Nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam đang trong thời kì tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, mở cửa toàn diện nền kinh tế để từng bước hội nhập sâu vào khu vực và thế giới. Trong bối cảnh hiện nay, khi mà nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn thì nhu cầu thu hút ODA của Việt Nam để bổ sung nguồn lực cho phát triển lại được đặt trong sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước, các khu vực về thu hút nguồn vốn này. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải làm thế nào để tăng cường thu hút và sử dụng cho có hiệu quả nguồn vốn ODA? Là một trong những nhà tài trợ hàng đầu cho Việt Nam, trong năm 2009 này ADB đã cam kết cho Việt Nam trên 1,5 tỉ USD. Với con số lớn như vậy, chúng ta cần phải làm gì để các cam kết đó được hợp thức hoá và được sử dụng một cách hiệu quả nhất, đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam? Từ những lý do trên, em đã lựa chọn đề tài : “Nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Mục đích nghiên cứu: - Làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lí luận về viện trợ phát triển chính thức ODA, vai trò của nguồn vốn ODA nói chung và vốn ODA của ADB nói riêng đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam - Đánh giá tình hình cam kết, kí kết và giải ngân nguồn vốn ODA của ADB để tìm ra những khó khăn và các nguyên nhân cần giải quyết trong quá trình sử dụng vốn. - Đề xuất các giải pháp chung và riêng đối với ODA của ADB trước mắt cũng như giai đoạn tới nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ODA nói chung và vốn ODA của ADB nói riêng. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA của ADB trong thời gian từ khi Việt Nam nối lại quan hệ với ADB (1993) đến nay. Kết cấu đề tài: gồm 3 chương: - Chương I: Tổng quan về ODA và nguồn vốn ODA của ADB - Chương II: Thực trạng thu hút và sử dụng vốn ODA của ADB trong thời gian qua - Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng ODA của ADB. Chuyên đề : “ Nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ODA của ADB cho Việt Nam” được hoàn thiện với sự giúp đỡ của cô giáo – Th.s. Nguyễn Thị Hương Trà và các chuyên viên Vụ Tài chính Tiền tệ – Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Qua đây, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và lòng kính trọng đặc biệt. Trong quá trình triển khai và thực hiện đề tài, mặc dù đã có sự cố gắng rất nhiều nhưng nhưng vẫn không tránh khỏi những sai sót. Vậy mong được sự quan tâm, bổ sung, ý kiến chỉ đạo của thầy giáo, cán bộ hướng dẫn chuyên đề để chuyên đề ngày càng hoàn thiện hơn. CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ ODA VÀ NGUỒN VỐN ODA CỦA NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN CHÂU Á (ADB) 1.1. Tổng quan về ODA. 1.1.1.Khái niệm về ODA. Sau chiến tranh thế giới thứ II, hầu hết các nước châu Âu, châu Á đều đứng trước cảnh đổ nát hoang tàn. Chỉ có châu Mỹ nói chung và nước Mỹ nói riêng là không bị ảnh hưởng gì, trái lại còn phất lên nhờ chiến tranh (Năm 1945, GDP của Mỹ là 213,5 tỉ USD, bằng 40% tổng sản phẩm của toàn thế giới, tăng gần gấp đôi so với 125,8 tỉ USD năm 1942). Vì thế, Mỹ lập “ Kế hoạch Marshall” để viện trợ cho châu Âu với tên gọi là khoản: “ Hỗ trợ phát triển chính thức – ODA”. Từ đó đến nay, theo sự phát triển của mối quan hệ quốc tế, các dòng vốn ODA liên tục được đưa vào các nước đang phát triển. Nghiên cứu về dòng vốn này có rất nhiều quan điểm. Trong phạm vi bài viết xin đề cập đến một số quan điểm sau: - Khái niệm ODA được Uỷ ban viện trợ phát triển DAC (Develoment Asistance Committee) của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đề cập vào năm 1969. Theo DAC thì ODA là nguồn vốn hỗ trợ chính thức từ bên ngoài, bao gồm các khoản viện trợ và cho vay với các điều kiện ưu đãi. ODA được hiểu là nguồn vốn dành cho các nước đang và kém phát triển được các cơ quan chính thức của Chính phủ Trung ương và địa phương hoặc các cơ quan thừa hành của Chính phủ, các tổ chức liên Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ tài trợ. Vốn ODA phát sinh từ nhu cầu thiết yếu của một quốc gia, một địa phương, một ngành được tổ chức quốc tế hay nước bạn xem xét và cam kết tài trợ, thông qua một hiệp định quốc tế được đại diện có thẩm quyền hai bên ( Bên nhận vốn và Bên hỗ trợ vốn) kí kết. Hiệp định quốc tế hỗ trợ này được chi phối bởi Công pháp Quốc tế. - Theo quan điểm của Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) thì nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm cả các khoản cho không và các khoản vay đối với các nước đang phát triển, đó là nguồn vốn do các bộ phận chính thức cam kết ( nhà tài trợ chính thức ), nhằm mục đích cơ bản là phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội được cung cấp bằng các điều khoản tài chính ưu đãi ( nếu là các khoản vay, sẽ có yếu tố cho không ít nhất là 25%) - Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới (WB) thì “ ODA là khoản tài trợ hoặc giải ngân vốn vay ưu đãi (sau khi đã trừ phần trả nợ ) được cung cấp bởi các cơ quan chính thức của các nước thuộc Uỷ ban phát triển OECD, một số quốc gia và tổ chức đa phương khác như Ngân hàng Thế giới với mục đích phát triển. Viện trợ quân sự không được tính vào khái niệm này. Hình thức cung cấp ODA chủ yếu là ODA không hoàn lại và ODA vay ưu đãi có yếu tố hoàn lại ít nhất 25%. Phương thức cung cấp ODA bao gồm: Hỗ trợ cán cân thanh toán, hỗ trợ chương trình và hỗ trợ theo dự án. Hỗ trợ phát triển chính thức ODA là một nguồn vốn phát triển quan trọng đối với các nước đang phát triển để tăng cường quản lí kinh tế, phúc lợi xã hội, tái thiết, xây dựng đất nước và phát triển kinh tế, hỗ trợ cán cân thanh toán, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, 1.1.2. Đặc điểm của ODA. * Thứ nhất, vốn ODA mang tính ưu đãi. Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn) dài, có thời gian ân hạn lâu (chỉ trả lãi, chưa trả nợ gốc). Và thông thường, trong ODA có “yếu tố không hoàn lại” (còn gọi là “thành tố hỗ trợ”). Đây chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại. Tính ưu đãi của ODA còn được thể hiện ở chỗ nó chỉ dành riêng cho các nước đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và chậm phát triển có thể nhận được ODA: + Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product- GDP) bình quân đầu người thấp. Nước có GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỷ lệ viện trợ không hoàn lại của ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi càng lớn. + Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù hợp với chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên nhận ODA. Thông thường, các nước cung cấp ODA đều có những chính sách và ưu tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng về kỹ thuật và tư vấn công nghệ, kinh nghiệm quản lý Đồng thời, đối tượng ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy, nắm được hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết. * Thứ hai, vốn ODA mang tính chất ràng buộc. Nguồn vốn ODA luôn chứa đựng cả tính ưu đãi cho nước tiếp nhận và lợi ích của nước viện trợ. Vốn ODA mang yếu tố chính trị. Các nước viện trợ nói chung đều không quên dành được lợi ích cho mình, vừa gây ảnh hưởng chính trị, vừa thực hiện xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ. Nhìn chung, 22% viện trợ của Uỷ ban Hỗ trợ Phát triển (Development Assistance Committee- DAC) phải được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ của các quốc gia viện trợ. Kể từ khi ra đời đến nay, viện trợ luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng tồn tại song song. Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ở những nước đang phát triển. Mục tiêu thứ hai là tăng cường vị thế chính trị của các nước tài trợ. Chính vì vậy, khi nhận viện trợ, các nước nhận cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của các nhà tài trợ, không vì mục đích trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển chính thức phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi. * Thứ ba, ODA là nguồn vốn có khả năng để lại gánh nặng nợ. Khi tiếp nhận và sử dụng vốn ODA, do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ nần thường chưa xuất hiện. Một số nước do sử dụng chưa có hiệu quả ODA, có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời, nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Sự phức tạp chính là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại chủ yếu dựa vào xuất khẩu để thu ngoại tệ. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA phải phối hợp với các loại nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu. 1.1.3. Vai trò của ODA đối với các nước đang phát triển. * Thứ nhất, ODA là một nguồn vốn có vai trò quan trọng đối với các nước đang phát triển. Sau chiến tranh thế giới thứ II, nhiều nước ở châu Á thiếu vốn để khôi phục và phát triển nền kinh tế. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng đòi hỏi một lượng vốn lớn, lãi suất thấp, thời gian thu hồi vốn lâu, nhiều rủi ro. Vì vậy các nước gặp nhiều khó khăn trong việc thu hút vốn FDI vào lĩnh vực này. Nhiều nước đã tranh thủ được nguồn vốn ODA từ các nước giàu. Do tính chất ưu đãi, vốn ODA thường dành cho đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội như đầu tư vào đường sá, cầu cảng, công trình điện, công trình cấp thoát nước và các lĩnh vực giáo dục, y tế văn hoá và phát triển nguồn nhân lực. Vào đầu những năm 1970, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội của các nước Đông Nam Á sau khi giành độc lập còn rất nghèo nàn và lạc hậu. Các quốc gia đã sớm nhận thấy vai trò quan trọng của việc phát triển các hoạt động giao thông vận tải, thông tin liên lạc và bưu chính viễn thông Nhiều công trình hạ tầng kinh tế xã hội như sân bay, bến cảng, đường cao tốc, trường học, bệnh viện, trung tâm nghiên cứu khoa học mang tầm cỡ quốc gia ở Thái Lan, Singapore, Indonesia, Philippines đã được xây dựng bằng nguồn vốn ODA của Nhật Bản, Hoa Kỳ, WB, ADB để hiện đại hoá hệ thống giao thông vận tải của mình. * Thứ hai, ODA giúp các nước đang phát triển tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực. Những lợi ích quan trọng mà ODA mang lại cho các nước nhận tài trợ là công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và trình độ quản lý tiên tiến. Các nhà tài trợ còn ưu tiên đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực vì họ tin tưởng rằng việc phát triển của một quốc gia quan hệ mật thiết với việc phát triển nguồn nhân lực. Đây mới chính là những lợi ích căn bản, lâu dài đối với nước nhận tài trợ. Chỉ có điều là những lợi ích này thật khó có thể lượng hoá được. * Thứ ba, ODA giúp các nước đang phát triển điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Do dân số tăng nhanh, sản xuất tăng chậm và cung cách quản lý kinh tế, tài chính kém hiệu quả, các nước đang phát triển đặc biệt là các nước Châu Phi đang vấp phải nhiều khó khăn kinh tế như nợ nước ngoài và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế ngày càng tăng. Để giải quyết vấn đề này, các quốc gia đang cố gắng hoàn thiện cơ cấu kinh tế bằng cách phối hợp với WB, Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund- IMF), các tổ chức quốc tế khác tiến hành chính sách điều chỉnh cơ cấu. Chính sách này có xu hướng là chuyển chính sách kinh tế Nhà nước đóng vai trò trung tâm sang chính sách khuyến khích nền kinh tế phát triển theo định hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Thế giới đã thừa nhận sự cần thiết của loại hình viện trợ này đối với các nước đang phát triển. * Thứ tư, ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang phát triển. Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào một nước trước hết họ quan tâm tới khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tại nước đó. Họ luôn cảnh giác với những nguy cơ làm tăng các phí tổn của đầu tư. Một cơ sở hạ tầng yếu kém như hệ thống giao thông chưa hoàn chỉnh, phương tiện thông tin liên lạc thiếu thốn và lạc hậu, hệ thống cung cấp năng lượng (điện, nhiên liệu) không đủ cho nhu cầu sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư vì rằng những phí tổn mà họ phải trả cho việc sử dụng những tiện nghi hạ tầng sẽ lên cao, chưa kể đến thiệt hại như hoạt động của nhà máy, xí nghiệp phải dừng vì mất điện, công trình xây dựng bỏ dở vì không có nước

doc56 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4183 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
,80 2002 1826 392 263,44 67,20 14,42 2003 1761 551 308,06 55,91 17,49 2004 2563 632 349 55,22 13,61 2005 2500 751 289,27 38,52 11,57 2006 3337 1001 410 40,95 12,86 2007 3552 1032 530 51,35 15,00 2008 4123 1350 680 50,37 16,49 Tổng 37662 8418 4863,34 57,77 12,91 Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nhìn vào bảng 2.2, ta thấy đáng chú ý và nổi bật hơn cả là trong các năm 1995, năm 1997 và năm 1999, số vốn ODA mà ADB kí kết tài trợ cho Việt Nam đã vượt mức cam kết. Đặc biệt là năm 1995 với con số vượt mức cao nhất là 16,06%. Với con số này ADB trở thành nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam trong năm 1995, chiếm 21,83% tổng lượng ODA được ký kết trong năm này. So với năm đầu tiên còn rụt rè (ODA ký kết của ADB chỉ đạt 0,79% trên tổng ODA ký kết) thì có thể nói đây là một nỗ lực rất lớn của không chỉ nước nhận ODA mà còn là nỗ lực của cả nhà tài trợ cùng với những ưu ái mà ADB dành cho Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có một thực tế đáng buồn đó là mặc dù trong những năm gần đây lượng vốn cam kết cũng như kí kết của ADB cho Việt Nam đề tăng nhưng tỉ lệ phần trăm giữa số vốn kí kết trên số vốn đã cam kết bị giảm. Tỉ lệ bình quân trong cả giai đoạn là 57,77%. Nếu như trong giai đoạn từ 1993 – 2005 con số này nằm trong khoảng 62% thì trong mấy năm gần đây tỉ lệ này chỉ còn khoảng 58%. Mặc tỉ lệ ODA kí kết của ADB trên tổng ODA đã kí kết của các nhà tài trợ tăng nhưng đây vẫn là một thực tế đáng buồn cho Việt nam. Như vậy, tính chung trong cả giai đoạn 1993- 2008, tổng số vốn ODA được kí kết giữa ADB và Việt Nam khoảng trên 4,8 tỉ USD chiếm 12,91% tổng ODA kí kết với các nhà tài trợ và đạt 57,77% tổng ODA mà ADB đã cam kết. 2.2.2.3. Tình h ình giải ngân ODA của ADB. Tình hình thu hút ODA của ADB tại Việt Nam nhìn chung có những bước tiến triển khá, năm sau cao hơn năm trước và thực hiện tốt kế hoạch giải ngân hàng năm. Nguồn vốn ODA của ADB được giải ngân trong giai đoạn từ năm 1993 đến hết năm 2008 đạt khoảng 3,49 tỷ USD,bằng 41,48% tổng vốn ODA cam kết, bằng 71,8% tổng vốn ODA ký kết và chiếm 15,47% trong tổng vốn ODA mà tất cả các nhà tài trợ đã giải ngân cho VN. Bảng 2.3.Vốn ODA giải ngân của ADB cho Việt Nam giai đoạn 1993 – 2008 Đơn vị tính: triệu USD Năm Tổng ODA giải ngân của các nhà tài trợ ODA cam kết của ADB ODA kí kết của ADB ODA giải ngân của ADB ODA giải ngân /ODA cam kết (%) ODA giải ngân /ODA kí kết (%) ODA giải ngân của ADB / tổng ODA giải ngân của các nhà tài trợ (%) 1993 452,5 272 7,22 5,0 1,84 69,25 1,10 1994 720,6 360 268,47 104,3 28,97 38,85 14,47 1995 745,8 320 371,40 115,1 35,97 30,99 15,43 1996 972,0 270 159,91 108,2 40,07 67,66 11,13 1997 1080,0 276 288,90 126,1 45,68 43,64 11,67 1998 1369,4 276 211,88 151,4 54,85 71,45 11,06 1999 1572,4 290 358,15 197,2 68,00 55,06 12,54 2000 1820,8 321 153,64 115,1 35,85 74,91 6,32 2001 1500,0 324 214 143,2 44,19 66,91 9,55 2002 1528,1 392 263,44 208,7 53,23 79,22 13,65 2003 1441,8 551 308,06 268,2 52,31 87,06 18,60 2004 1650,0 632 349 276,0 43,67 79,08 16,72 2005 1719,9 751 289,27 223,0 30,00 77,00 12,96 2006 1800,1 1001 410 350,4 35,00 85,46 19,46 2007 2000,2 1032 530 485,1 47,00 91,50 24,25 2008 2201,1 1350 680 615,6 45,60 90,05 27,96 Tổng 22574,7 8418 4863,34 3492,6 41,48 71,80 15,47 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nhìn vào bảng 2.3 ta có thể