MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1.NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.Khái niệm và các nhân tố ảnh hưởng của năng lực cạnh tranh
1.1.1.Các khái niệm
1.1.2.Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1.2.1.Nhóm nhân tố thuộc môi trường vĩ mô
1.1.2.2.Nhóm nhân tố thuộc môi trường ngành
1.1.2.3.Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp
1.2.Công cụ và phương thức cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1.Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.2.Phương thức cạnh tranh của doanh nghiệp
1.3.Một số tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.3.1.Danh tiếng và thương hiệu
1.3.2.Thị phần và khả năng chiếm lĩnh thị trường
1.3.3.Hiệu quả sản xuất kinh doanh
1.3.4.Trách nhiệm xã hội
CHƯƠNG 2.THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH
2.1.Phân tích năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam
2.1.1.Công cụ cạnh tranh của DNNN Việt Nam
2.1.2.Phương thức cạnh tranh của DNNN Việt Nam
2.2.Đánh giá năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam
2.2.1.Những ưu thế
2.2.1.1.Đóng góp của DNNN Việt Nam
2.2.1.2.Danh tiếng của DNNN
2.2.1.3.Khả năng thích ứng của DNNN
2.2.2.Những hạn chế và nguyên nhân
2.2.2.1.Những hạn chế
2.2.2.2.Nguyên nhân
CHƯƠNG 3.ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DNNN VIỆT NAM
3.1.Bối cảnh kinh tế mới và định hướng tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam
3.1.1.Bối cảnh kinh tế mới
3.1.2.Định hướng
3.2.Một số giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam
3.2.1.Về phía nhà nước
3.2.2.Về phía DNNN
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI MỞ ĐẦU
DNNN Việt Nam đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế nước ta. DNNN đang nắm giữ một số ngành, lĩnh vực then chốt, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng nhất cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nắm toàn bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, có tính huyết mạch. Hầu hết các doanh nghiệp lớn là các doanh nghiệp trong các ngành xây dựng, điện tử, hóa chất, thông tin liên lạc, vận tải đường sắt, sản xuất công nghệ tiêu dùng nắm giữ một tỷ lệ quan trọng trong những ngành kinh doanh dịch vụ, thương mại nhập khẩu chiếm thị phần áp đảo trong huy động vốn và cho vay.
Với vai trò quan trọng như vậy thì DNNN Việt Nam phải có biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Biện pháp quan trọng nhất là DNNN phải quản trị doanh nghiệp theo hướng hiện đại. Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải cân nhắc kỹ khi lựa chọn chính sách ưu đãi, hỗ trợ dưới dạng bao cấp hoặc bảo hộ, phải điều chỉnh và sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật để môi trường cạnh tranh trở nên bình đẳng. Hơn thế nữa, Nhà nước phải xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi ở các tập đoàn, các tổng công ty Nhà nước để quản lý DNNN ngày một vững mạnh.
Thực tế hiện nay cho thấy năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam còn chưa cao bởi rất nhiều nguyên nhân. Vì vậy, việc tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam trong bối cảnh hiện nay mang một ý nghĩa hết sức quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn. Trên ý nghĩa ấy, em chọn vấn đề:“Nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam”làm đề tài niên luận của mình.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là bước đầu vận dụng những lý luận về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vào việc phân tích, đánh giá năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam.
Bố cục của đề tài, ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo thì đề tài được chia thành 3 chương:
Chương 1: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam.
Chương 3: Định hướng và giải pháp tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam.
37
40 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5082 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ty mẹ - con, các hình thức nhận thầu gia công, đại lý, chi nhánh hoặc đơn giản hơn là phân công sản xuất – kinh doanh theo công đoạn, sản phẩm trung gian của một quy trình công nghệ khép kín hoặc trong chu trình tái sản xuất xã hội. Trong cơ cấu này, mỗi thành phần kinh tế có thể giữ nguyên 100% vốn, tính chất sở hữu hay có thể có sự đầu tư xâm nhập lẫn nhau.
- Thứ ba, tổ chức phân chia thị trường, phối hợp vận chuyển cung cấp sản phẩm theo những nguyên tắc thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật.
- Thứ tư, tổ chức hỗ trợ nhau trong đào tạo, bao tiêu sản phẩm hay cung ứng bán thành phẩm và các nguyên vật liệu đầu vào.
- Thứ năm, phối hợp, huy động hoặc tham khảo kinh nghiệm tổ chức các hiệp hội, đoàn thể nghề nghiệp trong các doanh nghiệp thuộc thành phần, lĩnh vực kinh tế mình hoặc chung cho tất cả các thành phần kinh tế.
Một số tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Danh tiếng và thương hiệu
Uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp được phản ánh chủ yếu ở văn hóa doanh nghiệp, bao gồm: sản phẩm, văn hóa ứng xử, hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước, hoạt động từ thiện, kinh doanh minh bạch…Đối với những nhãn hiệu lâu đời, có uy tín cao thì doanh nghiệp phải thường xuyên chăm lo cho chất lượng, thường xuyên đổi mới, tạo sự khác biệt về chất lượng và phong cách cung cấp sản phẩm.
Danh tiếng và thương hiệu chính là những giá trị vô hình của doanh nghiệp. Giá trị vô hình này có được là do quá trình phấn đấu bền bỉ theo định hướng và chiến lược phát triển của doanh nghiệp được xã hội, cộng đồng trong và ngoài nước biết đến.
Một vấn đề quan trọng liên quan đến nâng cao danh tiếng của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp phát triển thành công các thương hiệu mạnh. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp có thương hiệu mạnh sẽ kích thích người mua nhanh chóng đi đến quyết định mua, nhờ đó mà thị phần của doanh nghiệp tăng lên đáng kể. Nhưng đánh giá thương hiệu của doanh nghiệp không chỉ ở số lượng các thương hiệu mạnh hiện có mà quan trọng phải đánh giá được khả năng phát triển thương hiệu của doanh nghiệp. Khả năng đó cho thấy sự thành công tiềm tàng của doanh nghiệp trong tương lai. Nếu doanh nghiệp có khả năng phát triển thương hiệu thành công thì các sản phẩm mới trong tương lai sẽ có khả năng thành công lớn hơn trên thương trường.
Thị phần và khả năng chiếm lĩnh thị trường
Thị phần và khả năng chiếm lĩnh thị trường là tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá năng lực cạnh tranh. Thị phần là thị trường mà doanh nghiệp bán được sản phẩm của mình một cách thường xuyên và có xu hướng phát triển. Thị phần càng lớn càng chứng tỏ sản phẩm của doanh nghiệp được khách hàng, người tiêu dùng ưa chuộng, năng lực cạnh tranh cao nên doanh nghiệp hoàn toàn có thể chiếm lĩnh thị trường. Để phát triển thị phần, ngoài chất lượng, giá cả, doanh nghiệp còn phải tiến hành công tác xúc tiến thương mại, tổ chức các dịch vụ đi kèm, cung cấp sản phẩm kịp thời, thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp. Như vậy, ta thấy rằng thị phần là một tiêu chí quan trọng đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh
ü Năng suất lao động của doanh nghiệp
Năng suất lao động là chỉ tiêu tổng hợp của mọi yếu tố: con người, công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật, tổ chức phối hợp…Năng suất của máy móc, thiết bị, công nghệ được đo bằng lượng sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian. Ngoài ra, năng suất lao động còn được đo bằng lượng sản phẩm đảm bảo chất lượng trên một đơn vị lao động. Năng suất này có thể tính bằng hiện vật hoặc bằng giá trị theo công thức:
Năng suất
=
Đầu ra (hàng hóa và dịch vụ)
Đầu vào (lao động, vốn, công nghệ…)
Năng suất lao động của một doanh nghiệp càng cao bao nhiêu thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao bấy nhiêu với các doanh nghiệp cùng loại. Có năng suất cao là nhờ tổ chức sản xuất kinh doanh tốt, sử dụng tối ưu các nguồn lực, giảm tối đa các chi phí. Vì vậy, năng suất là tiêu chí quan trọng để xem xét, đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
ü Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là yếu tố cấu thành quan trọng hàng đầu của năng lực cạnh tranh của sản phẩm mà năng lực cạnh tranh của sản phẩm lại là yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp kinh doanh 10 mặt hàng đều không có năng lực cạnh tranh thì chắc chắn doanh nghiệp đó không thể có năng lực cạnh tranh. Tiêu chí chất lượng sản phẩm được chia thành 4 nhóm chỉ tiêu là: nhóm chỉ tiêu thẩm mỹ, nhóm an toàn - vệ sinh, nhóm kỹ thuật và nhóm kinh tế. Doanh nghiệp nào có cùng sản phẩm đạt mức chất lượng tốt nhất, doanh nghiệp đó sẽ có năng lực cạnh tranh cao nhất.
