CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
1.2. Xác lập vấn đề nghiên cứu
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
1.4. Các câu hỏi đặt ra cho nghiên cứu
1.5. Phạm vi nghiên cứu
1.6. Những nghiên cứu có liên quan
1.7. Phương pháp nghiên cứu
1.8. Kết cấu của đề tài
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RAU AN TOÀN VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THỊ TRƯỜNG RAU AN TOÀN
2.1. Một số lý luận về rau an toàn
2.1.1. Khái niệm rau an toàn
2.1.2. Nguyên tắc trong sản xuất rau an toàn
2.1.3. Tiêu chuẩn đánh giá rau an toàn
2.2. Một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với thị trường rau an toàn
2.2.1. Quản lý nhà nước về thị trường rau an toàn
2.2.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với thị trường rau an toàn
2.2.3. Nội dung của quản lý nhà nước về thị trường RAT
2.2.3.1. Ban hành các văn bản, chính sách, chiến lược và quy hoạch
liên quan đến thị trường rau an toàn
2.2.3.2. Quản lý chấp hành chế độ quy định và luật pháp trong hoạt
động sản xuất và kinh doanh RAT
2.2.3.3. Quản lý cơ sở hạ tầng và hệ thống kênh phân phối
2.2.3.4. Quản lý, kiểm tra chất lượng RAT cung cấp trên thị trường
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG RAU AN TOÀN VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THỊ TRƯỜNG RAU AN TOÀN TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY
3.1. Thực trạng thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội hiện nay
3.1.1. Nguồn cung RAT trên địa bàn Hà Nội hiện nay
3.1.2. Tình hình cung - cầu, giá cả, cạnh tranh trên thị trường RAT Hà
Nội hiện nay
3.1.2.1. Tình hình cung RAT trên thị trường Hà Nội hiện nay
3.1.2.2. Tình hình cầu về RAT trên thị trường Hà Nội hiện nay
3.1.3. Mối quan hệ cung - cầu RAT trên thị trường Hà Nội
3.1.4. Tình hình giá cả RAT trên thị trường Hà Nội hiện nay
3.1.5. Tình hình cạnh tranh trên thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
3.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
3.2.1. Tình hình ban hành các văn bản, chính sách, chiến lược và quy
hoạch liên quan đến thị trường RAT
3.2.2. Quản lý việc chấp hành chế độ quy định và luật pháp trong hoạt
động sản xuất và kinh doanh rau an toàn trên địa bàn Hà Nội
3.2.3. Tình hình quản lý, kiểm tra chất lượng RAT cung cấp trên thị
trường Hà Nội
3.2.4. Tình hình tổ chức và quản lý đội ngũ cán bộ làm công tác thanh
kiểm tra
3.3. Đánh giá sự QLNN đối với thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội hiện nay
3.3.1. Kết quả đạt được trong QLNN đối với thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
3.3.2. Hạn chế trong QLNN đối với thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
3.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong QLNN đối với thị trường RAT
trên địa bàn Hà Nội
CHƯƠNG 4: GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THỊ TRƯỜNG RAU AN TOÀN TRÊN
ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY
4.1. Mục tiêu, chiến lược phát triển thị trường RAT của ngành nông
nghiệp; phương hướng kế hoạch phát triển sản xuất và quản lý thị
trường RAT
4.1.1. Mục tiêu, chiến lược phát triển thị trường RAT của ngành nông nghiệp
4.1.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà Nước về phát triển thị trường RAT
4.1.1.2. Mục tiêu, chiến lược phát triển thị trường RAT trên địa bàn
Hà Nội của ngành nông nghiệp
4.1.2. Phương hướng kế hoạch phát triển sản xuất RAT trên địa bàn Hà Nội
4.1.3. Phương hướng kế hoạch quản lý thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
4.2. Giải pháp quản lý nhà nước về thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
hiện nay
4.2.1. Một số đề xuất đối với nhà quản lý các cấp trên địa bàn Hà Nội
4.2.2. Giải pháp đối với doanh nghiệp kinh doanh RAT trên địa bàn Hà Nội
4.2.3. Giải pháp đối với người nông dân và các HTX sản xuất RAT
4.2.4. Giải pháp đối với nhà khoa học
4.2.5. Giải pháp đối với người tiêu dùng
70 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2773 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với mặt hàng rau an toàn trên địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hững trường hợp, đối tượng, lĩnh vực kinh
doanh và phạm vi thị trường cụ thể, chưa cân đối các mục đích và
phương tiện, các nguồn lực sử dụng.
Hiện nay, việc thực hiện các thủ tục đăng ký giấy phép kinh doanh RAT
khá thuận lợi và dễ dàng. Trong câu hỏi số 1 khi được hỏi: “Ông (bà)
cho biết quá trình làm thủ tục đăng ký giấy phép kinh doanh RAT như
thế nào?” Có 53,33% các chủ cơ sở kinh doanh RAT cho biết họ không gặp
khó khăn trong việc đăng ký. Có 33,33% cho biết quá trình làm thủ tục
đăng ký bình thường không phải mất nhiều thời gian. Chỉ có 13,34% cơ
sở kinh doanh RAT gặp khó khăn trong việc đăng ký. Đó là do các cơ sở
này còn chưa nắm rõ được các quy định và chưa đáp ứng được các tiêu
chuẩn đã đề ra. Chình điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cá
nhân, tổ chức muốn tham gia cung ứng RAT trên thị trường được dễ dàng
hơn.
Từ năm 1996, đề án RAT tại Hà Nội đã được thai nghén. Thế nhưng đến
nay Hà Nội vẫn chưa có được một dự án khả thi nào. Mặc dù, nếu xét về
lượng, Hà Nội đã nỗ lực phát triển các vùng sản xuất RAT với diện tích
trồng RAT lên đến trên 5.600 ha với sản lượng 125.000 tấn/năm (tức có
trên 70% sản lượng rau của Hà Nội sản xuất là RAT). Tuy nhiên, hiện
toàn thành phố mới chỉ có 42 ha nhà lưới trồng RAT và chỉ có 3 cơ sở
được đầu tư hệ thống giếng khoan công suất lớn có xử lý nước để tưới
rau.
Hiện UBND TP Hà Nội đã ban hành “Quy định về quản lý sản xuất và kinh
doanh RAT trên địa bàn thành phố Hà Nội” (Ban hành kèm theo Quyết định
số 104/2009/QĐ-UBND ngày 24 tháng 9 năm 2009 của UBND TP Hà Nội). Quy
định này quy định về điều kiện và chứng nhận đủ điều kiện sản xuất, sơ
chế, kinh doanh RAT; thanh kiểm tra và xử lý vi phạm trong sản xuất,
sơ chế, kinh doanh RAT trên địa bàn thành phố Hà Nội. Quy định áp dụng
đối với các tổ chức, cá nhân sản xuất, sơ chế, chế biến, kinh doanh
RAT và các tổ chức, cá nhân liên quan trên địa bàn thành phố Hà Nội.
2.2.2. Quản lý việc chấp hành chế độ quy định và luật pháp trong hoạt
động sản xuất và kinh doanh rau an toàn trên địa bàn Hà Nội
Hiện nay, việc quản lý các điểm sản xuất và kinh doanh RAT
còn gặp nhiều khó khăn. Đó là việc quản lý việc đăng ký kinh doanh của
các cửa hàng kinh doanh RAT. Chi cục BVTV Hà Nội đã cấp giấy phép cho
nhiều vùng sản xuất và địa điểm kinh doanh RAT đủ điều kiện. Thống kê
từ Chi cục BVTV Hà Nội cho thấy, hiện chi cục đã cấp 45 giấy chứng
nhận đủ điều kiện sản xuất RAT cho các hộ, HTX sản xuất RAT với tổng
diện tích hơn 260ha. Bên cạnh đó, cũng đã cấp 1 giấy chứng nhận sản
xuất RAT theo VietGAP và 13 giấy chứng nhận đủ điều kiện sơ chế RAT
cho các cơ sở. Trong khi đó, theo thống kê của Sở Công Thương Hà Nội,
đến thời điểm hiện tại, sở này đã cấp 137 giấy chứng nhận kinh doanh
RAT cho các tổ chức, cá nhân trên địa bàn thành phố. Song, cũng theo
danh sách, trong tổng số 137 cơ sở được cấp giấy phép, có đến hơn 100
cơ sở đã hết thời hạn, chỉ một số ít mới đăng ký vào năm 2009 còn thời
hạn. Với câu hỏi điều tra thứ 6 “Ông (bà) cho biết việc kiểm soát hoạt
động của các cơ sở sản xuất, kinh doanh RAT hiện nay như thế nào?” 20%
phiếu cho rằng đã kiểm soát được toàn bộ, 50% kiểm soát được một phần,
30% là chưa kiểm soát được. Thực tế cho thấy, hầu hết các cửa hàng dù
đã hết hạn đăng ký vẫn tiếp tục kinh doanh. Theo ghi nhận của chúng
em, tại một số cửa hàng như số 5 Ngô Thì Nhậm giấy phép đăng ký kinh
doanh đã hết hạn từ 31-7-2008, song thời điểm hiện tại cửa hàng này
vẫn tiếp tục kinh doanh RAT. Hay, cửa hàng kinh doanh RAT số 2 Phạm
Ngọc Thạch, giấy phép kinh doanh đã hết hạn từ 31-12-2008, nhưng trên
thực tế vẫn tiếp tục kinh doanh RAT... Từ thực trạng trên cho thấy
việc quản lý các cửa hàng hiện đang kinh doanh cũng chưa chặt chẽ. Số
cửa hàng trên thực tế đang hoạt động so với số cửa hàng đăng ký trên
giấy tờ do Sở quản lý không trùng khớp. Trên thị trường có nhiều cửa
hàng kinh doanh RAT mà không có giấy phép kinh doanh. Thêm vào đó có
những cơ sở sản xuất, kinh doanh sau một thời gian không làm được, họ
tự đóng cửa, không báo cáo lại cho Sở nên khó có thể nắm được chính
xác hiện còn bao nhiêu đơn vị vẫn đang kinh doanh.