nhận thấy lượng ODA mà ADB giải ngân cho Việt Nam trong suốt thời gian qua là tương đối ổn định và có xu hướng tăng lên theo các năm. Nếu như năm 1993 con số giải ngân được là khá khiêm tốn, chỉ 5 triệu USD (lí do cũng bởi trong năm này lượng ODA mà ADB cam kết và kí kết cho Việt Nam là quá nhỏ bé) thì ngay năm sau lượng vốn này đã tăng lên tới 104,3 triệu USD. Cũng từ đó đến nay, vốn ODA giải ngân được tăng khá đều đặn. Đến năm 2008 thì con số này đạt mức kỉ lục là 615,6 triệu USD. Mặc dù vốn giải ngân tăng nhưng vốn cam kết lại cũng tăng thậm chí còn tăng mạnh hơn nên thành ra tỉ lệ giữa giải ngân và cam kết ODA của ADB cho Việt Nam không có chiều hướng tăng lên. Tỉ lệ này hàng năm chỉ khoảng trên dưới 41,48%, là thấp hơn rất nhiều so với tỉ lệ giải ngân và cam kết chung của Việt Nam với các nhà tài trợ (48,14%). Tuy ADB là một trong những nhà tài trợ hàng đầu của Việt Nam, mỗi năm đều cam kết tài trợ cho chúng ta một lượng ODA lớn hơn rất nhiều các nhà tài trợ khác nhưng việc giải ngân được lại không cao như lẽ ra phải được. Điều này cho thấy năng lực yếu kém của chúng ta trong việc thu hút vốn ODA từ nhà tài trợ này. Cũng từ bảng số liệu trên ta thấy mặc dù tỉ lệ vốn giải ngân trên vốn cam kết của ADB là thấp hơn so với mặt bằng chung của các nhà tài trợ nhưng tỉ lệ giữa giải ngân và kí kết lại cao hơn rất nhiều, bình quân cả giai đoạn là 71,8% trong khi mặt bằng chung chỉ là 60%. Đặc biệt trong 2 năm trở lại đây con số này đều đạt trên 90%. Đó là một tín hiệu đáng mừng cho Việt Nam và cũng là một nỗ lực không chỉ của chúng ta mà còn là của cả ADB nữa. Giải ngân của ADB so với các nhà tài trợ khác bình quân cả giai đoạn chiếm khoảng 15,47% và cũng tăng dần qua các năm.Đặc biệt trong hai năm vừa qua, tỉ lệ tăng mạnh vào khoảng trên dưới 24%. Từ những con số trên đây có thể thấy, lượng ODA mà ADB giải ngân cho Việt Nam tuy không được như mong đợi nhưng vẫn chiếm một tỉ trọng khá lớn trong tổng ODA mà các nhà tài trợ giải ngân cho chúng ta. Một lần nữa khẳng định, ADB luôn là một nhà tài trợ lớn của Việt Nam. Chúng ta cần phải tăng cường việc thu hút vốn ODA của ADB tận dụng nguồn vốn này. Biểu đồ 2.4. Tình hình giải ngân của ADB cho Việt Nam giai đoạn 1993 – 2008 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2.2.3. Thực trạng sử dụng vốn ODA của ADB tại Việt Nam. 2.2.3.1. Tình hình sử dụng ODA phân theo dự án. Bên cạnh các khoản giải ngân nhanh hàng năm của ADB để giúp Việt Nam thực hiện các công cuộc cải cách chính sách thì phần lớn các khoản tài trợ của ADB dành cho Việt Nam là thông qua các dự án đầu tư. Các dự án ADB tài trợ cho Việt Nam được chia thành dự án vốn vay và dự án hỗ trợ kỹ thuật. Và giữa các loại hình dự án, mức giải ngân cũng khác nhau. Các dự án hỗ trợ kỹ thuật thường có mức giải ngân cao (chủ yếu là chi cho chuyên gia, mua sắm thiết bị, máy móc và đào tạo). Các dự án đầu tư xây dựng thường giải ngân chậm (tốn nhiều thời gian cho công tác chuẩn bị như đền bù, giải phóng mặt bằng, di dân và tái định cư). Có 34 dự án được triển khai với tổng số vốn vay 2,3 tỉ USD tính đến cuối tháng 3 năm 2008 trong khu vực công. Ngành có tỉ trọng vay vốn ADB lớn nhất gồm có: năng lượng (21,3%); giao thông và viễn thông (21,1%) và nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên (17,7%). Hầu hết (31 trong số 34) các dự án đang được triển khai đã được xếp hạng thành công về tiến độ thực hiện. Về các mục tiêu phát triển, 33 dự án (chiếm 98% tổng vốn) được đánh giá là thành công. Tỉ lệ các dự án được đánh giá là có rủi ro đã giảm từ 15,2% năm 2007 xuống 11,1% trong tổng số các dự án đang triển khai năm 2008, nhưng tỉ lệ này vẫn còn nằm trên tỉ lệ các dự án có rủi roc ho phép của ADB nói chung. Trao thầu và giải ngân cũng được cải thiện trong năm 2008 với việc chuyển nguồn vốn ròng cao hơn đáng kẻ so với năm 2007. Sự chậm trễ trong thực hiện dự án tiếp tục là mối quan tâm thường xuyên. 45,2% chậm trễ trong thực hiện theo danh mục vốn đầu tư năm 2005; 34,4% năm 2006 và 31,4% năm 2007.Nhìn chung các dự án sử dụng vốn vay của ADB tuy có châm trễ nhưng đều thành công. Dưới đây là bảng đánh giá xếp hạng các dự án cho vay khu vực công của ADB. Nhìn chung, phần lớn các dự án đều được đánh giá ở mức độ thành công. Có 34 dự án cho vay thì có 30 dự án được đánh giá là thành công, chiếm 88,2%; 3 dự án thành công một phần, 1 dự án không thành công, 1 dự án có vấn đề tiềm ẩn và 4 dự án có nguy cơ rủi ro. Kể từ khi ADB tiếp tục hoạt động trở lại ở Việt Nam vào tháng 10/1993 đến hết tháng 8/2008, 49 khoản vay đã được phê duyệt với tổng trị giá 3,9 tỉ USD và 8 khoản vay tư nhân với tổng trị giá 231 triệu USD Trong giai đoạn 2004 – 2008, có 18 khoản vay đã được phê duyệt với quy mô hàng năm từ 181 triệu USD đến 253 triệu USD. Tất cả các khoản vay được phê duyệt trong khu vực công đều được tài trợ bằng nguồn vốn ưu đãi từ Quỹ phát triển Châu Á (ADF), ngoại trừ một khoản vay đã hoàn thành cho chương trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước và quản trị công ty là được tải trợ từ nguồn OCR. Trong số 49 khoản vay được phê duyệt từ năm 1993, 15 khoản vay đã được khoá sổ, còn 34 khoản vay vẫn đang được thực hiện. Trong số 15 khoản vay đã hoàn thành này, phải kể đến hai dự án là Dự án cải tạo đường giao thông và Dự án cảng Sài Gòn cùng hai Chương trình của hai ngành Nông nghiệp và Tài Chính.Cả 4 dự án, chương trình này đều được đánh giá là thành công ở mức độ cao. Ngoài ra để phù hợp với chiến lược xoá đói giảm nghèo của ADB được áp dụng từ năm 1999, tất cả các dự án và chương trình đều phải đóng góp cho việc giảm nghèo. Vì vậy mức độ tập trung vào giảm nghèo của các dự án vay vốn ADB tại Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng qua từng năm. Bảng2.4.Danh mục các chương trình, dự án ODA của ADB cho Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2009 STT Tên chương trình, dự án Thời gian thực hiện Số vốn (Triệu USD) 1 Phát triển chè và cây ăn quản 2001 – 2007 44,27 2 Chương trình phát triển ngành Nông nghiệp 2003 – 3006 65,02 3 Dự án phát triển ngành Nông nghiệp 2003 - 2006 32,65 4 Dự án Thuỷ lợi đồng bằng sông Hồng II 2002 – 2008 77,94 5 Thuỷ lợi Phước Hoà 2004 – 2011 90,95 6 Phát triển Giáo dục Trung học Phổ thông 2004 – 2009 59,99 7 Ngành truyền tải điện khu vực Miền Bắc 2005 – 2009 120,00 8 Chăm sóc sức khoẻ nhân dân Tây Nguyên 2004 - 2010 20,17 9 Hỗ trợ Dự án Y tế dự phòng 2006 – 2012 27,69 10 Dự án nâng cấp tỉnh lộ 2002 - 2006 79,79 11 GMS : Hành lang Đông – Tây 2000 - 2006 26,20 12 Nâng cấp Quốc lộ 1 lần thứ III - đoạn 1 2000 – 2005 118,57 13 Nâng cấp Quốc lộ 1 lần thứ III, FDRC đoạn 2 2000 - 2005 53,71 (Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư) 2.2.3.2. Tình hình sử dụng vốn ODA của ADB phân theo ngành và lĩnh vực. Cơ cấu sử dụng vốn ODA của ADB của Việt Nam giai đoạn 1993 – 2008 theo ngành và lĩnh vực được thể hiện trong bảng sau: Bảng 2.5: Cơ cấu sử dụng ODA theo ngành, lĩnh vực tính đến 31/8/2008) Ngành Trị giá khoản vay thuần Số lượng khoản vay Triệu USD Tỷ lệ % 1. Nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên 398,1 17,7 7 2.Giáo dục 239,2 10,6 5 3. Năng lượng 480,0 21,3 2 4. Tài chính 154,4 6,9 3 5. Y tế, dinh dưỡng và bảo trợ xã hội 123,7 5,5 3 6. Thương mại và công nghiệp 69,1 3,1 2 7. Luật và quản lí khu vực công 14,9 0,7 1 8. Đa ngành 122,4 5,4 2 9. Giao thông và viễn thông 475,2 21,1 6 10.Cấp nước, vệ sinh và quản lí chất thải 177,8 7,9 3 Tổng cộng 2254,9 100,0 34 Nguồn: Hệ thống thông tin tài chính của các khoản vay Bảng số liệu trên cho thấy các ngành nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên, giao thông vận tải, cấp nước, vệ sinh và xử lý chất thải là những ngành chiếm nhiều vốn đầu tư nhất. Cơ cấu này phù hợp với mục tiêu chiến lược hoạt động của ADB tại Việt Nam cũng như quan điểm của Chính phủ Việt Nam về hiện đại hoá nền kinh tế và xoá đói giảm nghèo Khoảng 40% cho vay của ADB được dành cho giao thông, truyền thông, năng lượng và tài chính. Với việc tăng sử dụng các nguồn lực OCR cho các khoản đầu tư tập trung vào tăng trưởng, dự kiến tỉ trọng này sẽ tăng lên. Tình hình sử dụng ODA theo lĩnh vực cụ thể như sau: - Nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên: Nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên bao gồm cả thuỷ lợi , thuỷ sản và lâm nghiệp được đầu tư khoảng 398,1 triệu USD, chiếm 17,7% tổng ODA.Các dự án lớn trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, xoá đói giảm nghèo bao gồm dự án của các chương trình phát triển nông thôn, xoá đói giảm nghèo do các Bộ , ngành làm chủ quản như Dự án Khôi phục thuỷ lợi và chống lũ. Nhờ sự hỗ trợ của nguồn vốn ODA của ADB , các công trình hạ tầng cơ sở ở Nông thôn đã được cải thiện đáng kể ( thuỷ lợi, lưới điện nông thôn, trường học, giao thông nông thôn, cấp nước sinh hoạt, tín dụng nông thôn quy mô nhỏ…) góp phần phát triển nông thôn tổng hợp, xoá đói giảm nghèo và từng bước cải thiện cuộc sống của người dân nông thôn .- Giao thông vận tải: Giao thông vận tải là một trong những lĩnh vực được ưu tiên nhiều nhất với số vốn lên tới 475,2 triệu USD chiếm 21,1% tổng ODA của ADB. Nhờ tập trung vốn ODA quy mô lớn nên hầu hết các công trình của ngành này đều có bước phát triển khá, nhất là các công trình đường bộ. Nhiều công trình giao thông đã được cải tạo và xây dựng góp phần quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Ngoài ra, các công trình khác như đường sắt, đường thuỷ lợi nội địa cũng có các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA của ADB - Cấp thoát nước và vệ sinh môi trường: Trong giai đoạn 1993 – 2008 ODA trong lĩnh vực này chiếm 7,9% tổng ODA của ADB (177,8 triệu USD). Phần lớn các tỉnh thành trong cả nước đều có các chương trình, dự án ODA trong lĩnh vực cấp nước sử dụng nguồn vốn ADB. Trong lĩnh vực thoát nước và vệ sinh môi trường, mới chỉ có một số tỉnh có các thành phố lớn có các chương trình dự án ODA như Nghệ An, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế… - Giáo dục: Trong lĩnh vực giáo dục giai đoạn 1993 – 2008 đã tranh thủ được nguồn vốn ODA của ADB khoảng 239,2 triệu USD chiếm 10,6 % tổng ODA của ADB để đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, kĩ thuật cho công tác dạy và học của tất cả các cấp học ( dự án giáo dục tiểu học, dự án trung học cơ sở, dự án trung học phổ thông, dự án giáo dục đại học, dự án dạy nghề…), đào tạo giáo viên, tăng cường công tác kế hoạch và quản lí giáo dục, cử nhiều cán bộ, viên chức tham gia các khoá đào tạo ngắn hạn về các lĩnh vực kinh tế,khoa học, văn hoá và quản lí… đã góp phần tăng cường cơ sở vật chất, kĩ thuật cho việc dạy và học của các trường, tăng cường năng lực con người và thể chế cho ngành giáo dục - Y tế, dinh dưỡng và bảo trợ xã hội: Nguồn vốn ODA của ADB đầu tư cho lĩnh vực này khoảng 123,7 triệu USD chiếm 6,9% tổng ODA của ADB. ODA trong lĩnh vực y tế được sử dụng tập trung vào tăng cường cơ sở vật chất và kĩ thuật cho công tác khám và chữa bệnh ( xây dựng và cung cấp trang thiết bị y tế cho một số bệnh viện tuyến tỉnh và thành phố, các bệnh viện huyện và các trạm y tế xã…), trung tâm truyền máu quốc gia…tăn cường các công tác dân số và sực khoẻ sinh sản, phòng chống HIV/AIDS và bệnh truyền nhiễm như lao, sốt rét…; đào tạo cán bộ y tê, hỗ trợ xây dựng chính sách và nâng cao năng lực quản lí ngành. 2.2.4. Đánh giá thực trạng thu hút và sử dụng vốn ODA của ADB cho Việt Nam thời gian quan. 2.2.4.1. Những kết quả đạt được. Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội. Những thành tựu đã đạt được trên các lĩnh vực phát triển kinh tế và phát triển xã hội, xoá đói giảm nghèo, tăng cường năng lực thể chế và năng lực con người... đều có sự đóng góp không nhỏ của ODA nói chung và OAD của ADB nói riêng. Công tác sử dụng vốn ODA của ADB tại Việt Nam đã có những đóng góp nhất định đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Trước hết, nguồn vốn ODA của ADB đã góp phần phát triển kinh tế – xã hội, xoá đói, giảm nghèo ở nhiều địa phương, nhất là các tỉnh nghèo, vùng sâu vùng xa,vùng đồng bào dân tộc. Trong 5 năm qua, nguồn vốn ODA của ADB đã hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển xã hội, xoá đói, giảm nghèo.Nhiều công trình cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội của Trung ương và địa phương được đầu tư bằng nguồn vốn ODA của ADB đã hoàn thành trong suốt 15 năm qua được đưa vào sử dụng đang phát huy các tác dụng tích cực ( các đường Quốc lộ, tỉnh lộ, đường giao thông nông thôn, nhiều cầu và cảng biển, một số nhà máy điện, hệ thống đường dây và trạm phân phối, kể cả lưới điện nông thôn; một số công trình thuỷ lợi cấp Quốc gia và Địa phương; công tác trồng và bảo vệ rừng được tăng cường; các hệ thống cấp và thoát nước ở nhiều thành phố và thị xã, hệ thống nước sạch ở nông thôn; nhiều mô hình phát triển nông thôn, tổng hợp, kết hợp xoá đói giảm nghèo; nhiều trường học, bệnh viện, trạm xá, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc đã được xây mới hoặc cải tạo và nâng cấp…) Thứ hai, ODA của ADB đã bổ sung một nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, nhất là đầu tư từ Ngân sách Nhà nước. Trong 15 năm qua 1993 – 2008, nguồn vốn ODA của ADB đã bổ sung khoảng 11% cho tổng vốn đầu tư toàn xã hội và nguồn vốn ODA cấp phát qua ngân sách Nhà nước chiếm trung bình khoảng 17% tổng đầu tư từ ngân sách. Đặc biệt trong 3 năm trở lại đây, nguồn vốn ODA của ADB tăng một cách đáng kể, và chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng vốn ODA mà các nhà tài trợ tài trợ cho Việt Nam. Nguồn vốn này thực sự trở thành nguồn vốn bổ sung quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Thứ ba, ODA góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo, đồng thời đóng góp đáng kể cho sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội. Là nhà tài trợ đặc biệt quan tâm đến công cuộc xoá đói giảm nghèo của các nước nhận viện trợ, ADB đã thực hiện tại Việt Nam các dự án cung cấp tín dụng cho nông dân, phát triển công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, phát triển giao thông nông thôn, cung cấp nước sạch, tăng cường mạng lưới điện sinh hoạt, trạm y tế, trường học… Các khoản vay của ADB theo chương trình thuộc lĩnh vực nông nghiệp tài chính được đánh giá là có hiệu quả vì phù hợp với những ưu tiên về cải cách của Chính phủ trong giai đoạn này. Khoản vay chương trình nông nghiệp đã đưa đến sự tự do hoá về thị trường đầu vào và đầu ra của nông nghiệp, mang lại những cải cách về thuê đất nông nghiệp, đồng thời cải thiện hiệu suất đối với tài chính nông thôn. Chính sự đầu tư này đã góp phần khơi dậy nguồn lực tại chỗ thông qua sự tham gia của người dân vào các dự án. Bằng việc kết hợp giữa các chiến dịch thông tin tuyên truyền cùng với những cải thiện về cung cấp và dịch vụ, các can thiệp về kiểm soát dân số và sức khoẻ sinh sản đã có những tác động tích cực, phát huy được hiệu quả đóng góp tích cực vào công cuộc xoá đói giảm nghèo ở khu vực nông nghiệp và nông thôn. Kể từ khi thực hiện đổi mới năm 1986 cho tới nay, công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 27% năm 2000 và 20,9% năm 2005 và khoảng 10% năm 2008. Kết quả này cho thấy Việt Nam đã vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ mà nước ta đã cam kết với thế giới. Có được những kết quả này phải kể đến sự đóng góp quan trọng của ODA mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam trong đó có ADB. Thứ tư, những công trình quan trọng được tài trợ bởi ODA của ADB nói riêng và bởi các nhà tài trợ nói chung đã góp phần cải thiện cơ bản và phát triển một bước cơ sở hạ tầng kinh tế, góp phần khơi dậy nguồn vốn trong nước và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, xoá đói giảm nghèo. Cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực giao thông vận tải và năng lượng điện đã được ADB chú trọng nâng cấp và cải tạo thông qua