Trách nhiệm xã hội:
ü Tham gia bảo vệ môi trường
Đây là vấn đề nóng hổi, cấp bách và mang tính toàn cầu. Thế giới đánh giá cao tiêu chí này đối với các doanh nghiệp. Để có năng lực cạnh tranh cao, sản phẩm làm ra không được gây ô nhiễm môi trường bao gồm ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm sự yên tĩnh. Các sản phẩm của doanh nghiệp phải có chứng chỉ an toàn môi trường theo ISO.14000 hoặc theo tiêu chuẩn khu vực hoặc tiêu chuẩn Việt Nam. Việc đánh giá tiêu chí này phức tạp vì nó bao hàm nhiều chỉ tiêu mà phạm vi ảnh hưởng của nó đôi khi khó xác định. Tuy vậy, phần lớn các chỉ tiêu đều là chỉ tiêu hóa, lý, sinh, đều lượng hóa được bằng các dụng cụ đo chính xác.
Tóm lại, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là yêu cầu tất yếu. Bởi vì, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế sẽ đẩy doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, nếu năng lực cạnh tranh thấp, doanh nghiệp sẽ nhanh chóng bị loại khỏi sân chơi chung. Vì thế mà bản thân mỗi doanh nghiệp và Chính phủ các nước đều quan tâm vấn đề đẩy mạnh năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DNNN VIỆT NAM
Phân tích năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam
Theo luật doanh nghiệp của Việt Nam năm 1995 thì DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi doanh nghiệp quản lý. DNNN là bộ phận chủ yếu của khu vực kinh tế nhà nước - một lực lượng vật chất cơ bản, đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế của nhà nước.
Công cụ cạnh tranh của DNNN Việt Nam
v Giá cả
Để tồn tại và phát triển, DNNN luôn luôn theo khuynh hướng tăng giá sản phẩm và dịch vụ do DNNN hoạt động theo cơ chế độc quyền. Các mặt hàng tăng giá của DNNN hoạt động độc quyền đều ở trong lĩnh vực đặc biệt thiết yếu của đời sống và nền kinh tế quốc dân như: điện nước, xăng dầu, vận tải hàng không, đường biển…Một số mặt hàng như phân bón, sắt, thép, xi măng…có mức giá cao hơn các mặt hàng cũng loại nhập khẩu từ nước ngoài khoảng 20% - 40%, riêng giá đường thô cao gấp 70% - 80% so với giá đường thô thế giới. Điều này hoàn toàn ngược lại đối với DNTN, sự giảm giá sản phẩm, dịch vụ chính là sự tồn tại, sự cạnh tranh của các doanh nghiệp này.
v Chất lượng sản phẩm, mẫu mã, kiểu dáng, bao bì
Vượt qua khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2009, DNNN đã cố gắng nâng cao chất lượng sản phẩm của mình để đạt được hàng Việt Nam chất lượng cao. Hầu hết các DNNN đều chọn chất lượng sản phẩm làm công cụ cạnh tranh, bên cạnh đó, mẫu mã, kiểu dáng, bao bì cũng đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Điển hình là ngành da giày và ngành dệt may Việt Nam.
Trong những năm gần đây, ngành da giày VN được mở rộng và ngày càng phát triển với quy mô lớn, là một nước xuất khẩu đứng thứ tư thế giới với kim ngạnh 2,5 tỷ USD mỗi năm. Tuy nhiên, việc cạnh tranh với hàng xuất khẩu là một thách thức lớn, vì ta còn nhiều điểm yếu như da giày Việt Nam chủ yếu là gia công, giày tự sản xuất thì mẫu mã nghèo nàn, giá cả lại cao. Trong khi đó Trung Quốc có những ưu điểm này lại không phải áp dụng hạn ngạch khi xuất khẩu ra thế giới. Ngay cả thị trường trong nước cũng phải cạnh tranh, vì hiện nay Trung Quốc cũng đã đưa sang Việt Nam một lượng không nhỏ. Đứng trước tình hình đó, hiện nay, ngành da giày Việt Nam đã được hỗ trợ rất lớn về công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, làm đa dạng mẫu mã và tìm cách hạ giá thành sản xuất sản phẩm.
Thị trường dệt may Việt Nam cũng không ngừng phát triển và tính đến đầu năm 2010 thì con số kim ngạch xuất khẩu đạt 10,5 tỷ USD/năm, thị trường xuất khẩu mở rộng ra nhiều quốc gia trên thế giới. Từ những mẫu mã đơn giản đến phức tạp, các sản phẩm của dệt may Việt Nam đều được làm một cách cẩn thận và có uy tín. Sản phẩm của dệt may Việt Nam có mẫu mã, kiểu dáng rất đa dạng và phong phú:sơmi (sơ mi nam và sơ mi nữ), đồng phục (bảo hộ lao động, công sở, đồng phục học sinh), veston nam, quần nam (quần âu nam, quần sooc nam), quần nữ (quần dài, quần lửng, váy), veston nữ (cleopatre), jacket nữ…
Bên cạnh đó thì không thể không kể đến Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk), để có được sức cạnh tranh lớn trên thị trường thì Công ty đã đa dạng hóa sản phẩm với hơn 200 mặt hàng sữa và các sản phẩm từ sữa gồm: Sữa đặc, sữa bột, bột dinh dưỡng, sữa tươi, kem, sữa chua, Phô-mai và các sản phẩm khác như: sữa đậu nành, nước ép trái cây, bánh, cà phê hòa tan, nước uống đóng chai, trà, chocalate hòa tan…
v Thương hiệu
Những thương hiệu lớn trên thị trường Việt Nam hầu hết là thương hiệu của DNNN như: Công ty cổ phần May 10, Công ty cổ phần giày Việt – Vina giày, Công ty Cổ phần sữa Việt Nam – Vinamilk, Công ty cổ phần Thăng Long, Công ty cổ phần Kỹ nghệ thực phẩm Việt Nam – Vifon, Công ty Ajinomoto Việt Nam…Những thương hiệu này sản xuất ra những sản phẩm được người tiêu dùng bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao và nhiều DNNN đã đoạt giải “Chất lượng vàng Việt Nam”, sản phẩm đạt tiêu chuẩn Quốc tế như ISO 9002, ISO 14001, IQNET. Những doanh nghiệp có chất lượng sản phẩm tốt, có thương hiệu, có uy tín đã được thị trường thế giới hợp tác sản xuất như Công ty cổ phần May 10 được các hãng lớn Pierre Cardin, GuyLaroche, Maxim, Jacques Britt, Dornbusch, C&A, Seidensticker,…hợp tác.
v Các chương trình khuyến mại
Nhằm quảng bá sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ, thu hút và khuyến khích người tiêu dùng sử dụng hàng Việt Nam, các doanh nghiệp còn đưa ra các chương trình khuyến mãi như: hàng giảm giá, hàng có quà tặng đính kèm, tặng quà cho mỗi hóa đơn thanh toán trị giá từ 50.000 đồng trở lên…DNNN đưa ra chương trình khuyến mại là nhằm chủ yếu đánh vào sở thích của người tiêu dùng. Người tiêu dùng chủ yếu có sở thích là mua ít, được nhiều.
