Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn

Từ góc độ Luật thế giới nhận thấy chế định bồi thường thiệt hại đã ra đời từ rất sớm ĐẶT VẤN ĐỀ: Khi cộng đồng loài người đầu tiên xuất hiện, “pháp luật” còn là một khái niệm rất đỗi mơ hồ. Để duy trì đời sống được bình yên, công bằng và theo trật tự nhất định, các nguyên tắc sống giữa người với người đã được hình thành, trong đó có nguyên tắc: “ gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản này, khi pháp luật ra đời đã luật hóa các nguyên tắc, hình thành nên những chế định tương đối chặt chẽ. Từ góc độ pháp luật thế giới nhận thấy, chế định bồi thường thiệt hại đã ra đời từ rất sớm. Từ đó cho đến nay, chế định này ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. Tuy các nước có các xu hướng sửa đổi, điều chỉnh chế định này khác nhau cho phù hợp với hoàn cảnh, yêu cầu của từng quốc gia song đã cùng nhau hướng tới việc khẳng định: bồi thường thiệt hại không phải là hình phạt mà là một loại trách nhiệm, một loại nghĩa vụ của người có hành vi gây thiệt hại. Cũng giống như các nước trên thế giới, tại Việt Nam, các bộ cổ luật với nhiều Điều khoản về bồi thường thiệt hại là minh chứng cho thấy chế định bồi thường thiệt hại đã xuất hiện từ rất sớm ở nước ta. Từ đó cho đến nay, khi Bộ luật Dân sự ra đời năm 1995 và sau đó là năm 2005, chế định này đã được đề cập ngày một rõ ràng và hoàn thiện hơn. So với Bộ luật dân sự năm 1995 thì Bộ luật Dân sự năm 2005 đã làm rõ các vấn đề rất quan trọng như : ai là người có năng lực bồi thường thiệt hại, trong phạm vi như thế nào, bồi thường thiệt hại ra sao. Với bài luận sau đây, em xin tập trung làm rõ vấn đề : “ Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân- Một số vấn đề lí luận và thực tiễn”. Do đây là một vấn đề nghiên cứu khá rộng, trong khi kiến thức của bản thân còn hạn chế vì vậy em mong nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của các thầy cô trong tổ bộ môn để bài làm của mình được hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 1995. 2. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005. 3. Bộ luật hình sự năm 1999. 4. Bộ luật Hồng Đức năm 1483. 5. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. 6. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, tập 2, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB CAND, năm 2009. 7. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, tập 2, TS.Lê Đình Nghị chủ biên, NXB Giáo Dục, Hà Nội 2009. 8. Nguyễn Mạnh Bách, (1998), “ Nghĩa vụ dân sự trong luật dân sự Việt Nam”, NXB Chính Trị quốc gia, Hà Nội. 9. TS.Phùng Trung Tập (2009) “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng” NXB Hà Nội, Hà Nội. 10. Nguyễn Minh Thư (2010), “Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân – Một số vấn đề lí luận và thực tiễn”, luận văn thạc sỹ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội. 11. Trương Anh Tuấn (2009) “Bình luận khoa học Bộ luật dân sự phần nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự”, NXB Lao động, Hà Nội.

doc21 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3668 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ: Khi cộng đồng loài người đầu tiên xuất hiện, “pháp luật” còn là một khái niệm rất đỗi mơ hồ. Để duy trì đời sống được bình yên, công bằng và theo trật tự nhất định, các nguyên tắc sống giữa người với người đã được hình thành, trong đó có nguyên tắc: “ gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản này, khi pháp luật ra đời đã luật hóa các nguyên tắc, hình thành nên những chế định tương đối chặt chẽ. Từ góc độ pháp luật thế giới nhận thấy, chế định bồi thường thiệt hại đã ra đời từ rất sớm. Từ đó cho đến nay, chế định này ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. Tuy các nước có các xu hướng sửa đổi, điều chỉnh chế định này khác nhau cho phù hợp với hoàn cảnh, yêu cầu của từng quốc gia song đã cùng nhau hướng tới việc khẳng định: bồi thường thiệt hại không phải là hình phạt mà là một loại trách nhiệm, một loại nghĩa vụ của người có hành vi gây thiệt hại. Cũng giống như các nước trên thế giới, tại Việt Nam, các bộ cổ luật với nhiều Điều khoản về bồi thường thiệt hại là minh chứng cho thấy chế định bồi thường thiệt hại đã xuất hiện từ rất sớm ở nước ta. Từ đó cho đến nay, khi Bộ luật Dân sự ra đời năm 1995 và sau đó là năm 2005, chế định này đã được đề cập ngày một rõ ràng và hoàn thiện hơn. So với Bộ luật dân sự năm 1995 thì Bộ luật Dân sự năm 2005 đã làm rõ các vấn đề rất quan trọng như : ai là người có năng lực bồi thường thiệt hại, trong phạm vi như thế nào, bồi thường thiệt hại ra sao. Với bài luận sau đây, em xin tập trung làm rõ vấn đề : “ Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân- Một số vấn đề lí luận và thực tiễn”. Do đây là một vấn đề nghiên cứu khá rộng, trong khi kiến thức của bản thân còn hạn chế vì vậy em mong nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của các thầy cô trong tổ bộ môn để bài làm của mình được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! NỘI DUNG: I.CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÁ NHÂN: 1. Những khái niệm có liên quan: Để có thể hiểu về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân là gì, trước hết ta cần làm rõ một số khái niệm: Thứ nhất, khái niệm năng lực là gì? Theo từ điển Tiếng Việt – Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm từ điển học, nhà xuất bản Đà Nẵng 2003, “năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó”. Năng lực của cá nhân ở đây hiểu dưới góc độ dân sự, đó là khả năng thực hiện một công việc nào đó, đó có thể là thực hiện quyền, cũng có thể thực hiện nghĩa vụ dân sự nhất định. Thứ hai, năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân chỉ được đặt ra khi phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Vì vậy cần phải hiểu như thế nào là bồi thường thiệt hại. Bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp , đền bù tổn thất về vật chất, tổn thất về tinh thần cho bên bị hại. Pháp luật dân sự qui định hai loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại là : trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân sự và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong đó, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân sự là việc bên có hành vi vi phạm các nghĩa vụ đã giao kết, gây thiệt hại đến quyền của bên kia thì bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu bên vi phạm phải chấm dứt hành vi vi phạm và bồi thường thiệt hại, bên vi phạm có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã giao kết, đồng thời bồi thường thiệt hại cho bên có quyền. Còn bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm của người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác về tài sản, sức khỏe, tính mạng, các quyền nhân thân mà trước đó giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại không có giao kết hợp đồng hoặc giữa họ có giao kết hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc hành vi vi phạm hợp đồng. Từ ba khái niệm trên, có thể hiểu: năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân là khả năng của cá nhân thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc thực hiện nghĩa vụ bồi thường do vi phạm hợp đồng dân sự cho bên bị thiệt hại. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân bao gồm một số đặc điểm sau đây: Thứ nhất, năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ đặt ra với cá nhân mà không quy định về năng lực bồi thường thiệt hại của các chủ thể khác, bởi vì, các chủ thể khác ( như pháp nhân, nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đương nhiên được coi là có năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Thứ hai, nếu như trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì người gây thiệt hại có thể là bất kì cá nhân nào, hoặc có hoặc không có, đầy đủ, bị hạn chế hay bị mất năng lực hành vi dân sự thì đều phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nhưng trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thì người có trách nhiệm chỉ có thể là chủ thể mang nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng với bên mang quyền. Chủ thể này phải là người có năng lực hành vi dân sự phù hợp với nội dung, tính chất hợp đồng được giao kết theo qui định của pháp luật. Thứ ba, trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân có hành vi gây thiệt hại không phải lúc nào cũng đầy đủ mà có thể bị hạn chế, hoặc không có năng lực tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thì cá nhân vi phạm nghĩa vụ hợp đồng là người luôn có năng lực bồi thường thiệt hai. Thứ tư, việc bồi thường thiệt hại đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải do người có “khả năng” thực hiện. Vì vậy đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì chủ thể trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể là người không thực hiện hành vi gây thiệt hại còn trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng thì chủ thể gây thiệt hại cũng chính là chủ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại. 2. Tại sao phải quy định về vấn đề năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài của cá nhân? Từ thực tế đời sống, việc pháp luật quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân là thật sự cần thiết, điều này có ý nghĩa quan trọng về mặt lí luận cũng như thực tiễn.. Việc xác định trách nhiệm bồi thường thuộc về ai một mặt đảm bảo quyền lợi cho người bị thiệt hại, giữ gìn sự công bằng trong xã hội một mặt có tác dụng răn đe, hạn chế việc gây thiệt hại cho người khác của từng cá nhân. Việc hình thành các qui phạm pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn tạo cơ sở pháp lý khiến cho việc thực hiện trách nhiệm bồi thường không chỉ là ý muốn chủ quan của người gây thiệt hại mà là trách nhiệm dân sự, là nghĩa vụ không thể không thực hiện theo qui định của pháp luật, theo ý chí của Nhà nước mà không một cá nhân nào có thể chối bỏ điều này. Những qui định cụ thể của pháp luật về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt của cá nhân là căn cứ xác định rõ chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại để quy trách nhiệm cho người đó, mặt khác còn là căn cứ xác định tư cách chủ thể trong tố tụng dân sự, ai là bị đơn dân sự phải bồi thường, có trách nhiệm trước tòa án và người bị thiệt hại, để có căn cứ yêu cầu bồi thường thiệt hại, bảo đảm việc bồi thường thiệt hại là kịp thời theo nguyên tắc đã quy định của BLDS và thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật trong việc bảo vệ quyền lợi của chủ thể bị thiệt hại. Điều này lại càng có ý nghĩa hơn trong trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng vì người gây thiệt hại là mọi cá nhân, có thể là người đã thành niên, người chưa thành niên hoặc là người mất năng lực hành vi dân sự. Những đối tượng này có thể có năng lưc hành vi dân sự đầy đủ để tự chịu trách nhiệm bồi thường nhưng ngược lại, có thể họ không có hoặc chỉ có năng lực hành vi dân sự một phần thì trách nhiệm bồi thường thuôc về ai. Vì vậy, qui định của pháp luật về vấn đề năng lực chiu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân là những qui định rất thiết thực. 3. Lịch sử phát triển những quy định pháp luật về vấn đề năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân. 3.1. Thời kỳ trước khi có Bộ luật dân sự năm 1995: Khi nhìn về lịch sử phát triển các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân trong các thời kì trước đây, trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của cá nhân đã được pháp luật quy định trong Quốc triều hình luật hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức, được ban hành dưới triều vua Lê Thánh Tông. Trong một vài trường hợp đặc biệt, cổ luật Việt Nam cũng quy định sự bồi thường. Đối với trường hợp đánh người bị thương, Điều 468 Quốc triều hình luật đã quy định sự nuôi bảo cô: đánh bị thương bằng chân tay thì phải nuôi 10 ngày, bằng vật khác thì phải nuôi 20 ngày, bằng thứ có mũi nhọn hay bằng nước sôi, lửa, thì phải nuôi 40 ngày, đánh gãy xương thì phải nuôi 80 ngày….Tuy nhiên trong cổ luật, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân chưa được phân định rõ là trách nhiệm dân sự hay hình sự và chưa đề ra nguyên tắc thống nhất trong việc giải quyết các trường hợp gây thiệt hại cho người khác. 3.2. Thời kỳ Bộ luật dân sự năm 1995 ra đời cho đến nay: Từ khi Bộ luật Dân sự năm 1995 ra đời, đi kèm các qui định về hợp đồng là những qui định về nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân sự nhằm cụ thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi pham nghĩa vụ hợp đồng. Từ Mục I chương II về năng lực hành vi dân sự của cá nhân cho đến Mục I, II, III Chương I Phần Ba của BLDS năm 1995 và sau đó là BLDS năm 2005 đều thống nhất khẳng định: một bên mang nghĩa vụ trong hợp đồng có hành vi vi phạm nghĩa vụ với bên mang quyền thì phải tự mình chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên bị thiệt hại. Về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, từ khi BLDS năm 1995 có hiệu lực, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành số lượng đáng kể các văn bản hướng dẫn về vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như; Nghị định số 47/CP, ngày 