A/. PHẦN MỞ ĐẦU:Phụ nữ là lực lượng tham gia tích cực vào các hoạt động phát triển của đất nước. Với tư cách là một nửa dân số, phụ nữ đã đóng góp phần lớn vào sự nghiệp phát triển chung của nhân loại. Do đó, vấn đề phát triển của phụ nữ bao giờ cũng gắn liền với sự phát triển của mỗi quốc gia. Hướng tới sự bình đẳng giới không phải là vấn đề riêng của phụ nữ mà đó là vấn đề của toàn xã hội. Trong sự phát triển xã hội phải đề cập vấn đề bình đẳng nam nữ thông qua sự tham gia của phụ nữ trên các lĩnh vực của kinh tế, văn hóa, xã hội; trong đó việc tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào hoạt động chính trị có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Do đó, công tác vận động phụ nữ là toàn bộ những hoạt động của Đảng, của Nhà Nước và các đoàn thể nhân dân, trong đó có Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp, nhằm tác động đến mọi đối tượng phụ nữ một cách đồng bộ để bồi dưỡng, tổ chức động viên phụ nữ phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh; tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển cống hiến, trưởng thành vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, công tác vận động phụ nữ cũng hết sức quan trọng. Vì phụ nữ ta ngày có tiềm năng hùng hậu, kế thừa tinh hoa truyền thống của dân tộc và những thành quả của cách mạng qua mở rộng giao lưu quốc tế. Ngày nay phụ nữ có những mặt mạnh cơ bản là trình độ học vấn cao hơn trước, tầm nhìn rộng, nhạy cảm với thời cuộc, giàu lòng yêu nước, có khát vọng đưa đất nước mau chóng vượt qua nghèo nàn lạc hậu, thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Phụ nữ đồng tình ủng hộ và hăng hái tham gia vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đã và đang xuất hiện nhiều tài năng trẻ, nhiều tấm gương sáng trong sản xuất kinh doanh, trong học tập, hoạt động khoa học - kỹ thuật, văn hóa nghệ thuật, trong thể thao và trong công tác xã hội.
Bên cạnh đó, một bộ phận phụ nữ đang gặp nhiều khó khăn về định hướng chính trị, nhiều phụ nữ chưa có hoặc đang thiếu việc làm, việc làm thu nhập thấp, tình trang thất học, mù chữ vẫn còn, nhất là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi. Một bộ phận phụ nữ thiếu hiểu biết về các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, chưa quan tâm đến sinh hoạt chính trị, chạy theo lối sống không lành mạnh, coi thường giá trị nhân văn, kỷ cương, đạo lý, mắc nhiều tệ nạn xã hội, tình trạng mê tín dị đoan có xu hướng tăng lên.
Vì vậy, đòi hỏi các cấp ủy Đảng, chính quyền, nhất là Hội liên hiệp phụ nữ các cấp phải ra sức phát huy vai trò, vị trí của mình lên ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới. Trong đó đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao trình độ, năng lực cán bộ hội phụ nữ cấp cơ sở. Bởi cán bộ Hội phụ nữ được nâng cao trình độ về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ sẽ tổ chức thực hiện tốt công tác Hội, đặc biệt là thực hiện nhiệm vụ “Nâng cao nhận thức, trình độ năng lực của phụ nữ đáp ứng yêu cầu tình hình mới”, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Hội LHPN Việt Nam hiện nay.
Từ thực trạng tình hình phong trào phụ nữ và trình độ cán bộ Hội của huyện Hoài Nhơn, với những vấn đề lý luận cơ bản được học tập ở nhà trường và qua thời gian tham gia công tác, tôi đã chọn đề tài: “Nâng cao trình độ cán bộ Hội phụ nữ huyện Hoài Nhơn trong tình hình hiện nay”. Qua đề tài này giúp tôi nắm vững quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác phụ nữ, công tác cán bộ, nắm vững thực trạng trình độ cán bộ Hội từ huyện đến cơ sở. Từ đó đề ra những giải pháp phù hợp để nâng cao trình độ về văn hóa, chính trị, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ Hội, nhằm tổ chức thực hiện nhiệm vụ của Hội tốt hơn, đưa phong trào phụ nữ huyện ngày càng phát triển và giúp cho tôi có được bài học kinh nghiệm bổ ích khi thực hiện công tác cán bộ.
Tuy nhiên, do giới hạn thời gian và khả năng tiếp thu kiến thức còn hạn chế nên những vấn đề trình bày trong tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự quan tâm giúp đỡ của thầy, cô giáo để tiểu luận được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu cùng thầy, cô giáo nhà trường. Xin cảm ơn lãnh đạo cơ quan Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Hoài Nhơn đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và hoàn thành tiểu luận.
24 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6623 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao trình độ cán bộ Hội phụ nữ huyện Hoài Nhơn trong tình hình hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A/. PHẦN MỞ ĐẦU:
Phụ nữ là lực lượng tham gia tích cực vào các hoạt động phát triển của đất nước. Với tư cách là một nửa dân số, phụ nữ đã đóng góp phần lớn vào sự nghiệp phát triển chung của nhân loại. Do đó, vấn đề phát triển của phụ nữ bao giờ cũng gắn liền với sự phát triển của mỗi quốc gia. Hướng tới sự bình đẳng giới không phải là vấn đề riêng của phụ nữ mà đó là vấn đề của toàn xã hội. Trong sự phát triển xã hội phải đề cập vấn đề bình đẳng nam nữ thông qua sự tham gia của phụ nữ trên các lĩnh vực của kinh tế, văn hóa, xã hội; trong đó việc tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào hoạt động chính trị có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Do đó, công tác vận động phụ nữ là toàn bộ những hoạt động của Đảng, của Nhà Nước và các đoàn thể nhân dân, trong đó có Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp, nhằm tác động đến mọi đối tượng phụ nữ một cách đồng bộ để bồi dưỡng, tổ chức động viên phụ nữ phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh; tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển cống hiến, trưởng thành vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, công tác vận động phụ nữ cũng hết sức quan trọng. Vì phụ nữ ta ngày có tiềm năng hùng hậu, kế thừa tinh hoa truyền thống của dân tộc và những thành quả của cách mạng qua mở rộng giao lưu quốc tế. Ngày nay phụ nữ có những mặt mạnh cơ bản là trình độ học vấn cao hơn trước, tầm nhìn rộng, nhạy cảm với thời cuộc, giàu lòng yêu nước, có khát vọng đưa đất nước mau chóng vượt qua nghèo nàn lạc hậu, thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Phụ nữ đồng tình ủng hộ và hăng hái tham gia vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đã và đang xuất hiện nhiều tài năng trẻ, nhiều tấm gương sáng trong sản xuất kinh doanh, trong học tập, hoạt động khoa học - kỹ thuật, văn hóa nghệ thuật, trong thể thao và trong công tác xã hội.
