Nghiên cứu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn – đến chất lượng kiểm toán Báo cáo tài chính các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu đến chất lượng
kiểm toán báo cáo tài chính các công ty niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam được xác nhận khi tồn tại mối quan hệ có ý
nghĩa thống kê giữa biến ABSDA đo lường cho chất lượng kiểm
toán và biến CRISIS đại diện cho giai đoạn khủng hoảng tài chính
toàn cầu với hệ số của biến CRISIS là 0.084 cho thấy chất lượng
kiểm toán suy giảm trong khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Kết quả phân tích hồi quy cho thấy mối quan hệ có ý nghĩa
thống kê giữa biến ROA và biến LOSS với biến ABSDA. Hệ số hồi
quy của biến ROA là -0.334 và đây cũng là biến tác động mạnh nhất
đến biến ABSDA trong mô hình, điều này cho thấy nếu hiệu quả
hoạt động kinh doanh của công ty niêm yết bị suy giảm thì công ty sẽ
có động lực lớn để tăng cường điều chỉnh lợi nhuận tương ứng với
chất lượng báo cáo tài chính bị suy giảm. Hệ số hồi quy của biến
LOSS là 0.312 chỉ ra rằng nếu công ty có kết quả hoạt động kinh
doanh thua lỗ thì công ty sẽ tăng cường điều chỉnh lợi nhuận tương
ứng với sự suy giảm chất lượng kiểm toán hay việc thua lỗ trong
hoạt động kinh doanh của công ty là một trong những động lực khiến
doanh nghiệp tăng cường điều chỉnh lợi nhuận khiến cho chất lượng
kiểm toán suy giảm trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu.
26 trang |
Chia sẻ: anhthuong12 | Lượt xem: 2685 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn – đến chất lượng kiểm toán Báo cáo tài chính các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
VÕ NHƢ TÙNG
NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA KHỦNG HOẢNG
TÀI CHÍNH TOÀN CẦU GIAI ĐOẠN – Đ N
CHẤT LƢỢNG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
CÁC CÔNG TY NIÊM Y T TRÊN THỊ TRƢỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kế toán
Mã số: 60.34.03.01
TÓM TẮT
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Đà Nẵng - Năm 15
Công trình đƣợc hoàn thành tại
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
Phản biện 1: TS. Đoàn Ngọc Phi Anh
Phản biện 2: TS. Hồ Văn Nhàn
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt nghiệp
Thạc sĩ Quản trị kinh doanh họp tại Đại học Đà Nẵng vào ngày 19
tháng 12 năm 2015
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kiểm toán là một chủ đề nghiên cứu rộng và được nhiều đối
tượng quan tâm vì tính chất vô cùng quan trọng của vấn đề này đối
với nhiều đối tượng, bao gồm: nhà đầu tư, các tổ chức tài chính, ngân
hàng, các cơ quan chính phủ Kiểm toán quan trọng vì nó là cách
thức hiệu quả nhất để giải quyết vấn đề đại diện giữa quyền sở hữu
và quản lý doanh nghiệp, phát sinh từ sự bất đối xứng thông tin và
xung đột lợi ích giữa hai đối tượng trên. Trong các nội dung rộng lớn
của kiểm toán thì chất lượng kiểm toán là một vấn đề phức tạp, khó
khăn để xác định và đo lường một cách chính xác và hiệu quả.
Nghiên cứu chất lượng kiểm toán có ý nghĩa quan trọng không chỉ
đánh giá xem các ý kiến kiểm toán chính xác có được ban hành hay
không mà còn xem xét xem liệu hoạt động kiểm toán được tiến hành
có nhằm hướng tới mục đích giải quyết các vấn đề đại điện giữa
người sở hữu và người quản lý doanh nghiệp hay không.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ năm 2007 với
cuộc khủng hoảng nhà đất tại Mỹ và lan rộng ra toàn cầu, tác động
nghiêm trọng tới mọi tổ chức, doanh nghiệp, định chế tài chính, kinh
tế khác nhau, gây nên cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Khủng
hoảng tài chính toàn cầu cùng với sự đổ vỡ của các công ty dẫn đến
khủng hoảng đã làm gia tăng mức độ chỉ trích chất lượng kiểm toán
và gia tăng áp lực nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán. Việt Nam
với đặc thù là một nền kinh tế non trẻ, đang phát triển và hội nhập
sâu rộng với nền kinh tế thế giới đã chịu những ảnh hưởng nặng nề
của khủng hoảng tài chính đối với mọi mặt của nền kinh tế. Khủng
hoảng tài chính toàn cầu cũng đặt ra những áp lực to lớn tương tự đối
với kiểm toán viên, công ty kiểm toán trong việc duy trì chất lượng
2
kiểm toán trong bối cảnh khó khăn tác động chung tới các doanh
nghiệp tại Việt Nam. Câu hỏi được đặt ra rằng liệu các công ty kiểm
toán, các kiểm toán viên tại Việt Nam ứng xử như thế nào trong
khủng hoảng tài chính toàn cầu và tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu tới chất lượng kiểm toán tại Việt Nam.
Từ những vấn đề nêu trên, nhận thấy thực tiễn cần có một
nghiên cứu về chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính đối với các
công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong khủng
hoảng tài chính, tác giả xin được thực hiện nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu giai
đoạn 2008 – đ n chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các
công ty niêm y t trên thị trường chứng khoán Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính của nghiên cứu là nghiên cứu tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu tới chất lượng kiểm toán báo cáo tài
chính các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Mục tiêu khác của nghiên cứu liên quan đến vấn đề đại diện đó
là nghiên cứu nhằm làm rõ xem liệu kiểm toán có thực hiện được vai
trò của mình trong việc giải quyết vấn đề đại diện trong bối cảnh
khủng hoảng tài chính toàn cầu hay không.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đã nêu dẫn đến câu hỏi nghiên cứu của đề
tài là: “ Chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các công ty niêm y t
trên thị trường chứng khoán Việt Nam bị ảnh hưởng như th nào bởi
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu?”