3/5/1997về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền trong các cơ quan tiến hành tố tụng gây ra; Thông tư số 38/1998/TT-BTC ngày 30/3/1998 hướng dẫn việc lập dự toán sử dụng và quyết toán ngân sách nhà nước cho bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng gây ra; Thông tư số 54/1998/TT-TCCP ngày 4/6/1998 hướng dẫn thực hiện một số nội dung nghị định số 47/CP ngày 3/5/1997 của Chính Phủ; Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ tài chính “Hướng dẫn xét xử và thi hành án về tài sản” trong đó có nhiều vấn đề liên quan đến việc bồi thường những thiệt hại về vật chất … Đến nay, khi BLDS năm 2005 được ban hành thay thế cho BLDS 1995, vấn đề năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân đã được quy định một cách cụ thể tại một điều luật rõ ràng, tại điều 606 BLDS 2005, và từ đó, các văn bản hướng dẫn áp dụng những quy định trong vấn đề này không ngừng được bổ sung và hoàn thiện. II.NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÁ NHÂN THEO QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT: 1.Qui định của pháp luật về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng của cá nhân: Theo Điều 388 BLDS 2005, hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Sau khi hợp đồng được giao kết và có hiệu lực, các bên có các quyền và nghĩa vụ nhất định. Trong đó, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ hợp đồng là việc mà theo đó, bên mang nghĩa vụ phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của bên có quyền.Việc thực hiện hay không thực hiện nghĩa vụ sẽ ảnh hưởng rất lớn đối với bên mang quyền, trực tiếp xâm hại tới lợi ích vật chất, tinh thần của họ cho nên pháp luật dân sự qui định khi bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm với bên mang quyền. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do vi phạm hợp đồng xuất phát từ năng lực xác lập hợp đồng của cá nhân. Bởi lẽ chỉ khi có năng lực xác lập hợp đồng thì cá nhân mới trở thành một bên chủ thể của hợp đồng, có nghĩa vụ nhất định với bên mang quyền và phải thực hiện nghĩa vụ đó. Điều này có nghĩa là một cá nhân khi đã là chủ thể của hợp đồng, có quyền và nghĩa vụ nhất định theo hợp đồng thì đồng thời sẽ có năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại với chủ thể mang quyền khi cá nhân đó có hành vi vi phạm nghĩa vụ. Quay trở lại vấn đề năng lực xác lập hợp đồng của cá nhân nhận thấy, cá nhân là chủ thể thường xuyên và chủ yếu nhất của hợp đồng. Việc xác lập hợp đồng dân sự phụ thuộc vào năng lực hành vi của mỗi cá nhân được xác định theo từng độ tuổi. Bởi lẽ ở mỗi độ tuổi khác nhau con người có khả năng nhận thực khác nhau với hành vi cũng như với hậu quả do hành vi gây ra và sẽ có khả năng xác lập hợp đồng khác nhau. Căn cứ từ Điều 18 đến Điều 23 BLDS 2005, cá nhân có khả năng tham gia xác lập hợp đồng và chịu trách nhiệm tùy thuộc vào độ tuổi và năng lực nhận thức. Thứ nhất, Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người từ đủ 18 tuổi trở lên và không mất năng lực hành vi dân sự hay bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Những người này đã thỏa mãn hai yếu tố đó là độ tuổi trưởng thành (từ đủ 18 tuổi trở lên) và yếu tố nhận thức trí lực của bộ não phát triển hoàn toàn bình thường. Chính nhờ hai yếu tố này giúp cho cá nhân biết suy nghĩ, suy xét về mọi hiện tượng, sự việc trong xã hội, nhận thức được hành vi, hậu quả của hành vi đó trước khi thực hiện và chịu mọi trách nhiệm về hành vi của mình. Vì vậy, những người từ đủ 18 tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có toàn quyền tham gia mọi giao dịch nói chung hợp đồng nói riêng để xác lập cho mình hoặc cho người mà họ đại diện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mà họ xác lập và thực hiện. Khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng thì người này hoàn toàn có năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên mang quyền. Thứ hai, Người dưới 6 tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự không có năng lực xác lập hợp đồng. Muốn xác lập hợp đồng phải do người đại diện theo pháp luật của họ xác lập và thực hiện. Mà theo qui định của pháp luật hiện hành tại các khoản 5 Điều 139 và Điều 145 BLDS 2005 về người đại diện theo pháp luật của cá nhân dưới 6 tuổi hoặc của người bị mất năng lực hành vi dân sự là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Những người này đã xác lập và thực hiện hợp đồng - mặc dù vì quyền và lợi ích của người được đại diện- song khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng thì bản thân họ là người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Bởi lẽ chính người đại diện là người có lỗi và trực tiếp gây ra hành vi vi phạm hợp đồng. Thứ ba, đối với người từ đủ 6 tuổi cho đến dưới 18 tuổi và những người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, họ chỉ có năng lực để xác lập các hợp đồng phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày và phù hợp với lứa tuổi , tuy pháp luật không quy định rõ đó là những giao dịch nào nhưng có thể hiểu đó là những giao dịch phục vụ những nhu cầu vui chơi, học tập như: mua bán đồ dùng học tập, mua bán vé vào các khu vui chơi giải trí, mua quần áo,… . Thực tế cho thấy, những hợp đồng nêu trên có giá trị nhỏ, thời gian xác lập, thực hiện, chấm dứt hợp đồng diễn ra rất nhanh và thường tồn tại chủ yếu ở hình thức hành vi và lời nói. Các hợp đồng này ít khi nảy sinh sự vi phạm nghĩa vụ của một bên. Một số trường hợp hãn hữu có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được cho là thuộc về phía chính chủ thể có hành vi vi phạm nghĩa vụ. Dù họ là người từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi hay người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nhưng bản thân họ đã có một khoản tài sản nhất định, tuy giá trị nhỏ nhưng cũng phù hợp để xác lập thực hiện các hợp đồng nêu trên, vì vậy khi có hành vi vi phạm họ sẽ phải dùng chính tài sản đó để thực hiện trách nhiệm bồi thường của mình. Trong nhóm người từ đủ 6 tuổi trở lên đến dưới 18 tuổi có ngoại lệ là người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự ví dụ : mua bán các tài sản như xe đạp, máy ảnh, điện thoại,… Khi xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng thì họ sẽ tự mình chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên mang quyền bằng tài sản của họ. Đối với một số giao dịch có giá trị lớn như : hợp đồng định đoạt tài sản là nhà, quyền sử dụng đất,…thì pháp luật qui định người đại diện theo pháp luật của những người này sẽ xác lập và thực hiện hợp đồng. Như trên đã phân tích người đai diện theo pháp luật của cá nhân là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ đồng nghĩa với việc họ có năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có hành vi vi phạm hợp đồng. Nếu tài sản của người đó không đủ để thực hiện trách nhiệm bồi thường mà người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có tài sản riêng thì tài sản đó được dùng để thực hiện trách nhiệm bồi thường. Tóm lại, về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng nhận thấy: khi một cá nhân có năng lực xác lập hợp đồng, trở thành một bên chủ thể mang quyền và nghĩa vụ, nếu có hành vi vi phạm nghĩa vụ thì chính họ là chủ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại, họ có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên mang quyền. 