Phương thức cạnh tranh của DNNN Việt Nam
Đối với DNNN thì phương thức cạnh tranh cũng rất đa dạng, ta có thể kể ra một số phương thức như sau:
v Thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá sản DNNN làm ăn thua lỗ kéo dài.
Chúng ta phải sắp xếp và kiện toàn hoạt động của các công ty 91, lực lượng chủ đạo của kinh tế đất nước nắm giữ hơn 80% tổng số vốn của Nhà nước trong Doanh nghiệp. Với việc nắm giữ những ngành sản xuất quan trọng, sản phẩm của các tổng công ty 91 ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các DNNN nói riêng và của cả nền kinh tế bởi vì đó chính là những yếu tố đầu vào như: viễn thông, vận tải đường sắt, xi măng, xăng dầu, sắt thép, điện…Vì vậy, muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNNN thì trước hết cần nâng cao khả năng hoạt động của các tổng Công ty 91 bằng nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó trọng tâm là phải phá thế độc quyền định giá của các tổng công ty bằng kiểm soát giá của Nhà nước, tôn trọng quan hệ cung - cầu về các sản phẩm chiến lược đó trên thị trường trong nước và quốc tế để giá cả của các mặt hàng này phải phù hợp với mặt bằng giá trong khu vực quốc tế.
Từ năm 2001, Nhà nước chuyển các tổng công ty 90, 91 sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con, trong đó công ty mẹ do các công ty tự đầu tư thành lập và đồng thời công ty mẹ đầu tư bằng tài chính vào các công ty con. Có thể nói, mô hình công ty mẹ - con đã tạo ra một bước tiến mới trong quá trình đổi mới, sắp xếp lại khu vực DNNN. Các tổng công ty 90, 91 từ phương thức quản lý theo kiểu hành chính (cấp trên - cấp dưới) và cơ chế vốn đã chuyển sang mối quan hệ bình đẳng, tự nguyện và cơ chế đầu tư vốn. Với mục tiêu tạo ra những doanh nghiệp “xương sống” của nền kinh tế, đủ sức cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập, năm 2006 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt thành lập thí điểm tám tập đoàn kinh tế nhà nước. Những tập đoàn này lấy nòng cốt là các tổng công ty nhà nước hoạt động trong các ngành kinh tế trọng điểm có tính chất chi phối tới nền kinh tế, bao gồm tập đoàn Dầu khí Việt Nam, tập đoàn Điện lực Việt Nam, tập đoàn Bưu chính-Viễn thông, tập đoàn Dệt may Việt Nam, tập đoàn Cao su Việt Nam, tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam, tập đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam và tập đoàn Bảo hiểm Việt Nam.
Đối với doanh nghiệp có vốn nhà nước dưới 5 tỷ đồng, nhà nước không cần nắm giữ và không cổ phần hóa được, tùy thực tế của từng doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định một trong các hình thức: giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê. Khuyến khích DNNN đã giao, bán được chuyển thành công ty cổ phần của người lao động. Sáp nhập, giải thể, phá sản của những DNNN hoạt động không hiệu quả.
v Cổ phần hóa DNNN.
Báo cáo về kết quả sắp xếp, đổi mới, phát triển DNNN tính đến hết năm 2006 thì cả nước đã sắp xếp được 4.447 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa được 3.060 doanh nghiệp. Riêng từ năm 2001 đến 2006 đã sắp xếp được 3.830 DNNN, bằng gần 68% số DNNN đầu năm 2001.
Tính đến đầu tháng 7 năm 2010 thì cả nước đã thực hiện sắp xếp được 5.615 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp, trong đó cổ phần hoá được 3.932 doanh nghiệp (chiếm 70,02%). Trong số các doanh nghiệp đã được cổ phần hóa có 2.288 doanh nghiệp thuộc địa phương (chiếm 58,19%); 1.192 doanh nghiệp thuộc khối bộ, ngành (chiếm 30,31%) và 452 doanh nghiệp thuộc khối tập đoàn, tổng công ty (chiếm 11,5%). Số liệu DNNN đã cổ phần hóa qua các năm như sau:
Năm 2007: 116 DNNN đã cổ phần hóa.
Năm 2008: 98 DNNN đã cổ phần hóa.
Năm 2009: 60 DNNN đã cổ phần hóa.
6 tháng đầu năm 2010: 26 DNNN đã cổ phần hóa.
Hình 2.1 Số lượng DNNN cổ phần hóa các năm
(Nguồn: Theo số liệu của Bộ Tài Chính)
DNNN cần tiến hành cổ phần hóa còn rất nhiều nhưng số liệu qua các năm cho thấy số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa giảm dần. Tất cả DNNN phải cổ phần hóa đến 1/7/2010. Sau thời điểm đó, những doanh nghiệp nào chưa cổ phần hóa sẽ chuyển thành Công ty TNHH một thành viên.
v Chuyển đổi công ty nhà nước thành Công ty TNHH một thành viên.
Tính đến tháng 6 năm 2010 thì có 3 công ty mẹ tại 3 tập đoàn, tổng công ty là: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam), Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) và Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam (Vinataba) chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty TNHH một thành viên. Riêng 6 tháng đầu năm 2010, cả nước đã có 57 DNNN chuyển sang Công ty TNHH một thành viên
Sau khi chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên, công ty mẹ Petro Vietnam sẽ kế thừa các quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp và xử lý những vấn đề tồn tại và phát sinh của tập đoàn này trước khi chuyển đổi.
Petro Vietnam có 11 ngành nghề kinh doanh chính gồm: nghiên cứu, tìm kiếm thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến, tàng trữ dầu khí, khí hóa than, làm dịch vụ về dầu khí ở trong và ngoài nước; xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị dầu khí, sản phẩm dầu khí, hóa dầu; khảo sát, thiết kế, xây dựng, khai thác, sửa chữa các công trình, phương tiện phục vụ dầu khí, dân dụng; đầu tư, khai thác than và các khoáng sản khác tại nước ngoài, ký kết hợp đồng nhập khẩu, cung ứng than; đầu tư và sản xuất kinh doanh năng lượng tái tạo...
Ngoài những ngành nghề chính trên, Petro Vietnam còn hoạt động trong các ngành, nghề khác có liên quan như: hoạt động tài chính, chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm; đào tạo, cung ứng nhân lực dầu khí, xuất khẩu lao động; đầu tư, kinh doanh bất động sản; đầu tư, khai thác phát triển cảng, kinh doanh vận tải biển, vận tải đường thủy, đường không và đường bộ, đại lý tàu biển...
Đối với Vietnam Airlines, đây là doanh nghiệp vận chuyển hàng không, được cấp thương quyền vận chuyển hành khách, hàng hóa, bưu kiện; được cấp chứng chỉ khai thác tàu bay, đồng thời thực hiện chức năng đầu tư ra ngoài doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Ngành nghề kinh doanh chính là vận chuyển hàng không đối với hành khách, hành lý, hàng hóa, bưu kiện, bưu phẩm, thư; hoạt động hàng không chung. Vietnam Airline còn có nhiệm vụ bảo dưỡng tàu bay, động cơ, thiết bị hàng không và các thiết bị kỹ thuật khác, cũng như sản xuất linh kiện, phụ tùng trang thiết bị kỹ thuật và các nội dung khác thuộc lĩnh vực công nghiệp hàng không...Ngoài ra, Vietnam Airlines còn hoạt động trên các lĩnh vực như vận tải đa phương thức, cung ứng các dịch vụ kỹ thuật thương mại mặt đất, các dịch vụ tại nhà ga hành khách, ga hàng hóa và các dịch vụ phuc vụ sân đỗ tại các cảng hàng không, sân bay…
Với Vinataba, doanh nghiệp này được phép hoạt động trong 2 ngành nghề kinh doanh chính gồm đầu tư, sản xuất kinh doanh thuốc lá tại Việt Nam và nước ngoài; trồng cây nguyên liệu thuốc lá; thực hiện dạy nghề thuộc lĩnh vực trồng, chế biến nguyên liệu thuốc lá và sản xuất thuốc lá điếu, công nghiệp thực phẩm...