Như vậy, việc quản lý các cửa hàng kinh doanh RAT có giấy phép kinh
doanh hay không cũng đã gặp nhiều khó khăn nhưng việc quản lý các cửa
hàng hiện đang hoạt động cũng không mấy dễ dàng. Lợi dụng kẽ hở trong
việc đăng ký, quản lý kinh doanh RAT, khi mang hồ sơ đến đăng ký, các
cơ sở chỉ trình một bộ hồ sơ cung cấp nơi sản xuất đủ điều kiện. Còn
trên thực tế, lượng rau cung cấp cho cửa hàng từ nhiều nguồn khác nhau
mà không được khai báo trong hồ sơ đăng ký kinh doanh.
2.2.3. Tình hình quản lý, kiểm tra chất lượng RAT cung cấp trên thị
trường Hà Nội
Thời gian qua, Chi cục BVTV Hà Nội đã chủ động phối hợp với
Chi cục Quản lý thị trường tổ chức các đợt kiểm tra tại các cửa hàng,
siêu thị, lấy mẫu rau, quả để kiểm định chất lượng. Tuy nhiên, việc
kiểm tra chất lượng rau thực hiện còn sơ sài, chưa thực sự hiệu quả,
chủ yếu dựa vào cảm quan, tần suất kiểm tra còn ít. Một xã
chỉ có khoảng 0,2 lượt đoàn đi thanh kiểm tra ATTP/năm (năm 2007, con
số này tăng lên 0,73 lượt đoàn). Hệ thống phòng thí nghiệm kiểm nghiệm
thực phẩm chưa đáp ứng kịp với yêu cầu thực tế. Kinh phí đầu tư cho
công tác quản lý quá ít… Do vậy mà hiện tại, chất lượng RAT tại nhiều
cơ sở sản xuất kinh doanh vẫn chưa được kiểm soát hoặc còn thả nổi.
Bên cạnh đó, Bộ NN và PTNT đã có một số giải pháp kiểm tra
chất lượng rau quả ngay tại cửa khẩu. Đối với lô hàng thuộc diện kiểm
dịch trước khi thông quan, cơ quan hải quan chỉ thực hiện thông quan
khi có kết quả kiểm dịch đạt yêu cầu nhập khẩu. Với những lô hàng
thuộc diện thông quan trước kiểm dịch sau, được thông quan khi chủ
hàng nộp giấy đăng ký kiểm dịch, có xác nhận của cơ quan kiểm dịch.
Trong quá trình làm thủ tục, chủ lô hàng nhập khẩu có trách nhiệm bảo
quản hàng hóa chờ kiểm dịch. Tổng cục Hải quan yêu cầu các đơn vị trực
thuộc phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng trong việc kiểm soát,
phát hiện và xử lý nghiêm những sai phạm trong quá trình kiểm dịch
hàng nhập khẩu theo đúng quy định hiện hành. Rất nhiều những trường
hợp do không được kiểm soát chặt chẽ nên đã không tránh khỏi việc
trong rau có dư lượng thuốc BVTV có nồng độ cao hơn mức độ cho phép.
Thuốc này chủ yếu nhập từ Trung Quốc bằng đường tiểu ngạch. Vì vậy các
cơ quan chức năng như hải quan cần quản lý chặt chẽ ngay từ nơi cửa
khẩu.
Để tăng cường kiểm soát chặt mặt hàng thực phẩm nhập khẩu,
sắp tới Bộ NN và PTNT sẽ thành lập một tổ công tác đặc biệt xây dựng
văn bản hợp tác với Trung Quốc trong việc kiểm tra nguồn thực phẩm
nhập khẩu.
Việc quản lý, kiểm tra chất lượng RAT ngay tại nơi sản xuất
đóng vai trò quan trọng đối với việc cung ứng và tiêu thụ RAT trên thị
trường. Năm 2009 trên cả nước có 22.000ha RAT trên tổng số 450.000ha
trồng rau. Ngoài 5% diện tích trồng rau được áp dụng theo quy trình
sản xuất RAT, 80% nước tưới cho rau là nước mặt chưa qua kiểm nghiệm,
60% diện tích trồng rau vẫn sử dụng phân hữu cơ, điều này làm cho
rau nhiễm hóa chất và kim loại nặng vượt mức cho phép, ảnh
hưởng không tốt đến chất lượng rau được sản xuất ra.
Vấn đề sử dụng thuốc BVTV không đúng cách đang là vấn đề đáng lo ngại,
làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng rau. Khi được hỏi câu hỏi
thứ 2 “Ông (bà) thấy việc quản lý kinh doanh và sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật hiện nay như thế nào? Có 20% cán bộ quản lý cho rằng việc
quản lý kinh doanh và sử dụng thuốc BVTV tốt, 70% là quản lý được một
phần, 10% còn lại cho rằng chưa quản lý được. Thật vậy, vấn đề quản lý
việc sử dụng thuốc BVTV ở nơi sản xuất RAT còn lỏng lẻo, chưa kiểm
soát được. Theo kết quả điều tra, chỉ có khoảng 10% nông dân hỏi ý
kiến tư vấn của cơ quan quản lý về sử dụng thuốc BVTV, 90% còn lại sử
dụng thuốc theo tư vấn của người bán thuốc. Một mặt hầu hết những
người trồng RAT hiện nay đều chưa được hướng dẫn cụ thể cách sử dụng
thuốc BVTV. Mặt khác, do người nông dân vẫn giữ thói quen sử dụng
thuốc BVTV tùy tiện, chưa tuân thủ nghiêm hướng dẫn sử dụng.
Cục BVTV thành lập các đoàn thanh tra, kiểm tra việc buôn bán, sử dụng
thuốc BVTV trên rau tại các tỉnh trong vùng trồng rau trọng điểm. Chỉ
đạo thanh tra chuyên ngành bảo vệ và kiểm dịch thực vật các tỉnh,
thành phố đồng loạt tổ chức các đợt thanh tra, kiểm tra việc buôn bán,
sử dụng thuốc BVTV tại các vùng sản xuất rau, lấy mẫu thuốc kiểm tra
chất lượng thuốc BVTV, lấy mẫu rau kiểm tra dư lượng; xử lý nghiêm
theo quy định của pháp luật các trường hợp vi phạm.
Tại các vùng trồng rau tập trung, đại diện chính quyền địa phương, Chi
cục BVTV và hộ nông dân sản xuất rau ký kết cam kết về việc: chỉ sử
dụng thuốc BVTV được phép sử dụng trên rau, bảo đảm thời gian cách ly
trước khi thu hoạch...
2.2.4. Tình hình tổ chức và quản lý đội ngũ cán bộ làm công tác thanh kiểm tra
Công tác quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm nói chung và về
RAT trên địa bàn Hà Nội nói riêng còn chồng chéo, dẫn đến có những
“vùng trắng” không có cơ quan quản lý. Đặc biệt hệ thống tổ chức mạng
lưới cán bộ làm công tác an toàn vệ sinh thực phẩm thiếu về số lượng,
yếu về chất lượng. Kết quả thu được từ câu hỏi thứ 3 của phiếu điều
tra “Ông (bà) đánh giá về số lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực quản
lý thị trường hiện nay?” như sau: Có 30% cán bộ quản lý cho rằng đã
hợp lý, 70% là còn thiếu, và 0 % chọn nhiều. Trên thực tế 2.100 ha
diện tích trồng RAT trên địa bàn Hà Nội mới chỉ có 5 cán bộ kỹ thuật
chỉ đạo, giám sát sản xuất. Do vậy, việc kiểm tra, giám sát trong quá
trình sản xuất còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, không thể đảm rằng các
sản phẩm RAT sản xuất ra là được sản xuất đúng kỹ thuật. Thực tế đó
cho thấy đội ngũ cán bộ kiểm tra còn thiếu nhiều cần được bổ sung
trong thời gian tới. Với câu hỏi số 4: “Ông (bà) đánh giá trình độ
nguồn nhân lực trong lĩnh vực quản lý thị trường RAT như thế nào?” Có
20% phiếu cho rằng có trình độ chuyên môn tốt, 50% cho rằng có trình
độ chuyên môn trung bình, còn lại là trình độ chuyên môn kém.