2. Quy định của pháp luật về vấn đề năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân : Nếu như trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi vi phạm hợp đồng, cá nhân gây ra hành vi vi phạm hợp đồng chỉ có thể là một bên chủ thể mang nghĩa vụ trong hợp đồng thì với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cá nhân gây thiệt hại là bất kỳ ai, ở mọi độ tuổi, hoặc có năng lực nhận thức hoặc không có năng lực nhận thức. Vì thế, Điều 606 BLDS 2005 đã phân chia năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân thành các mức độ phù hợp với mức độ năng lực hành vi. Tức là dựa vào yếu tố độ tuổi và sự phát triển trí lực của cá nhân để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về chủ thể là cá nhân trực tiếp gây ra thiệt hại hay là cha, mẹ hoặc người giám hộ của cá nhân gây thiệt hại. Theo đó, việc xác định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân dựa trên tiêu chí khả năng nhận thức và độ tuổi của cá nhân là rất khoa học, phù hợp với bản chất và tinh thần của pháp luật. Trong đó khả năng nhận thức là tiêu chí cơ bản, là hạt nhân khi xem xét chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Ở đây, khả năng nhận thức của cá nhân là cơ sở tiên quyết để xác định hình thức lỗi khi cá nhân có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại. Khả năng nhận thức của cá nhân được đánh giá dựa trên độ tuổi của cá nhân đó, mặc dù hai khái niệm đó không phải là một nhưng chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau và đều có giá trị trong việc xác định trách nhiệm của chủ thể vi phạm có phải bồi thường thiệt hại hay không? Chính vì lẽ đó, căn cứ vào Điều 606 BLDS 2005, năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân được phân tích theo các trường hợp cụ thể dưới đây. 2.1 Đối với cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ gây ra thiệt hại. Theo Điều 18 BLDS 2005, người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị bệnh tâm thần, không mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức và điều khiển hành vi của mình, họ là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, cũng đồng thời có đủ năng lực tố tụng dân sự trước tòa án, do vậy, cá nhân này phải chịu trách nhiệm về hành vi của họ trước pháp luật. Theo khoản 1 Điều 606 BLDS 2005: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường” thì cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên khi gây thiệt hại cho người khác phải tự chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng tài sản của mình cho thiệt hại mà họ gây ra; không phụ thuộc vào tình trạng tài sản của bản thân người này. Nhưng xét trên thực tế ở Việt Nam hiện nay, những cá nhân có đủ năng lực hành vi dân sự và tố tụng dân sự có một phần không nhỏ còn đang theo học tại các trường đào tạo nghề, cao đẳng, đại học, trung cấp. Phần lớn trong số họ vẫn được bố, mẹ chu cấp toàn bộ tiền ăn, học, ở và các chi phí khác phục vụ cho việc học tập, chưa có việc làm và không có thu nhập nên không có tài sản riêng. Vì vậy, khi họ có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại cho người khác thì nguyên tắc bồi thường thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời rất khó thực hiện được. Như vậy lợi ích của người bị thiệt hại còn tiếp tục bị vi phạm do người gây ra thiệt hại không có tài sản để bồi thường. Tình trạng này đã và đang tồn tại ở Việt Nam như một bất cấp thực tế mà chưa có bất kì một biện pháp nào khắc phục được. Vấn đề đặt ra là trong những trường hợp cá nhân thành niên phải chịu trách nhiệm bồi thường mà không có tài sản riêng thì luật có nên quy định là cha mẹ phải dùng tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ thay cho con nhằm đảm bảo lợi ích của người bị thiệt hại hay không? Và nếu có quy định như vậy thì có làm mất đi ý nghĩa khi phân chia các mức độ tuổi chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Điều 606 BLDS 2005 hay không? Chỉ có thể nói, trong trường hợp này, khi quyết định bồi thường với những người này có thể động viên cha mẹ bồi thường thay cho con em họ, nếu cha mẹ tự nguyện bồi thường thì ghi nhận sự tự nguyện đó. 2.2 Đối với người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi gây ra thiệt hại. Theo quy định tại điều khoản 2 Điều 606 BLDS 2005: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình”. Sở dĩ Điều 606 quy định như vậy cũng là phù hợp với tinh thần Điều 20 BLDS 2005, luật quy định cá nhân từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có hành vi dân sự một phần cho nên ngoài các giao dịch dân sự nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, họ còn có thể tự xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự nếu có tài sản riêng, đủ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi tài sản riêng đó. Tuy nhiên nếu người đó có những tài sản có giá trị lớn và đặc biệt như nhà ở, quyền sử dụng đất..thì sự định đoạt các loại tài sản này vẫn cần những người đại diện theo pháp luật của họ đồng ý. Tại Điều 606 BLDS 2005 quy định độ tuổi là từ đủ 15 tuổi trở lên nếu có hành vi gây thiệt hại thì phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người khác là căn cứ từ điều kiện thực tế của xã hội, bởi vì những người trong độ tuổi này cũng phù hợp và thống nhất với một số quy định của các ngành luật khác, chẳng hạn như khoản 2 Điều 44 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “ Con từ đủ 15 tuổi trở lên còn sống chung với cha mẹ có nghĩa vụ chăm lo cho đời sống chung của gia đình; nếu có thu nhập thì đóng góp vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình”, khoản 1 Điều 45: “Con từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình quản lí tài sản hoặc nhờ cha mẹ quản lí” hay khoản 2 Điều 46 của luật thì: “ Con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng, nếu đinh đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý của cha mẹ”. Như vậy, con đủ 15 tuổi trở lên đã có