Doanh nghiệp này gần đây cũng mở rộng kinh doanh đa ngành nghề sang các lĩnh vực công nghiệp tiêu dùng, đầu tư tài chính, bất động sản…, thông qua hợp tác với nhiều doanh nghiệp khác như Công ty cổ phần Bánh kẹo Hải Hà, Vietnam Airlines, Công ty rượu bia nước giải khát Lâm Ðồng, Tập đoàn Sapporo Holdings Limited...Sau khi chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên, Vietnam Airlines và Vinataba kế thừa các quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp và xử lý những vấn đề tồn tại, phát sinh của hai tổng công ty trước khi chuyển đổi.
Sau đó, hai công ty mẹ là Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT) và Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (Vinachem) cũng được chuyển thành công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.
VNPT kinh doanh trên 2 lĩnh vực chính gồm dịch vụ và sản phẩm viễn thông, công nghệ thông tin; dịch vụ và sản phẩm truyền thông. Đồng thời còn hoạt động trong các ngành, nghề kinh doanh khác như khảo sát, tư vấn, thiết kế, xây dựng, lắp đặt, bảo dưỡng các công trình viễn thông, công nghệ thông tin và truyền thông; sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu, cung ứng vật tư, thiết bị viễn thông, công nghệ thông tin và truyền thông...
Vinachem có ngành nghề kinh doanh chính là: sản xuất, kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật; hóa chất cơ bản; hóa chất tiêu dùng; công nghiệp hóa chất, hóa dược, hóa dầu; công nghiệp chế biến cao su; công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản; đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước. Ngoài ra, Vinachem còn kinh doanh một số ngành nghề khác như kinh doanh máy móc thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ cho ngành công nghiệp hóa chất; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành công nghiệp hóa chất và các ngành nghề khác.
Đánh giá năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam
Những ưu thế
Đóng góp của DNNN Việt Nam
DNNN chiếm thị phần lớn trên thị trường trong nước, theo số liệu thống kê, tính đến 31/12/2008, tổng nguồn vốn của 90 tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 1.241 nghìn tỷ đồng. Chỉ tính riêng trong năm 2008, khối doanh nghiệp nhà nước mà nòng cốt là các tập đoàn, tổng công ty đã đóng góp gần 40% giá trị GDP, tạo ra 39,5% giá trị sản xuất công nghiệp, trên 50% kim ngạch xuất khẩu và 28,8% tổng thu nội địa, giải quyết việc làm cho hơn 1,1 triệu lao động với mức thu nhập bình quân là 3,8 triệu đồng.
Ví dụ như Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk) là một doanh nghiệp hàng đầu của ngành công nghiệp chế biến sữa, chiếm lĩnh tới 75% thị phần sữa tại Việt Nam hiện nay. Ngoài việc phân phối mạnh trong nước với mạng lưới 183 nhà phân phối và gần 94.000 điểm bán hàng phủ đều 64 tỉnh thành, sản phẩm Vinamilk còn được xuất khẩu sang nhiều nước Mỹ, Pháp, Canada, Ba Lan, Đức, khu vực Trung Đông, Đông Nam Á…đem lại cho Việt Nam lượng doanh thu khá lớn.
Danh tiếng của DNNN
DNNN có thương hiệu nổi tiếng là hàng Việt Nam chất lượng cao, được nhiều người tiêu dùng bình chọn. Ví dụ như: Đạm Phú Mỹ, Agribank, PVFC, GARCO 10, Dệt 10-10… Bên cạnh đó, DNNN được hưởng ưu đãi nhiều nhất, hỗ trợ lớn nhất từ phía nhà nước. Các doanh nghiệp lớn về doanh thu, về tài sản bởi họ là nơi chiếm dụng nguồn lực nhiều nhất. Đó không chỉ là tài sản vật chất: đất đai, tài nguyên, nhà xưởng, tín dụng, vốn liếng... mà cả tài sản quyền kinh doanh, quyền nhận các dự án lớn, các hạng mục đầu tư mà nhà nước trao tặng hoặc ưu ái.
Khả năng thích ứng của DNNN
Qua đợt khủng hoảng vừa rồi, phần lớn DNNN là bị phá sản nhưng DNNN vẫn có khả năng thích ứng với thị trường bằng cách:
v Tái cấu trúc doanh nghiệp:
Tiến trình sắp xếp đổi mới DNNN chính thức khởi động từ 1992, với xuất phát điểm có 6.500 DNNN. Tính đến hết năm 2008, cả nước đã có 5.414 DNNN được sắp xếp lại. Trong đó, 3.836 DNNN được tái cấu trúc ở hình thức triệt để nhất là cổ phần hóa. Cổ phần hóa đã huy động được thêm khoảng 100.000 tỷ đồng vốn từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia dưới hình thức mua cổ phần.
Theo kết quả tổng hợp báo cáo của 1.616 doanh nghiệp có thời gian hoạt động sau cổ phần hóa trên 1 năm (tính đến cuối năm 2006) cho thấy: vốn điều lệ của các doanh nghiệp này tăng 58,6%, doanh thu tăng 48,2%, lợi nhuận tăng 331,8%, nộp ngân sách tăng 44,2%, thu nhập của người lao động tăng 51,8%...
Chỉ tính riêng trong 5 năm từ 2001 tới 2006, chúng ta đã sắp xếp được 3.830 DNNN; trong đó cổ phần hoá 2.472 DNNN... Cho tới nay, hình thức sắp xếp cổ phần hoá chiếm gần 65% tổng số DNNN đã sắp xếp. Sắp tới, trong giai đoạn đến năm 2009, chúng ta sẽ còn cổ phần hoá thêm 860 DNNN nữa.
Hầu hết các công ty Nhà nước được sắp xếp đều chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên, công ty mẹ - công ty con và một số tổng công ty đã trở thành những tập đoàn kinh tế lớn. Hoạt động này đã tạo điều kiện cho các loại hình công ty trên bảo toàn và phát triển được nguồn vốn, duy trì được tốc độ tăng trưởng, hiệu quả sản xuất cao, bù đắp được các khoản lỗ và đóng góp hơn 40% giá trị GDP cho ngân sách quốc gia.
Nền kinh tế vĩ mô bắt đầu được điều tiết một cách hợp lý và mềm dẻo hơn, tập trung vào những ngành then chốt. Nếu tính từ thời điểm trước năm 2001, các doanh nghiệp rất phân tán, dàn trải trong các ngành nghề, lĩnh vực; năm 2001 vốn bình quân của một DNNN là 24 tỷ đồng thì đến nay có khoảng gần 90 tỷ đồng. Báo cáo của các Bộ, ngành và địa phương về kết quả của hơn 850 doanh nghiệp đã cổ phần hoá được hơn một năm cho thấy vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận tăng 139,76%, trên 90% doanh nghiệp hoạt động có lãi, thu nhập của người lao động tăng 12%, cổ tức bình quân đạt 17,11%...