Bên cạnh đó, một bộ phận phụ nữ đang gặp nhiều khó khăn về định hướng chính trị, nhiều phụ nữ chưa có hoặc đang thiếu việc làm, việc làm thu nhập thấp, tình trang thất học, mù chữ vẫn còn, nhất là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi. Một bộ phận phụ nữ thiếu hiểu biết về các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, chưa quan tâm đến sinh hoạt chính trị, chạy theo lối sống không lành mạnh, coi thường giá trị nhân văn, kỷ cương, đạo lý, mắc nhiều tệ nạn xã hội, tình trạng mê tín dị đoan có xu hướng tăng lên.
Vì vậy, đòi hỏi các cấp ủy Đảng, chính quyền, nhất là Hội liên hiệp phụ nữ các cấp phải ra sức phát huy vai trò, vị trí của mình lên ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới. Trong đó đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao trình độ, năng lực cán bộ hội phụ nữ cấp cơ sở. Bởi cán bộ Hội phụ nữ được nâng cao trình độ về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ sẽ tổ chức thực hiện tốt công tác Hội, đặc biệt là thực hiện nhiệm vụ “Nâng cao nhận thức, trình độ năng lực của phụ nữ đáp ứng yêu cầu tình hình mới”, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Hội LHPN Việt Nam hiện nay.
Từ thực trạng tình hình phong trào phụ nữ và trình độ cán bộ Hội của huyện Hoài Nhơn, với những vấn đề lý luận cơ bản được học tập ở nhà trường và qua thời gian tham gia công tác, tôi đã chọn đề tài: “Nâng cao trình độ cán bộ Hội phụ nữ huyện Hoài Nhơn trong tình hình hiện nay”. Qua đề tài này giúp tôi nắm vững quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác phụ nữ, công tác cán bộ, nắm vững thực trạng trình độ cán bộ Hội từ huyện đến cơ sở. Từ đó đề ra những giải pháp phù hợp để nâng cao trình độ về văn hóa, chính trị, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ Hội, nhằm tổ chức thực hiện nhiệm vụ của Hội tốt hơn, đưa phong trào phụ nữ huyện ngày càng phát triển và giúp cho tôi có được bài học kinh nghiệm bổ ích khi thực hiện công tác cán bộ.
Tuy nhiên, do giới hạn thời gian và khả năng tiếp thu kiến thức còn hạn chế nên những vấn đề trình bày trong tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự quan tâm giúp đỡ của thầy, cô giáo để tiểu luận được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu cùng thầy, cô giáo trường Chính trị tỉnh Bình Định. Xin cảm ơn lãnh đạo cơ quan Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Hoài Nhơn đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và hoàn thành tiểu luận.
B/. NỘI DUNG:
I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1/. Quan điểm Chủ nghĩa Mác –Lê nin đối với công tác phụ nữ:
Quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác đã khẳng định rằng: địa vị của phụ nữ trong xã hội không phải là một hiện tượng riêng biệt tách rời ngoài xã hội, bất di bất dịch, mà gắn liền với sự biến đổi của loài người trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội cùng với phương thức sản xuất và những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
Trong tác phẩm: “Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của nhà nước” Ăng-ghen đã chứng minh:
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có chế độ tư hữu, chưa có bóc lột giai cấp thì phụ nữ chưa bị áp bức bóc lột, chưa bị bất bình đẳng so với nam giới mà còn có địa vị quyết định trong bộ lạc, chế độ mẫu hệ hình thành.
Khi xuất hiện chế độ chiếm hữu nô lệ trên cơ sở hình thành sự phân chia giai cấp đầu tiên trong lịch sử (giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ) thì cũng đồng thời diễn ra những thay đổi trong sự phân công lao động xã hội. Nam giới ngày càng chiếm hữu của cải riêng, địa vị được nâng cao và vai trò của phụ nữ bị hạ thấp.
Chế độ phong kiến và chế độ tư bản ra sức tăng cường chế độ phụ quyền bằng cả hệ thống pháp luật, chính sách, lễ giáo đạo đức, văn hóa… làm cho địa vị của người phụ nữ ngày càng bị hạ thấp. Địa vị thấp kém của phụ nữ kéo dài hàng ngàn năm, tình trạng ấy dần dần thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm trở thành phong tục tập quán như tự nhiên của mọi người trong xã hội.
Từ nguồn gốc phụ nữ bị áp bức, chủ nghĩa Mác – Lê nin khẳng định: “Sự nghiệp giải phóng phụ nữ là một bộ phận khắng khít gắn liền với sự nghiệp giải phóng giai cấp, với cuộc đấu tranh cách mạng để xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, chế độ xã hội bóc lột giai cấp, xây dựng chủ nghĩa xã hội tiến lên chủ nghĩa cộng sản”.
Từ thực tế lịch sử, Mác đã khẳng định: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào thì chắc chắn sẽ không làm nổi” điều này thể hiện vị trí, vai trò của phụ nữ trong xã hội.
Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin còn chỉ ra mối quan hệ hữu cơ giữa sự nghiệp giải phóng phụ nữ với sự nghiệp giải phóng giai cấp. Các ông cho rằng: muốn giải phóng phụ nữ thì phải đấu tranh xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến lên cộng sản chủ nghĩa, như vậy mới xóa bỏ tận gốc sự áp bức đối với phụ nữ và tạo những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội để đảm bảo mọi quyền lợi của phụ nữ. Ngược lại muốn giải phóng giai cấp, xóa bỏ chế độ bóc lột, xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi thì giai cấp vô sản phải tạo điều kiện giải phóng phụ nữ vì:
Thứ nhất, không giải phóng phụ nữ, không huy động được phụ nữ tham gia cách mạng thì cách mạng không thể thắng lợi.
Thứ hai, phụ nữ là một nửa nhân loại, nếu phụ nữ chưa được giải phóng thì sự nghiệp của giai cấp vô sản chưa thực hiện được.
Như vậy, các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin đã rất chú trọng đến lực lượng phụ nữ và chỉ ra được muốn giải phóng xã hội khỏi áp bức bất công thì cần phải có sự tham gia tích cực của phụ nữ.
2/. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, công tác vận động phụ nữ:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của Đảng ta, nhà tư tưởng lớn của thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống hoàn chỉnh những quan điểm về đường lối cách mạng và sự chuẩn mực về tính cách Việt Nam trong thời đại mới: giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ bắt đầu từ con người và cũng trở lại về với con người. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, và vì quần chúng, trong đó, phụ nữ là một lực lượng quan trọng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ thể hiện rõ ở những nội dung sau đây:
Một là, sự nghiệp giải phóng phụ nữ trước hết phải gắn liền với giải phóng dân tộc.
Hai là, phụ nữ là một lực lượng quan trọng trong đời sống xã hội con người.
Vì vậy, khi đề cập đến vấn đề giải phóng phụ nữ gắn với giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nói phụ nữ là nói nửa phần xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng phần nửa loài người, nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”.
Khi nói về vai trò của phụ nữ trong xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao: “Non song gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp rực rỡ”.
Ba là, phụ nữ là một lực lượng quan trọng trong xã hội. Trong công tác và cuộc sống hằng ngày, Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ và quan tâm, chăm sóc đến cuộc sống của phụ nữ.
Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc, Người biểu dương tinh thần chiến đấu, hy sinh và căn dặn toàn Đảng, toàn dân ta phải quan tâm, chăm sóc phụ nữ: "Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ".
3/. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về công tác vận động phụ nữ và công tác cán bộ phụ nữ:
Phụ nữ Việt Nam luôn giữ một vị trí, vai trò quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Giải phóng và phát triển toàn diện phụ nữ là một trong những mục tiêu của cách mạng Việt Nam có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến sự phát triển của đất nước. Bồi dưỡng lực lượng phụ nữ, phát huy sức mạnh và chăm lo phát triển mọi mặt của phụ nữ là nhiệm vụ thường xuyên rất quan trọng của Đảng trong mọi thời kỳ cách mạng.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, đổi mới và tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động phụ nữ là một yêu cầu quan trọng của sự nghiệp phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, đảm bảo phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nghị quyết 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới đã nêu ra các quan điểm cụ thể như sau:
Quan điểm thứ nhất, Phụ nữ Việt Nam có truyền thống lịch sử vẻ vang, có những tiềm năng to lớn, là một động lực quan trọng của công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế xã hội. Phụ nữ vừa là người lao động, người công dân, vừa là người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Khả năng và điều kiện lao động, trình độ văn hóa, vị trí xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ có ảnh hưởng sâu xa đến sự phát triển của thế hệ tương lai. Vì vậy, phải xem phụ nữ là một mục tiêu và nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Quan điểm thứ hai, Mục tiêu giải phóng phụ nữ hiện nay là thiết thực cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao vị trí xã hội của phụ nữ, thực hiện tốt nam, nữ bình đẳng, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, xây dựng người phụ nữ Việt Nam có sức khỏe, có kiến thức, năng động sáng tạo, biết làm giàu chính đáng, quan tâm đến lợi ích xã hội và cộng đồng, có lòng nhân hậu.
Quan điểm thứ ba, Sự nghiệp giải phóng phụ nữ và công tác phụ nữ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, của toàn xã hội và từng gia đình.
Trong quan điểm này, Đảng chỉ ra lực lượng giải phóng phụ nữ bao gồm: các cấp ủy Đảng từ trung ương đến cơ sở, Nhà nước trung ương và chính quyền các cấp; các đoàn thể nhân dân; toàn xã hội; từng gia đình.
Điều đó nói lên rằng, sự nghiệp giải phóng phụ nữ không chỉ là việc riêng của phụ nữ mà bao gồm tổng hợp nguồn lực của Đảng, chính quyền, các đoàn thể, toàn xã hội đến từng gia đình. Đây là quan điểm rất mới của Đảng trong việc giải quyết những vấn đề của phụ nữ và giải phóng phụ nữ trong giai đoạn hiện nay. Đây cũng là sự phối hợp giữa các lực lượng thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ trên hai phương diện. Trước hết là sự xem xét lại chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức cụ thể đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ và phong trào phụ nữ, thể hiện bằng chương trình hành động cụ thể của đoàn thể mình. Mặt khác, đó là sự liên kết, hỗ trợ nhau cùng tiến hành nhằm những mục tiêu chung theo yêu cầu của từng thời kỳ đặt ra đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
Với Nhà nước thì điều quan trọng nhất là xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách pháp luật và kiểm tra đôn đốc việc thực hiện, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của phụ nữ và trẻ em, nhằm tạo điều kiện phát huy tốt nhất nguồn lực phụ nữ đóng góp cho sự phát triển của đất nước.
Hơn 80 năm qua, tùy theo từng thời kỳ cách mạng mà Đảng đề ra đường lối, chủ trương vận động phụ nữ như:
-Nghị quyết 152 – 153 năm 1967 có nội dung: tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với cong tác phụ vận; tăng cường bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em; tăng cường công tác cán bộ nữ, mạnh bạo đề bạt, sử dụng cán bộ nữ, kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng phong kiến hẹp hòi trong việc đề bạt, sử dụng cán bộ.
-Nghị quyết 31 của Hội đồng chính phủ năm 1967 đề cập đến vấn đề bồi dưỡng lực lượng lao động nữ; không sử dụng lao động nữ trong môi trường độc hại không phù hợp với điều kiện sinh lý của phụ nữ; sử dụng lao động nữ phải đi đôi với bồi dưỡng và bảo vệ sức khỏe.
-Chỉ thị 44 (ngày 7/6/1984) của Ban bí thư trung ương Đảng đề cập đến công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ phụ nữ.
-Nghị quyết 176a (1985) của Hội đồng bộ trưởng nay là Chính phủ về phân bổ sử dụng đào tạo bồi dưỡng và bảo hộ lao động nữ; phát huy vai trò của phụ nữ trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
-Quyết định 163/HĐBT ngày 19/10/1988 của Hội đồng bộ trưởng được thay thế bằng Nghị định 19/2003/NĐ-CP ngày 7/3/2003 của Chính phủ về “Qui định trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong việc đảm bảo cho Hội phụ nữ tham gia quản lý Nhà nước”.
-Nghị quyết 04/NQ-TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới.
-Chỉ thị 37-CT/TW ngày 16/5/1994 của Ban bí thư trung ương Đảng khóa VII về nâng cao nhận thức quan điểm của Đảng về vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới.
-Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ chính tri về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước đã đưa ra mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa-hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng nhiều hơn công việc xã hội và gia đình. Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất khu vực.
Xuất phát từ những quan điểm đúng đắn, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử nước ta. Từ những năm 1930 Đảng ta đã tập hợp, lãnh đạo lực lượng phụ nữ tham gia vào các tổ chức đoàn thể với mục đích là mưu cầu quyền lợi cho phụ nữ, làm cho phụ nữ được giải phóng triệt để. Hội phụ nữ giải phóng, hội phụ nữ Dân chủ, Hội phụ nữ phản đế, Hội phụ nữ cứu quốc… đó là những tổ chức về giới đầu tiên trong lịch sử cách mạng. Từ những tổ chức phụ nữ tiền thân đó, ngày 20/10/1930 hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã chính thức thành lập. Bước sang giai đoạn mới, sự đòi hỏi của công cuộc đổi mới toàn diện của nước ta diễn ra với thuận lợi, khó khăn, tuy nhiên dưới sự lãnh đạo của Đảng thể hiện qua các nghị quyết, chỉ thị Đảng ta xác định nội dung, phương thức, nhiệm vụ công tác phụ vận, của những thời điểm lịch sử khác nhau đã phát huy cao độ tiềm năng của lực lượng phụ nữ để họ đóng góp một cách xứng đáng vào sự thắng lợi của cách mạng nước ta trong những năm qua.
4/. Tính tất yếu khách quan phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ:
-Xuất phát từ tư tưởng, quan điểm:
“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Nghĩa là cán bộ phải có năng lực để tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết chính sách của Đảng và Nhà nước. Đường lối, chủ trương, nghị quyết chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như cả các đoàn thể chính trị xã hội sẽ không biến thành hiện thực nếu như không có những cán bộ có năng lực tổ chức triển khai thực hiện nó.
