thấy, quá trình tự học chỉ mang lại kết quả, khi sinh viên nhận thức đúng, tích cực, chủ động, biết biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Do đó trong quá trình dạy học bên cạnh việc phát huy vai trò của giảng viên, sinh viên cũng phải phát huy vai trò chủ thể, tích cực, tự giác, sáng tạo trong học tập. Nghị quyết Đại hội X cũng đã khẳng định : “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, khắc phục lối truyền thụ một chiều”. Với các môn khoa học xã hội và nhân văn, việc phát huy tính tích cực, chủ động trong quá trình học tập của sinh viên càng có ý nghĩa quan trọng. Tự học trên cơ sở kiến thức kinh nghiệm được trang bị là phương pháp ưu việt để trao đổi, phát triển những phẩm chất nhân cách của sinh viên. Để được vậy, bản thân mỗi sinh viên phải có kế hoạch tự học tập, tự tu dưỡng thật tốt, sinh viên phải biết tranh thủ thời gian và điều kiện thuận lợi ra sức họa tập và nghiên cứu khoa học để từng bước nâng cao trình độ của mình. Mỗi sinh viên cần phải tự giác nỗ lực tự học, tự rèn, xây dựng động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn nhằm trau dồi về mọi mặt đáp ứng yêu cầu đòi hỏi nhà trường và xã hội. Để hoạt động tự học đi vào nề nếp và tiến hành có chất lượng hiệu quả, yêu cầu trước hết phải giáo dục cho sinh viên thấy rõ đây là yêu cầu khách quan và biện pháp mang tính bắt buộc, phải nhận thức tốt và thực hiện tốt khẩu hiệu: “học! học nữa! học mãi!”. Coi học tập là trách nhiệm đối với sinh viên và phải được quy định thành chế độ… Từ đó đặt ra yêu cầu cao về tinh thần trách nhiệm cho mỗi sinh viên trong tự học. Trong từng thời gian sinh viên phải có kế hoạch thường xuyên tự học tập nâng cao trình độ lí luận chính trị, tích lũy kinh nghiệm, rèn luyện phương pháp nghiên cứu khoa học. 3.4.2. Một số kỹ năng phục vụ hoạt động tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn Xuất phát từ bản chất của phương pháp dạy học tích cực là người học tự tìm ra kiến thức, tự tìm tòi nghiên cứu, phát huy tính tích cực, năng động, độc lập, tư duy sáng tạo. Mặt khác, hai quá trình dạy và học có quan hệ biện chứng với nhau, nếu chỉ đổi mới phương pháp dạy mà không đổi mới phương pháp tự hoc của sinh viên thì không mang lại hiệu quả bền vững. Phương pháp học tập tích cực, chủ động là phương pháp tối ưu nhất đem lại hiệu quả thực sự cho người học. Để góp phần nâng cao chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên trong trường Đại học, tôi xin mạnh dạn trao đổi một số kinh nghiệm học tập của bản thân như sau: Một là, chúng ta phải có phương pháp đọc sách hiệu quả: theo tôi nên đọc hết ít nhất từ hai đến ba lần sẽ tốt hơn bởi khi ấy sẽ có một chút kiến thức tồn tại trong trí nhớ của bạn. Nếu được bạn nên đọc đi đọc lại nhiều lần sẽ rất hữu ích. Gạch những ý chính trong sách và trích lược chi tiết nào nào cho là quan trọng. Khi đọc tài liệu, sinh viên có điều kiện ghi chép đầy đủ hơn. Nên suy nghĩ cân nhắc, sắp xếp có hệ thống những số liệu, đánh số những số liệu quan trọng để khi cần có thể tìm hiểu dễ dàng. Chú trọng đọc thêm sách và tài liệu tham khảo. Đọc sách, tài liệu phải có phương pháp cụ thể, nghiêm túc, bao gồm việc đọc nhanh để nắm cấu trúc, đại ý của sách; đọc kĩ để rút ra những ý quan trọng, ý mới; ghi chép những kết luận, những tình huống thực tiễn làm ví dụ minh họa cho bài học thêm sâu sắc. Khi đọc tài liệu, cần nắm sự hướng dẫn của giảng viên