Chúng ta đã tách được chức năng quản lý hành chính Nhà nước khỏi chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh, tạo cơ sở cho việc thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN và mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế mà Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã đề ra.
v “Ưu tiên dùng hàng Việt!”:
Nhằm kích cầu thị trường nội địa, nhất là thị trường nông thôn thì các đơn vị thuộc khối DNNN đã đưa hàng về tiêu thụ tại thị trường nông thôn không chỉ có tác dụng kích cầu nội địa mà còn là cơ hội quảng bá thương hiệu của đơn vị đến những thị trường mới.
Các mặt hàng được doanh nghiệp đưa ra ngoại thành để tiêu thụ chủ yếu là những mặt hàng Việt Nam chất lượng cao nhưng giá bán phù hợp với thu nhập của bà con nông dân ngoại thành, hàng gia dụng, may mặc, điện tử, thực phẩm chế biến. Riêng đối với khu vực miền núi, ngoài những sản phẩm trên, doanh nghiệp sẽ tăng cường thêm hai mặt hàng là muối iot và vở học sinh.
Bảng 2.1 : Top 10 DN trong bản xếp hạng 500 DN lớn nhất VN năm 2009
Thứ hạng
Tên doanh nghiệp
1
Tập đoàn dầu khí Việt Nam
2
Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam
3
Tập đoàn Điện lực Việt Nam
4
Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam
5
Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam
6
Công ty vàng bạc đá quý Sài Gòn – SJC
7
Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Việt Nam
8
Tổng Công ty dầu Việt Nam – PVOIL
9
Tổng Công ty viễn thông quân đội
10
Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam - Vinashin
Nguồn: VNR500 – Top 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, năm 2009 -
Để bán được sản phẩm và có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước thì nhiều doanh nghiệp đã đưa ra những lời kêu gọi thiết thực để mọi người cùng hưởng ứng như:
“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”
Qua đó, ta thấy DNNN cũng có khả năng thích ứng lớn với sự biến động của nền kinh tế, đặc biệt là sự tác động lớn từ suy thoái toàn cầu. Theo thông tin của Công ty cổ phần Báo cáo đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) thì top 10 trong bản xếp hạng 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam (VNR 500) trong năm 2009 lại là các Tập đoàn, Tổng công ty thuộc khối DNNN (xem bảng 2.1)
Khối kinh tế Nhà nước chiếm tới 46,4% trong VNR500, trong đó, 10 doanh nghiệp đầu tiên này đều đạt doanh thu trên 1 tỷ USD, đóng góp hơn 10% tổng thu ngân sách nhà nước năm 2008. Quy mô của các doanh nghiệp trong top 10 này cũng tăng đáng kể và ngày càng thu hẹp khoảng cách với thế giới. Cả 10 doanh nghiệp này đều đủ tiêu chí lọt vào bảng xếp hạng Fortune500 về doanh thu. Qua đó, ta thấy được nhiều DNNN đứng vững trong cạnh tranh đặc biệt là trong đợt khủng hoảng kinh tế vừa qua.
Những hạn chế và nguyên nhân.
Những hạn chế
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu. Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế đều không thể là người đứng ngoài cuộc. Trong đó DNNN chính là chủ thể để thực hiện quá trình hội nhập, là động lực hết sức quan trọng và then chốt góp phần quyết định sự thành công của quá trình này. Cho đến nay, DNNN vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hầu hết các sản phẩm dịch vụ công ích, các điều kiện hạ tầng cơ sở, hạ tầng kỹ thuật cho các thành phần kinh tế, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP và là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, DNNN vẫn còn nhiều hạn chế sau:
- Quy mô DNNN vẫn chưa lớn, còn nhiều doanh nghiệp hoạt động trong một số ngành, lĩnh vực mà Nhà nước không cần chi phối. Không ít tỉnh, thành phố chưa kiên quyết trong cổ phần hóa, còn để nhiều DNNN hoạt động kinh doanh. Trình độ công nghệ của DNNN còn lạc hậu; một số doanh nghiệp còn sử dụng công nghệ cũ, tiêu hao nhiên liệu, năng lượng cao. Nhiều DNNN năng suất lao động và hiệu quả hoạt động còn thấp, sức cạnh tranh chưa đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế; còn khoảng 15% số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.
- Tỷ lệ nợ trên vốn của DNNN còn quá cao, một số công ty có số nợ phải trả gấp năm lần vốn nhà nước tại công ty, có công ty vay gấp hơn 20 lần vốn, dẫn đến độ rủi ro cao, khả năng thanh toán nợ thấp. Việc xử lý các tồn tại về tài chính còn chậm do nhiều nguyên nhân nhưng chưa được khắc phục.
- Cơ chế quản lý DNNN còn nhiều bất cập từ quyền tự chủ tuyển chọn nhân sự, điều hành doanh nghiệp đến tài chính, giá cả, tiền lương... Tổ chức quản lý trong DNNN chuyển biến còn chậm. Nhiều DNNN và doanh nghiệp đã cổ phần hóa chưa có điều kiện thay đổi cơ bản quản trị công ty một phần do Nhà nước vẫn tiếp tục nắm giữ tỷ lệ cổ phần lớn trong các doanh nghiệp cổ phần hóa. Một số tổng công ty nhà nước chưa phát huy được vai trò chi phối trong ngành, lĩnh vực hoạt động. Một số công ty hoạt động còn kém hiệu quả. Ở nhiều tổng công ty giữa Chủ tịch hội đồng quản trị và Tổng giám đốc chưa có sự thống nhất trong quản lý, điều hành doanh nghiệp.
- Kết quả sản xuất, kinh doanh của DNNN nói chung và tổng công ty nhà nước nói riêng chưa tương xứng với đầu tư của Nhà nước.
- Vấn đề hậu cổ phần hóa chưa được quan tâm đúng mức; sự hiểu biết pháp luật về công ty cổ phần còn hạn chế, cho nên, có nơi chưa phát huy quyền làm chủ của cổ đông và người lao động, ngược lại có nơi lạm dụng quy định của pháp luật gây khó khăn cho quản lý của Hội đồng quản trị, điều hành của giám đốc.
- Vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và lợi ích của người được cử làm đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại DNNN đã cổ phần hóa chưa được quy định đầy đủ, nên còn lúng túng.
- Các mô hình tổ chức quản lý mới triển khai còn chậm, ở một số tổng công ty nhà nước chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con vẫn còn duy trì biện pháp quản lý hành chính đối với các công ty con như giao chỉ tiêu kế hoạch, thu phí quản lý…
Nguyên nhân
Tất cả những hạn chế làm cho DNNN kém năng lực cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước đã nêu ở trên là do những nguyên nhân chủ yếu sau:
- DNNN mặc dù được đầu tư nhiều nhưng năng lực cạnh tranh lại kém là do sử dụng vốn quá lãng phí. Không ai chịu lãng phí tài sản của mình còn tài sản của Nhà nước thì hoàn toàn có thể, chỉ cần làm không sai luật hoặc không bị luật pháp truy cứu. Theo số liệu thống kê năm 2007, cả nước còn gần 3000 doanh nghiệp nhà nước các loại đang nắm giữ 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, gần 50% tổng vốn đầu tư của Nhà nước, 70% tổng vốn vay các ngân hàng nước ngoài và gần 60% tổng lượng vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà nước…nhưng chỉ đóng góp cho 40% thu nhập trong GDP của cả nước mỗi năm.
- Chính sách tài chính tín dụng tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp. Nhà nước chưa tạo đủ điều kiện và chưa đòi hỏi đúng mức để DNNN tự chủ, tự chịu trách nhiệm, năng động trong sản xuất kinh doanh, tích tụ vốn cho đầu tư đổi mới công nghệ; chưa hoàn thiện và phát triển được đồng bộ thị trường vốn để tạo ra sự chu chuyển vốn thông suốt trong toàn bộ xã hội, đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Đặc biệt là vốn ban đầu, DNNN nói chung không được đầu tư đấy đủ mà chỉ đầu tư vào tài sản cố định. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp không đảm bảo được vốn lưu động tối thiểu. Bên cạnh đó thì hệ thống ngân hàng chưa tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn trung và dài hạn để đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Hơn nữa, vẫn chưa xóa bỏ được sự ưu tiên, ưu đãi có phân biệt giữa DNNN và DNTN về việc tiếp cận nguồn tài chính tín dụng trong ngành nghề, cùng lĩnh vực.