-Xuất phát từ đường lối của Đảng:
Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất tinh thần, thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp”.
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện của Đảng ta năm 1986, yêu cầu đổi về kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính phủ đã tiến hành đổi mới quản lý nhà nước, quán triệt quan điểm lấy dân làm gốc, tăng cường vai trò tham gia quản lý nhà nước của các tổ chức chính trị xã hội. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là một tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống chính trị cũng phải cần có sự đổi mới để làm tốt chức năng tham gia quản lý nhà nước, tham gia xây dựng, kiểm tra giám sát việc thực hiện chính sách có liên quan đến phụ nữ, đem lại quyền lợi cho phụ nữ.
-Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ và thực tiễn phong trào phụ nữ trong nước và trên thế giới:
Với chức năng, nhiệm vụ của Hội là đại diện cho quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ. Tham gia quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng, đoàn kết vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; động viên tạo điều kiện để phụ nữ học tập, lao động sáng tạo, nâng cao kiến thức, trình độ năng lực về mọi mặt. Tuyên truyền giáo dục phụ nữ giữ gìn, phát huy giá trị đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và phụ nữ Việt Nam. Hướng dẫn và giúp đỡ phụ nữ tổ chức tốt cuộc sống gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Xây dựng, củng cố tổ chức Hội, xây dựng đội ngũ cán bộ Hội và cán bộ nữ. Tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách của nhà nước có liên quan đến quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ.
Nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ X đã đưa ra mục tiêu và 6 nhiệm vụ trọng tâm của Hội là:
Mục tiêu của Hội LHPN Việt nam: Đoàn kết, vận động các tầng lớp phụ nữ tích cực học tập, lao động, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc, chủ động tham gia phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế; nâng cao trình độ mọi mặt, cải thiện đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam có sức khỏe, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân hậu. Xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh, phát huy đầy đủ vai trò nòng cốt trong công tác vận động phụ nữ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ. Phấn đấu để góp phần thực hiện mục tiêu đến năm 2020, nước ta là một trong cá quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất khu vực.
Nhiệm vụ 1: Nâng cao nhận thức, trình độ, năng lực phụ nữ đáp ứng yêu cầu tình hình mới; xây dựng người phụ nữ Việt Nam có sức khỏe, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa, có long nhân hậu.
Nhiệm vụ 2: Tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát việc thực hiện luật pháp và chính sách về bình đẳng giới.
Nhiệm vụ 3: Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập
Nhiệm vụ 4: Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Nhiệm vụ 5: Xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh
Nhiệm vụ 6: Mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế vì bình đẳng, phát triển và hòa bình.
Từ thực tiễn: Nhiều năm qua, phong trào phụ nữ cả nước ngày càng lớn mạnh, đối tượng phụ nữ đa dạng hơn, trình độ, năng lực và nhu cầu cao hơn trước. Nếu đội ngũ cán bộ hội không nâng cao trình độ, năng lực và nghiệp vụ chuyên môn thì sẽ không thu hút được đông đảo phụ nữ tham gia, không thực hiện được quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng và nhu cầu của phụ nữ. Mặt khác, xu thế hội nhập quốc tế, hội nhập của phong trào phụ nữ trên thế giới ngày càng tác động vào các tầng lớp phụ nữ, các hoạt động của hội cũng đổi mới, cán bộ cũng phải đổi mới để thích nghi với xu thế hội nhập và phát triển chung.
II/ THỰC TRẠNG PHONG TRÀO PHỤ NỮ VÀ TRÌNH ĐỘ CÁN BỘ HỘI PHỤ NỮ CÁC CẤP HUYỆN HOÀI NHƠN
1/. Đặc điểm tình hình của huyện Hoài Nhơn
Hoài Nhơn là huyện nằm ở phía Bắc tỉnh Bình Định giáp với tỉnh Quãng Ngãi, nằm giữa 2 đèo Bình Đê và Phú Cũ, có tuyến đường sắt Bắc -Nam và quốc lộ 1A chạy dài trên địa phận huyện, diện tích tự nhiên 41.295 ha, diện tích canh tác 31.984 ha, có trên 51.860 hộ dân và 220.000 nhân khẩu. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc giao thương buôn bán và phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, phát triển đa dạng ngành nghề. Vì vậy, trong những năm qua, kinh tế xã hội của huyện luôn phát triển, đời sống nhân dân dần ổn định, anh ninh chính trị được giữ vững.
Bên cạnh đó vẫn còn không ít khó khăn đó là sự biến động của giá cả phân bón, thức ăn chăn nuôi và các mặt hàng tiêu dùng, dịch bệnh heo tai xanh, lỡ mồm long móng, dịch H5N1 ở gia súc, gia cầm diễn ra ở các địa phương trong nước… đã làm ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống nhân dân nói chung, phụ nữ nói riêng nhất là phụ nữ vùng nông thôn. Số phụ nữ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp thời gian nông nhàn rất lớn, cơ hội việc làm tại địa phương thấp, nên số phụ nữ phải ly hương ngày càng nhiều đến các tỉnh, thành phố lớn (các tỉnh Tây Nguyên và Thành phố Hồ Chí Minh) để tìm kiếm cơ hội việc làm và thu nhập. Vấn đề này đã làm ảnh hưởng lớn đến công tác vận động, tập hợp phụ nữ và kết nạp hội viên của huyện.
Tuy nhiên, các cấp Hội và toàn thể cán bộ, hội viên phụ nữ trong huyện đã kế thừa truyền thống yêu nước, cần cù, lao động sáng tạo phát huy tiềm năng, sáng tạo của mọi tầng lớp phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội, góp phần thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương, thể hiện:
Trên lĩnh vực kinh tế:
Chị em đã phát huy được tinh thần tự lực, tự cường phấn đấu vươn lên, thể hiện được tính nhạy bén với thị trường làm ăn hiệu quả, đem lại hiệu quả kinh tế cho gia đình và giúp đỡ nhiều chị em khác có thu nhập ổn định.
Trong nông nghiệp, phụ nữ giữ vai trò chủ yếu trong sản xuất, chăn nuôi, trồng trọt… tích cực tham gia các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Mạnh dạn áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, thực hiện chuyển đổi cơ cấu giống, cây trồng, vật nuôi, áp dụng các mô hình chăn nuôi, trồng trọt mới, lai tạo các loại giống mới … đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần cải thiện đời sống, tăng thu nhập, từ nghèo vươn lên thoát nghèo, từ trung bình khá đi lên làm giàu chính đáng.
Chị em nữ Doanh nghiệp đã phát huy tính năng động sáng tạo, nghiên cứu thị trường, lãnh đạo, quản lý sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả cao, tham gia tốt các hoạt động của Hội, nhất là công tác từ thiện; chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Chị em nữ công nhân viên chức và lao động: vừa nổ lực sản xuất, công tác vừa tích cực tham gia học tập nâng cao tay nghề, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nhằm tăng năng suất và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Dù ở cương vị, công tác nào chị em cũng thể hiện tính năng động, sáng tạo, trung hậu đảm đang và có tinh thần trách nhiệm cao.