về tài liệu nghiên cứu và tham khảo, đồng thời phải chú ý đến nguồn gốc tài liệu, cần lựa chọn những trang web có độ tin cậy cao. Hai là phải biết cách ghi chép. Để việc ghi chép có hiệu quả cần xác định: ghi chép ở đâu để dễ nhìn và nhớ. Bạn có thể ghi chép vào những quyển sổ nhỏ tiện lợi hay những tờ giấy nhớ dán trên tường. Làm sao để ghi chép được nhanh mà vẫn đầy đủ ý: thông thường những thông tin quan trọng sẽ được thầy cô nhắc từ hai đến ba lần, vì vậy hãy vận dụng kết hợp với sư suy nghĩ của bản thân bạn nên viết từ chính và diền đạt bằng câu văn của mình. Ba là phải có phương pháp học thế nào để nhớ lâu: dán giấy trên tường hoặc bất cứ những nơi nào dễ nhìn, học những từ khóa và ý chính và diễn đạt bằng cách hiểu, câu văn của mình. Khi kết thúc một ngày học hãy để mắt nhìn lại một lần bài học, rồi mới bắt đầu học bài cho môn khác, như thế sẽ giúp bạn nhớ lâu hơn. Bốn là để giờ trên lớp được hiệu quả ta cần thiết phải có các hoạt động sau: trước khi lên lớp nghe giảng sinh viên cần ôn luyện củng cố kiến thức cũ, đọc nội dung bài mới. Điều này giúp sinh viên khái quát được nội dung bài để định hướng cho quá trình lĩnh hội nội dung bài mới. Đọc xong nếu có những vấn đề khó hiểu cần đánh dấu, ghi chép lại để chú ý nghe giảng. Tập trung chú ý đến bài giảng bởi qua nghe giảng sinh viên sẽ nắm chắc được nội dung và tranh thủ được vốn kiến thức sâu rộng và phương pháp lập luận của giảng viên. Tập trung chú ý nghe để nắm được tính logic, trình tự nội dung vấn đề giảng viên đưa ra, nắm được nội dung chính của bài giảng, biết suy nghĩ về lập luận của giảng viên trước một vấn đề và phát hiện những vấn đề mới trong khi nghe giảng; chủ động tìm hiểu và hỏi lại những vấn đề thắc mắc chưa rõ. Mỗi sinh viên cần có đầy đủ giáo trình và tài liệu tham khảo vì đó là cơ sở cho việc tự học, có tài liệu giúp ta bổ sung kiến thức đồng thời tiếp cận được vấn đề tốt hơn. Khi nghe giảng, sinh viên phải kết hợp với ghi chép, tuy nhiên nên ghi những vấn đề đòi hỏi sự chính xác cao như các khái niệm, trích dẫn các tác phẩm kinh điển hay những vấn đề không có trong giáo trình. Những vấn đề giảng viên mở rộng thì nên ghi theo cách hiểu của mình. Trong quá trình học trên lớp, sinh viên cũng nên trao đổi, thảo luận với nhau bởi thông qua trao đổi thảo luận sinh viên củng cố được kiến thức, tập trung cao độ tư duy, đào sâu suy nghĩ tìm hướng giải quyết vấn đề. Có nhiều hình thức trao đổi, thảo luận nhưng thông thường hình thức thảo luận nhóm là diễn ra sôi nổi nhất. Thông qua thảo luận, tranh luận, vốn hiểu biết, kinh nghiệm, năng lực, trình độ của mỗi cá nhân sinh viên sẽ được bộc lộ, đồng thời quá trình nhận thức của cá nhân sẽ được điều chỉnh, phát triển hơn. Hình thức thảo luận nhóm đòi hỏi phải có sự phân công và hợp tác chặt chẽ giữa các thành viên, nhờ đó sẽ góp phần giúp sinh viên thích ứng với sự phân công và hợp tác trong hoạt động chung của tập thể. Để việc thảo luận, học nhóm có kết quả, các sinh viên phải chủ động thành lập nhóm, xây dựng kế hoạch học tập, phân công nhiệm vụ thực hiện, tổ chức phối hợp hoạt động trong nhóm; tự giác chuẩn bị tốt những vấn đề thảo luận, sưu tầm, nghiên cứu tài liệu; chủ động tích cực trao đổi thông tin, nỗ lực cao độ trong quá trình phối hợp hoạt động thảo luận nhóm và tranh luận trước tập thể, nhận xét và đánh giá kết quả thảo luận của các nhóm. Năm là sinh viên cũng cần phải chủ động với các nguồn thông tin: phần lớn giảng viên đều cung cấp tư liệu cần đọc, nhưng chỉ đọc tư liệu đó thôi thì vẫn chưa đủ sinh viên cần chủ động hơn nữa với các nguồn cung cấp thông tin trên báo, tạp chí, tivi, internet... Đây là nguồn cung cấp những thông tin mới, được cập nhật thường xuyên; đồng thời cũng giúp sinh viên liên hệ kiến thức trên sách vở ra thực tế, lấy ví dụ từ thực tế để nắm vững kiến thức bài học. Bài giảng của giáo viên trên lớp hay sách tham khảo có liên quan là nguồn kiến thức quan trọng để sinh viên hiểu bài từ đó có thể tiến hành tự học, tự nghiên cứu. Chính vì thế, sinh viên cần phải: chú ý nghe giảng và ghi chép lại những ý chính, những vấn đề chưa hiểu để đưa ra thảo luận; sau mỗi giờ học nên dành thì giờ xem lại và cần thiết thẩm tra lại những điều đã ghi chép, thường xuyên xem lại cách và ghi chép bổ sung để cho kiến thức luôn mới mẻ. Trong khi đọc sách hoặc xem lại các ghi chép, hãy tự đặt ra những câu hỏi liên quan đến vấn đề đó, tìm kiếm thông tin liên quan qua các phương tiện truyền thông. Hiện nay có nhiều giảng viên đánh giá năng lực của sinh viên thông qua khả năng tự tìm kiếm và sàng lọc thông tin của họ, vì chỉ có bản thân người học mới nhận diện được thứ gì họ có thể tiếp thu được mà thôi. Điều này đòi hỏi sinh viên phải tích cực hơn nữa trong việc tìm kiếm thông tin cung cấp cho việc tự học. Sáu là sinh viên cũng cần phải chủ động trong học tập: trước hết là phải tạo tâm trạng thoải mái khi học, tâm trạng thoải mái trước khi học sẽ tạo ra hứng thú đối với sinh viên điều này sẽ giúp cho việc học có hiệu quả hơn. Tránh học vẹt mà cần phải thường xuyên ôn lại bài. Để học mau thuộc và không lẫn lộn cần đọc bài trước khi đến lớp để nắm sơ bộ bài mới; chú ý nghe giảng; ghi chép những ý chính và ôn lại bài sau mỗi buổi học. Trong quá trình học, việc học kết hợp với sử dụng các giác quan sẽ giúp người học liên tưởng điều đang học với những vấn đề có liên quan; hình dung ra vấn đề để hiểu, nắm chắc bài và nhớ lâu hơn. Bên cạnh đó phải thường xuyên liên hệ thực tiễn. Học các môn khoa học xã hội và nhân văn trong trường Đai học không chỉ mang tính lý luận mà còn mang tính thực tiễn sâu sắc. Vì vậy, sinh viên phải nắm chắc lý luận, liên hệ sát với thực tiễn, vận dụng giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra để có thái độ tích cực, chủ động thực hiện các nhiệm vụ của giảng viên đưa ra. Bảy là thường xuyên ôn tập bài học là một trong những nội dung của hoạt động tự học của sinh viên. Sinh viên thường có thói quen đến kỳ thi mới lao vào học. Cách học này là do sinh viên chưa có thói quen ôn tập thường xuyên. Ôn bài ngay sau mỗi bài giảng giúp sinh viên tổng hợp, nắm chắc, hiểu sâu kiến thức. Để ôn tập có hiệu quả, cần khái quát, hệ thống toàn bộ kiến thức đã học trong một học phần hoặc giữa các học phần, tìm hiểu mối liên hệ biện chứng giữa chúng. Phải ôn toàn diện sau đó ôn trọng tâm, trọng điểm. Khi ôn tập, sinh viên phải biết khái quát thành những vấn đề hoặc cụm vấn đề, sau đó xây dựng đề cương chi tiết hoặc sơ đồ cây. Không nên mượn đề cương của người khác để ôn tập vì như vậy kết quả thi sẽ không cao và kiến thức không bền vững. Thi và kiểm tra là thước đo đánh giá trình độ của sinh viên, giúp họ rèn luyện phương pháp, kỹ năng giải quyết mỗi vấn đề. Vì vậy, đòi hỏi sinh viên phải có tư duy logic, biện chứng, phản ứng linh hoạt với các tình huống phức