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu tới chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính.
3
Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Nghiên cứu được thực hiện đối với kiểm toán
báo cáo tài chính các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam (ngoại trừ các công ty thuộc nhóm tài chính – ngân hàng).
+ Về thời gian: Nghiên cứu được thực hiện dựa trên báo cáo tài
chính đã được kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng
khoán Việt Nam trong giai đoạn 2005 – 2009.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đi theo hướng tiếp cận thực chứng bằng cách sử dụng
mô hình hồi quy tuyến tính đa biến nhằm chứng minh giả thuyết
nghiên cứu. Nghiên cứu đầu tiên được thực hiện bằng việc đưa ra giả
thuyết nghiên cứu, sau đó tiến hành thu thập số liệu báo cáo tài chính
sau kiểm toán, báo cáo kiểm toán trong phạm vi đối tượng và thời
gian nghiên cứu. Tiếp theo, tác giả tiến hành tính toán các dữ liệu thu
thập được và phân tích, mô tả mối quan hệ giữa các đối tượng trong
mô hình nghiên cứu dựa trên cơ sở dữ liệu tính toán, thu thập được.
Kết quả phân tích, mô tả này sẽ được sử dụng để đưa ra kết luận về
giả thuyết nghiên cứu.
6. Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm giúp các đối tượng sử dụng thông tin trên báo
cáo tài chính tại Việt Nam, bao gồm: Nhà đầu tư, cơ quan nhà nước,
các tổ chức tài chính, ngân hàng nhận rõ được tác động của khủng
hoảng tài chính toàn cầu tới chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính
doanh nghiệp qua đó có những biện pháp phù hợp khi mà khủng
hoảng được nghiên cứu rằng mang tính chu kỳ.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng cung cấp một cơ sở thực tiễn về vấn
đề đại diện trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu.
4
7. Cấu trúc luận văn
Cấu trúc luận văn bao gồm 4 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý thuyết về chất lượng kiểm toán và đo
lường chất lượng kiểm toán
- Chương 2: Giả thuyết và phương pháp nghiên cứu
- Chương 3: Phân tích và trình bày kết quả
- Chương 4: Kết luận từ kết quả nghiên cứu và một số kiến nghị
nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu tới
chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam.
5
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUY T VỀ CHẤT LƢỢNG KIỂM TOÁN VÀ ĐO
LƢỜNG CHẤT LƢỢNG KIỂM TOÁN
1.1. KIỂM TOÁN
Một định nghĩa được sử dụng rộng rãi về kiểm toán xem kiểm
toán như là: “Hệ thống quy trình khách quan nhằm thu thu thập và
đánh giá các bằng chứng của các cơ sở dẫn liệu liên quan đến các sự
kiện và hoạt động kinh tế; xác định mức độ phù hợp của các cơ sở
dẫn liệu này với các chuẩn mực, tiêu chuẩn thiết lập và công bố kết
quả hoạt động đến người quan tâm”
Có nhiều đối tượng sử dụng thông tin, do đó kiểm toán nhằm
phục vụ cho các loại đối tượng này cũng được chia thành nhiều loại
khác nhau. Nghiên cứu này tập trung vào đối tượng chính đó là kiểm
toán báo cáo tài chính được thực hiện bởi các kiểm toán viên độc lập.
1.2. CHẤT LƢỢNG KIỂM TOÁN
1.2.1. Định nghĩa chất lƣợng kiểm toán
Defond và Zhang (2013) định nghĩa chất lượng kiểm toán là sự
phản ánh liên kết giữa kiểm toán với chất lượng báo cáo tài chính, hệ
thống kế toán tài chính và các đặc điểm vốn có của khách hàng và
chất lượng kiểm toán cao hơn là một sự đảm bảo cao hơn rằng báo
cáo tài chính đã kiểm toán phản ánh thực tế tình hình hoạt động kinh
tế, hệ thống kế toán tài chính, đặc điểm vốn có của công ty.
Francis (2011), Svanstrom (2013), Defond và Zhang (2013) xem
chất lượng kiểm toán như một sự biến đổi liên tục.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng kiểm toán
a. Phí kiểm toán
b. Dịch vụ phi kiểm toán
6
c. Khuôn khổ pháp lý
d. Văn phòng thực hiện kiểm toán
e. Nhiệm kỳ kiểm toán
f. Nhiệm kỳ đối tác kiểm toán
g. Tính độc lập của kiểm toán viên
h. Quy mô khách hàng
i. Các yếu tố khác
Các yếu tố khác được nghiên cứu cho rằng ảnh hưởng đến chất
lượng kiểm toán bao gồm: Mức độ tăng trưởng của công ty, quỹ thời
gian kiểm toán, năng lực và khả năng phán đoán nghề nghiệp của
kiểm toán viên
1.2.3. Mối quan hệ giữa chất lƣợng kiểm toán và chất lƣợng
báo cáo tài chính
a. Mối quan hệ giữa chất lượng kiểm toán và chất lượng báo
cáo tài chính.
Chất lượng kiểm toán là một phần của chất lượng báo cáo tài
chính (trong nghiên cứu này tác giả ngầm định báo cáo tài chính là
báo cáo tài chính sau kiểm toán) vì chất lượng kiểm toán làm tăng
chất lượng báo cáo tài chính (Defond và Zhang, 2013). Tuy nhiên
chất lượng kiểm toán không phải là thành phần duy nhất của chất
lượng báo cáo tài chính, chất lượng báo cáo tài chính còn bị ảnh
hưởng bởi chất lượng báo cáo tài chính trước kiểm toán được quyết
định bởi hệ thống báo cáo tài chính hay hệ thống thông tin tài chính
của công ty. Chất lượng kiểm toán có thể được suy ra từ chất lượng
lợi nhuận, chất lượng kiểm toán cao hơn là sự giảm bớt mức độ điều
chỉnh lợi nhuận và gia tăng tính thông tin của báo cáo tài chính.