Qua các hoạt động trên, các cấp Hội trong huyện đã tham gia tích cực, có hiệu quả trong chương trình phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo của huyện từ 21,48% đầu năm 2006 xuống còn 12,84% vào đầu năm 2010.
Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội, an ninh quốc phòng:
Lực lượng nữ cán bộ, công chức trong huyện đã tham gia đóng góp nhiều thành tích đáng kể vào sự nghiệp chung của huyện, nổi bậc là lực lượng nữ ngành giáo dục, y tế, lực lượng vũ trang, nhiều chị hoàn thành nhiệm vụ và được các ngành, các cấp công nhận là “Phụ nữ hai giỏi”, “Gia đình thành đạt”, “thầy thuốc như mẹ hiền”…
Phong trào phụ nữ tham gia bảo vệ an ninh tổ quốc, giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông, phòng chống tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh trật tự tuyến biển... được Hội phối hợp thực hiện thông qua các chương trình liên tịch với các ngành. Bước đầu xây dựng và nhân rộng mô hình tổ phụ nữ tự quản “Giáo dục con em trong gia đình không phạm tội và tệ nạn xã hội” có hiệu quả, góp phần làm giảm đáng kể tình hình thanh thiếu niên vi phạm pháp luật tại địa phương. Tham gia tích cực trong công tác xây dựng nền quốc phòng toàn dân, vận động xây dựng lực lượng dân quân tự vệ. Động viên con em trong gia đình chấp hành tốt Luật nghĩa vụ quân sự, giúp đỡ gia đình có quân nhân tại ngũ, động viên tân binh lên đường ... góp phần đạt 100% chỉ tiêu giao quân hàng năm.
Trên lĩnh vực xây dựng gia đình hạnh phúc:
Phụ nữ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng gia đình hạnh phúc, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học, xây dựng gia đình không có người phạm tội và tệ nạn xã hội. Hội phụ nữ các cấp trong huyện đã tổ chức nhiều hoạt động hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” với nhiều hoạt động hướng dẫn phụ nữ, chăm sóc sức khỏe thực hiện kế hoạch hóa, phòng chống dịch bệnh, phòng chống HIV/AIDS và tệ nạn xã hội… từ trong gia đình.
Xây dựng nhiều mô hình hoạt động có hiệu quả như: câu lạc bộ không sinh con thứ 3 trở lên; phòng chống suy dinh dưỡng; gia đình hạnh phúc; an toàn cho trẻ; phòng chống bạo hành; nữ vị thành niên với công tác phòng chống HIV/AIDS… Thông qua các mô hình này, Hội đã tổ chức tuyên truyền các kiến thức về xây dựng gia đình hạnh phúc, nuôi con khỏe, dạy con ngoan, phòng chống dịch bệnh, phòng chống HIV/AIDS, phòng chống bạo lực gia đình nhằm nâng cao kiến thức và năng lực để phụ nữ làm tốt hơn vai trò người vợ, người mẹ. Từ kết quả thực hiện 4 chuẩn mực “No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” góp phần thực hiện tốt phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” hàng năm có từ 92 – 95% gia đình cán bộ, hội viên đạt gia đình văn hóa.
Xây dựng và phát triển tổ chức Hội vững mạnh góp phần xây dựng Đảng, chính quyền:
Thông qua phong trào thi đua các cấp Hội đã tập trung củng cố kiện toàn, nâng cao chất lượng bộ máy, phát triển tổ chức Hội với phương châm "hướng về cơ sở", nâng cao chất lượng hoạt động của Ban chấp hành phụ nữ cơ sở, đội ngũ cán bộ chi, tổ Hội và hội viên nòng cốt. Tăng cường phát triển hội viên mới, chú trọng phát triển hội viên trong các hộ gia đình chưa có hội viên. Chất lượng hoạt động của Hội từng bước được nâng lên, phong trào phụ nữ huyện đã có sự chuyển biến rõ nét từ nhận thức đến hành động. Các cấp Hội luôn tìm tòi tổ chức nhiều loại hình hoạt động với nội dung phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của chị em, thu hút đông đảo phụ nữ tham gia vào sinh hoạt Hội.
Qua thực tiễn phong trào đã có những cá nhân xuất sắc tiêu biểu được Hội giới thiệu cho Đảng bồi dưỡng và phát triển. Tỷ lệ đảng viên nữ, cán bộ Hội ngày càng phát triển từ 30% năm 2006 lên 40% năm 2010.
2/. Thực trạng đội ngũ cán bộ Hội của huyện Hoài Nhơn:
a/. Cơ cấu tổ chức:
Hệ thống tổ chức Hội LHPN được thành lập tương ứng với hệ thống đơn vị hành chính nhà nước, gồm: Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Tỉnh, Hội liên hiệp phụ nữ huyện (thành phố), Hội liên hiệp phụ nữ xã (phường, thị trấn). Hội liên hiệp phụ nữ có mối quan hệ chặt chẽ với các tổ chức trong hệ thống chính trị, đồng thời cũng là một thành viên của hệ thống chính trị, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đối với Hội LHPN huyện Hoài Nhơn tổ chức theo qui định của điều lệ Hội, đối với các chi hội có từ 50 người trở lên thì cần thành lập các tổ phụ nữ để dễ quản lý là thuận tiện trong tổ chức hoạt động. Tuy nhiên, các tổ phụ nữ thành lập theo địa bàn dân cư là xóm, tổ dân phố có tổ đến 55 hội viên trong tổ.
-Ban chấp Hội LHPN huyện có 29 đồng chí, được cơ cấu như sau:
Cán bộ cơ quan thường trực là 05 đ/c;
Cấp cơ sở có 18 đồng chí (là Chủ tịch Hội phụ nữ của 17 xã, thị trấn và 01 Chủ tịch Hội trực thuộc);
Cơ cấu các ngành có 05 đồng chí (gồm: y tế, dân số, giáo dục, hội Nông dân, ngành LĐ-TB xã hội.
-Cấp xã, mỗi xã có 1 Ban chấp hành Hội từ 9 – 15 người, cơ cấu là các chi hội trưởng và các ngành có liên quan như: Dân số, y tế, giáo dục, các hội đoàn thể khác…
Ở các chi hội có cán bộ chi hội trưởng, các chi hội phó và cán bộ tổ phụ nữ.
Hội liên hiệp
Phụ nữ huyện
Hội liên hiệp phụ nữ Hội trực thuộc
xã, thị trấn
Chi hội phụ nữ thôn,
Khối phố
Các tổ phụ nữ
Toàn huyện nữ trong độ tuổi từ 18 tuổi trở lên có trên 59.738 chị, số đủ điều kiện kết nạp hội viên là 46.588 chị. Số hội viên phụ nữ là 36.834 (đạt tỷ lệ 78,86%), hội viên phân bố ở 153 chi hội, 816 tổ Hội thuộc 15 xã và 2 thị trấn. Tỷ lệ hội viên thường xuyên tham gia sinh hoạt trên 80%.
b/. Trình độ cán bộ:
*Ban chấp hành Hội LHPN Hoài Nhơn gồm 29 đồng chí, có trình độ như sau:
Về trình độ chuyên môn:
-Đại học: 06 đ/c;
-Trung cấp: 17 đ/c.