thể có tài sản và thu nhập riêng, phần nào ý thức được nhiệm vụ và trách nhiệm tham gia, đóng góp vào đời sống của gia đình, được quyền định đoạt tài sản riêng của mình. Tuy nhiên, luật cũng quy định thêm trách nhiệm bồi thường bằng tài sản của cha mẹ thay cho con gây thiệt hại trong trường hợp con không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường. Nghĩa vụ này của cha mẹ được hiểu là nghĩa vụ bổ sung. Nghĩa vụ bổ sung này được đặt ra nhằm bảo vệ quyền lợi của và khắc phục thiệt hại cho người bị thiệt hại nên việc lấy tài sản của cha mẹ là việc cần thiết. Một khía cạnh khác, vì luật quy định người chưa thành niên được quyền có người giám hộ đương nhiên hay giám hộ cử nên người từ đủ 15 tuổi trở lên đến dưới 18 tuổi cũng có thể có người giám hộ nếu họ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 58 BLDS 2005. Nhưng với người mất năng lực hành vi dân sự và người dưới 15 tuổi theo quy định tại khoản 3 Điều 58 BLDS 2005 là bắt buộc phải có người giám hộ, còn người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi thì không bắt buộc do họ đã có khả năng lao động tạo ra thu nhập và trình độ nhận thức của họ đã tương đối hoàn thiện. Nếu trong trường hợp họ có người giám hộ thì theo quy định tại khoản 3 Điều 606 BLDS 2005: “Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường”. 2.3 Đối với cá nhân dưới 15 tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại. 2.3.1 Đối với cá nhân dưới 15 tuổi. Điều 20 của BLDS 2005 quy định người dưới 15 tuổi chưa thỏa mãn điều kiện về độ tuổi trưởng thành nhưng được hiểu là đã thỏa mãn điều kiện thứ hai về nhận thức trí lực, là những người có bộ não phát triển hoàn toàn bình thường, bao gồm hai nhóm: Thứ nhất, cá nhân chưa đủ 6 tuổi không thể tự nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, được coi là những người không có năng lực hành vi dân sự. Họ không thể tự mình xác lập giao dịch dân sự vì họ chưa đủ lí trí để nhận biết những hành vi của mình và hậu quả của những hành vi đó. Mọi giao dịch của họ đều phải được người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện .Như vậy, cá nhân không có năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác thì cha, mẹ là những người đại diện đương nhiên của họ với tư cách bị đơn đương sự trước Tòa án, là chủ thể trong trách nhiệm bồi thường với người bị thiệt hại. Thứ hai, cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi là những người có năng lực hành vi dân sự một phần (không đầy đủ). Những người thuộc lứa tuổi này có khả năng nhận thức đang dần hoàn thiện nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, họ chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong một giới hạn nhất định do pháp luật dân sự quy định. Đó là những giao dịch dân sự nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và phù hợp với lứa tuổi…Ngoài ra, những giao dịch khác khi họ xác lập, thực hiện phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật đã quy định. Như vây, người dưới 15 tuổi là những người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lí, chưa nhận biết được hậu quả cho xã hội của hành vi do mình thực hiện. Nhận thức của họ thường thiếu chín chắn và dễ bị lội kéo, kích động bởi những người xung quanh, nhất là môi trường xã hội không lành mạnh và không được chăm sóc giáo dục chu đáo. Phải chăng vì thế mà sự nhìn nhận của những nhà làm luật đối với những người trong độ tuổi này rất đặc biệt. Ngay cả với các quy định của pháp luật hình sự là ngành luật thể hiện cao nhất ý chí của Nhà nước cũng thể hiện thái độ giảm nhẹ, khoan hồng, đối với những người trong độ tuổi này khi họ có hành vi phạm tội. Theo tinh thần tại khoản 2 Điều 606 BLDS 2005: “Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu..” thì con dưới 15 tuổi không phải là chủ thể có nghĩa vụ, trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn luôn trực tiếp thuộc về cha mẹ. Trong quan hệ bồi thường thiệt hại đó, cha mẹ là chủ thể của quan hệ nghĩa vụ này chứ không phải là người con đó. Việc lấy tài sản của người con dưới 15 tuổi trực tiếp gây thiệt hại để khắc phục cho phần còn thiếu là nhằm bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại theo đúng nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là toàn bộ và kịp thời. Cha mẹ với tư cách là người quản lí tài sản của người con chưa thành niên dùng tài sản của con để bồi thường phần còn thiếu không có nghĩa là trách nhiệm bồi thường được chuyển sang cho con, đồng thời cũng không làm chấm dứt trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cha mẹ. Dù cha mẹ có dùng tài sản của con để bồi thường cho phần còn thiếu thì cha mẹ vẫn là chủ thể có trách nhiệm bồi thường. Qui định này ra đời phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội hiện này, không ít gia đình cha mẹ chỉ chú tâm vào việc lo kiếm tiền làm giàu đã quên mất trách nhiệm và nghĩa vụ cao nhất của người làm cha làm mẹ là chăm lo dạy dỗ con cái nên người. Họ đã lầm tưởng để rằng hạnh phúc là cho con cái cuộc sống ấm no mà không biết rằng hạnh phúc đích thực là có những đứa con ngoan. Sống trong nhung lụa và tiền bạc không bao giờ thiếu, nhiều đứa trẻ không tránh khỏi những cạm bẫy của xã hội,bị bạn bè rủ rê, lôi kéo vào con đường phạm pháp. Vì vậy nhà lầm luật qui định trách nhiệm pháp lý của cha mẹ về bồi thường thiệt hại như khoản 2 Điều 606 để đề cao trách nhiệm của cha mẹ trong việc quản lí và giáo dục con em mình 2.3.2 Đối với người bị mất năng lực hành vi dân sự: Người bị mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật mặc dù có thể là những người đã thành niên nhưng họ không thỏa mãn yếu tố nhận thức trí lực cấu thành nên năng lực hành vi dân sự đầy đủ, do họ bị tâm thần hay các bệnh khác mà bộ não phát triển không bình thường nên không thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình, chẳng hạn như: người thiểu năng trí tuệ, bệnh nhân thần kinh, bệnh teo não… Trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền và theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan mà Tòa án có thể tuyên bố một người bị mất năng lực hành vi dân sự theo những trình tự và thủ tục luật định (Điều 22 BLDS 2005). Mọi giao dịch dân sự của những người này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện. Vì vậy, những người mất năng lực hành vi dân sự và người dưới 15 tuổi đều có một điểm chung là khi có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại thì họ đều không phải chịu trách nhiệm bồi thường. Những chủ thể này đều không hiểu được ý nghĩa, hậu quả về hành vi dân sự mà họ đã thực hiện mặc dù hành vi đó trái pháp luật và gây hậu quả thiệt hại cho người