- Người được giao trọng trách quản lý tài sản nhà nước tại DNNN thường là hội đồng quản trị do chủ tịch đứng đầu. Những ông chủ này không có đầy đủ quyền năng bao gồm quyền sử dụng, chuyển nhượng và định đoạt. Thường thì họ không có một đồng vốn nào trong DNNN nhưng lại được tiêu tiền thật. Một trong những cách tiêu tiền quen thuộc là thông qua việc đầu tư mua sắm vật tư, thiết bị để nâng giá khống. Những chuyện như thế trên thực tế diễn ra rất nhiều và điều này tất yếu sẽ làm tăng chi phí và giảm hiệu quả đầu tư. Vì thế, năng lực cạnh tranh sẽ giảm theo.
- Nhà nước thường có những chính sách ưu đãi đối với các DNNN. Chính sự bao cấp, ưu ái nhiều đã làm cho nhiều DNNN chỉ biết trông chờ vào Nhà nước hơn là phải tự thân vận động trong khi thương trường cần sự năng động, nhạy bén và quyết đoán.
- Đầu tư của DNNN còn dàn trải, doanh nghiệp hiện nay đang có xu hướng phát triển một số ngành nghề mới không liên quan đến ngành nghề chính của doanh nghiệp dẫn đến phân tán nguồn vốn, vốn đã ít lại chứa đựng thêm nhiều rủi ro gây ra khả năng cạnh tranh kém.
- Một nguyên nhân quan trọng hơn cả nằm ở cơ chế tổ chức và hoạt động của các DNNN mà cốt lõi là quyền lợi và nghĩa vụ của những người được giao điều hành, quản lý doanh nghiệp; vấn đề khuyến khích đối với người lao động. Bất cứ tổ chức, các nhân nào đều hành động vì lợi ích của họ. Một khi lợi ích cá nhân không trùng khớp với lợi ích tập thể thì doanh nghiệp đó hoạt động sẽ kém hiệu quả, thậm chí còn bị thiệt hại rất lớn.
- Hệ thống pháp luật chưa thực sự rõ ràng cho nên gây ra sự bất bình đẳng trong cạnh tranh, do đó, làm giảm năng lực cạnh tranh của DNNN.
- Ngoài ra, hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN rất thấp, công tác xử lý nợ và giám sát tài chính còn hạn chế là do hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN thấp. Đây là một trong những nguyên nhân lớn nhất dẫn đến tình hình thua lỗ kéo dài. Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn thì 4/19 doanh nghiệp (21%) được kiểm toán trong năm 2004 lỗ 124 tỉ đồng; 11/19 doanh nghiệp (58%) có lỗ lũy kế đến ngày 31-12-2004 lên tới 1.058 tỉ đồng. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế của các doanh nghiệp được kiểm toán là rất thấp, như Tổng công ty Vật liệu xây dựng chỉ 0,18%, Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy là 0,42%, Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 4 là 0,45%, Tổng công ty Dệt may Việt Nam là 0,8%.
Tóm lại, bên cạnh những thương hiệu và uy tín mà DNNN Việt Nam đã tạo dựng nên từ lâu, bên cạnh những chất lượng sản phẩm tốt được đa số người tiêu dùng bình chọn là “hàng Việt Nam chất lượng cao” thì nhìn một cách tổng thể ta thấy năng lực cạnh tranh của các DNNN ở Việt Nam hiện nay còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thậm chí, năng lực cạnh tranh của khu vực DNNN còn thấp hơn so với khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNNN Việt Nam thì điều quan trọng nhất là mỗi cá nhân, mỗi tổ chức phải đưa lợi ích xã hội lên trên lợi ích cá nhân, phải xây dựng được văn hóa doanh nghiệp, quyết tâm thực hiện đổi mới với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DNNN VIỆT NAM
Bối cảnh kinh tế mới và định hướng tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam
Bối cảnh kinh tế mới
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhất từ năm 2007 đến nay thì thế giới đang dần phục hồi. Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thức cấp và bản thân nó lại là nguồn gốc trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 – 2010.
Trước sự chuyển biến của kinh tế thế giới, nhìn một cách tổng quan thì nền kinh tế Việt Nam trong năm 2010 đi lên theo chiều hướng tích cực.
Mặc dù vẫn còn nhiều lo ngại về tính không chắc chắn của quá trình phục hồi, nhưng nhận định phổ biến hiện nay là kinh tế thế giới sẽ phục hồi mạnh mẽ hơn trong năm 2010. Đầu tàu của sự phục hồi đó vẫn phải là các nền kinh tế lớn. Các chỉ báo sớm như chỉ số phát triển công nghiệp, số lượng giấy phép xây nhà mới, chỉ số thất nghiệp, chỉ số tồn kho... của các nền kinh tế Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc nhìn chung đều diễn biến theo hướng tích cực. Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF) mới đây dự báo rằng, năm 2010, thương mại quốc tế sẽ tăng trưởng 2%, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ổn định ở cả nhóm nước đã phát triển (2%) lẫn đang phát triển (4%), và tăng trưởng GDP của thế giới đạt 3% - xấp xỉ với mức tăng trưởng trung bình dài hạn.
Phụ thuộc rất nhiều vào kinh tế thế giới, nền kinh tế VN sẽ có cơ hội từ sự phục hồi chung này. Cụ thể là xuất khẩu và FDI sau khi suy giảm khá mạnh năm 2009 có thể dần hồi phục trong năm 2010. Mặc dù sẽ có nhiều cơ hội hơn, nhưng việc hiện thực hóa những cơ hội này phụ thuộc rất nhiều vào chính sách vĩ mô của Chính phủ. Nếu không khéo thì đúng lúc nền kinh tế thế giới phục hồi mạnh mẽ nhất lại là lúc Việt Nam phải thắt chặt chính sách tiền tệ và tài khóa nhằm đảm bảo ổn định vĩ mô. Nguy cơ này được thể hiện qua một số dấu hiệu gần đây về tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán, căng thẳng trên thị trường ngoại hối, đua tranh lãi suất giữa các ngân hàng thương mại và CPI tăng trở lại.
Trên những cơ sở đó, nhiều chuyên gia trong nước đã dự báo tốc độ tăng trưởng của kinh tế Việt Nam năm 2010 vào khoảng 6,5% do năm 2010, nền kinh tế thế giới diễn ra rất thuận lợi cùng với sự năng động và dẻo dai của nền kinh tế, đặc biệt là của khu vực kinh tế tư nhân và nếu các điều kiện vĩ mô được giữ ổn định thì tăng trưởng GDP hoàn toàn có thể đạt 6,5%.
Nhưng cũng có rất nhiều vấn đề khó khăn nhất định như vấn đề trước mắt là thâm hụt cán cân thanh toán ngày càng tăng, gây sức ép giảm giá VND và làm giảm dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước.
Vấn đề tiếp theo là nguy cơ CPI tăng trở lại vào quý II năm 2010. Tốc độ tăng cung tiền và tín dụng của VN trong năm 2009 lên tới trên dưới 40% là mức rất cao. Điều này giúp nền kinh tế hồi phục nhưng hệ quả là sau một độ trễ nhất định, thường trong khoảng 5 - 7 tháng, thì CPI sẽ cao trở lại chưa kể tới tác động của một số yếu tố khác tới CPI, chẳng hạn như tăng tỷ giá USD/VND, giá năng lượng và lương thực tăng trở lại cùng với sự phục hồi của kinh tế thế giới, kế hoạch tăng lương tối thiểu trong năm 2010...