Về trình độ chính trị:
-Cao cấp: 01 đ/c;
-Trung cấp 4 đ/c;
-Sơ cấp: 15 đ/c.
*Ban chấp hành 17 xã, thị trấn gồm 278 đồng chí, có trình độ:
Về trình độ văn hóa:
-Cấp 1: 16 chị;
-Cấp 2: 149 chị;
-Cấp 3: 114.
Về trình độ chuyên môn:
-Đại học: 24 đ/c;
-Trung cấp, cao đẳng: 55 đ/c;
-Sơ cấp: 12 đ/c.
Về trình độ chính trị:
-Trung cấp 15 đ/c;
-Sơ cấp: 58 đ/c.
3/. Kết quả công tác nâng cao trình độ cán bộ Hội phụ nữ huyện Hoài Nhơn và nguyên nhân đạt được:
a/. Kết quả:
Trong nhiệm kỳ 2001 – 2006, để nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn và nghiệp vụ cho cán bộ chuyên trách, hàng năm đều tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Hội cho cán bộ chi tổ Hội tại cơ sở thời gian không quá 01 ngày.
Đối với cán bộ chủ chốt của Hội đã tham mưu đưa các phó chủ tịch Hội cơ sở và cán bộ dự nguồn đi học nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ chính trị, 10 chị được đi học lớp trung cấp xã hội học, 4 chị được đưa đi đào tạo đại học xã hội học, 4 chị được đào tạo trung cấp chính trị.
Để nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ chi tổ Hội hàng năm Hội từ huyện đến cơ sở đều tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Hội từ 1 đến 3 ngày. Cấp huyện, phối hợp với Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện tổ chức 03 lớp có 317 chị. Cấp xã tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ chi, tổ có 2.562 lượt chị, chủ yếu là bồi dưỡng ngắn ngày.
Cán bộ Hội Phụ nữ trong huyện luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, nổ lực vươn lên, nhiệt tình, tận tâm, năng động, sáng tạo. Đã tổ chức thực hiện đạt các chỉ tiêu của Hội và của địa phương. Luôn tìm tòi đưa ra các biện pháp đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, xây dựng nhiều mô hình tập hợp, thu hút hội viên. Luôn sâu sát nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của Hội viên, phụ nữ để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của Hội viên phụ nữ để giải quyết và đề xuất giải quyết kịp thời… chính vì vậy phong trào phụ nữ huyện Hoài Nhơn liên tục nhiều năm liền được tỉnh công nhận là đơn vị xuất sắc.
b/. Nguyên nhân đạt được:
+Cán bộ Hội phụ nữ cấp huyện và xã, thị trấn nhiệm kỳ 2006 – 2011 được tuyển chọn theo tiêu chuẩn cán bộ công chức và các chức danh, gồm những tiêu chí sau:
-Có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệ Hội.
-Có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, trung thực, gương mẫu, có tinh thần tiết kiệm, không lãng phí, quan liêu, có tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
-Có kiến thức, trình độ năng lực tổ chức lãnh đạo, có điều kiện, nhiệt tình hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao, có uy tín, khả năng vận động, tập hợp, thu hút đông đảo các tầng lớp phụ nữ, nắm bắt thực tiễn, đề xuất các chủ trương, giải pháp đóng góp vào sự lãnh đạo của Ban chấp hành. Biết vận dụng sáng tạo đưa chủ trương của Hội kết hợp với công tác của địa phương vào thực tiễn cuộc sống trong lĩnh vực được phân công, tất cả vì mục tiêu bình đẳng, tiến bộ và phát triển của phụ nữ hyện.
-Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, có tinh thần phê bình và tự phê bình, phát huy dân chủ, giữ gìn đoàn kết thống nhất, sâu sát với cơ sở, gần gũi, giúp đỡ quần chúng phụ nữ.
+Bộ máy của Hội từ huyện đến cơ sở được kiện toàn, củng cố thường xuyên hợp lý, nâng cao hiệu quả hoạt động, duy trì các thế hệ cán bộ Hội gắn liền nhau, tạo sự thống nhất đoàn kết trong mọi hoạt động công tác Hội.
Về công tác cán bộ là đã quan tâm đến sự trẻ hóa của đội ngũ cán bộ Hội các cấp.
4/. Hạn chế và nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng độ ngũ cán bộ Hội
Tuy nhiên, trước yêu cầu của tình hình hiện nay có nhiều vấn đề mới đặt ra, phong trào phụ nữ và công tác cán bộ phụ nữ, còn nhiều hạn chế:
-Trình độ về văn hóa của cán bộ Hội còn thấp:
+Cấp huyện: cán bộ chủ chốt cấp huyện chưa đạt trình độ chuyên môn đại học theo quy định. BCH tỷ lệ trình độ cấp 3: 24 cấp 2: 05
+Ban chấp hành cấp xã có tỷ lệ trình độ cấp 3:41%; cấp 2: 53,5%; cấp 1: 5,5%.
+Cán bộ chi hội: tỷ lệ trình độ cấp 3: 15%; cấp 2: 77%; cấp 1: 8%.
-Số cán bộ đã qua lớp đào tạo chuyên môn công tác Hội rất ít: Cán bộ BCH phụ nữ xã chỉ có 46% được tập huấn nghiệp vụ công tác Hội thời gian 3 ngày, 8% được tập huấn nghiệp vụ công tác Hội từ 7 ngày trở lên, còn lại chủ yếu là cán bộ làm việc theo kinh nghiệm. Do đó việc triển khai và vận dụng nghị quyết, nhiệm vụ công tác Hội vào tình hình cụ thể của địa phương còn rất hạn chế.
-Trình độ lý luận chính trị của cán bộ ở cơ sở còn rất hạn chế, chỉ đạt 15% cán bộ chi hội trưởng, 26% các ủy viên Ban chấp hành phụ nữ xã có trình độ chính trị sơ cấp, trung cấp, nên việc triển khai tuyên truyền nghị quyết, chủ trương của Đảng đến các tầng lớp phụ nữ đạt hiệu quả chưa cao.
(Xem phụ lục đính kèm trang )
-Kỹ năng công tác xã hội, năng lực vận động quần chúng của một số cán bộ còn hạn chế.
-Kỹ năng và kiến thức phát hiện, đề xuất vấn đề, kỹ năng thương thuyết, kiến nghị và phản biện xã hội vẫn còn nhiều hạn chế. Do vậy, trong một số trường hợp phát hiện được các trường hợp có dấu hiệu vi phạm đến phụ nữ nhưng lung túng chưa biết giúp đỡ và không đủ tự tin để đứng ra bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ.