7
b. Chất lượng lợi nhuận
Chất lượng lợi nhuận có được khi báo cáo lợi nhuận đảm bảo
cung cấp thông tin trung thực về chỉ tiêu lợi nhuận cũng như hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Quản trị lợi nhuận liên quan chặt
chẽ đến việc điều chỉnh mức độ dồn tích kế toán và các nhà quản lý
thường điều chỉnh mức độ dồn tích kế toán để đạt hay vượt mục tiêu
lợi nhuận đề ra. Quản trị lợi nhuận được nhiều nghiên cứu cho rằng
là một cách thức logic để đo lường cho chất lượng lợi nhuận.
1.2.4. Đo lƣờng chất lƣợng kiểm toán
Các nghiên cứu trước đây về chất lượng kiểm toán sử dụng
nhiều biến quan sát khác nhau để đo lường chất lượng kiểm toán.
Phần dưới đây trình bày các quan sát đại diện để đo lường chất lượng
kiểm toán. Các quan sát đại diện này được chia làm hai loại là đo
lường dựa vào yếu tố đầu vào và đo lường dựa vào yếu tố đầu ra.
a. Phép đo dựa vào yếu tố đầu vào
Đo lường dựa vào các yếu tố đầu vào được sử dụng cho các
nghiên cứu chú ý đến yếu tố đầu vào của kiểm toán. Nhưng vì đầu
vào kiểm toán không đảm bảo rằng chúng tương ứng với kết quả
kiểm toán và do đó quan sát này khá không ổn để do lường chất
lượng kiểm toán (Defond & Zhang, 2013). Dưới đây là các yếu tố
đầu vào dùng để đo lường chất lượng kiểm toán:
- Đặc điểm kiểm toán
- Phí kiểm toán
b. Phép đo dựa vào yếu tố đầu ra
Phép đo dựa vào các yếu tố đầu ra sử dụng các yếu tố đầu ra của
quá trình kiểm toán nhằm đo lường chất lượng kiểm toán. Dưới đây
là các quan sát theo yếu tố đầu ra dùng để đo lường chất lượng kiểm
toán:
8
- Sai sót trọng yếu.
- Ý kiến kiểm toán.
- Đánh giá của người sử dụng thông tin.
- Biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh.
Trong nghiên cứu này tác giả sử dụng biến kế toán dồn tích có
thể điều chỉnh (DA) để đo lường cho chất lượng kiểm toán vì những
lợi thế của phép đo này bao gồm: Có thể điều chỉnh nắm bắt được sự
thay đổi nhỏ trong chất lượng kiểm toán và đồng nhất với nhận định
của tác giả về chất lượng kiểm toán là một biến biến đổi liên tục nên
tác giả cho rằng phù hợp khi sử dụng biến kế toán dồn tích có thể
điều chỉnh (DA) để đo lường cho chất lượng kiểm toán trong nghiên
cứu này. Ngoài ra một lợi thế khác của phép đo này mà tác giả cũng
cho rằng phù hợp trong nghiên cứu của tác giả là phép đo chất lượng
kiểm toán thông qua biến kế toán dồn tích (DA) phù hợp với một cỡ
mẫu nhỏ và một khung thời gian ngắn.
c. Các mô hình đo lường biến kế toán dồn tích có thể điều
chỉnh
Có nhiều mô hình nghiên cứu quản trị lợi nhuận thông qua đo
lường biến toán dồn tích có thể điều chỉnh (DA) trên thế giới nhưng
những mô hình phổ biến nhất bao gồm: The Healy Model (1985),
The DeAngelo Model (1986), The Jones Model (1991), Modified
Jones Model (1995), The Friedlan (1994).
Mô hình Modified Jones (1995) được xem là mô hình phổ biến
nhất và hiệu quả nhất để đo lường biến kế toán dồn tích có thể điều
chỉnh (DA) hay phát hiện hành vi quản trị lợi nhuận (Tianran, 2010),
tuy nhiên việc áp dụng mô hình này hay mô hình Jones (1991) đòi
hỏi một cơ sở dữ liệu quá khứ lâu dài cần thiết để ước lượng các
tham số trong mô hình. Đối tượng của nghiên cứu này là các công ty
9
niêm yết tại Việt Nam mà hầu hết đều hết sức non trẻ trong bối cảnh
non trẻ chung của thị trường chứng khoán Việt Nam. Việc thu thập
đầy đủ cơ sở dữ liệu quá khứ lâu dài để áp dụng mô hình Modified
Jones (1995) hay Jones (1991) là vô cùng khó khăn hay thậm chí
không khả thi. Mô hình Industry Jones (1991) lại không phù hợp với
nghiên cứu này khi đối tượng nghiên cứu của tác giả là toàn bộ các
công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam hoạt động
trong giai đoạn nghiên cứu. Tổng hợp các điều kiện thực tế đó, tác
giả cho rằng phù hợp khi sử dụng mô hình Friedlan (1994) là một
biến thể cải tiến của mô hình DeAngelo (1986) để áp dụng tính toán
biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh (DA) trong điều kiện Việt
Nam cũng như điều kiện của nghiên cứu này.
1.3. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU GIAI ĐOẠN
2008 – 2009
1.3.1. Khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2008 – 2009
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ nước Mỹ cuối
năm 2007 và là cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng nhất trong
lịch sử kể từ cuộc đại khủng hoảng (Friedman & Friedman, 2009).