Theo Sở NN và PTNN, một năm Sở chỉ có 140 triệu đồng cho công tác an
toàn vệ sinh thực phẩm. Các chốt kiểm định chất lượng an toàn rau quả
vì thế không đủ số người đảm nhiệm, thậm chí những địa bàn trọng điểm
cũng chưa tổ chức được ban thanh tra, kiểm tra đủ mạnh. Theo Sở Công
thương, cơ quan này có 2 phòng chuyên môn liên quan đến an toàn vệ
sinh thực phẩm, nhưng chưa có tổ chuyên trách. Không những thế, việc
kiểm tra chủ yếu dựa vào cảm quan, vì kinh phí cho mảng an toàn vệ
sinh thực phẩm còn ít mà chi phí để tiến hành kiểm tra chất lượng lại
lớn.
Trong khi thuốc BVTV đang được nhập lậu và sử dụng một cách khó kiểm
soát thì hiện này, nhân lực kiểm tra của chi cục BVTV cũng như trang
thiết bị phân tích chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm còn rất hạn
chế. Toàn thành phố Hà Nội năm 2009 có 875 tổ chức, cá nhân kinh doanh
thuốc BVTV với 74 công ty và 801 cửa hàng nhưng chỉ có 7 cán bộ làm
công tác thanh kiểm tra. Trong số 801 cửa hàng trên, mới có 496 cửa
hàng được cấp chứng chỉ hành nghề kinh doanh thuốc BVTV. Hơn 300 cửa
hàng còn lại chưa được cấp chứng chỉ nhưng vẫn hành nghề. Đó là chưa
kể đến việc mỗi lần cần xét nghiệm phân tích chất lượng VSATTP, chi
cục đều phải đi thuê bên ngoài.
2.3.1. Kết quả đạt được trong QLNN đối với thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
Những cố gắng của Bộ Nông nghiệp và các cơ quan chuyên môn trong việc
cấm, thuốc ngoài danh mục là không thể phủ nhận.
Theo số liệu thu thập được về các hoạt động sản xuất hàng ngày của 32
hộ dân trồng rau tại vùng rau Đông Anh (Hà Nội) từ tháng 8/2002 –
3/2003, lượng thuốc không xác định được hoạt chất chiếm 7,7% trong
tổng số 84,84 kg lượng thuốc thương phẩm được sử dụng. Tuy nhiên, từ
tháng 8/2006 – 3/2007, lượng thuốc không xác định được hoạt chất chỉ
còn chiếm 1,2% trong tổng số 106,78 kg lượng thuốc thương phẩm được sử
dụng.
Năm 2006, Hà Nội đã bắt đầu xây dựng thí điểm mô hình RAT theo nguyên
tắc GAP (thực hành nông nghiệp tốt) tại Đông Anh. Các mô hình được
nông dân, chính quyền địa phương đánh giá cao và hiện đang được nhân
rộng. Chi cục đã phối hợp và tư vấn cho các quận, huyện, doanh nghiệp
xây dựng được 3 thương hiệu RAT mang tên Năm Sao, Bảo Hà, Yên Mỹ. Hiện
rau Năm Sao chỉ cung cấp cho các bếp ăn, RAT Bảo Hà, Yên Mỹ đang bán
thị trường Hà Nội
Cùng với việc đẩy mạnh diện tích trồng RAT, ngành nông nghiệp Hà Nội
cũng thường xuyên cử cán bộ kỹ thuật chỉ đạo, giám sát sản xuất RAT,
ngoài ra, tổ chức nhiều đợt thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quy
trình sản xuất, sơ chế RAT tại các cơ sở đã được cấp giấy chứng nhận.
Kết quả các mẫu kiểm tra về dư lượng thuốc BVTV, hàm lượng nitrat, hàm
lượng kim loại nặng và vi sinh vật đều đạt chất lượng. Hiện trên địa
bàn thành phố Hà Nội đã cấp 45 giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất
RAT với tổng diện tích hơn 260ha. Bên cạnh đó, cũng đã cấp 13 giấy
chứng nhận đủ điều kiện sơ chế RAT cho các cơ sở.
Nhà nước cũng đã phối hợp với nhiều cơ quan chức năng tổ chức các hội
chợ RAT, các phiên giao dịch hàng nông sản thực phẩm an toàn khu vực
phía Bắc với các nhà phân phối, trung tâm thương mại, siêu thị Hà Nội.
Hội nghị giao thương giữa các nhà cung ứng nông sản thực phẩm khu vực
phía Bắc với các đơn vị tiêu thụ bán lẻ Hà Nội… Hỗ trợ các doanh
nghiệp tổ chức các hội nghị, xây dựng các trang web để quảng bá thương
hiệu cho nông sản, cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh RAT…
như: Năm Sao, Bảo Hà, Yên Mỹ...Thông qua các hội nghị này, người sản
xuất và nhà phân phối sẽ có thêm cơ hội tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị
trường nội địa.
Nằm trong khuôn khổ Hội chợ Thực phẩm và Đồ uống, từ ngày 7-11/11/2007
tại Cung văn hoá Lao động Hữu Nghị, Trung tâm khuyến nông Hà Nội sẽ tổ
chức phiên chợ "Rau an toàn và Nông sản thực phẩm chất lượng cao".
Tham gia có 50 gian hàng bày bán các chủng loại rau của các cơ sở RAT
thuộc 6 vùng sản xuất rau nổi tiếng ở Hà Nội: Vân Nội, Lĩnh Nam, Văn
Đức, Đặng Xá, Duyên Hà và Đông Dư.
Đặc biệt, trong các ngày diễn ra phiên chợ sẽ có các đoàn kiểm tra của
Sở Khoa học Công nghệ - Môi trường và Chi cục BVTV thành phố đi kiểm
định chất lượng RAT tại các gian trưng bày.
Các cơ quan chức năng cũng đã hợp tác với Đài truyền hình thành phố
trong mục thời sự nông nghiệp để tuyên truyền về tác hại của rau không
an toàn trên thị trường…
2.3.2. Hạn chế trong QLNN đối với thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
Khi nói về những hạn chế của công tác quản lý hiện nay, trên thực tế
cho thấy, hiện chưa có quy định hoặc văn bản nào cấm trồng rau không
an toàn. Chức năng của Chi cục BVTV thành phố là cấp phép cho những
đơn vị trồng RAT. Nghĩa là chúng ta chỉ có thể làm được việc xây dựng
vùng RAT chứ chưa thể loại bỏ những vùng trồng rau không an toàn.
Công tác quản lý và sử dụng thuốc BVTV mặc dù đã đạt được một số kết
quả đáng khích lệ nhưng tình trạng sử dụng thuốc ngoài danh mục, không
đảm bảo thời gian cách ly... vẫn phổ biến ở nhiều địa phương.
Bên cạnh những địa phương triển khai tốt cơ chế khuyến khích sản xuất
RAT cũng có không ít vùng chưa đầu tư để quy hoạch vùng sản xuất RAT,
sản xuất vẫn mang tính nhỏ lẻ, phân tán, áp dụng quy trình kỹ thuật
chưa cao, chưa đồng nhất, chưa có cán bộ kỹ thuật, nhà khoa học hướng
dẫn nông dân cách trồng, chăm sóc RAT,…Nhà khoa học chưa nghiên cứu ra
các giống rau mới có năng suất cao, chịu được thời tiết khắc nghiệt,
chi phí thấp…Công tác quản lý sản xuất RAT ở các địa phương chưa thực
sự chặt chẽ, chưa chủ động phối hợp với các cơ quan chuyên môn. Việc
đầu tư xây dựng hạ tầng cho vùng sản xuất RAT còn thiếu và yếu. Cơ chế
chính sách cho sản xuất RAT chưa hoàn thiện nên chưa khuyến khích được
nông dân tham gia. Công tác quản lý kinh doanh RAT của ngành thương
mại còn lỏng lẻo, chưa làm tốt công tác hậu kiểm chính là những khó
khăn trong phát triển sản xuất RAT.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong QLNN đối với thị trường RAT
trên địa bàn Hà Nội
Trước hết phải nói rằng trình độ chuyên môn của một số cán bộ quản lý,
cán bộ kỹ thuật chưa đáp ứng với sự phát triển của sản xuất và đòi hỏi
của xã hội về RAT. Bên cạnh đó sự phân cấp chức năng quản lý giữa các
cơ quan liên quan đến quản lý thị trường RAT còn chưa rõ ràng, chồng
chéo. Khi được hỏi câu hỏi số 5: “Ông (bà) thấy sự phân cấp chức năng
giữa các cơ quan quản lý thị trường RAT đã rõ ràng chưa?” 30% là cán
bộ quản lý cho rằng đã phân cấp rõ ràng, 70% là còn có sự chồng chéo,
0% là chưa phân cấp. Nhiều khi giữa Sở NN và PTNN với Sở Thương Mại
lại có những kết luận trái ngược nhau gây hoang mang cho cả người sản
xuất và người tiêu dùng. Do không phân định rõ chức năng nên nhiều cơ
quan không nhận trách nhiệm về mình mà lại nói rằng đó là trách nhiệm
của cơ quan khác. Chi cục Kiểm dịch thực vật nói rằng họ chỉ có chức
năng kiểm dịch côn trùng gây hại trên rau quả còn trong rau, quả có dư
lượng thuốc trừ sâu, chất bảo quản ra sao… là phần việc của các trung
tâm Kiểm dịch y tế. Khi được hỏi thì trung tâm Kiểm dịch y tế nói rằng
đã giao cho Trung tâm Y tế dự phòng và Chi cục Quản lý vệ sinh an toàn
thực phẩm. Cứ như vậy, nên hiện nay vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm
và kiểm soát chất lượng rau trên thị trường vẫn chưa được giải quyết.