-Cán bộ chi hội trưởng lớn tuổi mặc dù có kinh nghiệm trong công tác phong trào nhưng do hạn chế về trình độ nên khi tiếp cận công tác mới còn chậm, công tác tổng hợp báo cáo, lưu trữ, triển khai thực hiện nhiệm vụ còn lung túng nên ảnh hưởng rất lớn đến phong trào.
Nguyên nhân của hạn chế trên:
-Việc thể chế hóa các quan điểm chủ trương , chính sách của đảng về công tác phụ nữ và cán bộ nữ ở một số cấp ủy đảng chưa đúng mức, thiếu đồng bộ.
-Kinh phí hỗ trợ cho cán bộ đi học, đi đào tạo khó khăn vì ngân sách hạn chế.
-Thời gian dành cho các lớp tập huấn cho cán bộ chi, tổ Hội quá ngắn do kinh phí hỗ trợ quá ít ỏi.
-Công tác trẻ hóa đội ngũ cán bộ có đầy đủ trình độ còn gặp khó khăn vì phụ cấp cho cán bộ Hội, nhất là phó chủ tịch hội và chi hội trưởng quá thấp.
-Một bộ phận cán bộ Hội còn vướng bận công việc gia đình, còn tự ti, an phận chưa chủ động vượt khó trong học tập nâng cao trình độ văn hóa, trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ.
-Quyền lợi của cán bộ tổ hội phụ nữ không có sự quan tâm, hỗ trợ nên không có người tham gia hoặc tham gia nhưng không nhiệt tình.
5/. Bài học kinh nghiệm trong hoạt động phong trào và công tác cán bộ phụ nữ:
Từ thực tế phong trào rút ra bài học kinh nghiệm:
-Tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng và hỗ trợ của chính quyền và các ngành, đoàn thể để có nguồn lực tổ chức thực hiện.
-Đội ngũ cán bộ phải nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, của Hội, pháp luật của Nhà nước và vận dụng một cách sáng tạo vào từng điều kiện cụ thể của địa phương. Triển khai thực hiện phong trào thi đua gắn liền với thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và xây dựng Hội vững mạnh.
-Luôn đổi mới nội dung và phương thức hoạt động gắn liền với nhiệm vụ chính trị của địa phương, phù hợp với tâm lý của chị em.
-Luôn coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ Hội gắn với việc củng cố chất lượng hoạt động của tổ chức Hội cơ sở. Đa dạng hóa các mô hình tập hợp thu hút các tầng lớp phụ nữ bảo đảm tính liên hiệp của tổ chức Hội.
-Xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt có bản lĩnh chính trị, có trình độ năng lực, có phẩm chất đạo đức, tâm huyết với công tác Hội và sự bình đẳng giới.
-Coi trọng phát huy trí tuệ tập thể, mở rộng dân chủ, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau.
-Gắn công tác qui hoạch, đào tạo nguồn với việc thực hiện các chính sách và biện pháp đồng bộ cả về đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đề bạt cán bộ.
-Bản thân phụ nữ phải nổ lực phấn đấu công tác học tập, phải có sự chia sẻ, ủng hộ từ phía gia đình và đồng nghiệp, biết kết hợp hài hòa giữa công tác xã hội và công việc gia đình.
-Có sự khen thưởng kịp thời để khuyến khích động viên.
III/. NHỮNG GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ, NĂNG LỰC CÁN BỘ HỘI PHỤ NỮ HUYỆN HOÀI NHƠN TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
1/. Giải pháp:
1.1/. Dự báo công tác và phong trào của Hội trong thời gian đến:
Trong thời gian đến, trước yêu cầu đổi mới của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, phụ nữ đã và đang trãi qua không ít khó khăn, thách thức. Trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp của phụ nữ còn thấp, đời sống của một bộ phận phụ nữ còn nhiều khó khăn. Vấn nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em không thuyên giảm, tệ nạn ma túy mại dâm chưa khống chế được, các dịch bệnh ở người và gia súc gia cầm vẫn đang là nguy cơ tiềm ẩn; tình hình tai nạn giao thông làm ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống bình yên và hạnh phúc của mỗi gia đình. Bên cạnh đó, mối quan tâm, nhu cầu của từng tầng lớp phụ nữ khác nhau đòi hỏi cán bộ phải có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong quá trình công tác hiện nay
1.2/. Giải pháp cụ thể:
a/. Tuyển chọn cán bộ:
Tuyển chọn hoặc điều động cán bộ phải bảo đảm tiêu chuẩn theo qui định với từng chức danh, vị trí, tránh tình trạng nể nang, lấy cán bộ không đáp ứng yêu cầu. Tuyển dụng cán bộ phải bảo đảm có đủ trình độ văn hóa, chuyên môn, chính trị đối với từng cấp:
Cán bộ cấp huyện: Trình độ chuyên môn có đại học chuyên ngành; trình độ chính trị: Trung cấp lý luận chính trị trở lên.
Cán bộ cấp xã, thị trấn: Trình độ văn hóa 12/12, trình độ chuyên môn: Trung cấp phụ vận; trình độ chính trị: Trung cấp lý luận chính trị.
Tuyển chọn phải theo đúng qui trình được qui định trong văn bản pháp qui của Nhà nước.
b/. Qui hoạch cán bộ nguồn:
Chủ động xây dựng và rà soát qui hoạch để bổ sung, điều chỉnh kịp thời cán bộ trong qui hoạch đã nghỉ hoặc chuyển công tác khác. Làm tốt công tác qui hoạch cán bộ tạo được tính chủ động trong việc đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt cán bộ, chủ động chuẩn bị nhân sự cho đại hội phụ nữ các cấp, đảm bảo tính kế thừa nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa của huyện nhà trước mắt và lâu dài.
Qui hoạch phải được thực hiện công khai, dân chủ, theo đúng qui trình. Cần phải phát huy dân chủ trong việc phát hiện, lựa chọn cán bộ triển vọng tạo nguồn để qui hoạch cán bộ, đảm bảo tăng tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ xuất thân từ công nhân, nông dân, con em gia đình cách mạng. Đồng thời cán bộ qui hoạch phải đảm bảo tiêu chuẩn chính trị theo qui định số 75-QĐ/TW của Bộ Chính trị. Đảm bảo tiêu chuẩn về độ tuổi, trình độ đối với mỗi chức danh qui hoạch.
Định kỳ đánh giá cán bộ theo qui định. Định kỳ hàng năm vào dịp cuối năm gắn việc đánh giá cán bộ, đảng viên vào cuối năm, rà soát và xem xét lại qui hoạch, đưa ra khỏi qui hoạch những người không đủ tiêu chuẩn và điều kiện, bổ sung vào qui hoạch những cán bộ mới có triển vọng.
c/. Đào tạo, bồi dưỡng
Tập trung đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, kỹ năng vận động phụ nữ cho cán bộ Hội chủ chốt và cán bộ phong trào, kỹ năng thương thuyết trong thực hiện công tác phối kết hợp. Quan tâm đến cán bộ chưa đủ trình độ của công chức xã, phường.