các dự án ODA. Hệ thống đường quốc lộ, đường cao tốc, phát triển giao thông nông thôn, phát triển hệ thống đường dây và mạng lưới phân phối điện, cải tạo hệ thống thuỷ lợi Đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long, là những công trình mà ADB đã tham gia hỗ trợ Việt Nam trong thời gian qua cũng như trong giai đoạn sắp tới. Các công trình này đã đóng góp một phần không nhỏ cho Việt Nam trong công cuộc xây dựng và cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ chiến lược phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, bằng việc phối hợp tài trợ giữa ADB, WB và Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (Japan Bank for International Cooperation- JBIC) để thực hiện các dự án công trình cấp nước và vệ sinh môi trường cho hầu hết các thị xã đã được đánh giá cao và có hiệu quả trong việc phôi phục cơ sở hạ tầng. 2.2.4.2. Những tồn tại và nguyên nhân: Bên cạnh những mặt đạt được, quá trình thu hút và sử dụng ODA nói chung và ODA của ADB nói riêng cũng bộc lộ những mặt hạn chế, thậm chí trong một số trường hợp việc sử dụng ODA của ADB còn có dấu hiệu lãng phí, kém hiệu quả. Những yếu kém trong sử dụng ODA của ADB chủ yếu là: Thứ nhất, vấn đề nan giải là tiến độ thực hiện các dự án ODA của ADB còn rất chậm. Mục tiêu và chi phi đầu tư của Việt Nam có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng do tiến độc thực hiện dự án ODA chậm. Đó là cảnh báo của ADB trong cuộc họp với phái đoàn liên bộ của Việt Nam mới đây nhằm kiểm điểm tình hình thực hiện dự án năm 2008. Theo đó, tiến độ thực hiện dự án nay đã kém đi, hầu hết các dự án thực hiện rất chậm. Và lượng tiền không giải ngân được đang tăng lên. Thống kê của ADB cho thấy, trong nửa đầu năm nay, gần 22% dự án và chương trình do Ngân hàng này tài trợ đang thực hiện ở Việt Nam bị chậm. Trong số này,có một số dự án tiến độ chậm. Trên 24 tháng như dự án Giáo dục dạy nghề và kĩ thuật, dự án Phát triển hạ tầng du lịch sông Mêkông, dự án Đồng bằng sông Hồng… ADB cho rằng, việc các nguồn vốn của Ngân hàng này được giải ngân chậm sẽ làm ảnh hưởng lớn đến nỗ lực đạt được các mục tiêu phát triển của Việt Nam. Hơn nữa, việc các dự án bị kết thúc chậm cũng làm chậm tiến độ của các dự án mới, dù các dự án này đã sẵn sàng để thực hiện. Những nguyên nhân dẫn đến tiến độ thực hiện dự án châm: - Không có đủ nguồn vốn cho giai đoạn chuẩn bị; thiếu nhất quán trong công tác quản lí đầu tư công.. - Giai đoạn khởi động của dự án kéo dài quá lâu. ADB cho rằng, ở Việt Nam, sau khi được phê duyệt, nhiều dự án phải mất từ một năm trở lên mới có thể bắt đầu. Nguyên nhân chính là thiếu tính liên tục, thiếu nhất quán giữa các nhóm tham gia chuẩn bị và thực hiện dự án. Một số cán bộ tham gia công tác chuẩn bị dự án lại không được tiếp tục thực hiện dự án, nên thiếu tính kế thừa, liên tục. Người tiếp sau đó lại phải mất thời gian để tìm hiểu dự án… Ngoài ra, việc phê duyệt được áp dụng một cách tuần tự ( thay vì song song) trong quá trình thực hiện dự án và quy trình đền bù, tái định cư rườm rà, chậm trễ cũng làm cho giai đoạn khởi động dự án bị kéo dài. - Các công tác giải phóng mặt bằng của dự án khó khăn, phức tạp làm chậm tiến độ thực hiện dự án. - Giá cả vật tư, vật liệu, thiết bị trong nước, giá nhân công và thuế tăng lên do thay so với đơn giá thời điểm phê duyệt dự án cũng là một nguyên nhân làm chậm tiến độ thực hiện dự án. - Ngoài ra, thời gian thực hiện dự án còn phụ thuộc quá nhiều vào định mức chi phí trong quá trình lập dự toán và chậm trễ trong việc tuyển dụng tư vấn trong nước cũng như trong quá trình thanh toán tại các cấp, đặc bệit là giai đoạn chuẩn bị cho việc giải ngân lần cuối. Thứ hai, tốc độ giải ngân ODA của ADB còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu. Có một điều đáng lưu ý là, trong khi số vốn ODA cam kết của ADB tiếp tục tăng lên thì tốc độ và tỉ lệ giải ngân lại có xu hướng đi xuống. Giải ngân chậm là một trong những biểu hiện về lượng của việc giảm hiệu quả tiếp nhận và sử dụng ODA của ADB. Giải ngân chậm đang là vấn đề cấp bách cần được chú trọng giải quyết vì nó dẫn đến những hậu quả như: Chậm đưa công trình vào sử dụng gây lãng phí, thất thoát nguồn lực; Thay đổi các thông số nghiên cứu khả thi của dự án, có thể bị lạc hậu về công nghệ; Giảm hiệu quả của dự án, giảm tính ưu đãi của vốn vay, làm tăng nguy cơ nợ quá hạn của Chính phủ; Giảm tính hấp dẫn và khả năng thu hút ODA của ADB, xói mòn uy tín của Việt Nam về năng lực tiếp nhận viện trợ, ảnh hưởng trực tiếp tới công tác vận động ODA của ADB. Nguyên nhân chính dẫn tới tiến độ giải ngân chậm là do sự khác biệt về quy trình thủ tục dự án giữa ADB và Việt Nam. Như sự khác biệt về thủ tục trong khâu thẩm định, phê duyệt dự án, hay một số quy chế về đấu thầu, mua sắm hay thủ tục giải ngân giữa hai phía cũng có sự khác biệt dẫn đến việc để đáp ứng các quy định của cả hai đã làm chậm tiến độ giải ngân. Tiến độ giải ngân chậm nguyên nhân cũng một phần bởi cơ chế chính sách ODA của Việt Nam chưa đồng bộ, còn nhiều bất hợp lí, thủ tục còn rườm rà, chưa đơn giản hoá. Ba là, . Chất lượng một số dự án sử dụng vốn ODA của ADB còn thấp, không phù hợp với thực tế, gây lãng phí và thất thoát nguồn lực trong quá trình thực hiện. Điều này là rất đáng tiếc. Nguyên nhân chủ yếu là các cơ quan thụ hưởng ODA của Việt Nam chưa phát huy tính chủ động trong việc thu hút và sử dụng ODA. Trong một số trường hợp, các cơ quan thụ hưởng chưa xuất phát từ nhu cầu thực tế mà bị động và phụ thuộc vào nhà tài trợ trong việc hình thành các dự án ODA. Trong quá trình thực hiện các dự án ODA còn thiếu chủ động, trông chờ vào các chuyên gia và tư vấn nước ngoài. Với tư cách là nước tiếp nhận ODA, Việt Nam cần cố gắng phát huy vai trò làm chủ trong công tác quy hoạch, kế hoạch và điều phối, làm chủ trong việc chuẩn bị và tổ chức thực hiện các chương trình và dự án ODA; làm chủ trong việc theo dõi và đánh giá dự án. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA CỦA ADB 3.1. Chiến lược huy động vốn ODA để đầu tư phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam trong thời gian tới. Mục tiêu tổng quát trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong thời gian tới là tiếp tục đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa đát nước ra khỏi tình trạng kém phát triển.Cải thiện rõ rệt đời sống vất chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân. Tạo được nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế. Để đạt được những mục tiêu đó, Chính phủ đã đề ra các chỉ tiêu cụ thể về kinh tế – xã hội từ nay đến năm 2015 như sau: * Về kinh tế: - Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2015 theo giá so sánh gấp 2,1 lần so với năm 2005. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 7,5 – 8%. Trong quá trình thực hiện phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn 8%. - Quy mô GDP đến năm 2015 đạt khoảng 1690 – 1760 nghìn tỉ đồng ( theo giá hiện hành), tương đương 94 – 98 tỉ USD và GDP bình quân đầu người khoảng 1050 – 1100 USD. - Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP dự kiến : Nông, lâm, ngư nghiệp khoảng 15 – 16%; công nghiệp và xây dựng khoảng 43 – 44%; các ngành dịch vụ khoảng 40 – 41%. - Tổng kim ngạnh xuất khẩu hàng năm tăng 16% - Tổng đầu tư toàn xã hội khoảng 2200 nghìn tỉ đồng ( theo giá năm 2005), tương đương 139,4 tỉ USD, chiếm 40% GDP. * Về xã hội: - Tiếp tục thực hiện các mục tiêu phát triển Thiên niên kỉ đã cam kết (MDGs và VDGs). - Hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Năm 2015, giáo dục đại học và cao đẳng đạt 200 sinh viên / 10000 dân. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo năm 2015 đạt 40% tổng lao động xã hội; - 100% hộ dân có nhu cầu có nhà ở, đảm bảo bình quân 14 – 15 m2/ người; mật độ điện thoại đạt trên 35 máy /100 dân; mở rộng sử dụng tin học; nâng cao tỉ lệ sử dụng mạng Internet lên trên 25/100 người dân. - Quy mô dân số vào năm 2015 khoảng 88,4 triệu người, trong đó thành thị 26,4 triệu người, nông thôn 62 triệu người; tốc độ phát triển dân số vào năm 2015 là khoảng 1,14%. - Tạo việc làm và giải quyết việc làm cho trên 8 triệu lao động, bình quân mỗi năm trên 1,6 triệu lao động; dạy nghề cho 7,5 triệu lao động, trong đó 25 – 30% dài hạn. Tỉ lệ thất nghiệp thành thị dưới 5% - Năm 2015, lao động nông nghiệp chiếm 50% lao động xã hội - Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đạt 72 tuổi - Tỉ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi là 16% và dưới 5 tuổi là 25%; tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi thấp hơn 20% tính đến năm 2010 - Giảm tỉ lệ tử vong bà mẹ liên quan thai sản xuống 70/100.000 trẻ đẻ sống. Tỉ lệ bác sỹ 7/10.000 dân, tỉ lệ dược sỹ đại học 1-1,2/10.000 dân; tỉ lệ giường bệnh viện 26,3 giường/10.000 dân - Chấm dứt hoàn toàn tình trạng hộ đói, giảm tỉ lệ hộ nghèo ( theo chuẩn mới) xuống còn 10-11% vào năm 2015 Với các mục tiêu như vậy, Chính phủ xác định nhu cầu vốn đầu tư vốn của toàn xã hội giai đoạn 2010 – 1015 vào khoảng 140 tỉ USD. Trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn thì để đáp ứng được nhu cầu vốn lớn như vậy việc thu hút và sử dụng vốn nước ngoài là điều tất yếu. Trong chiến lược phát triển kinh tế cho đến năm 2015, biến nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn duy trì chủ trương : “ Lấy nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau tạo thành nguồn tổng hợp cho sự phát triển của đất nước”. Như vậy, chủ trương, đường lối của Đảng nêu rõ sự cần thiết phải huy động vốn của nước ngoài trong đó có vốn ODA. Nhận thấy được tầm quan trọng của ODA, Chính phủ đã đề ra định hướng thu hút và sử dụng vốn ODA trong 5 năm tới như sau: - Phát triển nông nghiệp và nông thôn gắn với xoá đói giảm nghèo - Ưu tiên sử dụng ODA hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội .Đối với hạ tầng kinh tế, cần ưu tiên sử dụng ODA cho giao thông vận tải, năng lượng điện, thuỷ lợi và một số dự án thông tin liên lạc. - Trong lĩnh vực thông tin liên lạc, cần ưu tiên ODA các dự án kết cấu hạ tầng của ngành, ưu tiên các dự án công nghệ thông tin, viễn thông nông thôn và miền núi - Đối với hạ tầng xã hội, tăng cường sử dụng ODA để tăng cường cơ sở vật chất, kĩ thuật nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở tất cả các cấp học - Định hướng ODA hỗ trợ các chương trình, dự án bảo vệ môi trường nhằm giải quyết một số vấn đề môi trường bức xúc như xử lí rác thải tại các đô thị, cấp thoát nước… - Tranh thủ nguồn vốn ODA để tăng cường năng lực con người cần chú trọng ở cấp cơ sở, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm, quản lí, phát triển thể chế, nhất là cải cách hành chính, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong đó ưu tiên pháp luật và thực thi pháp luật. - Có thể sử dụng ODA cho một số công trình phát triển công nghiệp có khả năng hoàn trả vốn vay Như vậy, có thể nói ODA là một nguồn vốn vô cùng quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế – xã hội. Vì vậy việc tăng cường thu hút ODA từ các nhà tài trợ lớn như ADB là rất cần thiết. 3.2. Triển vọng thu hút vốn của ADB đến năm 2015 ADB đã chính thức nối lại quan hệ hợp tác với Việt Nam vào tháng 10/1993. Phân bổ viện trợ bình quân trong 8 năm 1993 - 2000 cho thấy các lĩnh vực được quan tâm là : giao thông vận tải 29%; nông nghiệp và công nghiệp chế biến lâm sản 25,5%; hạ tầng xã hội 24,5%, năng lượng 10%, tài nguyên 6%, tài chính 5%. Triển vọng nguồn vốn ODA từ ADB là bền vững, khối lượng đáng kể và hiệu quả. Tính đến hết 2008, ADB đã cam kết hỗ trợ ODA cho Việt Nam hơn 8,4 tỉ USD, kí kết 4,8 tỉ USD và giải ngân được gần 3,5 tỉ USD. Mặc dù chiến lược phát triển của ADB trong thời gian tới có xu hướng giảm viện trợ ODA và tăng tỉ lệ cho vay thông thường nhưng lượng vốn cam kết cho Việt Nam vẫn tiếp tục tăng qua các năm. Cho đến nay, ADB đã và đang là một trong những nhà tài trợ hàng đầu cho Việt Nam.Đặc biệt là trong mấy năm trở lại đây,lượng vốn ODA mà ADB cam kết cho Việt Nam tăng lên một cách đáng kể. Trong hai năm vừa qua liên tiếp dẫn đầu trong danh sách các nhà tài trợ cho Việt Nam. Điều này cho thấy rằng chúng ta đã thực sự chiếm được lòng tin của tổ chức này và triển vọng thu hút ODA của ADB là rất khả quan. Phấn đấu trong những năm tới, mức cam kết của ADB cho Việt Nam ít nhất là sẽ bằng hoặc vượt mức cam kết năm 2009. Thuận lợi đầu tiên trong việc thu hút ODA của ADB đó là tình hình giải ngân vốn cam kết có chiều tiến bộ. Đây là một nỗ lực rất lớn của các bộ, ngành trong điều hành kế hoạch cũng như nỗ lực rất lớn của các địa phương, các ban quản lí dự án, các doanh nghiệp. Nhìn thấy được những triển vọng trong việc thu hút vốn ODA của ADB, Chính phủ đã đưa ra những định hướng cho việc thu hút và sử dụng nguồn vốn này. Việt Nam tiếp tục chủ trương thu hút vốn ODA của ADB để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Theo phương hướng trên, trong thời kì 2010 – 2015 cần định hướng ODA của ADB vào các lĩnh vực cụ thể sau đây: - Phát triển nông nghiệp và nông thôn gắn với xoá đói giảm nghèo: Trong lĩnh vực này, cần ưu tiên thu hút và sử dụng ODA để thực hiện các chương trình và dự án nhằm tăng năng suất nông nghiệp; phát triển hạ tầng nông thôn quy mô nhỏ thiết yếu cho người nghèo, phát triển các công trình thuỷ lợi kết hợp giảm nhẹ, phòng chống thiên tai… - Ưu tiên sử dụng ODA của ADB hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội.Đối với hạ tầng kinh tế, cần ưu tiên sử dụng ODA của ADB cho giao thông vận tải, năng lượng điện, thuỷ lợi và một số dự án thông tin liên lạc.Đối với hạ tầng xã hội càn ưu tiên sử dụng vốn ODA của ADB để tăng cường cơ sở vật chất, kĩ thuật nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở tất cả các cấp học. - Có thể sử dụng ODA cho một số chương trình phát triển công nghiệp có khả năng hoàn trả vốn vay,song cần phải được cân nhắc kĩ do quy định và thủ tục ODA thường kéo dài,làm mất cơ hội đầu tư. 3.3. Giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng vốn ODA của ADB cho Việt Nam trong thời gian tới Trước những đóng gốp tích cực của nguồn vốn ODA cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, nhận thấy được tầm quan trọng của nguồn vốn này và căn cứ vào thực trạng huy động và sủ dụng ODA hiện nay, chúng ta cần phải có những biện pháp tăng cường huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn hỗ trợ này. Những giải pháp cần thực hiện trong thời gian tới bao gồm: 3.3.1. Nhóm giải pháp tổng thể. 3.3.1.1. Ổn định môi trường chính trị: Môi trường chính trị là nhân tố quyết định đến các quan hệ đối ngoại cũng có ý nghĩa tác động đến quyết định tài trợ của các nhà tài trợ. Vì vậy, cần phải tiếp tục duy trì sự ổn định của môi trường chính trị, đồng thời thực hiện chính sách nhất quán trong quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là “ thực hiện đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, Việt Nam mong muốn làm bạn với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau” nhằm tăng cường hơn nữa lòng tin của các nhà tài trợ trong đó có ADB. 3.3.1.2. Hoàn thiện môi trường pháp lí. Trong thời gian qua, bắt đầu từ năm 1993, năm có sự kiện đánh dấu việc Việt Nam chính thức nối lại quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế thông qua Hội nghị CG tổ chức tại Paris, nhằm tạo điều kiện cho việc thu hút, quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức tại Việt Nam, Chính phủ đã không ngừng hoàn thiện khung pháp lý cho việc quản lý nguồn vốn này. Ngày 09/11/2006 Chính phủ ban hành Nghị định số 131/2006/NĐ-CP về quản lí và sử dụng ODA, làm nền tảng cho vấn đề quản lí Nhà nước về ODA ngày càng được tăng cường và hoàn thiện. Tiếp đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã ban hành thông tư số 04/2007/TT-BKH hướng dẫn thi hành Nghị định này – một Nghị định có nhiều tiến bộ, bao quát được toàn diện quy trình và dự án ODA từ khâu vận động nguồn vốn cho đến theo dõi đánh giá dự án. Kết quả là Việt Nam đã hài hoà được quy trình thủ tục ODA và cũng phân định rõ ràng vai trò, chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lí Nhà nước, góp phần giảm chi phí giao dịch và nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng ODA được các nhà tài trợ đánh giá cao. Sự ra đời của Nghị định trên đánh dấu sự tăng cường và hoàn thiện về mặt pháp lí trong quản lí Nhà nước về ODA làm cơ sở cho quá trình quản lí ODA một cách hiệu quả. Ngoài ra, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lí về quản lí đối với nguồn vốn ODA để đáp ứng yêu cầu thực tiễn của Việt Nam và từng bước tiến tới phù hợp với các thông lệ quốc tế.