Tình trạng sử dụng thuốc BVTV ngoài danh mục, không đảm bảo thời gian
cách ly... vẫn còn tồn tại ở một số nơi, làm ảnh hưởng đến sức khoẻ
cộng đồng và môi trường sinh thái. Hiện tượng thuốc BVTV, đặc biệt
thuốc ngoài danh mục nhập lậu tại các cửa khẩu vẫn diễn ra phức tạp,
chưa quản lý được, đang tràn vào các tỉnh và Hà Nội, gây khó khăn cho
công tác quản lý ở địa phương. Điều này còn tồn tại là do thị trường
trong nước vẫn chưa cung cấp đủ lượng thuốc BVTV đảm bảo chất lượng
cần thiết cho người dân sử dụng trong quá trình sản xuất. Ngoài ra do
ý thức của người sản xuất còn kém. Họ muốn thu được nhiều lợi nhuận mà
không quan tâm đến việc sử dụng các thuốc BVTV cấm sẽ ảnh hưởng tiêu
cực đến sức khỏe của người tiêu dùng.
Công tác quản lý sản xuất RAT chưa thực sự chặt chẽ. Trách nhiệm quản
lý sản xuất RAT của chính quyền địa phương ở một số nơi chưa cao, chưa
chủ động thực hiện và phối hợp với cơ quan chuyên môn. Công tác quản
lý kinh doanh RAT của ngành thương mại đã triển khai nhưng chưa chặt
chẽ, chưa làm tốt công tác hậu kiểm. Cơ chế chính sách cho sản xuất
RAT chưa hoàn thiện, chưa khuyến khích được nông dân sản xuất RAT.
Sở dĩ dẫn đến những bất cập trong quản lý thị trường RAT thì phần lớn
các cán bộ quản lý khi trả lời câu hỏi 7: “Ông (bà) cho biết những khó
khăn gặp phải trong công tác quản lý thị trường RAT hiện nay?” cho
rằng: ngân sách nhà nước chi cho việc quản lý thị trường còn hạn hẹp,
vì thế việc đầu tư cơ sở hạ tầng cho sản xuất RAT còn thiếu và yếu.
Trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý còn hạn chế, số lượng cán bộ
ít. Mặt khác, nhận thức từ người mua, người sản xuất, người kinh doanh
còn chưa đầy đủ về RAT. Trong khi rau đại trà lại chiếm tỷ trọng lớn,
tình trạng chợ cóc, chợ tạm phổ biến phân bố rộng khắp rất tiện lợi
cho người tiêu dùng. Tại Hà Nội, đâu đâu, bất kỳ chỗ nào cũng có chợ.
Người tiêu dùng với thói quen truyền thống là tiện đâu mua đấy. Phần
lớn họ cho rằng rau ở đâu thì cũng giống nhau, cơ bản là mình rửa có
sạch hay không. Do vậy, họ thường xuyên mua rau của những người bán
rau ngồi rải rác quanh ngõ gần nhà hoặc nơi làm việc. Mặc dù đã nghe
nói về nhiều vụ ngộ độc do rau có thuốc sâu nhưng nếu quanh khu vực họ
sống chưa thấy có hiện tượng gì thì dường như họ yên tâm về độ an toàn
rau ở khu vực mình. Hơn nữa tác hại của rau không an toàn không biểu
lộ ngay nên người dân chủ quan. Có đong đếm thì được bao nhiều phần
trăm vào siêu thị, hay các cửa hàng kinh doanh RAT để mua bó rau. Nên
khi cầu vẫn có thì cung sẽ đáp ứng. Rau đại trà vẫn được người tiêu
dùng ủng hộ qua hành động thì chuyện RAT bị lép vế là đương nhiên.
Thói quen xuề xòa, thế nào cũng được, cứ tiện đâu mua đấy là một trong
những nguyên nhân gây ra những khó khăn rất lớn trong công tác quản
lý. Còn người sản xuất thấy rau nào cũng bán được, thậm chí rau đại
trà còn dễ bán hơn. Người làm kinh doanh thì vì mục tiêu lợi nhuận,
trà trộn rau đại trà với RAT che mắt người tiêu dùng. Có khi chỉ mua
một ít sản phẩm RAT về làm mẫu, còn lại là lấy rau đại trà cho rẻ”.
Thực tế, khó khăn cơ bản nhất trong phát triển diện tích sản xuất RAT
vẫn là vấn đề tiêu thụ do chưa có bất kỳ cơ chế nào cho người sản xuất
để sản phẩm của họ đến được dễ dàng với người tiêu dùng. Khi ngày một
nhiều dự án sản xuất, tiêu thụ RAT ở Hà Nội đang đứng trước nguy cơ bị
"phá sản". Nghe có vẻ vô lý, nhưng điều khiến các dự án này đi vào bế
tắc là bởi chúng ta quá chú trọng vào việc sản xuất RAT mà lại bỏ ngỏ
khâu thị trường khiến người tiêu dùng còn chưa tin tưởng. Có công ty
sản xuất kiêm luôn việc tiêu thụ RAT mỗi tháng thua lỗ từ 10 đến 30
triệu đồng nhưng vẫn gắng gượng cầm cự với hy vọng một ngày không xa
nó sẽ được người tiêu dùng đón nhận thường xuyên. Trong số những dự án
sản xuất RAT đang được Chi cục BVTV Hà Nội hướng dẫn về mặt kỹ thuật,
có một dự án đứng trước nguy cơ phá sản nhiều năm nay nhưng vẫn cầm cự
là RAT của thương hiệu Hà An. Điều khá đặc biệt là RAT của Công ty cổ
phần Sản xuất và Dịch vụ nông sản an toàn Hà An (RAT Hà An) được sản
xuất và tiêu thụ trên dây chuyền khép kín: sản xuất kiêm luôn việc
tiêu thụ tại cửa hàng ở 17T9 Trung Hòa, Nhân Chính và qua đại lý tại
Văn Quán, Thành Công, Hồ Tùng Mậu và mô hình đưa rau đến tận nhà nhưng
vẫn lỗ.
RAT Hà An có mặt trên thị trường Hà Nội từ tháng 9/2007. Ban đầu, RAT
Hà An do một nhóm cộng sự nhiệt huyết bắt tay vào sản xuất trên mô
hình 5ha ở thôn Quán Tình, phường Giang Biên do Chi cục BVTV hỗ trợ
làm mô hình điểm và UBND quận Long Biên đầu tư cơ sở hạ tầng. Nhưng
RAT Hà An ra đời vào đúng thời điểm người tiêu dùng không mặn mà, thậm
chí còn tẩy chay RAT vì những nhập nhằng, trà trộn của người kinh
doanh, nên RAT đã không có thị trường và nhanh chóng bị thất bại
Sự mập mờ giữa RAT và không an toàn đối với người tiêu dùng đã ảnh
hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của những người sản xuất RAT. Chẳng
hạn, một số khách sạn lớn ở Hà Nội từ lâu đã không dùng rau trong nước
mà toàn dùng rau ngoại nhập. Hy vọng một thời gian nữa, càng nhanh
càng tốt, các vùng sản xuất rau đều là vùng an toàn. Nhờ đó mà các
khách sạn, nhà hàng của Việt Nam mới xứng đáng trở thành bếp ăn an
toàn của thế giới
Bên cạnh đó, các điều kiện khác về trang thiết bị cần thiết phục vụ
cho công tác quản lý nhà nước về RAT, công tác thông tin tuyên truyền
về sản xuất, kinh doanh RAT còn hạn chế, chưa được thường xuyên, kịp
thời nên một bộ phận cán bộ và số đông nông dân còn thiếu thông tin về
quản lý, sản xuất, tiêu thụ RAT.