khác. 2.4 Một số trường hợp khác. Ngoài các trường hợp đã nên ở trên, có một số trường hợp mà hậu quả pháp lí là không giống như quy đinh thông thường. Cụ thể như theo quy định tại Điều 621 BLDS 2005 thì người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra thiệt hại trong những tình huống nhất định sẽ không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho cha mẹ, người giám hộ của người đó, cụ thể: Bồi thường thiệt hại do người dưới 15 tuổi gây ra trong thời gian nhà trường quản lí: Theo quy định tại khoản 1 Điều 621 BLDS 2005 thì người dưới 15 tuổi trong thời gian học tại trường mà gây ra thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra. Như vậy, nhà trường có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp học sinh đang trong thời gian học tại trường gây thiệt hại cho người khác Quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của nhà trường trong việc quản lí học sinh đang học ở trường phổ thông cơ sở. Bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lí: Một người mất năng lực hành vi dân sự như đã phân tích ở phần trên là người đã có năng lực hành vi dân sự nhưng bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình và đã có kết luận của cơ quan chuyên môn, đang được điều trị tại bệnh viện hoặc các tổ chức chuyên môn, nghiệp vụ khác trực tiếp quản lí. Theo quy định tại khoản 2 Điều 621 BLDS 2005 khi họ gây thiệt hại cho người khác thì bệnh viện, tổ chức đang có nghĩa vụ quản lí trực tiếp phải bồi thường thiệt hại. Quy định này có ý nghĩa không những về mặt pháp lí mà còn có ý nghĩa trên thực tế của đời sống xã hội. Nó ràng buộc trách nhiệm của bệnh viện, tổ chức xã hội phải có công tác quản lí người bị mất năng lực hành vi dân sự. Có thể nói, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ thể quản lí người mất năng lực hành vi dân sự cũng như trường hợp người dưới 15 tuổi trong thời gian ở trường học đều là loại trách nhiệm pháp lí phụ thuộc vào yếu tố lỗi của chủ thể quản lí, chính vì vậy theo khoản 3 Điều 621 BLDS 2005 thì trong trường hợp trường học, bệnh viện, tổ chức khác chứng minh được mình không có lỗi trong quản lí thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự phải có trách nhiệm trong việc bồi thường. 3. Đánh giá các quy định của pháp luật về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân. 3.1.Về ưu điểm: Thứ nhất, những qui định của pháp luật về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là thật sự cần thiết, đáp ứng được nhu cầu đời sống, xã hội trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai, để đảm bảo quyền và lợi ích của người bị thiệt hại một cách nhanh chóng, kịp thời. Thứ hai, việc pháp luật qui định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp cá nhân gây thiệt hại là người chưa thành niên, bị mất năng lực hành vi dân sự là cha mẹ, người giám hộ, hay quy định trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật khi vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng giao kết vì quyền, lợi ích của người được đại diện một mặt đảm bảo được quyền lợi cho người bị thiệt hại, một mặt tăng cường trách nhiệm của người làm cha làm mẹ, người giám hộ, người đại diện theo pháp luật của cá nhân có hành vi gây thiệt hại. 3.2. Về hạn chế: Qui định của pháp luật về năng lưc chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân hiện nay còn tồn tại một số hạn chế sau: Thứ nhất, theo qui định của pháp luật về năng lực xác lập hợp đồng của nhóm đối tượng là cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi hoặc cá nhận bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, nhà nước trao quyền cho họ được xác lập các hợp đồng phù hợp với nhu cầu sinh hoạt, phù hợp với lứa tuổi. Qui định này được ngầm hiều là những đối tượng trên khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng thì sẽ tự chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Theo quan điểm của cá nhân em, những đối tượng này chỉ sỏ hữu một khoản tài sản có giá trị rất nhỏ, nhiều khi hành vi vi phạm của họ dẫn đến một trách nhiệm bồi thường thiệt hại gắn với tài sản có giá trị cao hơn. Rất có thể họ không thể thực hiện được nghĩa vụ bồi thường này một cách kịp thời và đầy đủ. Khi đó quyền lợi của bên bị thiệt hại sẽ bị ảnh hưởng. Vì vậy phải chăng nhà làm luật nên qui định ngay cả những giao dịch của người từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi và người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự vẫn cần có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật nhằm tăng cường trách nhiệm của họ. Thứ hai, về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người gây thiệt hại là cá nhân không có hoặc bị mất năng lực hành vi dân sư, cá nhân bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà có người giám hộ thì: người giám hộ trong trường hợp này được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường, nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình nếu có lỗi trong việc thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ mà để người được giám hộ gây thiệt hại cho người khác. Thế nhưng vấn đề đặt ra là trong trường hợp không xác định được người giám hộ hay khi người giám hộ hoàn toàn không có lỗi trong việc giám hộ, thì người bị thiệt hại không được bồi thường, quyền và lợi ích của người bị thiệt hại không được đảm bảo. Thứ ba, theo qui định tại Khoản 1 Điều 606: người đã thành niên có hành vi gây thiệt hại cho người khác phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng tài sản của mình và có tư cách là bị đơn dân sự trước Tòa án, trừ khi họ mất năng lực hành vi dân sự (mục I phần 3.1 Nghị quyết số 03 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, ngày 8/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng). Tuy nhiên, trong nhóm người đã thành niên bao gồm ba loại chủ thể khác nhau: người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người thành niên bị mất năng lực hành vi dân sự và người thành niên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Như vậy qui định tại Điều 606 mới chỉ nhắc đến cá nhân thuộc nhóm thứ nhất và thứ hai còn bỏ ngỏ qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người thành niên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG NHỮNG QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÁ NHÂN: 1.2.Vụ việc thứ nhất: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cá nhân là người có hành vi vi phạm hợp đồng: Vụ việc có nội dung như sau: Cụ Từ Ngọc Diệm và cụ Huỳnh Thị Lê là vợ chồng, có tài sản chưng là căn nhà số 23 đường Tản Viên, phường Phước Hoà, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà có diện