Đồng thời, ban hành bổ sung một số văn bản quản lí về cơ chế thẩm định giá, định mức chi tiêu, chi phí tư vấn đối với cơ quan tư vấn nước ngoài, quy chế kiểm tra kiểm toán đối với các dự án ODA. 3.3.1.3. Nâng cao năng lực cán bộ quản lí ODA và tăng cường kiểm tra giám sát, kiểm toán việc sử dụng nguồn vốn này. Cần có chiến lược đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lí theo hướng chuyên nghiệp hoá hoạt động quản lí dự án. Theo đó, xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dự án cả về kiến thức pháp luật, các quy trình thu hút, sử dụng nguồn vốn ODA cả về ngoại ngữ và các kiến thức quản lí dự án theo các chuẩn mực quốc tế. Chuyên môn hoá các Ban quản lí dự án và giảm tình trạng cán bộ kiêm nhiệm.Các ban quản lí dự án chú trọng hơn đến hình thức đào tạo tại chỗ, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ thông thạo chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật, ngoại ngữ, kinh nghiệm quản lí hiện đại… Trao đổi cán bộ giữa các ban quản lí dự án, cũng là hình thức để học hỏi kinh nghiệm quản lí và thực hiện dự án. Bên cạnh đó các cơ quan thanh tra, kiểm tra tài chính và kiểm toán Nhà nước cũng cần tăng cường công tác chuyên môn nghiệp vụ để thẩm định, đối chiếu, so sánh, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. Kiên quyết xử lí bằng cách xuất toán các khoản chi sai mục đích, không đúng khối lượng, đơn giá không đúng tiêu chuẩn định mức, vượt dự toán lớn. Khi cần thiết cần quy định cả trách nhiệm hình sự đối với nhà thầu, tư vấn giám sát trong việc xác nhận khối lượng thanh toán không trung thực, không đúng quy định. Mặt khác, Chính phủ cùng các cơ quan chức năng cũng như tranh thủ sự hỗ trợ của các nhà tài trợ quốc tế sớm xây dựng và ban hành bộ tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng ODA, bao gồm tiêu chuẩn định tính và định lượng.Đây là cơ sở cần thiết để tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện dự án ODA và là căn cứ để xem xét quyết định cho phép thực hiện dự án. Từ đó, Chính phủ có thể từ chối những dự án đề xuất từ phía nhà tài trợ nếu xét thấy dự án không có hiệu quả và kém tính bền vững. 3.3.2. Nhóm giải pháp cụ thể liên quan đến ADB. 3.3.2.1. Tăng cường mối quan hệ với ADB ODA thực sự là một công việc chung giữa phía tài trợ và phía tiếp nhận. Khái niệm quan hệ hợp tác đã trở nên quen thuộc trong chu trình ODA và chứa đựng những hàm ý về 2 đối tác cùng chung sức thực hiện một công việc mà cả hai bên cùng có lợi. Sự bất bình đẳng trong mối quan hệ này có thể dẫn đến những hiểu lầm và bất đồng thường xuyên giữa các đối tác.Để cải thiện và tăng cường mối quan hệ giữa Việt Nam và ADB, điều quan trọng là cả hai bên phải hiểu biết và hỗ trợ lẫn nhau. Tích cực trao đổi thông tin và đối ngoại giữa ADB và các cơ quan Việt Nam để cùng phân tích, đánh giá tình hình phát triển của Việt Nam nói chung cũng như một số lĩnh vực cụ thể. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án sử dụng vốn ODA của ADB nhằm nâng cao lòng tin của ADB. Đồng thời quan tâm đến công khai hoá và minh bạch hoá các chính sách, chế độ tiến tới hài hoà thủ tục, giảm bớt các cản trở đối với luồng vốn ODA của ADB vào Việt Nam. Tăng cường hơn nữa mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa ADB – Việt Nam, đưa mối quan hệ này lên một tầm cao mới, không ngừng mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực mà cả hai bên đều quan tâm trên cơ sở hợp tác cùng có lợi vì sự phát triển ổn định và bền vững lâu dài. 3.3.2.2.Cần có một chiến lược thu hút ODA của ADB hợp lí Là một trong những nhà tài trợ lớn của Việt Nam, hàng năm lượng vốn ODA mà ADB dành cho chúng ta khá lớn, chiếm một tỉ trong cao trong tổng ODA mà Việt Nam nhận được. Có thể tháy vai trò quan trọng của nguồn vốn này đối với sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, về bản chất ODA là viện trợ cùng có lợi, xuất phát từ lợi ích mỗi bên.Để có thể tiếp tục nhận ODA từ ADB mà không bị nhà tài trợ này chi phối thì Chính phủ cần phải có một chiến lược thu hút và sử dụng ODA của ADB có hiệu quả. Chủ động trong thu hút và sử dụng vốn ODA của ADB phù hợp với mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội. - Cần quan tâm đến lợi ích của ADB, đáp ứng những ràng buộc của họ trong giới hạn khả năng và phù hợp với mục tiêu lâu dài của Việt Nam. Tạo sự quan tâm và ủng hộ của ADB đối với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Đa dạng hoá, đa phương hoá trong thu hút ODA của ADB Để chủ động trong sử dụng vốn ODA của ADB và tránh những ràng buộc bất lợi cho ta, phải đa dạng hoá, đa phương hóa trong khai thác ODA từ nhà tài trợ này. Đa dạng hoá hình thức ODA và tranh thủ sự quan tâm của ADB. Cần hiểu rõ thế mạnh đối tác, nắm vững chính sách ODA của họ để có sách lược đối thoại với nhau. Hiện nay, ADB đang trong quá trình xây dựng một chiến lược quốc gia, Việt Nam cần chủ động chuẩn bị để hấp thu tốt nguồn vốn của ADB. Có một mục tiêu được ADB quan tâm tới nhiều hơn các nhà tài trợ khác là “nâng cao địa vị của phụ nữ và bảo vệ môi trường”. Chúng ta cần chú ý điểm này trong xây dựng chiến lược huy động và sử dụng vốn ODA. 3.3.2.3. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án sử dụng vốn ODA của ADB Mặc dù Việt Nam được đánh giá là sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA nhưng việc triển khai các dự án còn chậm đang là mối quan ngại của các nhà tài trợ nói chung và của ADB nói riêng. Để có thể tăng cường thu hút vốn ODA của ADB chúng ta cần phải có các biện pháp biện pháp đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án sử dụng vốn ODA của ADB. Cụ thể: - Đẩy mạnh khâu chuẩn bị, thẩm định và phê duyệt dự án. Ấn định rõ ràng thời gian cho phê duyệt kế hoạch đẩu tư theo quy trình nội bộ. Việc giảm các cấp phê duyệt và đơn giản hoá quá trình phê duyệt nội bộ của Chính phủ sẽ loại bỏ sự chậm trễ thời gian giữa phê duyệt và thoả thuận cho vay vốn của ADB với phê duyệt nghiên cứu khả thi nội bộ của Chính phủ. Đây là điều hết sức cần thiết .Bên cạnh đó cần đào tạo năng lực cán bộ trong khâu chuẩn bị tài liệu dự án. Yếu tố con người trong khâu này có ý nghĩa quan trọng quyết định đến thời gian chuẩn bị dự án. - Đẩy mạnh quá trình khởi động dự án.Cần tạo sự liên tục, nhất quán giữa nhóm tham gia chuẩn bị dự án và thực hiện dự án. Những cán bộ tham gia công tác chuẩn bị dự án nên để họ tiếp tục thực hiện dự án. Tránh tình trạng người tham gia chuẩn bị dự án không được tiếp tục thực hiện dự án, thay vào đó người khác thực hiện dự án lại phải mất công tìm hiểu dự án. - Đẩy mạnh công tác giải phóng mặt bằng, tính trước được sự thay đổi giá cả nguyên vật liệu. - Đẩy mạnh quá trình triển khai dự án.Cần thành lập Ban theo dõi tiến độ triển khai dự án. Phân định các giai đoạn triển khai và thời gian thực hiện cho mỗi giai đoạn 3.3.2.4. Đẩy mạnh tiến độ giải ngân các dự án ODA do ADB tài trợ a. Nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị dự án sử dụng vốn ODA của ADB Nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị dự án đầu tư có ý nghĩa cực kì quan trọng trong việc tăng cường tiến độ giải ngân các dự án ODA mà ADB tài trợ. Do đó trong khâu này cần chú ý: - Các dự án phải có mục tiêu và căn cứ pháp lí rõ ràng. Mục tiêu đầu tư phải được xác định trên cơ sở phân tích hiện trạng lĩnh vực dự kiến đầu tư và khả năng cân đối nguồn vốn.Căn cứ pháp lí phải rõ ràng, có hệ thống, không mâu thuẫn với các giải pháp của dự án. - Đảm bảo tính khoa học của dự án. Tính khoa học của dự án đòi hỏi dự án phải được lập trên cơ sở nghiên cứu công phu, tỉ mỉ, nghiêm túc tất cả các khía cạnh của dự án - Đảm bảo tính hệ thống của dự một dự án. Tính hệ thống của dự án đòi hỏi nội dung của dự án phải được xây dựng trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, đồng thời toàn bộ dự án phải đặt trong tổng thể quá trình phát triển kinh tế xã hội chung. - Trong khâu chuẩn bị nên đưa thông tin vào quản lí dự án sau này vì hiện nay các dự án của Việt Nam thường không ứng dụng công nghệ thông tin nhưng phía ADB lại rất quen thuộc với lĩnh vực này. Ngoài ra, vấn đề bố trí ngân sách cho công tác chuẩn bị dự án ODA do ADB tài trợ cũng cần được sự quan tâm thích đáng của Chính phủ vì các dự án này thường là các dự án có khối lượng đầu tư lớn, nội dung của dự án bao hàm nhiều vấn đề mang tính kĩ thuật và xã hội cao, do vậy bố trí đủ ngân sách sẽ là một tác động bôi trơn cho công tác chuẩn bị được tiến hành nhanh hơn. b. Hài hoà thủ tục chuẩn bị đầu tư dự án ODA theo quy định của Việt Nam và ADB. ADB có quy trình thủ tục riêng, cần phải nghiên cứu kĩ quy trình chuẩn bị và phê duyệt, sau đó rà soát giữa thủ tục của Việt Nam và ADB để từ đó phát hiện những chỗ chưa đồng bộ làm căn cứ cho việc nghiên cứu đề xuất các biện pháp phối hợp giữa hai chu trình. Một vấn đề quan trọng là sự mất cân đối trong quá trình hoạt động giữa việc chuẩn bị dự án và kết quả chậm trễ của công việc triển khai dự án sau khi kí hiệp định.Để giải quyết vấn đề này, ADB nghĩ rằng một sự cân đối như là một dòng thủ tục phù hợp với các công tác chuẩn bị dự án sẽ được ủng hộ bởi một khuôn khổ chung, với khuôn khổ này các bước trong thủ tục được thực hiện bởi sự thống nhất của cả hai bên. Để cân đối và đạt được sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa hai quy trình, bên phía Việt Nam cần thực hiện các giải pháp cụ thể sau: - Giảm bớt những thủ tục phê duyệt, nên phê duyệt dự án trước khi hiệp định vay có hiệu lực, nên giảm bớt thời gian trong quá trình phê duyệt nội bộ nghiên cứu khả thi.Đồng thời cũng phân chia trách nhiệm rõ ràng cho các cơ quan của Chính phủ tránh chồng chéo và nhiều khâu trung gian. - Tiếp tục nâng cao trách nhiệm của các chuyên viên kể từ khâu chuẩn bị đến khâu thực hiện dự án. 3.3.2.5 Cải cách hành chính công, đấu tranh phòng chống tham nhũng để phù hợp với yêu cầu của ADB. Một vấn đề mà các nhà đầu tư cũng như các nhà tài trợ luôn e ngại khi đưa vốn vào Việt Nam đó là các thủ tục hành chính của chúng ta quá cồng kềnh, nhiều khâu nhiều bước. ADB đánh gia thấp năng lực hành chính của Việt Nam. Mặc dù trong những năm vừa qua chúng ta đã rất nỗ lực trong việc cải cách hành chính công nhưng nhìn chung vẫn chưa cải thiện được nhiều. Cần tiếp tục cải cách thủ tục hành chính nhằm đảm bảo tình pháp lí, hiệu quả, minh bạch và công bằng trong giải quyết công việc hành chính. Thực hiện tốt chương trình tin học hoá quản lí hành chính. Tiếp tục loại bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, chồng chéo, dễ bị lợi dụng để tham nhũng; bảo đảm tính công khai của các quy định, tạo điều kiện cho việc thực hiện tốt quy chế “một cửa” tại các cơ quan hành chính nhà nước. Bên cạnh đó thì tình trạng tham nhũng cũng là một vấn đề khá lớn của chúng ta. Việt Nam là một trong những nước đứng đầu thế giới về tình trạng tham nhũng. Nó ảnh hưởng khá lớn đến việc sử dụng có hiệu quả nguồn hỗ trợ ODA của các nhà tài trợ dành cho Việt Nam. Cũng như sự e ngại trong việc có tiếp tục viện trợ cho Việt Nam nữa hay không. Một ví dụ điển hình là tháng 6/2008 Nhật Bản,một trong những nhà tài trợ lớn nhất của chúng ta từ trước tới nay,đã quyết định ngưng viện trợ cho Việt Nam sau vụ tham nhũng PCI. Rất may sau đó đến tháng 2/2009 họ lại nối lại viện trợ cho chúng ta. Đây cũng là một bài học lớn cho công tác phòng chống tham nhũng cảu Việt Nam.Cần phải đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Tổ chức triển khai thực hiện sớm Luật Phòng chống tham nhũng trong tất cả các ngành, các cấp. ADB là một trong những nhà tài trợ rất quan tâm đến việc giám sát các dự án mà họ cấp vốn.Kể từ khi bắt đầu hoạt động năm 1993 tại Việt Nam, có 18 vụ cáo buộc về tham nhũng được đưa ra Văn phòng Tổng Kiểm toán của ADB để điều tra. Không có chứng cứ tham nhũng trong 17 vụ việc, và một vụ vẫn còn đang điều tra. ADB coi tham nhũng là một vấn đề nghiêm trọng, khuyến khích công chúng tố giác các vụ nghi ngờ cho ADB. ADb trực tiếp hỗ trợ các nỗ lực cho Chính phủ trong công tác chống tham nhũng thông qua hỗ trợ kĩ thuật cho Thanh tra Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc xây dựng luật chống rửa tiền mới được thông qua gần đây. Tạo sự chuyển biến rõ nét trong việc chống tham nhũng, sách nhiễu dân, coi thường kỉ luật, kỉ cương và tắc trách trong công việc. Thự c hiện nghiêm quy chế công chức và chế độ công vụ, đề cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc thực thi pháp luật và phục vụ nhân dân. Bổ sung quy chế định rõ trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan trước cấp trên và trước pháp luật đối với những hành vi vi phạm pháp luật, kỉ luật hành chính, tội phạm hình sự của cán bộ, công chức thuộc quyền quản lí của mình. Tăng cường công tác giáo dục, kiểm tra và xử lí nghiêm minh những cán bộ, công chức tha hoá, biến chất. Làm trong sạch các cơ quan bảo vệ pháp luật để củng cố trụ cột trong đấu tranh phòng chống tham nhũng và tội phạm. Cần tăng cường năng lực thể chế và nhân lực của Thanh tra Chính phủ và các cơ quan cấp tỉnh, đảm bảo tính độc lập để thực thi nhiệm vụ. Ban hành các chính sách và thủ tục minh bạch hơn của Chính phủ ở cấp địa phương. Nâng cao các nhận thức của người dân về các biện pháp chống tham nhũng. Tăng cường đạo đức và trách nhiệm giải trình của công chức và các quan chức của Đảng. Triển khai hiệu quả các quy định về quản trị điều hành doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp hợp nhất. Triển khai hiệu quả Luật Mua sắm và Luật Phòng Chống Tham nhũng. KẾT LUẬN Trên cơ sở nhận thức được tính chất, xu thế vận động của các nguồn vốn ODA trên thế giới, nhu cầu cũng như khả năng thu hút vốn ODA của Việt Nam, đề tài: “ Nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ODA của ADB cho Việt Nam” mong muốn đưa ra những nhận định tương đối khách quan về thực trạng thu hút và sử dụng vốn ODA của ADB tại Việt Nam. Từ đó đưa ra một số giải pháp trong việc nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn này.Đối chiếu với mục đích nghiên cứu đã được nêu ở phần mở đầu, đề tài đã đạt được các kết quả sau: - Nghiên cứu, hệ thống hoá những vấn đề lí luận về ODA nói chung và ODA của ADB cho Việt Nam nói riêng. Chỉ ra được tầm quan trọng của ODA đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, từ đó khẳng định mục tiêu cần phải tăng cường thu hút nguồn vốn này trong thời gian tới. - Xem xét, đánh giá tình hình cam kết, kí kết và giải ngân ODA của ADB và các nhà tài trợ dành cho Việt Nam. Phân tích những hạn chế, khó khăn trong công tác thu hút và sử dụng ODA của ADB tại Việt Nam và tìm ra nguyên nhân để khắc phục. - Trên cơ sở nêu lên các định hướng, đã đề xuất một số giải pháp trong nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ODA của ADB Những tiếp cận của em với tư cách là một sinh viên, còn nhiều bỡ ngỡ, kiến thức còn hạn chế và mang tính lí thuyết nên đề tài nghiên cứu sẽ không tránh được những thiếu sót. Vì vậy, em mong nhận được ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo để hoàn thiện đề tài nghiên cứu và nhờ đó em cũng trau dồi được thêm kiến thức về chuyên ngành học của mình.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam.doc
Luận văn liên quan