PHẦN III: GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THỊ TRƯỜNG RAU AN TOÀN TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY
Quá trình nghiên cứu cho thấy rằng, tình hình cung-cầu RAT là bài toán khá nan giải và việc QLNN về thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội vẫn tồn tại những “khoảng trắng”, nhà nước cần phải đề ra các mục tiêu, chiến lược, phương hướng và giải pháp để mở rộng thị trường RAT, khắc phục những hạn chế trong quản lý trong thời gian tới để RAT có thể chiếm lĩnh được thị trường, đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của người dân thủ đô, và nâng cao niềm tin của người dân vào sức mạnh quản lý của nhà nước.
3.1. Mục tiêu, chiến lược phát triển thị trường RAT của ngành nông nghiệp; phương hướng kế hoạch phát triển sản xuất và quản lý thị trường RAT
Do nhu cầu sử dụng RAT của người dân ngày một tăng đòi hỏi phải có sản phẩm đáp ứng nhu cầu đó. Hiện nay, việc mở rộng diện tích trồng RAT là điều cần thiết. Thực tế này đòi hỏi các cơ quan quản lý của Nhà Nước có những định hướng và giúp đỡ người sản xuất RAT để họ có thể phát triển sản xuất tăng cung RAT cho thị trường. Mặt khác khi đã tạo điều kiện để cho người nông dân mở rộng sản xuất thì cần có những biện pháp để quản lý thị trường, mở rộng thị trường nhằm đảm bảo quyền lợi cho người sản xuất lẫn người tiêu dùng. Do vậy song song với việc xây dựng định hướng phát triển sản xuất cần xác định được phương hướng quản lý và phát triển thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới.
3.1.1. Mục tiêu, chiến lược phát triển thị trường RAT của ngành nông nghiệp
3.1.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà Nước về phát triển thị trường RAT
Kinh doanh RAT phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường.
Thúc đẩy phát triển RAT trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh
. Thúc đẩy phát triển RAT trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ với công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao giá trị sản phẩm.
Thúc đẩy phát triển RAT trên cơ sở khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, chế biến và kinh doanh RAT.
Thúc đẩy phát triển RAT cần có sự hỗ trợ của Nhà Nước và các ngành có liên quan.
3.1.1.2. Mục tiêu, chiến lược phát triển thị trường RAT trên địa bàn
Hà Nội của ngành nông nghiệp
Thành phố Hà Nội đã đề ra một số mục tiêu cụ thể phát triển thị trường
RAT trên toàn thành phố. Cụ thể như sau:
Hoàn thiện nghiên cứu xác định vùng và cấp giấy chứng nhận cho các cơ
sở đủ điều kiện sản xuất RAT, đề xuất quy hoạch và đầu tư vùng sản
xuất RAT tập trung trên các vùng nông nghiệp ổn định của thành phố.
Xây dựng và triển khai các dự án kết cấu hạ tầng vùng, khu sản xuất
RAT tập trung.
Xây dựng và triển khai mô hình của thành phố về sản xuất và tiêu thụ
RAT tập trung (hệ thống tưới phun, nhà lưới, đường bê tông…).
Chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào sản xuất,
đảm bảo sản xuất RAT có hiệu quả.
Hoàn thiện trung tâm phân tích, kiểm định chất lượng rau quả Hà Nội.
Phối hợp với các tỉnh bạn nhằm sản xuất, cung ứng và quản lý chất
lượng RAT từ các tỉnh cung cấp cho Hà Nội.
3.1.2. Phương hướng kế hoạch phát triển sản xuất RAT trên địa bàn Hà Nội
Uỷ ban nhân thành phố Hà Nội phê duyệt đề án mang tên “ sản xuất và
tiêu thụ RAT giai đoạn 2009-2015” đến năm 2015, thành phố sẽ có khoảng
5.000 - 5.500ha RAT được đầu tư về cơ sở hạ tầng, có cán bộ kỹ thuật
hướng dẫn nông dân trong quá trình sản xuất. Tổng số vốn đầu tư cho đề
án này dự kiến lên đến hơn 900 tỷ đồng. Các vùng sản xuất RAT tập
trung, ưu tiên các vùng ven sông Hồng, sông Đuống, sông Đáy và sông
Tích; trong đó, thành phố sẽ lựa chọn những vùng có quy mô lớn, thuộc
các huyện như Đông Anh, Mê Linh, Gia Lâm, Chương Mỹ, Đan Phượng nhằm
đầu tư khép kín tạo thành các vùng RAT trọng điểm.
Dự kiến, đến năm 2020, diện tích sản xuất RAT của Hà Nội sẽ đạt
16.267,7ha, trong đó các vùng sản xuất rau tập trung là 151 vùng với
tổng diện tích 6.644,7ha; các vùng sản xuất rau phân tán do nông dân
trồng tự phát khoảng 2.190 vùng, tổng diện tích 9.632ha. Hà Nội cũng
sẽ tập trung hình thành các vùng sản xuất RAT tập trung phù hợp với
định hướng quy hoạch, đồng thời ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng thiết
yếu cho các vùng sản xuất RAT tập trung theo Đề án sản xuất và tiêu
thụ RAT giai đoạn 2009 - 2015 đã được UBND TP phê duyệt.
3.1.3. Phương hướng kế hoạch quản lý thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
Một đề án liên quan trực tiếp đến RAT cho người tiêu dùng Hà Nội mang
tên ''Lưu thông, tiêu thụ rau an toàn, thực phẩm sạch trên địa bàn
thành phố Hà Nội'' với mục đích bảo vệ sức khỏe cộng đồng, do Sở Công
Thương đệ trình và đã được UBND TP Hà Nội phê duyệt. Đề án này đã đặt
ra tiêu chí RAT cũng như các thực phẩm sạch khác cung ứng cho các cửa
hàng, siêu thị, khách sạn, nhà hàng, bếp ăn tập thể... phải đảm bảo
100% các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Không chỉ vậy, các cửa
hàng, các điểm bán RAT, thực phẩm sạch sẽ được tổ chức, sắp xếp thành
mạng lưới một cách có hệ thống, hợp lý và rộng khắp địa bàn Thủ đô,
ngoài tiêu chí về văn minh thương mại.
Để củng cố niềm tin của người tiêu dùng về chất lượng RAT, trong thời
gian tới Chi cục BVTV Hà Nội cần tăng cường phối hợp với các ngành
thương mại, y tế để quản lý chặt chẽ RAT từ sản xuất đến tiêu thụ ở
các khâu thủ tục, nguồn gốc, chất lượng, nâng cao năng lực, tăng cường
công tác thanh kiểm tra việc kinh doanh, sử dụng thuốc BVTV, đặc biệt
tại các vùng RAT. Tổ chức các đội thanh tra, kiểm tra, giám sát chất
lượng rau tại các cửa hàng kinh doanh RAT và việc đăng ký kinh doanh
RAT.
Một trong những điểm yếu nhất của thị trường RAT hiện nay là khâu tiêu
thụ. RAT sản xuất ra còn khó tìm nơi tiêu thụ hơn cả rau đại trà. Vấn
đề đặt ra là phải có hệ thống cửa hàng kinh doanh RAT thống nhất trên
toàn địa bàn vừa đảm bảo đầu ra cho người sản xuất vừa đáp ứng nhu cầu
của người tiêu dùng. Để khắc phục điều này, Chi cục BVTV thành phố Hà
Nội có định hướng là thực hiện quy hoạch các chợ đầu mối RAT gắn với
các vùng sản xuất lớn và các trục đường giao thông chính. Tùy theo quy
mô khu dân cư, Hà Nội bố trí từ 1- 3 cửa hàng bán rau an toàn ở mỗi
khu. Tổng số cửa hàng kinh doanh RAT sẽ được hỗ trợ lên đến 520.
3.2. Giải pháp quản lý nhà nước về thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội hiện nay
3.2.1. Một số đề xuất đối với nhà quản lý các cấp trên địa bàn Hà Nội
Nhà nước cần thành lập ban chỉ đạo sản xuất RAT các cấp từ thành phố
đến cấp xã, phường; đồng thời giám sát sản xuất RAT cũng như kinh
doanh thuốc BVTV trên địa bàn. Chi cục BVTV cử cán bộ kỹ thuật chỉ
đạo, hướng dẫn, giám sát nông dân sản xuất RAT ở tất cả các vùng sản
xuất rau. Siết chặt hơn nữa công tác giám sát sản xuất, tiêu thụ RAT,
giám sát chặt chẽ các cơ sở đã được cấp giấy chứng nhận (áp dụng quy
trình sản xuất, nguồn gốc, sản lượng, địa chỉ cung ứng rau…), phối hợp
các cơ quan chức năng xử lý nghiêm, công khai các cơ sở vi phạm, tuyên
truyền và khen thưởng những cơ sở làm tốt.