Thâm hụt ngân sách là một vấn đề đáng lo ngại trong trung và dài hạn. Vấn đề không chỉ nằm ở tình trạng thâm hụt ngân sách mà còn ở nguyên nhân và cách tài trợ thâm hụt. Nếu thâm hụt ngân sách bắt nguồn từ việc đầu tư cho những dự án hiệu quả, và vì vậy mang lại ích lợi cho nền kinh tế trong tương lai thì không đáng ngại. Trái lại, nếu thâm hụt là do giải cứu những doanh nghiệp không có khả năng tồn tại, hay đầu tư vào những dự án kém hiệu quả thì rất nguy hiểm. Nếu thâm hụt được tài trợ nhờ tăng nguồn thu thuế do doanh nghiệp và nền kinh tế phát triển thì sẽ bền vững, nhưng nếu nhờ tận thu thuế sẽ chèn lấn khu vực doanh nghiệp tư nhân và gây ra nguy cơ lạm phát.
Một vấn đề là tái cấu trúc doanh nghiệp, tái cấu trúc nền kinh tế là một vấn đề rất phức tạp.
Nợ nước ngoài của Việt Nam tính đến ngày 31/12/2009, tổng dư nợ nước ngoài quốc gia (bao gồm nợ nước ngoài Chính phủ và nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh) là 27,929 tỷ USD, áp dụng tỷ giá quy đổi tại thời điểm cuối kỳ. Theo Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) Nguyễn Thành Đô cho rằng: nợ nước ngoài quốc gia vẫn trong giới hạn an toàn.
Dư nợ nước ngoài của Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh, giai đoạn 2005 - 2009.
(Nguồn: Nợ nước ngoài của Việt Nam: Những con số mới nhất - economy.com.vn)
Cụ thể, nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP bằng 39%, thuộc diện quốc gia có nợ nước ngoài vừa phải, nếu xét theo khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới (WB), theo đó trên 50% được cho là nợ quá nhiều; nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung dài hạn so với xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ chỉ bằng 4,2% (WB cho phép đến 25%); dự trữ ngoại hối so với nợ nước ngoài ngắn hạn là 290% (khuyến nghị của WB là trên 200%); nghĩa vụ trả nợ Chính phủ so với tổng thu ngân sách nhà nước 5,1% (ngưỡng an toàn của WB là dưới 35%)…
Các khoản vay nước ngoài của Việt Nam đa số đều có lãi suất thấp, trong đó vay ODA chiếm tỷ trọng 74,67%; vay ưu đãi chiếm 5,41%; vay thương mại 19,92%. Không kể nợ được Chính phủ bảo lãnh, trong tổng số dư nợ nước ngoài Chính phủ gần 23,943 tỷ USD, có đến 19,325 tỷ USD lãi suất từ 1-2,99%; trên 1,5 tỷ USD lãi suất từ 3-5,99%; 281,7 triệu USD lãi suất 0-99% và 919 triệu USD ở mức lãi suất 6-10%. Ngoài ra, hơn 1,9 tỷ USD dư nợ còn lại được áp lãi suất thả nổi theo lãi suất liên ngân hàng của thị trường London (LIBOR).
Dưới bối cảnh kinh tế như vậy thì DNNN Việt Nam cần phải có những định hướng và giải pháp thiết thực để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Định hướng
Đảng ta khẳng định: “Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. DNNN giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật”... “DNNN phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng, ... làm lực lượng nòng cốt góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế”. DNNN giảm về số lượng nhưng trong nhiều ngành, lĩnh vực quan trọng thì mạnh lên, quy mô vốn tăng và cơ bản thực hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt, có vị trí then chốt, làm công cụ vật chất để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước... Vì thế, phải kiên định sự phát triển để DNNN làm nòng cốt và đứng vững trong cạnh tranh.
Một số giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam
Mặc dù DNNN đang ngày càng phát triển với quy mô lớn, sản phẩm làm ra có uy tín, thương hiệu cao và chất lượng sản phẩm tốt nhưng không tránh khỏi những hạn chế mà nguyên nhân sâu xa chủ yếu là do chính doanh nghiệp và Nhà nước gây ra. Vì thế, để giảm bớt hạn chế làm giảm khả năng cạnh tranh của DNNN thì Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra các giải pháp sau:
Về phía nhà nước:
- Cần cân nhắc kỹ khi lựa chọn chính sách ưu đãi, hỗ trợ dưới dạng bao cấp hoặc bảo hộ, cần tính toán thời gian và phương pháp hợp lý. Cần tập trung xây dựng chính sách tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, tạo môi trường phù hợp, tự chủ, minh bạch cho hoạt động của doanh nghiệp. Trên thực tế đã chứng minh cho thấy, trong quá trình đổi mới thì những chính sách thành công nhất không phải là ưu tiên, ưu đãi mà là tạo môi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển.
- Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật, điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách đầy đủ và đồng bộ, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho DNNN hoạt động, đồng thời tạo sự cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác; tiếp tục đổi mới công tác quản lý nhà nước đối với DNNN và đổi mới hoạt động của bản thân DNNN.
- Đánh giá toàn diện hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; sớm hoàn thành việc đánh giá lại giá trị vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và việc xử lý nợ trong khu vực DNNN, có biện pháp làm lành mạnh tình hình tài chính doanh nghiệp.
- Từng bước giảm giá các hàng hóa và dịch vụ công, ổn định giá các hàng hóa đầu vào có tác động làm tăng chi phí sản xuất như giá điện, nước, bưu chính viễn thông, năng lượng, cước phí vận tải, phí dịch vụ bến cảng, sân bay, dịch vụ hành chính.
- Chăm lo việc xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giỏi ở các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Có cơ chế đãi ngộ, thu hút những người quản lý giỏi tham gia điều hành doanh nghiệp; mở rộng các hình thức hợp đồng thuê các cán bộ quản lý giỏi đã nghỉ hưu; nghiên cứu chế độ kéo dài tuổi nghỉ hưu đối với một số cán bộ quản lý giỏi ở một số lĩnh vực quan trọng
Về phía DNNN:
Ø Quản trị DNNN theo hướng hiện đại:
- Tăng cường chức năng kiểm tra, giám sát nhiệm vụ bảo vệ lợi ích chủ sở hữu vốn nhà nước đối với người đại diện theo uỷ quyền tại các Công ty cổ phần, Công ty TNHH. Khắc phục sự tuỳ tiện trong việc cử người đại diện tại các doanh nghiệp bằng mối quan hệ hợp đồng, ràng buộc về quyền lợi và trách nhiệm pháp lý. Xác định rõ những quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu do người đại diện trực tiếp thực hiện, quyền và nghĩa vụ cần phải thông qua ý kiến của chủ sở hữu trước khi biểu quyết hoặc bỏ phiếu hoặc quyết định ở Công ty cũng như cơ chế xử lý hậu quả khi đại diện theo uỷ quyền thực hiện không đúng ràng buộc, tổn hại đến lợi ích của cổ đông nhà nước. Người đại diện theo uỷ quyền tại doanh nghiệp không thực hiện bất kỳ công tác nào thuộc chức năng quản lý hành chính nhà nước. Tiếp tục giảm thiểu hoạt động đầu tư vốn trực tiếp của Nhà nước vào các doanh nghiệp. Minh bạch hoá thông tin hàng năm về đầu tư vốn nhà nước tại các doanh nghiệp...Thiết lập hệ thống thông tin quản lý vốn chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp, kết nối từ Ban chỉ đạo trung ương, các bộ, UBND cấp tỉnh, mà trực tiếp là bộ phận chuyên trách và các doanh nghiệp trong đó cổ phần, phần vốn nhà nước.