tạp, bất ngờ. Trong thi vấn đáp, thi viết, sinh viên cần phân tích kĩ nội dung, yêu cầu đề ra để xây dựng đề cương trả lời. Chú ý điều chỉnh nội dung, thời gian trả lời phù hợp, bình tĩnh và tự tin trả lời không bị chi phối bởi những người xung quanh nhất là trong khi thi viết. Một trong những hoạt động quan trọng của sinh viên là nghiên cứu khoa học. Hoạt động này giúp sinh viên rèn kỹ năng phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề, phân tích, tổng hợp,…là những kỹ năng cần thiết trong học tập và công tác sau này. Quá trình nghiên cứu khoa học là quá trình tự học, vận dụng tổng hợp những kiến thức đã học và phương pháp bộ môn vào giải quyết một vấn đề cụ thể. Sinh viên cần có thái độ nghiêm túc, tinh thần say mê trong nghiên cứu, thể hiện thực lực của mình. Để việc tự học đạt hiệu quả cao, mỗi sinh viên cần có kế hoạch học tập cụ thể khoa học, đảm bảo cân đối giữa chế độ học tập và nghỉ ngơi, ăn uống. KẾT LUẬN Nâng cao chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn là giải pháp chủ yếu đề góp phần đáp ứng yêu cầu đào tạo sinh viên trong trường Đại học hiện nay. Từ thực tế trên, muốn nâng cao chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn cho sinh viên phải đổi mới và từng bước hoàn thiện chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy theo hướng lấy người học làm trung tâm. Quá trình đào tạo phải gắn lý luận với thực tiễn, tăng cường rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo cho người học theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Đồng thời, phải biết phát huy mọi nỗ lực chủ quan của đội ngũ cán bộ, giảng viên và sinh viên, đặc biệt là nâng cao nhận thức của sinh viên về việc tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn, phát huy tính tích cực chủ động trong học tập của mỗi sinh viên. Mặt khác, nhà nước cần có sự đầu tư thích đáng đảm bảo tài liệu, vật chất, trang thiết bị dạy và học hiện đại phục vụ cho hoạt động học tập. Để những giải pháp trên được thực hiện đòi hỏi phải có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Ban giám hiệu trường, sự giúp đỡ của các cơ quan ban, ngành, các cấp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục – đào tạo. Để nâng cao chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên trong trường Đại học phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, mỗi yếu tố có vai trò và vị trí khác nhau song có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp trên, đặc biệt là nhóm giải pháp đối với sinh viên sẽ góp phần to lớn vào phát huy vai trò tích cực, tự giác, sáng tạo trong tự học, nêu cao tinh thần độc lập trong nghiên cứu của sinh viên nhằm góp phần nâng cao hơn nữa trong chất lượng đào tạo sinh viên trong trường Đại học. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Kỳ, Biến quá trình dạy học thành quá trình tự học. Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 2/2006. 2. Lê Đức Ngọc, Giáo dục đại học – Quan điểm và giải pháp. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 3-2004. 3. Luật Giáo dục, 2005. 4. Đặng Vũ Hoạt – Hà Thị Đức, Lý luận dạy học Đại học. NXB Giáo Dục. 5. Trần Hồng Cẩm - Nguyễn Cảnh Toàn – Bùi Tường – Lê Hải Yến, Về phương pháp luận và phương pháp tự học. Bộ GDĐT, 2000. 6. Website: www.hieuhoc.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNâng cao chất lượng tự học các môn khoa học xã hội trong các trường Đại học.doc