Hiện nay, cơ chế chính sách của Nhà Nước cho sản xuất RAT chưa hoàn
thiện, chưa khuyến khích được nông dân, và người kinh doanh RAT. Do
đó, UBND TP cần đưa ra các văn bản hướng dẫn cụ thể tới các địa
phương, cơ sở sản xuất và kinh doanh RAT. Thành phố Hà Nội nên xây
dựng, ban hành, quản lý quy trình sản xuất RAT cho từng loại cụ thể
bằng những văn bản pháp lý cụ thể, phù hợp với điều kiện từng vùng,
hướng dẫn nông dân thực hiện chặt chẽ các quy trình, tăng cường kiểm
tra việc sử dụng thuốc BVTV, phân bón, thuốc kích thích để kịp thời
ngăn chặn các hành vi gian dối làm “bẩn” RAT…Phải gắn tên các hộ sản
xuất chịu trách nhiệm với từng luống rau cụ thể. Kiểm tra đột xuất và
ngẫu nhiên nhiều diện tích trồng rau và cửa hàng kinh doanh.
Mạng lưới các cửa hàng, các điểm bán RAT cần được tổ chức, sắp xếp có
hệ thống, hợp lý và rộng khắp địa bàn thủ đô, đồng thời đảm bảo văn
minh thương mại. Tùy theo quy mô khu dân cư để bố trí từ 1-3 cửa hàng
bán RAT ở mỗi khu, cần quy hoạch các chợ tạm, chợ cóc, tránh tình
trạng tiện đâu bán đấy.
Hơn nữa cần quy hoạch các khu sản xuất RAT không để người dân sản
xuất nhỏ lẻ, manh mún, không có chiến lược cụ thể. Cần phải xây dựng
hệ thống sản xuất RAT theo hướng chuyên nghiệp, đồng bộ, góp phần vào
việc bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm vì sức khỏe người tiêu dùng.
Việc quy hoạch cần phải chú trọng đến vấn đề môi trường, thậm chí cả
phát triển du lịch sinh thái tại những vùng trồng rau. TP Hà Nội nên
đầu tư cơ sở hạ tầng cho sản xuất RAT, để khuyến khích người nông dân
trồng RAT. Cùng với đó là xây dựng những khu trồng rau công nghệ cao
đã được triển khai thành công ở Trung Quốc, Singapore…
Nhà nước cần có những ưu đãi cho các doanh nghiệp, các HTX, các
hộ nông dân trong việc vay vốn sản xuất và kinh doanh RAT. Thành phố
cần chỉ đạo các ngành chức năng xem xét cho nông dân vay vốn sản xuất
ưu đãi cả về số lượng và thời gian vay. Các doanh nghiệp và HTX đầu tư
sản xuất kinh doanh hàng nông sản chất lượng cao với mô hình hiện đại,
quy mô lớn cũng cần được xem xét cho vay với những ưu thế hợp lý để
các doanh nghiệp này có thể đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu và
đầu tư cho các hộ nông dân qua việc cung cấp giống, thuốc BVTV, từ
những nguồn cung cấp đáng tin cậy. Đây là điều kiện thuận lợi để các
doanh nghiệp, các HTX, các hộ nông dân tiếp tục với công nghệ tiên
tiến trong sản xuất nông nghiệp như mô hình trồng rau nhà kính, trồng
rau trong nhà lưới, trồng rau không cần đất… để có thể hội nhập với
ngành nông nghiệp thế giới. Ngoài ra, do chi phí sản xuất RAT cao hơn
chi phí sản xuất rau đại trà nên nhà nước phải xem xét miễn thuế VAT
và thủy lợi phí cho người nông dân. Cùng với đó, sở công thương, sở
tài chính phải duyệt giá thành sản phẩm tránh kiểu mua đứt bán đoạn,
nảy sinh rất nhiều vấn đề như: lúc giá cao thì người sản xuất bán ra
bên ngoài, lúc giá rẻ thì lại bán vào siêu thị, hoặc rau không sơ chế,
không đảm bảo chất lượng…
Có sự phân cấp rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan quản lý
theo các cấp tránh tình trạng trùng lặp. Tránh tình trạng bỏ ngỏ thị
trường do trông chờ, ỷ lại, không có trách nhiệm.
Hội khuyến nông thành phố Hà Nội nên phối hợp với đài phát thanh-
truyền hình Hà Nội, mỗi ngày có một chương trình chuyên nói về RAT
(cung cấp địa chỉ sản xuất và cung ứng RAT tin cậy, uy tín, tư vấn
cách chọn mua RAT…). Thời gian của mỗi ngày phát sóng chỉ cần 5 - 10
phút là đủ. Nội dung của mỗi chương trình được nói đến dưới dạng một
tiểu phẩm gần gũi như trong cuộc sống thực hàng ngày của chúng ta. Như
vậy, người tiêu dùng sẽ nắm bắt thông tin một cách nhanh chóng và dễ
dàng.
3.2.2. Giải pháp đối với doanh nghiệp kinh doanh RAT trên địa bàn Hà Nội
Hiện nay, số lượng các doanh nghiệp kinh doanh RAT trên địa bàn Hà Nội
không nhiều. Tuy nhiên, vẫn còn có tình trạng các doanh nghiệp kinh
doanh RAT bị thua lỗ phải đóng cửa. Do vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp
này phải có chiến lược kinh doanh mới.
Trước khi mở cửa hàng kinh doanh phải đăng ký kinh doanh RAT theo các
quy định của Nhà Nước. Đảm bảo việc kinh doanh là hợp pháp theo quy
định của pháp luật. Có giấy phép kinh doanh do Cục quản lý thị trường
cấp để đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp và của hàng.
Kiên quyết chỉ kinh doanh các loại RAT đảm bảo chất lượng, không bán
rau đại trà lẫn RAT. Chỉ nhập RAT của các HTX đã đạt tiêu chuẩn về sản
xuất RAT, không nhập rau không rõ nguồn gốc. Chọn lựa các cơ sở cung
cấp rau uy tín, đảm bảo thời gian giao hàng đúng hạn, đúng chủng loại
đảm bảo chất lượng. Từ đó xây dựng lên một thương hiệu uy tín của cửa
hàng được nhiều người biết đến.
Do RAT cũng như các loại nông sản khác là mặt hàng có tính đặc thù là
khó bảo quản trong thời gian dài, đòi hỏi sự tươi ngon nên vấn đề bảo
quản là rất quan trọng. Các doanh nghiệp kinh doanh lớn hay các siêu
thị thì vấn đề này đã được giải quyết khá tốt. Tuy nhiên, với các cửa
hàng nhỏ thì việc bảo quản còn là vấn đề khá khó khăn. Do quy mô cửa
hàng nhỏ nên không có điều kiện bảo quản tốt, rau nhập về rất dễ bị
hỏng do chưa bán hết trong vài ngày. Do vậy, các cửa hàng này nên thu
mua với số lượng vừa đủ, phù hợp với quy mô cửa hàng của mình và để
phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng. Đồng thời đầu tư thiết bị để bảo
quản rau tốt hơn. Bên cạnh đó, các cửa hàng kinh doanh RAT cần sơ chế,
đóng gói, dán tem, nhãn trên từng sản phẩm và tuân theo các quy định
hiện hành của Nhà Nước. Đồng thời phải có nơi giao nhận, sơ chế bao
gói, bảo quản, có đầy đủ biển hiệu, bảng giá, niêm yết kinh doanh…Đảm
bảo rằng RAT được bày bán phải luôn tươi, ngon và đảm bảo chất lượng.
Một điều rất quan trọng là các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh RAT
phải nâng cao hơn nữa sức cạnh tranh của mình trên thị trường. Việc
đảm bảo chất lượng rau là quan trọng hàng đầu. Nhưng chỉ có rau chất
lượng tốt thì chưa đủ mà cần có nhiều yếu tố khác.
Đầu tiên là đội ngũ nhân viên kinh doanh phải có kiến thức về RAT để
có thể giải thích cho người tiêu dùng biết về sự khác nhau năng suất,
đặc điểm, tính chất của RAT so với các sản phẩm rau khác. Nhân viên
bán hàng có thái độ phục vụ thân thiện, nhiệt tình với phương châm
“khách hàng là thượng đế”. Ngoài ra, mỗi cơ sở kinh doanh nên có đồng
phục riêng cho nhân viên của mình nhằm tạo nên sự khác biệt với đối
thủ cạnh tranh.