tích 115, 50 m2 trên 185,60m2  đất. Năm 2005, cụ Diệm chết, không để lại di chúc, nên cụ Lê và bảy người con được thừa kế phần nhà đất của cụ Diệm. Trong bảy người con này có ông Phong, bà Lành ở Việt Nam, còn 5 người con còn lại ở nước ngoài. Ngày 22-8-2006 cụ Lê, ông Phong, bà Lành (hai người con ở Việt Nam) thoả thuận bán cho vợ chồng ông Đặng Hữu Trọn và bà Nguyễn Thị Mỹ Nga một phần nhà đất tại 23 Tản Viên với giá 264 chỉ vàng, bên bán cụ Lê đã nhận 214 chỉ vàng; hai bên thoả thuận có nội dung là bên bán phải thu thập được chữ ký của năm người con của cụ Lê ở nước ngoài đồng ý bán nhà; nếu thay đổi ý kiến, có tranh chấp khiếu nại làm ảnh hưởng đến thủ tục mua bán hoặc không thu thập được chữ ký của năm người nêu trên đồng ý bán nhà thì phải bồi thường gấp 3 số vàng đã nhận (Giấy thoả thuận mua bán này có chứng thực của Phòng công chứng Nhà nước ngày 22-8-2006). Đến ngày 16-01-2007 cụ Lê nhận thêm 10 chỉ vàng nữa và giao nhà cho vợ chồng ông Trọn sử dụng. Nay cụ Lê xin hủy hợp đồng mua bán nhà vì năm người con của cụ ở nước ngoài không đồng ý bán nhà mà để lại làm từ đường và cụ xin chịu phạt gấp đôi số vàng mà cụ đã nhận của vợ chồng ông Trọn, bà Nga. Ông Trọn, bà Nga không đồng ý với yêu cầu của cụ Lê và ông Phong, bà Lành tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán nhà. Trong vụ việc này, hành vi của cụ Lê có phát sinh trách nhiệm bồi thường do vi phạm hơp đồng với ông Trọn, bà Nga không hay đơn giản chỉ là việc hợp đồng bị vô hiệu, các bên không phát sinh quyền, nghĩa vụ với nhau? Theo những dữ kiện mà tình huống nêu ra, nhận thấy, hợp đồng mua bán nhà đất giữa cụ Lê và ông Trọn, bà Nga là hợp đồng có điều kiện. Trong hợp đồng đã có thoản thuận: bên bán phải thu thập được chữ ký của năm người con của cụ Lê ở nước ngoài đồng ý bán nhà; nếu thay đổi ý kiến, có tranh chấp khiếu nại làm ảnh hưởng đến thủ tục mua bán hoặc không thu thập được chữ ký của năm người nêu trên đồng ý bán nhà thì phải bồi thường gấp 3 số vàng đã nhận. Thỏa thuận này phát sinh nghĩa vụ của cụ Lê, ông Tốt, bà Lành với bên mua là ông Trọn, bà Nga. Cho nên việc cụ Lê và các con không lấy được chữ ký của 5 người thừa kế ở nước ngoài đồng ý bán nhà, nay lại xảy ra tranh chấp là hành vi vi phạm hợp đồng. Vì vậy, cần phải hủy hợp đồng mua bán nhà đất trên do không đáp ứng được điều kiện mà hai bên đã thỏa thuận, bên bán phải thực hiện đúng thoả thuận là phải bồi thường gấp 3 số vàng đã nhận cho người mua (22,4 lượng vàng x 3 = 67,2 lượng vàng) và thanh toán tiền sửa chữa nhà cho bên mua. Chủ thể trong trách nhiệm bồi thường này thuộc về cụ Lê, ông Tốt và bà Lành - họ đều là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Trước đây, khi xác lập hợp đồng, ba cá nhân trên đều thỏa mãn điều kiện về chủ thể khi xác lập hợp đồng và trở thành chủ thể của nghĩa vụ buộc phải thực hiện như thỏa thuận trong hợp đồng. Vì vậy, khi bên bán là: Cụ Lê, ông Tốt, bà Tư vi phạm nghĩa vụ hợp đồng thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại và là chủ thể trong trách nhiệm này. 1.2.Vụ việc thứ hai: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do cá nhân gây ra. Nội dung vụ việc: Trưa ngày 30/8/2006, anh H đang ăn cơm trưa thì nghe có tiếng chửi bới ngoài ngõ, sau đó thấy anh D là hàng xóm xông vào nhà mình quát: “Tại sao mày bắt nạt em tao? Có giỏi thì ra đây đánh nhau với tao đây này”. Anh H đứng lên và ra cửa thì bị D cầm 1 đoạn gậy tre vụt tới tấp vào đầu và tay trái khiến anh H bất tỉnh. Sau đó có người can ngăn, D bỏ về nhà mình. Nguyên nhân sự việc đã được D kể lại là khi thấy em trai mình đang đi về có nói là anh H trợn mắt lên dọa, nên sợ quá. Thấy vậy nên D sang “hỏi tội” anh H và sự việc đáng tiếc đã xảy ra như trên. Anh H được đưa đi cấp cứu và điều trị tại trung tâm y tế huyện X. Sau đó được chuyển lên bệnh viện đa khoa tỉnh và lại được giới thiệu lên bệnh viện Bạch Mai để khám và điều trị. Tại giấy chứng thương của trung tâm y tế huyện X có ghi: vùng đầu, trán, gò má phải sưng nề bầm tím, khủy tay trái, ngón 1 bàn tay phải nề nhẹ, đau. Anh H đã làm đơn kiện đòi bồi thường thiệt hại về sức khỏe đến Tòa án nhân dân huyện X. Tại bản giám định của tổ chức Giám định pháp y tỉnh N kết luận, anh H bị mất khả năng lao động với tỉ lệ thương tật là 8%. Tòa án nhân dân huyện X chấp nhận đơn kiện và thụ lí vụ án, ấn định ngày xét xử là ngày 29/12/2006. Đến ngày xét xử sơ thẩm, D vắng mặt cho nên Tòa án đã phải hoãn phiên xét xử. Ngày 30/12/2006, D đi cùng em trai của mình đến Tòa án và xuất trình 1 đơn thuốc của bác sĩ trung tâm ý tế huyện X. Trong đơn có ghi D có dấu hiệu của bệnh tâm thần phân liệt nên không thể tự đi khám và mua thuốc một mình được mà cần có người đi cùng. Từ đơn thuốc này, Tòa án đã ra quyết định trưng cầu giám định về sức khỏe tâm thần đối với D gửi tổ chức Giám định pháp y tỉnh N. Và kết quả trả lời của tổ chức Giám định pháp y tỉnh N đó là D bị tâm thần phân liệt đang trong giai đoạn bệnh phát triển, không làm chủ được bản thân, cần được chăm sóc và điều trị lâu dài. Sau khi nhận được công văn của tổ chức Giám định pháp y tỉnh N, tại tòa án huyện X đã có 3 quan điểm để giải quyết vụ án. Quan điểm thứ nhất, tính đến thời điểm 30/8/2006 mà D đã gây ra thiệt hại thì D đã được trên 18 tuổi, cho nên D phải chịu hoàn toàn trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho anh H. Quan điểm thứ hai, cho dù D là người có lỗi gây ra thiệt hại về sức khỏe cho anh H, nhưng sau ngày gây ra thiệt hại thì D đã bị tâm thần cho nên D không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho anh H, cha mẹ hoặc người giám hộ của D cũng không phải bồi thường thay D vì khi đánh anh H thì D đã trên 18 tuổi. Quan điểm thứ ba, do đánh anh H trong khi chưa mắc bệnh tâm thần phân liệt mà bệnh chỉ khởi phát sau ngày 30/8/2006 nên trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ do người giám hộ của D gánh chịu thay. Có thể nói, các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân chưa cụ thể, mới mang tính nguyên tắc chung, trong khi đó các văn bản hướng dẫn thi hành được ban hành ít hoặc còn thiếu sót nhiều so với các vụ án xảy ra trong thực tiễn. Tình trạng thiếu thống nhất trong hoạt động xét xử của Tòa án, tình trạng đơn thư khiếu nại, tố cáo và thực trạng kháng cáo diễn ra rất phổ biến trong các vụ án liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân như nội dung vụ án trên. Phương hướng giải quyết: do quy định tại Điều 606 BLDS 2005 chưa quy định cụ thể nên dẫn đến tình trạng có nhiều ý kiến xét xử khác nhau. Ta cần chú ý hai vấn đề sau: Thứ nhất, việc xác định chủ thể nào sẽ có tư cách bị đơn dân sự hay nói