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2008 – 2009 là một
sự điều chỉnh lại giá nhà đất tại Mỹ sau thời gian thực hiện chính
sách tiền tệ mở rộng và điều kiện tín dụng rộng rãi đối với thị trường
nhà đất tại Mỹ, nơi mà các khoản tín dụng này được chứng khoán
hóa và bán đi dưới dạng các công cụ tài chính phức tạp trên toàn thế
giới. Khi bong bóng thị trường nhà tại Mỹ vỡ ra, các khoản cho vay
tín dụng nhà đất dưới chuẩn tan biến, các ngân hàng phải gánh chịu
những tổn thất kinh tế to lớn, kéo theo niềm tin vào hệ thống ngân
hàng suy giảm nghiêm trọng. Mỹ là trung tâm của hệ thống tài chính
10
toàn cầu đo đó toàn bộ hệ thống tài chính toàn cầu bị cuốn vào khủng
hoảng.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra những khó khăn cho hoạt
động của doanh nghiệp bao gồm nguy cơ hiệu quả hoạt động suy
giảm, kết quả kinh doanh thu lỗ, tình hình sản xuất đình đốn do đó
dẫn đến rủi ro kiểm toán cao hơn đối với kiểm toán viên.
1.3.2. Ảnh hƣởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu tới
Việt Nam
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động mạnh tới nền
kinh tế Việt Nam với tư cách là nền kinh tế đang hội nhập sâu rộng
vào kinh tế toàn cầu. Việt Nam vừa mở rộng cánh cửa với thế giới
vào năm 2007 với việc trở thành thành viên chính thức của tổ chức
thương mại thế giới WTO thì năm 2008 Việt Nam đã phải đón nhận
cơn khủng hoảng kinh tế thế giới. Giai đoạn tăng trưởng GDP liên
tục trên mức 7% của kinh tế Việt Nam kết thúc, và suy giảm liên tục
trong hai năm khủng hoảng. Sự suy giảm này bao quát nhiều mặt của
nền kinh tế bao gồm: sản xuất kinh doanh, tiêu thụ, xuất khẩu, thị
trường chứng khoán
Những khó khăn mà các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam
gặp phải trong bối cảnh khủng hoảng đặt ra cho các kiểm toán viên,
công ty kiểm toán một rủi ro kiểm toán lớn hơn. Cách thức các kiểm
toán viên, công ty kiểm toán tại Việt Nam đối phó với những rủi ro
này còn là dấu hỏi trong bối cảnh hoạt động kiểm toán trên thế giới
bị chỉ trích mạnh mẽ bởi những thất bại trong kiểm toán và sự nghi
ngờ về tính độc lập của các kiểm toán viên, công ty kiểm toán trong
bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu.
11
CHƢƠNG
GIẢ THU T VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHI N CỨU
2.1. GIẢ THUY T NGHIÊN CỨU
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2008 – 2009 gây
những khó khăn hết sức nghiêm trọng cho các doanh nghiệp trên
phạm vi toàn cầu trong đó có Việt Nam. Các doanh nghiệp, đặc biệt
là các công ty niêm yết khi đối mặt với những khó khăn của khủng
hoảng tài chính toàn cầu, ảnh hưởng đến hoạt động, đến lợi nhuận
của công ty thì thường tìm mọi cách nhằm giảm thiểu tác động này
trong đó có việc trình bày các báo cáo tài chính tốt hơn thực tế nhằm
che dấu hiệu quả kinh doanh tồi tệ thực tế trong khủng hoảng. Khủng
hoảng tài chính toàn ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán vì tình
trạng khó khăn của các doanh nghiệp tạo ra rủi ro kiểm toán lớn hơn
và cách thức mà các kiểm toán viên và công ty kiểm toán đối phó với
các rủi ro này quyết định sự thay đổi của chất lượng kiểm toán trong
bối cảnh khủng hoảng. Đặc biệt đối với các công ty niêm yết thì
động cơ điều chỉnh lợi nhuận của nhóm này rõ ràng hơn khi mà tác
động của hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận được trình bày trên báo cáo
tài chính ảnh hưởng mạnh tới giá trị thị trường, nguồn vốn, hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, do đó rủi ro về việc đưa ra ý kiến
kiểm toán không chính xác hay rủi ro chất lượng kiểm toán đối với
nhóm công ty niêm yết suy giảm là nghiêm trọng hơn. Liệu chất
lượng kiểm toán báo cáo tài chính các công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán tại Việt Nam đã suy giảm dưới tác động của
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Giả thuyết nghiên cứu được đặt
ra là:
12
H1: Chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các công ty niêm
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam suy giảm trong cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu.
2.2. PHƢƠNG PHÁP NGHI N CỨU
2.2.1. Chọn mẫu và dữ liệu thực hiện nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên từ tổng thể là các công ty
niêm yết giao dịch trên hai sàn giao dịch chứng khoán HNX và
HOSE trong giai đoạn 2005 – 2009 nhưng không bao gồm các công
ty tài chính và ngân hàng.