Thứ hai, nhu cầu của người tiêu dùng đa dạng và đặc biệt đối với rau
thì thay đổi theo từng bữa ăn. Do vậy, các cơ sở kinh doanh RAT phải
đảm bảo đáp ứng nhu cầu đó. Cần kinh doanh nhiều loại rau khác nhau đa
dạng và phong phú về chủng loại làm tăng sự lựa chọn cho người tiêu
dùng. Các loại rau được đóng gói với khối lượng khác nhau phù hợp với
quy mô của từng gia đình và nhu cầu của người tiêu dùng.
Thứ ba là dịch vụ trước, trong và sau bán hàng cần được tăng cường
hơn nữa. Nếu các dịch vụ này làm tốt sẽ tăng tỷ lệ quay trở lại của
khách hàng. Hơn nữa còn có thể có mở rộng uy tín và tên tuổi của cửa
hàng thông qua kênh truyền tin từ phía khách hàng. Họ không chỉ trở
thành khách hàng quen thuộc mà còn giới thiệu cho bạn bè của họ. Khách
hàng đến mua rau tại cửa hàng có chỗ để xe và trông xe miễn phí. Đối
với những khách hàng ở cùng một khu phố mua với khối lượng lớn cửa
hàng có thể giao hàng đến từng nhà theo yêu cầu của khách hàng...
Tất cả những yếu tố đó sẽ là lý do mà cửa hàng thu hút được khách hàng
đến với cửa hàng của mình mà không phải đến với cửa hàng khác.
Hiện nay, số lượng cửa hàng kinh doanh RAT còn ít và thưa nên việc mua
RAT vẫn chưa thuận tiện cho người tiêu dùng. Do vậy, cần phát triển
mạng lưới tiêu thụ RAT qua các siêu thị, đại lý, cửa hàng bán lẻ có
gắn chứng nhận RAT đến từng khu phố tùy thuộc vào mật độ dân cư.
Ngoài ra, các doanh nghiệp và cửa hàng kinh doanh RAT có thể cho thông
tin về cửa hàng của mình lên các trang Web. Hiện nay, việc mua bán qua
mạng đã trở nên khá phổ biến nên đây cũng là hướng kinh doanh mới mà
các doanh nghiệp nên hướng tới trong tương lai. Khách hàng không cần
phải đến tận cửa hàng để mua mà có thể tiến hành mua bán, thanh toán
qua mạng, sau đó sẽ giao hàng đến nhà cho khách hàng. Giúp giảm chi
phí và tiết kiệm thời gian cho cả doanh nghiệp và người tiêu dùng.
3.2.3. Giải pháp đối với người nông dân và các HTX sản xuất RAT
Trong quá trình sản xuất RAT, người nông dân cần tuân thủ các nguyên
tắc sản xuất của GAP. RAT phải được sản xuất theo đúng tiêu chuẩn quy
định. Phải có hệ thống kiểm dịch chặt chẽ, công khai, tạo sự tin tưởng
cho người tiêu dùng. Việc sơ chế, đóng gói, dán tem, nhãn sẽ phải thực
hiện trên từng sản phẩm và tuân theo các quy định hiện hành của nhà
nước.
Người sản xuất phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm RAT,
củng cố lòng tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm RAT. Muốn vậy
trong sản xuất, người sản xuất RAT phải sử dụng thuốc BVTV theo đúng
hướng dẫn trong kỹ thuật sản xuất. Không vì lợi nhuận mà sử dụng các
loại thuốc BVTV không rõ nguồn gốc, các loại thuốc BVTV nằm trong danh
mục đã bị Nhà Nước cấm. Đặc biệt không dùng các loại thuốc kích thích
tăng trưởng rau nhập từ Trung Quốc. Các loại thuốc này giúp cho rau
tăng trưởng nhanh chóng, cho năng suất cao, mẫu mã đẹp, rút ngắn thời
gian thu hoạch rau xuống chỉ bằng một nửa so với trồng rau khi không
sử dụng thuốc kích thích. Tuy nhiên, chất lượng của loại rau do sử
dụng thuốc kích thích thấp, thậm chí nguy hại đến sức khỏe con người,
không được người tiêu dùng ưa chuộng.
Người sản xuất phải sản xuất ra những sản phẩm RAT thực sự an toàn.
Tham gia các lớp tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật của các nhà khoa học để
hiểu rõ và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất một cách tốt nhất.
Không ngừng nâng cao trình độ, hiểu biết nhằm sản xuất ra những sản
phẩm RAT đảm bảo chất lượng, đạt tiêu chuẩn về dư lượng thuốc hóa học
(thuốc sâu, bệnh, thuốc cỏ), số lượng vi sinh vật, ký sinh trùng gây
bệnh, dư lượng đạm nitrat, dư lượng các kim loại nặng (chì, thủy ngân,
kẽm, đông, asenic..) theo mức cho phép. Áp dụng các biện pháp kỹ thuật
thâm canh nhằm nâng cao chất lượng RAT và năng suất. Muốn vậy các vùng
trồng RAT cần được quy hoạch cụ thể về đất đai, thủy lợi, có nguồn
nước sạch không bị nhiễm chất độc hại.
Các HTX sản xuất RAT phải xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình.
Do vậy, người nông dân nên tham gia vào các HTX sản xuất RAT tránh sản
xuất manh mún, nhỏ lẻ. Với quy mô lớn tạo điều kiện đầu tư áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật, thực hiện thâm canh tổng hợp, tạo ra vùng
nguyên liệu gắn với công nghệ sau thu hoạch, gắn với hệ thống tiêu
thụ. Đồng thời dễ dàng trao đổi thông tin giữa các thành viên. Mỗi
thành viên trong HTX phải tích cực tham gia sản xuất, tiêu thụ theo
quy hoạch của HTX. Cùng nhau xây dựng HTX vững mạnh có thương hiệu
riêng cho sản phẩm RAT của mình để ngày càng được nhiều người biết
đến. Mặt khác, phải đăng ký nhãn mác, mã vạch, đóng gói, logo… cho
riêng sản phẩm của mình. Tạo nên một thương hiệu mạnh và người tiêu
dùng có thể dễ dàng nhận biết mà không lẫn với các sản phẩm của các
HTX khác. Chỉ có như vậy mới tạo được sức cạnh tranh và nâng cao uy
tín trên thị trường.
Các HTX chịu trách nhiệm tìm đầu ra cho sản phẩm của các hội viên hạn
chế tối đa việc các xã viên phải mang RAT ra chợ bán như rau đại trà.
Liên hệ với các cơ sở kinh doanh RAT có ký hợp đồng cụ thể về việc
cung cấp RAT đảm bảo chất lượng, thời gian giao hàng đúng hạn với khối
lượng như yêu cầu. Bên cạnh đó xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất
RAT gần các cơ sở, các nhà máy chế biến rau quả tại, gần đường giao
thông, thuận tiện cho khâu vận chuyển nguyên liệu, sản phẩm tới nơi
phân phối và tiêu thụ. Ngoài ra còn giúp cho mặt hàng rau có thể bảo
quản được lâu hơn, có thể vận chuyển đến những địa bàn xa hơn, không
ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm cũng như sức khỏe con người.
Đối với RAT, trong tương lai nhu cầu còn tăng mạnh do vậy cần đầu tư
tốt cho công nghệ bảo quản và chế biến. Nâng cấp các nhà máy chế biến
hiện có, mở rộng quy mô tương xứng với nhu cầu chế biến. Xây dựng một
số nhà máy chế biến tại vùng nguyên liệu đã được quy hoạch tùy quy mô
chế biến lớn hay nhỏ mà ứng dụng công nghệ chế biến từ thủ công tới
hiện đại. Hơn nữa, làm tốt công tác bảo quản rau sau thu hoạch là điều
rất cần thiết. Giúp cho đảm bảo chất lượng rau, giảm tỷ lệ hư hao, hạ
giá thành sản phẩm. Cần áp dụng rộng rãi các kinh nghiệm cổ truyền về
bảo quản rau quả, kết hợp với từng bước áp dụng công nghệ tiên tiến,
hiện đại (xử lý hóa học, lý sinh hóc…) trong bảo quản rau để đảm bảo
chất lượng sản phẩm trong khi thời gian cung cấp rau cho thị trường
đòi hỏi kéo dài.
Mỗi huyện nên tập trung các HTX lại và thành lập được website riêng
của huyện mình. Trên website công bố cụ thể các loại rau cung cấp cho
thị trường, giá bán của từng loại, các địa chỉ phân phối rau của các
HTX… Từ đó giúp cho người tiêu dùng có thể tìm hiểu thông tin nhanh
chóng về nguồn gốc của RAT và các địa chỉ mua RAT đáng tin cậy phù hợp
với mình hơn. Bên cạnh đó, trong website của mỗi huyện có liên kết với
website của các địa phương khác nhằm giúp cho xã viên của mình có cơ
hội giao lưu và học hỏi kinh nghiệm từ các hội viên khác cùng huyện và
các địa phương khác trên cả nước và trên thế giới.
Các HTX chịu trách nhiệm tìm đầu ra cho sản phẩm của các hội viên, hạn
chế tối đa việc các xã viên phải mang rau an toàn ra chợ bán như rau
đại trà. Bên cạnh đó, cần xây dựng các cơ sở, các nhà máy chế biến rau
quả tại các vùng chuyên canh sản xuất RAT. Bởi các mặt hàng rau có thể
bảo quản được lâu hơn, có thể vận chuyển đến những địa bàn xa hơn,
không ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm cũng như sức khỏe con người.
3.2.4. Giải pháp đối với nhà khoa học
Các nhà khoa học cần tích cực nghiên cứu ra các loại giống rau mới cho
năng suất cao, chi phí thấp, quản lý và ứng dụng giống mới, nâng cao
chất lượng giống; có văn bản hướng dẫn cụ thể việc gieo trồng, chăm
sóc, thu hoạch và bảo quản đối với các loại giống mới; tham gia các
buổi tập huấn phổ biến kỹ thuật, hướng dẫn người nông dân sản xuất
theo đúng quy trình, đúng nguyên tắc của sản xuất RAT; đưa ra các cách
để người tiêu dùng phân biệt RAT hay rau không an toàn để người tiêu
dùng biết để mua.
Bên cạnh việc nghiên cứu giống mới thì nhiệm vụ của các nhà khoa học
còn phải nghiên cứu và cho ra các loại thuốc BVTV tốt cho sinh trưởng
của rau và đảm bảo không độc hại đối với sức khỏe của người tiêu dùng.
Đồng thời có các loại thuốc bảo quản rau tươi hơn trong thời gian lâu
hơn để có thể vận chuyển đi các vùng xa hơn.
Giúp nông dân nâng cao kiến thức về quản lý dịch hại tổng hợp trong
sản xuất như việc sử dụng thuốc BVTV, các biện pháp canh tác cây trồng
một cách hợp lý, chăm bón tưới tiêu, chủ động điều khiển thời gian thu
hoạch... Phổ biến ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong chu trình sản xuất
tươi, bảo quản lâu, vận chuyển xa và tuổi thọ tiêu thụ kéo dài (vải,
thanh long đường biển, nhãn…). Từ đó góp phần bảo vệ môi trường, sức
khoẻ người sản xuất cũng như người tiêu dùng, tăng lượng RAT cung cấp
cho thị trường Hà Nội.
3.2.5. Giải pháp đối với người tiêu dùng
Người tiêu dùng là những người trực tiếp tiêu thụ các sản phẩm sản
xuất ra. Để quản lý tốt thị trường cũng cần phải có cách tác động đến
người tiêu dùng. Do đặc điểm thị trường Hà Nội hiện nay còn tồn tại
rất nhiều chợ cóc, chợ tạm ở khắp nơi, nó len lỏi trong từng hẻm, từng
góc phố. Do thói quen mua sắm hàng ngày của người dân là tiện đâu mua
đó, lại chưa yêu cầu cao về chất lượng. Thói quen này gây không ít khó
khăn cho hoạt động quản lý thị trường. Bên cạnh đó hiện nay các cửa
hàng kinh doanh RAT còn ít nên hầu hết người dân phải đi rất xa mới có
thể mua được RAT. Do vậy, dù biết rau mình mua là không phải là RAT
nhưng họ vẫn mua. Một cách truyền thống mà các bà nội trợ vẫn thường
làm là mua rau ở chợ về ngâm nước muối khoảng 10 - 15 phút là sử dụng
để chế biến thành món ăn cho gia đình. Cách này chỉ giúp loại bỏ được
những chất hại bên ngoài còn không thể loại bỏ dư lượng thuốc BVTV còn
trong rau. Rõ ràng đây không phải là giải pháp an toàn đối với người
tiêu dùng. Họ cần sử dụng những sản phẩm thực sự an toàn đảm bảo chất
lượng. Bản thân mỗi người tiêu dùng cần ý thức được tác hại của việc
sử dụng các sản phẩm không an toàn. Sự mở rộng của hệ thống thống cung
cấp RAT trên toàn thành phố có thể thực hiện được thành công hay không
phụ thuộc rất lớn vào người tiêu dùng. Chỉ khi nào người tiêu dùng
thực sự tin tưởng và hình thành được thói quen chỉ tiêu dùng những sản
phẩm RAT thì việc cung cấp RAT đến từng khu phố mới có thể thực hiện
được. Do vậy, vì sức khỏe của bản thân và gia đình mình, mỗi người
tiêu dùng hãy trở thành người tiêu dùng thông minh, không chấp nhận
những sản phẩm không đạt chất lượng.
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
1.2. Xác lập vấn đề nghiên cứu
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
1.4. Các câu hỏi đặt ra cho nghiên cứu
1.5. Phạm vi nghiên cứu
1.6. Những nghiên cứu có liên quan
1.7. Phương pháp nghiên cứu
1.8. Kết cấu của đề tài
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RAU AN TOÀN VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THỊ TRƯỜNG RAU AN TOÀN
2.1. Một số lý luận về rau an toàn
2.1.1. Khái niệm rau an toàn
2.1.2. Nguyên tắc trong sản xuất rau an toàn
2.1.3. Tiêu chuẩn đánh giá rau an toàn
2.2. Một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với thị trường rau an toàn
2.2.1. Quản lý nhà nước về thị trường rau an toàn
2.2.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với thị trường rau an toàn
2.2.3. Nội dung của quản lý nhà nước về thị trường RAT
2.2.3.1. Ban hành các văn bản, chính sách, chiến lược và quy hoạch
liên quan đến thị trường rau an toàn
2.2.3.2. Quản lý chấp hành chế độ quy định và luật pháp trong hoạt
động sản xuất và kinh doanh RAT
2.2.3.3. Quản lý cơ sở hạ tầng và hệ thống kênh phân phối
2.2.3.4. Quản lý, kiểm tra chất lượng RAT cung cấp trên thị trường
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG RAU AN TOÀN VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THỊ TRƯỜNG RAU AN TOÀN TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY
3.1. Thực trạng thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội hiện nay
3.1.1. Nguồn cung RAT trên địa bàn Hà Nội hiện nay
3.1.2. Tình hình cung - cầu, giá cả, cạnh tranh trên thị trường RAT Hà
Nội hiện nay
3.1.2.1. Tình hình cung RAT trên thị trường Hà Nội hiện nay
3.1.2.2. Tình hình cầu về RAT trên thị trường Hà Nội hiện nay
3.1.3. Mối quan hệ cung - cầu RAT trên thị trường Hà Nội
3.1.4. Tình hình giá cả RAT trên thị trường Hà Nội hiện nay
3.1.5. Tình hình cạnh tranh trên thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
3.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
3.2.1. Tình hình ban hành các văn bản, chính sách, chiến lược và quy
hoạch liên quan đến thị trường RAT
3.2.2. Quản lý việc chấp hành chế độ quy định và luật pháp trong hoạt
động sản xuất và kinh doanh rau an toàn trên địa bàn Hà Nội
3.2.3. Tình hình quản lý, kiểm tra chất lượng RAT cung cấp trên thị
trường Hà Nội
3.2.4. Tình hình tổ chức và quản lý đội ngũ cán bộ làm công tác thanh
kiểm tra
3.3. Đánh giá sự QLNN đối với thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội hiện nay
3.3.1. Kết quả đạt được trong QLNN đối với thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
3.3.2. Hạn chế trong QLNN đối với thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
3.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong QLNN đối với thị trường RAT
trên địa bàn Hà Nội
CHƯƠNG 4: GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THỊ TRƯỜNG RAU AN TOÀN TRÊN
ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY
4.1. Mục tiêu, chiến lược phát triển thị trường RAT của ngành nông
nghiệp; phương hướng kế hoạch phát triển sản xuất và quản lý thị
trường RAT
4.1.1. Mục tiêu, chiến lược phát triển thị trường RAT của ngành nông nghiệp
4.1.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà Nước về phát triển thị trường RAT
4.1.1.2. Mục tiêu, chiến lược phát triển thị trường RAT trên địa bàn
Hà Nội của ngành nông nghiệp
4.1.2. Phương hướng kế hoạch phát triển sản xuất RAT trên địa bàn Hà Nội
4.1.3. Phương hướng kế hoạch quản lý thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
4.2. Giải pháp quản lý nhà nước về thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
hiện nay
4.2.1. Một số đề xuất đối với nhà quản lý các cấp trên địa bàn Hà Nội
4.2.2. Giải pháp đối với doanh nghiệp kinh doanh RAT trên địa bàn Hà Nội
4.2.3. Giải pháp đối với người nông dân và các HTX sản xuất RAT
4.2.4. Giải pháp đối với nhà khoa học
4.2.5. Giải pháp đối với người tiêu dùng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với mặt hàng rau an toàn trên địa bàn Hà Nội.docx