- Trách nhiệm của người đứng đầu: DNNN là “xương sống” của nền kinh tế quốc dân vì vậy người đứng đầu DNNN phải là người thật sự tài năng và đức độ. Để có được người tài năng, đức độ thì người đứng đầu DNNN cần tổ chức thi tuyển công khai thay cho xét tuyển hoặc cử tuyển như đã làm.
- Khai thác hiệu quả tài sản hiện có tránh tình trạng sử dụng vốn lãng phí, xây dựng các chiến lược kinh doanh, chiến lược sản phẩm, thương hiệu…từng bước nâng cao năng lực quản trị trong các DNNN. Bên cạnh đó, các DNNN cũng cần đầu tư nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, đổi mới công nghệ, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến. Nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm đi đôi với cắt giảm chi phí nhằm hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm bằng nhiều biện pháp là một trong những yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của mỗi DNNN.
Ø Nghiên cứu thị trường để cung ứng hàng hóa theo nhu cầu thị trường:
Người tiêu dùng trước thách thức của cuộc suy thoái kinh tế đang có xu hướng mua ít đi, tìm kiếm các cuộc thương lượng giá cả, chuyển đổi sang sử dụng nhiều nhãn hiệu, các danh mục sản phẩm và cửa hàng khác nhau. Do vậy, nhiều doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường để cung ứng hàng hóa theo nhu cầu của thị trường. Có những loại sản phẩm vào thời điểm này bán chạy, nhưng thời điểm khác thì nhu cầu giảm, vì vậy nếu có các sản phẩm khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp điều chỉnh thị trường, đẩy mạnh kinh doanh mặt hàng đang ăn khách và giảm mặt hàng đang có nhu cầu giảm, sẽ luôn đảm bảo việc làm cho người lao động và doanh số của doanh nghiệp.
Ø Đa dạng hóa các công cụ và phương pháp cạnh tranh:
Mỗi người một sở thích và mọi người đều thích được thỏa mãn nhu cầu của mình, vì thế muốn thu hút nhiều người tiêu dùng đến với doanh nghiệp thì phải có mức giá hợp lý. Những người tiêu dùng khác nhau thì sẽ có những mức giá khác nhau, những nơi khác nhau sẽ có những mức giá khác nhau như giá sản phẩm ở thành thị sẽ cao hơn ở nông thôn, bởi vì thu nhập của người tiêu dùng ở thành thị cao hơn. Quan trọng hơn cả là phải đa dạng hóa bao bì, mẫu mã. Bao bì và mẫu mã phải bắt mắt, mang tính thẩm mỹ cao và phải làm nổi bật được thương hiệu. Trên bao bì phải nêu rõ tính năng sử dụng. Nếu sản phẩm hoàn toàn mới thì chính những thông tin cô đọng, rõ ràng thể hiện đặc tính và giá trị sản phẩm có trên bao bì sẽ phát huy tác dụng, giải đáp thắc mắc của khách hàng.
KẾT LUẬN
Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Năng lực cạnh tranh là hiệu quả của các yếu tố cấu thành về chất tạo nên sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp trước các đối thủ cạnh tranh.
Sau quá trình sắp xếp đổi mới, DNNN cũng đã có những bước phát triển như tốc độ tăng trưởng cao, hiệu quả hoạt động được cải thiện. Công nghệ và trình độ quản lý cũng được nâng lên nhờ đó mà năng suất lao động có những tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên năng lực cạnh tranh của DNNN vẫn còn hạn chế, chưa bắt kịp với yêu cầu hội nhập. Khả năng khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực chưa cao. DNNN còn chậm đổi mới, không chú trọng mở rộng thị phần. Nguyên nhân dẫn đến những yếu kém của DNNN chủ yếu là do sự ưu ái của Nhà nước cho DNNN còn lớn, trình độ quản lý thấp, DNNN hiện nay sử dụng vốn quá lãng phí và đầu tư còn dàn trải, không tập trung vào một lĩnh vực cụ thể của chính doanh nghiệp. Đó cũng chính là những nguyên nhân làm giảm khả năng cạnh tranh của DNNN Việt Nam trên thị trường.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNN, Việt Nam thì cần phải có các giải pháp thiết thực cả về phía Nhà nước lẫn doanh nghiệp. Nhà nước cần tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, đặc biệt là cần tạo ra khung pháp lý phù hợp với yêu cầu hội nhập. Bên cạnh đó, cơ chế quản lý cũng cần dịch chuyển theo xu hướng giành quyền tự chủ cho doanh nghiệp. Còn đối với doanh nghiệp thì cần phải nâng cao trình độ quản lý và phải quản trị doanh nghiệp theo hướng hiện đại, phải biết khai thác tài sản hiện có và cần chú ý hơn đến hoạt động marketing.
Qua đây ta cũng có thể khẳng định được rằng: Vai trò của DNNN là then chốt trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. DNNN vừa hộ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển vừa góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội. DNNN là cánh của mở ra cho chúng ta - nền kinh tế xã hội chủ nghĩa một triển vọng xã hội xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Do đó, nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam hiện nay là một nhiệm vụ cấp bách đòi hỏi mỗi cá nhân, mỗi tổ chức phải có trách nhiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Vũ Trọng Lâm (2006), “Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
2. Võ Đại Lược (2007), “Kinh tế Việt Nam đổi mới và hội nhập”, Nhà xuất bản thế giới, Hà Nội.
3. Đặng Thị Nhã (2008), “Nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNN”, Khóa luận tốt nghiệp, trường Đại học Kinh Tế, Đại học Quốc Gia Hà Nội.
4. Dương Thị Hồng Nhung (2002), “DNNN Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận văn Thạc sĩ, trường Đại học Kinh Tế, Đại học Quốc Gia Hà Nội.
5. Ngân hàng thế giới (2001), “Việt Nam năm 2010: Tiến vào thế kỷ 21”, Báo cáo phát triển Việt Nam.
6. Hà Phương (2008), “Để DNNN thúc đẩy tăng trưởng kinh tế”, Tạp chí Kinh tế & dự báo (Số 9).
7. Tài liệu trên các tờ báo, website:
- “Cổ phần hóa: Bất khả thi trước hạn chót” - và các bài liên quan đến cổ phần hóa DNNN trong website này
- “Chiến lược cho Doanh nghiệp nhà nước” – www.tapchitaichinh.vn
- “DNNN chuyển đổi được giữ nguyên tên” - và các bài có liên quan đến DNNN trong website này.
- “DNNN làm tốt vai trò bình ổn giá” -
- “Giữ vừng vai trò nòng cốt của DNNN” – Báo Nhân dân ra ngày 13/08/2010.
- “Hàng Việt Nam chất lượng cao: Chuyện 10 năm hợp tác” –
www.sggp.org.vn và một số bài viết liên quan đến sản phẩm của DNNN Việt Nam.
- “Khi vai trò DNNN được khẳng định”- Báo Kinh tế Đô thị ngày 15/09/2009.
- “Năng lực cạnh tranh - yếu tố quyết định thành công của doanh nghiệp nhà nước trong hội nhập kinh tế quốc tế” - Ths. Bùi Văn Huyền –
- “Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu mới: nắm bắt cơ hội” -
- “Thủ tướng: Đặt DNNN vào môi trường cạnh tranh bình đẳng” –
và các bài viết có liên quan đến DNNN trong website này.
8. PGS.TS. Lê Văn Tâm (2004), “Cổ phần hóa và quản lý DNNN sau cổ phần hóa”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
9. PGS.TS. Phạm Quang Trung (2009), “Tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ”, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, Hà Nội.
10. Trần Sửu (2006), “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu hóa”, Nhà xuất bản lao động, Hà Nội.
Ý KIẾN CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Sinh viên thực hiện
Tạ Thị Mến
Ngày 02 tháng 09 năm 2010
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam.doc