2.2.2. Đo lƣờng chất lƣợng kiểm toán
a. Đo lường chất lượng kiểm toán
Nhiều nghiên cứu trên thế giới nhận định rằng biến kế toán dồn
tích có thể điều chỉnh (DA) là một trong những quan sát phổ biến
nhất để đại diện cho chất lượng lợi nhuận cũng như chất lượng kiểm
toán. Báo cáo tài chính đã được kiểm toán nhưng vẫn tồn tại hành vi
điều chỉnh lợi nhuận là sự phản ánh không thực tế tình hình lợi
nhuận cũng như hoạt động kinh tế của đơn vị tương ứng với sự suy
giảm chất lượng kiểm toán. Mức độ điều chỉnh lợi nhuận trên báo
cáo tài chính sau kiểm toán đi ngược lại với mức độ trung thực của
thông tin mà báo cáo tài chính sau kiểm toán truyền tải tới cổ đông,
nhà đầu tư và đối tượng sử dụng khác về tình hình lợi nhuận và thực
tế hoạt động sản xuất kinh doanh tại đơn vị, đo đó mức độ gia tăng
điều chỉnh lợi nhuận trên báo cáo tài chính sau kiểm toán là đi ngược
lại với chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính. Trong nghiên cứu
này, tác giả tính toán biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh (DA)
dựa trên báo cáo tài chính đã được kiểm toán của đơn vị nhằm đo
lường cho chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính. Đồng thời, trong
phạm vi nghiên cứu này thì tác giả ngầm định rằng báo cáo tài chính
13
là báo cáo tài chính sau kiểm toán và các số liệu được đưa ra tính
toán, trình bày đều được ngầm định là số liệu cuối cùng trên báo cáo
tài chính đã được kiểm toán của đơn vị.
b. Mô hình tính toán biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh
Tìm kiếm một mô hình hiệu quả để đo lường biến kế toán dồn
tích có thể điều chỉnh DA, tác giả nhận thấy mô hình Friedlan
(1994), điều chỉnh từ mô hình DeAngelo (1986) là phù hợp khi so
sánh hiệu quả, khả năng áp dụng vào thực tế điều kiện tại Việt Nam
của mô hình này so với những mô hình còn lại trong việc tính toán
biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh (DA).
Mô hình Friedlan (1994) được sử dụng để phát hiện hành vi điều
chỉnh lợi nhuận thông qua việc đo lường biến kế toán dồn tích có thể
điều chỉnh. Biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh (DA) trong mô
hình này được tính toán theo công thức:
iến ế toán
n t ch c thể
điều ch nht
(DAt)
=
iến ế toán n
t cht
(TAt)
-
iến ế toán n
t cht-1
(TAt-1)
Doanh thut Doanh thut-1
Trong đó:
iến ế toán n t ch
(Total Accruals)
=
Lợi nhuận
au thuế
-
Lƣu chu ển tiền thuần
từ hoạt đ ng inh oanh
2.2.3 Mô hình nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu được phát triển trong nghiên cứu này là:
ABSDA = β1 + β2ROA + β3 IG4 + β4LOSS + β5LNASSET +
β6GROWTHASSET + β7CRISIS + Ɛi
14
Bảng 2.1. Bảng tổng hợp các biến trong mô hình
Biến số Định nghĩa Đo lƣờng/ Mã hóa
ABSDA Chất lượng kiểm toán Giá trị tuyệt đối của biến
kế toán dồn tích có thể
điều chỉnh DA (Giá trị
ABSDA càng cao thì chất
lượng kiểm toán càng
thấp)
CRISIS
(KHỦNG HOẢNG)
Quan sát đã được thực hiện
trong giai đoạn khủng hoảng
hay không (2008 – 2009)
0= không trong thời gian
khủng khoảng
1= trong thời gian khủng
hoảng.
ROA Đo lường hiệu quả hoạt
động của công ty được kiểm
toán
Lợi nhuận sau thuế / Tổng
tài sản
BIG4 Nếu các công ty kiểm toán là
một trong 4 công ty kiểm
toán lớn: KPMG, E&Y,
D&T hoặc PWC.
0= không được kiểm toán
bởi 4 công ty kiểm toán
lớn
1= được kiểm toán bởi
một trong 4 công ty kiểm
toán lớn.
LOSS (LỖ) Đo hiệu quả hoạt động của
công ty được kiểm toán
0 = lợi nhuận sau thuế>0
1 = lợi nhuận sau thuế<0
GROWTH ASSET
(TĂNG TRƯỞNG
TÀI SẢN)
Đo lường tăng trưởng của
công ty khách hàng
(Tổng tài sản t/ tổng tài
sản t-1) -1
LNASSET
( LN TÀI SẢN)
Quy mô của các công ty
khách hàng theo tổng tài sản
Logarit tự nhiên của tổng
tài sản công ty
15
CHƢƠNG 3
PHÂN TÍCH VÀ TRÌNH BÀY K T QUẢ
3.1. PHÂN TÍCH
3.1.1. Tính toán các biến
Sau khi xác định được mô hình nghiên cứu với các biến trong mô
hình bao gồm biến phụ thuộc ABSDA đại diện cho chất lượng kiểm
toán, các biến độc lập CRISIS, ROA, BIG4, LOSS, GROWTHASSET,
tác giả đi vào tính toán các biến trong mô hình tại từng công ty trong
mẫu nghiên cứu để ước lượng các tham số trong mô hình dựa vào các
tính toán này trước khi tiến hành phân tích kết quả.
3.1.2. Kết quả phân tích
a. Thống kê mô tả
Để kiểm tra ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
đến chất lượng kiểm toán, tác giả thu thập dữ liệu báo cáo tài chính
sau kiểm toán, báo cáo kiểm toán của 80 công ty trong giai đoạn
2004 – 2009 nhưng có 3 công ty bị loại do không thỏa mãn yêu cầu
thu thập dữ liệu.
b. Phân tích tương quan
Để phân tích mối quan hệ giữa các biến trong mô hình nghiên
cứu ta thực hiện phân tích tương quan. Mối tương quan có ý nghĩa
thống kê lớn nhất được tìm thấy là mối quan hệ tương quan thuận
giữa biến BIG4 và biến LNASSET với hệ số tương quan là 0.506.
Tương quan nghịch có ý nghĩa lớn nhất được tìm thấy là mối tương
quan giữa biến ROA và biến LOSS với hệ số tương quan là -0.400.