cách khác là đi xác định chủ thể gây thiệt hại có phải là chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại hay không? Ta căn cứ vào thời điểm khi cá nhân đó gây thiệt hại thì đang ở mức tuổi nào mà không căn cứ vào thời điểm Tòa án giải quyết tranh chấp. Vì thế trong trường hợp này, D đã gây ra thiệt hại cho anh H lúc đã hơn 18 tuổi và bị tâm thần sau ngày gây thiệt hại nên theo luật và về nguyên tắc, D sẽ phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng tài sản của mình. Thứ hai, sau khi xác định được chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại rồi chúng ta sẽ xác định khối tài sản của D đang do ai quản lí, ai là người giám hộ và đại diện cho D, kể từ ngày D mất năng lực hành vi dân sự. Người giám hộ và đại diện cho D đó sẽ thay D dùng số tài sản riêng của D để thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho anh H. Điều bất cập ở đây là nếu trong trường hợp D không có tài sản riêng thì người giám hộ ấy có phải dùng tài sản của mình để thực hiện trách nhiệm bồi thường hay không? Nếu cho rằng áp dụng khoản 3 Điều 606 BLDS 2005 thì cũng không đúng vì nó chỉ áp dụng cho trường hợp người được giám hộ mất năng lực hành vi dân sự “tại thời điểm gây ra thiệt hại” mà thôi. Nguyên nhân của bất cập này cũng là do còn tồn tại của pháp luật hiện hành. IV.MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN NHỮNG QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT H HÀNH VỀ NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÁ NHÂN: 1 Về mặt lập pháp. Để đảm bảo tính thống nhất với các quy định manng tính nguyên tắc của BLDS và các ngành luật có liên quan khác, trên cơ sở tham khảo các nguồn tài liệu khác nhau, em xin đưa ra một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung các điều luật như sau: Thứ nhất, vấn đề bồi thường thiệt hại do người từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự khi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mà họ được quyền xác lập (những hợp đồng được xác lập phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày và phù hợp với lứa tuổi) pháp luật qui định họ là chủ thể trong trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên thực tế cho thấy những đối tượng trên không phải lúc nào cũng có đầy đủ tài sản đảm bảo thực hiện trách nhiệm bồi thường vì vậy để đảm bảo lợi ích của bên bị thiệt hại cần qui định, những hợp đồng nêu trên cũng cần người đại diện theo pháp luật của cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự một phần. Thứ hai, người dưới 15 tuổi, người mất năng lưc hành vi dân sự gây ra trong thời gian họ được trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lí thì trường học, bệnh viện, hoặc tổ chức quản lí phải bồi thường thiệt hại xảy ra, trừ trường hợp trường học, bệnh viện, tổ chức chứng minh được mình không có lỗi. Tuy nhiên cần phải có quy định rõ ràng rằng yếu tố lỗi ở đây là lỗi do quản lí chứ không phải lỗi trong việc gây ra thiệt hại. Thứ ba, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cá nhân gây ra không chỉ là trách nhiệm vật chất mà trong nhiều trường hợp còn là xâm phạm các giá trị nhân thân. Nếu như có sự xâm phạm các giá trị nhân thân thì pháp luật sẽ bảo vệ người bị xâm phạm như thế nào? Quan hệ tài sản thì đền bù bằng tiền ngang gía. Còn xâm phạm các giá trị nhân thân thì không thể quy ra tiền, chỉ bồi thường bằng cách tự cải chính hoặc yêu cầu người vi phạm cải chính công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, yêu cầu người vi phạm xin lỗi, bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần. Song, Điều 606 BLDS 2005 không quy định cụ thể trách nhiệm này thuộc về ai, do vậy trong thực tiễn có trường hợp người chưa thành niên gây thiệt hại về tinh thần, họ có thể công khai xin lỗi người bị hại. Tuy nhiên nhiều trường hợp người bị hại yêu cầu phải có lời xin lỗi của cha, mẹ, ngươi đại diện của người chưa thành niên đó. Đây là một yêu cầu cũng thỏa đáng phù hợp với lối sống, cách suy nghĩ của người Việt. Vì vậy, cần bổ sung một điểm trong Điều 606 BLDS 2005 như sau: “ Nếu thiệt hại về tinh thần do người dưới 15 tuổi gây ra thì trách nhiệm công khai xin lỗi thuộc về cha, mẹ hoặc người giám hộ nếu người giám hộ có lỗi.” 2. Các biện pháp về mặt thực tiễn: Trước hết, chúng ta cần có biện pháp nâng cao hiểu biết pháp luật của người dân nói chung và của các cán bộ công chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan thi hành tố tụng, đặc biệt trong lĩnh vực bồi thường thiệt. Qua đó, giúp mỗi người ý thức được hơn nữa trách nhiệm của mình đối với chính quyền, lợi ích của bản thân, của người khác và lợi ích chung của xã hội. Nhà nước và người dân cùng tăng cường phối hợp trong việc quan tâm nhiều hơn đến đối tượng là trẻ chưa thành niên, tăng cường trách nhiệm giáo dục quản lí của gia đình và nhà trường với những đối tượng này, góp phần giáo dục nhân cách đạo đức các em, hạn chế hành vi trái pháp luật của các em. KẾT LUẬN Những phân tích nêu trên về vấn đề năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân cho thấy những qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành đã khá chi tiết và hoàn chỉnh, nội dung các qui phạm thể hiện phạm vi điều chỉnh tương đối rộng phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Bên cạnh những ưu điểm đó, từ thực tiễn áp dụng những qui định của pháp luật cũng đã cho thấy những hạn chế cần phải hoàn thiện. Em mong rằng với bài viết của mình đã phần nào phân tích làm rõ được vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: Bộ luật dân sự Việt Nam năm 1995. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005. Bộ luật hình sự năm 1999. Bộ luật Hồng Đức năm 1483. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, tập 2, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB CAND, năm 2009. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, tập 2, TS.Lê Đình Nghị chủ biên, NXB Giáo Dục, Hà Nội 2009. Nguyễn Mạnh Bách, (1998), “ Nghĩa vụ dân sự trong luật dân sự Việt Nam”, NXB Chính Trị quốc gia, Hà Nội. TS.Phùng Trung Tập (2009) “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng” NXB Hà Nội, Hà Nội. Nguyễn Minh Thư (2010), “Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân – Một số vấn đề lí luận và thực tiễn”, luận văn thạc sỹ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội. Trương Anh Tuấn (2009) “Bình luận khoa học Bộ luật dân sự phần nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự”, NXB Lao động, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNăng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân- Một số vấn đề lí luận và thực tiễn.doc
Luận văn liên quan