Tham mưu cấp ủy Đảng tạo điều kiện cho một số cán bộ hội đương chức và cán bộ trong qui hoạch tham gia học lớp trung cấp phụ vận và lớp Trung cấp chính trị tại trường chính trị tỉnh Bình Định, các lớp đại học chuyên ngành ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Chủ động phối hợp với Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện mở các lớp tập huấn nghiệp vụ công tác Hội, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử cho các đồng chí phó chủ tịch hội phụ nữ xã và cán bộ chi hội trưởng, chi hội phó thôn, khu phố.
Tăng cường các hình thức đào tạo thông qua thực tiễn hoạt động công tác như: Tổ chức các buổi giao lưu trao đổi kinh nghiệm công tác, tổ chức những đợt tham quan trong và ngoài huyện để cán bộ Hội được học tập. Tổ chức Hội phải có kế hoạch hỗ trợ, động viên cán bộ Hội học tập bằng nhiều hình thức nhằm nâng cao trình độ năng lực, kinh nghiệm thực tiễn phấn đấu rèn luyện theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Hội phụ nữ phải thực hiện đồng bộ các giải pháp đổi mới nội dung, chương trình, phương thức đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ Hội các cấp.
Coi trọng bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Hội, lý luận chính trị, quản lý hành chính, kỹ năng, kiến thức, phương pháp công tác theo chuyên đề và nâng cao năng lực kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội.
Phát triển đảng viên trong đội ngũ cán bộ Hội nhằm nâng cao trách nhiệm, nâng cao nhận thức chính trị để lãnh đạo quần chúng.
d/. Thực hiện tốt nhiệm vụ giáo duc phẩm chất đạo đức, nâng cao năng lực và trình độ mọi mặt của cán bộ Hội phụ nữ huyện Hoài Nhơn
Quán triệt tư tưởng “Cán bộ môn nào phải cho thạo công việc ở trong môn ấy”.
Trước nhất phải tổ chức tuyên truyên chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết của Hội các cấp đến cán bộ chi hội, cán bộ tổ phụ nữ; đồng thời phối hợp với các ngành liên quan tuyên truyền phồ biến giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ Hội ở cơ sở tạo điều kiện để chị em thực hiện có hiệu quả qui chế dân chủ ở cở sở để từng bước phát huy quyền bình đẳng và quyền dân chủ của bản thân và chị em phụ nữ.
Đẩy mạnh và khuyến khích cán bộ phụ nữ tham gia học tập nâng cao kiến thức về mọi mặt, tổ chức các hoạt động giáo dục về phẩm chất đạo đức, truyền thống đoàn kết đấu tranh của dân tộc, chuẩn mực của phụ nữ trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
2/. Kiến nghị
-Đối với cấp ủy Đảng:
Triển khai quán triệt sâu rộng quan điểm, mục tiêu công tác phụ nữ trong tình hình mới theo tinh thần Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị và chương trình hành động vì sự tiến bộ phụ nữ Hoài Nhơn đến cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp đối với công tác phụ nữ trong thời gian tới.
Tiếp tục chỉ đạo thực hiện các chính sách phụ cấp cho cán bộ phụ nữ đi học trong và ngoài tỉnh, tạo điều kiện để chị em tham gia học tập tốt.
Tăng cường công tác phát triển Đảng viên nữ, đảm bảo có 40% trên tổng số đảng viên được kết nạp, tạo điều kiện giúp đỡ, bồi dưỡng đảng viên nữ rèn luyện phấn đấu trưởng thành.
-Đối với cơ quan có thẩm quyền quyết định các chính sách: quan tâm đến đội ngũ cán bộ Hội ở cơ sở, nhất là Phó Chủ tịch Hội phụ nữ xã, cán bộ chi, tổ Hội.
-Đối với Hội cấp trên, nhất là TW Hội LHPN Việt Nam mở rộng đối tượng xét trao tặng kỷ niệm chương “Vì sự phát triển của phụ nữ” đến cán bộ tổ Phụ nữ để động viên sự nhiệt tình trách nhiệm trong cong việc.
C/. KẾT LUẬN:
Việt Nam là một trong những quốc gia rất quan tâm đến vấn đề phụ nữ, ngay từ những ngày đầu mới thành lập Đảng năm 1930, mục tiêu giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền đã được đặt ra trong cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nói đến công tác vận động phụ nữ, phải nói đến quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để đánh giá đúng đắn các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm động viên và phát huy vai trò của phụ nữ đóng góp vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong giai đoạn đất nước bước đầu thế kỷ XXI này, với những thành tựu to lớn, tình hình hình kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội từng bước phát triển ổn định, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách nhằm huy động sức mạnh của phụ nữ, tạo điều kiện để phụ nữ phát huy vai trò, khả năng của mình góp phần nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Với truyền thống “Anh hung, bất khuất, trung hậu, đảm đang” và “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” phụ nữ Việt Nam nói chung, phụ nữ huyện Hoài Nhơn nói riêng sẽ đóng góp nhiều hơn và xứng đáng hơn trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa đất nước ta vững bước đi lên trên con đường đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Công tác phụ nữ trong tình hình hiện nay là một khâu rất quan trọng trong công cuộc vận động quần chúng của Đảng. Để thực hiện được sự điều này trước hết phải có đội ngũ cán bộ Hội năng động, nhiệt tình, sáng tạo, có năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ để thu hút tập hợp các tầng lớp phụ nữ thực hiện thắng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và những yêu cầu của Đảng đặt ra đối với phụ nữ chúng ta.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay bản thân cán bộ Hội trong toàn huyện nổ lực phấn đấu thì sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự hỗ trợ phối hợp của Chính quyền và các ban, ngành, đoàn thể trong thời gian tới nhất định phong trào phụ nữ huyện Hoài Nhơn sẽ có nhiều sự chuyển biến tích cực hơn nữa. Sẽ xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ trình độ về văn hóa, chính trị, chuyên môn nghiệp vụ để thực hiện thắng lợi các mục tiêu chỉ tiêu nghị quyết đại hội đảng, đại hội phụ nữ các cấp đề ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8
Báo cáo Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ X
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
Báo cáo Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Bình Định lần thứ XVII
Báo cáo Đại hội đại biểu phụ nữ huyện Hoài Nhơn lần thứ XVII
Báo cáo hội nghị tổng kết phong trào thi đua Hội LHPN huyện Hoài Nhơn giai đoạn 2005-2009.
Giáo trình Dân vận
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BÌNH ĐỊNH
TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY.
▼
► ◊ ◄
▲
Giáo viên hướng dẫn: NGUYỄN THỊ TUYẾT NGA
Học viên : NGUYỄN THỊ TIẾP
Đơn vị công tác : HỘI LHPN HOÀI NHƠN
Lớp : TCLLCT –K.67 (2008-2010)
Hoài Nhơn, tháng 8 năm 2010
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nâng cao trình độ cán bộ Hội phụ nữ huyện Hoài Nhơn trong tình hình hiện nay.doc