Hai mối quan hệ tương quan có ý nghĩa thống kê đáng chú ý được
phát hiện là mối quan hệ giữa biến ROA và biến ABSDA, giữa biến
LOSS và biến ABSDA cho thấy mối quan hệ giữa hiệu quả hoạt
16
động và mức độ điều chỉnh lợi nhuận trên báo cáo tài chính (nghiên
cứu này mặc định rằng báo cáo tài chính là báo cáo tài chính sau
kiểm toán).
Mối quan hệ chính mà nghiên cứu này tìm hiểu là mối tương
quan giữa biến CRISIS và biến ABSDA, hệ số tương quan có ý
nghĩa thống kê giữa hai biến này là 0.229 là tương đối lớn, chỉ ra
rằng trong khủng hoảng thì các công ty niêm yết có mức độ điều
chỉnh lợi nhuận trên báo cáo tài chính cao hơn so với bình thường và
chỉ báo cho một chất lượng kiểm toán có khả năng bị suy giảm trong
khủng hoảng tài chính.
c. Phân tích hồi quy
Mô hình nghiên cứu được biểu diễn dưới dạng phương trình hồi
quy tuyến tính đa biến có dạng như sau:
ABSDA = β1 + β2ROA +β3 IG4 + β4LOSS + β5LNASSET +
β6GROWTHASSET + β7CRISIS + Ɛi
Thực hiện hồi quy các biến nghiên cứu trong mô hình ta được
bảng 3.7. Ý nghĩa thống kê của mô hình được thể hiện bởi giá trị sig
= 0.000 tức vô cùng bé hay mô hình thật sự có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.7 Bảng tổng hợp kết quả h i quy sau khi loại trừ các biến
không phù hợp trong mô hình
Biến Hệ số t-value Sig VIF
ROA -0.334 -2.124 0.034 1.191
LOSS 0.312 3.964 0.000 1.208
CRISIS 0.084 3.716 0.000 1.016
Adjusted R
2
= 0.132
Sig = 0.000
Durbin-Watson = 2.002
17
d. Phân tích kết quả
Tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu đến chất lượng
kiểm toán báo cáo tài chính các công ty niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam được xác nhận khi tồn tại mối quan hệ có ý
nghĩa thống kê giữa biến ABSDA đo lường cho chất lượng kiểm
toán và biến CRISIS đại diện cho giai đoạn khủng hoảng tài chính
toàn cầu với hệ số của biến CRISIS là 0.084 cho thấy chất lượng
kiểm toán suy giảm trong khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Kết quả phân tích hồi quy cho thấy mối quan hệ có ý nghĩa
thống kê giữa biến ROA và biến LOSS với biến ABSDA. Hệ số hồi
quy của biến ROA là -0.334 và đây cũng là biến tác động mạnh nhất
đến biến ABSDA trong mô hình, điều này cho thấy nếu hiệu quả
hoạt động kinh doanh của công ty niêm yết bị suy giảm thì công ty sẽ
có động lực lớn để tăng cường điều chỉnh lợi nhuận tương ứng với
chất lượng báo cáo tài chính bị suy giảm. Hệ số hồi quy của biến
LOSS là 0.312 chỉ ra rằng nếu công ty có kết quả hoạt động kinh
doanh thua lỗ thì công ty sẽ tăng cường điều chỉnh lợi nhuận tương
ứng với sự suy giảm chất lượng kiểm toán hay việc thua lỗ trong
hoạt động kinh doanh của công ty là một trong những động lực khiến
doanh nghiệp tăng cường điều chỉnh lợi nhuận khiến cho chất lượng
kiểm toán suy giảm trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Mối quan hệ giữa hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và chất
lượng kiểm toán trong bối cảnh suy giảm chất lượng kiểm toán trong
khủng hoảng tài chính toàn cầu dẫn đến kết luận rằng sự thất bại của
kiểm toán viên và công ty kiểm toán tại Việt Nam trong việc ứng phó
với rủi ro suy giảm chất lượng kiểm toán mà khủng hoảng tài chính
toàn cầu mang đến là một trong những nguyên nhân làm suy giảm
18
chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các công ty niêm yết tại Việt
Nam trong giai đoạn này.
Một điều đáng quan tâm rằng không có mối quan hệ có ý nghĩa
thống kê được tìm thấy giữa biến BIG4 và biến phụ thuộc ABSDA.
Qua đó nghiên cứu này có ý nghĩa khi kết luận đối chất lượng kiểm
toán BCTC các công ty niêm yết trên toàn Việt Nam trong bối cảnh,
giai đoạn nghiên cứu đã đề cập mà không có sự khác biệt giữa hai
nhóm BIG 4 và Non BIG 4.
Nghiên cứu này cũng không phát hiện ra mối quan hệ có ý nghĩa
giữa biến LNASSET, GROWTHASSET và biến ABSDA. Tuy nhiên
điều đáng lưu ý đó là mối quan hệ giữa biến LNASSET và biến
ABSDA có ý nghĩa với mức ý nghĩa 10% và điều này để ngõ khả
năng rằng các công ty có quy mô càng lớn thì mức độ điều chỉnh lợi
nhuận trên báo tài chính càng lớn hơn hay khả năng tính độc lập của
kiểm toán viên bị ảnh hưởng khi kiểm toán cho các công ty lớn.
3.2. KIỂM ĐỊNH GIẢ THUY T NGHIÊN CỨU
3.2.1. Kiểm định giả thuyết
Mối quan hệ giữa hiệu quả hoạt động kinh doanh và chất lượng
kiểm toán trong bối cảnh chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các
công ty niêm yết suy giảm trong khủng hoảng, cùng các phân tích,
đánh giá, nghiên cứu trước đó đã được đề cập đã đặt ra cơ sở cho
khẳng định rằng hiệu quả hoạt động yếu kém của các công ty niêm
yết trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu là một trong
những nguyên nhân làm chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính suy
giảm trong khủng hoảng tài chính.
Mối quan hệ nghịch giữa ABSDA và hiệu quả hoạt động kinh
doanh được chứng minh ở trên cũng tương ứng với nhận định rằng
các công ty có kết quả hoạt động yếu kém thường có mức độ điều
19
chỉnh lợi nhuận trên báo cáo tài chính cao hơn. Điều này đặt ra câu
hỏi về vai trò của các kiểm toán viên, công ty kiểm toán trong việc
đối phó với rủi ro của khủng hoảng tài chính toàn cầu khi các doanh
nghiệp có kết quả hoạt động không thuận lợi thường có một mức độ
điều chỉnh lợi nhuận cao hơn trên báo cáo tài chính của mình. Chất
lượng kiểm toán suy giảm trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn
cầu do đó có nguyên nhân quan trọng bởi sự thất bại trong việc đối
phó với rủi ro mà cuộc khủng hoảng này mang lại của kiểm toán viên
và công ty kiểm toán.
Kết quả phân tích các biến trong mô hình bao gồm biến LOSS,
ROA và biến CRISIS cho thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê với
biến ABSDA như đã phân tích ở trên đây chứng minh cho giả thuyết
được đưa ra rằng: “Chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các công
ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam suy giảm trong
khủng hoảng tài chính toàn cầu” là đúng.
3.2.2. Kiểm tra các điều kiện vận dụng mô hình
a. Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến
Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến cho kết luận rằng mô hình
nghiên cứu không tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến.
b. Kiểm tra hiện tượng tự tương quan
Kiểm tra hiện tượng tự tương quan cho kết luận rằng mô hình
nghiên cứu không tồn tại hiện tượng tự tương quan.
20
CHƢƠNG 4
K T LUẬN TỪ K T QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ
KI N NGHỊ NHẰM GIẢM THIỂU ẢNH HƢỞNG CỦA KHỦNG
HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU TỚI CHẤT LƢỢNG KIỂM
TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CÁC CÔNG TY NIÊM Y T TRÊN
THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
4.1. K T LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu với mục đích tìm hiểu tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2008 – 2009 tới chất lượng kiểm
toán báo cáo tài chính các công ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam có kết quả đạt được rằng chất lượng kiểm toán báo
cáo tài chính các công ty niêm yết được đo lường bằng biến kế toán
dồn tích có thể điều chỉnh (DA) đã suy giảm trong giai đoạn khủng
hoảng. Kết quả này là ngược với kết quả trong nghiên cứu của
Sotheara Riel và Carl Tano (2014) khi nghiên cứu của Sotheara Riel
và Carl Tano cho kết quả rằng chất lượng kiểm toán được đo lường
bằng DA tăng lên trong giai đoạn khủng hoảng. Sự khác biệt trong
biến đổi chất lượng kiểm toán giữa hai nghiên cứu do sự khác biệt
trong cách thức ứng xử của kiểm toán viên, công ty kiểm toán tại
Việt Nam đối với rủi ro từ khủng hoảng tài chính toàn cầu so với các
kiểm toán viên, công ty kiểm toán tại Thụy Điển. Bên cạnh đó sự
khác biệt này cũng do sự khác biệt trong chất lượng kiểm toán được
cung cấp bởi các công ty kiểm toán, kiểm toán viên tại Thụy Điển so
với Việt Nam và sự khác biệt trong bối cảnh, khuôn khổ luật pháp,
chuẩn mực, quy định liên quan đến hoạt động kiểm toán, kế toán,
chứng khoán mà hoạt động kiểm toán tại hai nước được tiến hành.
21
Kết quả nghiên cứu cũng đồng thời cho thấy ảnh hưởng của hiệu
quả và kết quả hoạt động kinh doanh của công ty niêm yết đến chất
lượng kiểm toán báo cáo tài chính các công ty này thông qua hai biến
quan sát là LOSS và ROA. Các phân tích, đánh giá về mối qua hệ
giữa biến ROA, LOSS và biến ABSDA đã dẫn tác giả đến kết luận
rằng: Hiệu quả hoạt động và kết quả kinh doanh yếu kém của các
công ty niêm yết trong khủng hoảng tài chính toàn cầu là một trong
những nguyên nhân khiến chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các
công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán tại Việt Nam suy giảm
trong khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Kết quả nghiên cứu cũng dẫn đến kết luận rằng các công ty kiểm
toán và kiểm toán viên tại Việt Nam đã thất bại trong việc đối phó
với rủi ro của khủng hoảng tài chính toàn cầu, dẫn đến chất lượng
kiểm toán báo cáo tài chính các công ty niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam suy giảm trong khủng hoảng. Kết quả này là
phù hợp với những chỉ trích của Sikka (2009) nhằm vào chất lượng
kiểm toán trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu. Thất bại
của các kiểm toán viên và công ty kiểm toán khi đối phó với khủng
hoảng tài chính toàn cầu dẫn đến sự suy giảm chất lượng kiểm toán
tại Việt Nam trong bối cảnh khủng hoảng có thể do các kiểm toán
viên, công ty kiểm toán không có biện pháp đối phó với khủng hoảng
tài chính toàn cầu hoặc những biện pháp đối phó mà họ đưa ra là
không phù hợp.
Nghiên cứu cũng đưa ra kết luận rằng vai trò quan trọng của
kiểm toán trong việc giải quyết vấn đề bất đối xứng thông tin, mâu
thuẫn lợi ích giữa nhà quản lý và chủ sở hữu doanh nghiệp đặc biệt
trong điều kiện khủng hoảng tài chính bị suy yếu hay thậm chí không
phát huy được vai trò của mình. Chất lượng thông tin trên thị trường
22
chứng khoán vì thế cũng có thể bị suy giảm trong điều kiện khủng
hoảng tài chính toàn cầu.
4.2. CÁC KI N NGHỊ
Tác giả đưa một số kiến nghị cho các bên liên quan nhằm mục
đích nâng cao chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các công ty
niêm yết trong khủng hoảng. Cải thiện chất lượng hoạt động kiểm
toán đòi hỏi cả sự gia tăng kiểm soát, quản lý đối với chất lượng
kiểm toán từ cả bên trong và bên ngoài. Do đó các kiến nghị được
đưa ra đối với cả nhóm đối tượng bên trong tức đối với các kiểm
toán viên, công ty kiểm toán và nhóm đối tượng bên ngoài bao gồm:
Bộ Tài chính, Hiệp hội nghề nghiệp kế toán – kiểm toán và các cơ
quan ban hành chính sách, kiểm soát liên quan khác.
- Đối với các kiểm toán viên và công ty kiểm toán:
+ Các công ty kiểm toán và kiểm toán viên cần xây dựng một
chương trình kiểm toán riêng biệt, phù hợp nhằm đối phó với những
rủi ro đặc thù trong điều kiện khủng hoảng kinh tế.
+ Các công ty kiểm toán cần xây dựng chương trình kiểm tra
chất lượng kiểm toán trong nội bộ đơn vị theo định kỳ hoặc đột xuất
trong và sau mùa kiểm toán.
+ Các kiểm toán viên cần nâng cao kiến thức về chứng khoán,
các công cụ tài chính hiện đại và các công ty kiểm toán có trách
nhiệm tài trợ hoặc xây dựng chương trình cập nhật kiến thức này cho
các kiểm toán viên.
+ Nâng cao đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên thông qua
các chương trình phù hợp.
- Đối với Hiệp hội nghề nghiệp k toán – kiểm toán và Bộ Tài
chính cùng các bên liên quan khác:
23
+ Xây dựng những cơ chế, quy định nhằm nâng cao vai trò,
trách nhiệm của kiểm toán viên, công ty kiểm toán trong hoạt động
kiểm toán cũng như những quy định nhằm gia tăng hoạt động giám
sát, kiểm soát chất lượng kiểm toán từ bên ngoài nhằm phát hiện, xử
lý kịp thời các công ty kiểm toán, kiểm toán viên không hoàn thành
đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình.
+ Hiệp hội nghề nghiệp kế toán – kiểm toán và Bộ Tài chính cần
tổ chức thường xuyên các khóa tập huấn, bồi dưỡng kiến thức
chuyên môn kế toán – kiểm toán, tài chính – chứng khoán, nhằm
nâng cao năng lực của kiểm toán viên khi kiểm toán trong bối cảnh
môi trường tài chính, chứng khoán ngày càng phức tạp, đa dạng hóa
như hiện nay.
+ Các khuôn khổ mà các hoạt động kiểm toán tuân thủ ảnh
hưởng đến chất lượng kiểm toán nên việc Hiệp hội nghề nghiệp và
các cơ quan chính phủ cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống các quy
định, văn bản, các cơ chế nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kế
toán, kiểm toán, tính minh bạch hay chất lượng thông tin công bố là
yêu cầu cần thiết để cải thiện chất lượng hoạt động kiểm toán.
Các cổ đông, ngân hàng, nhà đầu tư và các đối tượng khác cần
có các biện pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng của việc suy giảm hiệu
quả của kiểm toán đến hoạt động đầu tư, cho vay của mình. Tác
giả đồng thời đưa ra một số ý kiến như là công cụ bổ trợ cho kiểm
toán trong việc giải quyết vấn đề đại diện trong doanh nghiệp dưới
ảnh hưởng suy giảm hiệu quả của kiểm toán trong khủng hoảng.
24
K T LUẬN
Nghiên cứu được tiến hành nhằm mục đích tìm hiểu tác động
của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2008 – 2009 tới
chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khi tác động tới Việt Nam đã
làm suy giảm chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các công ty
niêm yết tại Việt Nam. Các phân tích, đánh giá trong nghiên cứu cho
thấy rằng sự suy giảm chất lượng kiểm toán đối với các công ty niêm
yết tại Việt Nam là do sự tổng hợp của hai mối quan hệ chính. Trong
khủng hoảng tài chính cùng với điều kiện khó khăn trong hoạt động
sản xuất kinh doanh thì các công ty niêm yết có một động lực lớn
nhằm tăng cường điều chỉnh lợi nhuận, điều này tạo ra những rủi ro
to lớn về khả năng mà chất lượng kiểm toán suy giảm trong khủng
hoảng. Những rủi ro này đòi hỏi các doanh nghiệp, công ty kiểm
toán phải có những biện pháp phù hợp để đối phó với rủi ro nhằm
bảo đảm, gia tăng chất lượng kiểm toán. Tuy nhiên kết quả nghiên
cứu cho thấy rằng các kiểm toán viên, công ty kiểm toán tại Việt
Nam đã thất bại trong việc đối phó với những rủi ro kiểm toán mà
khủng hoảng tài chính toàn cầu mang lại dẫn đến sự suy giảm chất
lượng kiểm toán trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Nghiên cứu này đưa ra một số kiến nghị nhằm cải thiện,
kiểm soát, nâng cao chất lượng kiểm toán từ cả bên ngoài và bên
trong công ty kiểm toán. Tác giả cho rằng để có sự cải thiện chất
lượng kiểm toán cần có sự phối hợp của cả các cơ quan nhà nước,
Hiệp hội nghề nghiệp kế toán – kiểm toán và các công ty kiểm toán,
kiểm toán viên.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vonhutung_tt_5949_2073071.pdf