Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Đời sống cuả người dân ngày càng được cải thiện hơn và họ đã nhận thức khá đầy đủ rằng sự phát triển kinh tế - xã hội một mặt nâng cao mức sống, mặt khác gây ảnh hưởng tiêu cực đến con người và tự nhiên. Đây là vấn đề không phải lúc nào cũng được chú trọng đúng mức. Ngày nay, trên thế giới vấn đề môi trường và sức khỏe đang được quan tâm hàng đầu. Việt Nam là một nước nằm trong số đó, tuy nhiên vấn đề sức khỏe và môi trường chưa được chú trọng trong sự phát triển.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra hết sức khẩn trương, bộ mặt xã hội đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, đất nước cũng được phát triển hơn những thập niên trước đây rất nhiều. Kéo theo đó là nhu cầu của con người tăng lên về vật chất lẫn tinh thần kéo theo đó là các bệnh viện, phòng khám mọc lên nhanh chóng không chỉ phát triển về mặt số lượng mà còn đi sâu về chất lượng. Đi đôi với sự phát triển kéo theo lượng chất thải của bệnh viện cũng tăng lên về số lượng và phức tạp về thành phần, còn việc quan tâm xử lý, quản lý chất thải của bệnh viện chưa theo kịp.
Hiện nay chất thải bệnh viện đang trở thành vấn đề môi trường và xã hội cấp bách ở nước ta, nhiều bệnh viện trở thành nguồn gây ô nhiễm cho khu dân cư xung quanh, gây dư luận cho cộng đồng. Các chất thải y tế có chứa đựng các yếu tố truyền nhiễm là chất độc hại có trong rác y tế, các loại hoá chất và dược phẩm nguy hiểm, các chất thải phóng xạ, các vật sắc nhọn, v.v. những người tiếp xúc với chất thải y tế nguy hại đều có nguy cơ nhiễm bệnh tiềm tàng, bao gồm những người làm việc trong các cơ Sở Y Tế, những người bên ngoài làm việc thu gom chất thải y tế và những người trong cộng đồng bị phơi nhiễm với chất thải do sự sai sót trong khâu quản lý chất thải.Các chất thải y tế này có chứa các chất hữu cơ nhiễm mầm bệnh gây ô nhiễm, bệnh tật nghiêm trọng cho môi trường xung quanh bệnh viện ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ người dân.
52 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8961 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu đề xuất giải pháp quản lý rác thải tại Bệnh Viện Đa Khoa Hà Đông, Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN
Với mỗi sinh viên đại học, khoá luận tốt nghiệp là việc mốc cuối cùng đánh dấu sự kết thúc 4 năm học tập trên giảng đường và cũng là bước khởi đầu làm quen với công việc nghiên cứu và công tác sau này.
Được sự đồng ý của nhà trường, Khoa Quản lý Tài nguyên rừng và Môi trường, dưới sự hướng dẫn của cô giáo Phí Thị Hải Ninh tôi đã thực hiện khoá luận tốt nghiệp với tên đề tài: "Nghiên cứu đề xuất giải pháp quản lý rác thải tại Bệnh Viện Đa Khoa Hà Đông, Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội".
Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến cô Phí Thị Hải Ninh đã giúp đỡ và hướng dẫn em hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô trong Trường, Khoa Quản lý tài nguyên rừng và Môi trường đặc biệt là Bộ môn Quản lý Môi trường, Trường đại học Lâm Nghiệp, các cán bộ BV Đa Khoa Hà Đông đã cung cấp tài liệu, đóng góp ý kiến tạo điều kiện thuận lợi cho em thực hiện đề tài này.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn ủng hộ, giúp đỡ và động viên trong suốt thời gian hoạc tập và nghiên cứu tại trường.
Do thời gian có hạn, kinh nghiệm chuyên môn rất ít nên chuyên đề không tránh khỏi còn thiếu sót. Kính mong được sự góp ý, nhận xét, bổ sung của các thầy cô và các bạn sinh viên để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 18 tháng 05 năm 2011
Người thực hiện
Sinh viên
Đỗ Viết Thêm
MỞ ĐẦU
Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Đời sống cuả người dân ngày càng được cải thiện hơn và họ đã nhận thức khá đầy đủ rằng sự phát triển kinh tế - xã hội một mặt nâng cao mức sống, mặt khác gây ảnh hưởng tiêu cực đến con người và tự nhiên. Đây là vấn đề không phải lúc nào cũng được chú trọng đúng mức. Ngày nay, trên thế giới vấn đề môi trường và sức khỏe đang được quan tâm hàng đầu. Việt Nam là một nước nằm trong số đó, tuy nhiên vấn đề sức khỏe và môi trường chưa được chú trọng trong sự phát triển.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra hết sức khẩn trương, bộ mặt xã hội đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, đất nước cũng được phát triển hơn những thập niên trước đây rất nhiều. Kéo theo đó là nhu cầu của con người tăng lên về vật chất lẫn tinh thần kéo theo đó là các bệnh viện, phòng khám mọc lên nhanh chóng không chỉ phát triển về mặt số lượng mà còn đi sâu về chất lượng. Đi đôi với sự phát triển kéo theo lượng chất thải của bệnh viện cũng tăng lên về số lượng và phức tạp về thành phần, còn việc quan tâm xử lý, quản lý chất thải của bệnh viện chưa theo kịp.
Hiện nay chất thải bệnh viện đang trở thành vấn đề môi trường và xã hội cấp bách ở nước ta, nhiều bệnh viện trở thành nguồn gây ô nhiễm cho khu dân cư xung quanh, gây dư luận cho cộng đồng. Các chất thải y tế có chứa đựng các yếu tố truyền nhiễm là chất độc hại có trong rác y tế, các loại hoá chất và dược phẩm nguy hiểm, các chất thải phóng xạ, các vật sắc nhọn, v.v. những người tiếp xúc với chất thải y tế nguy hại đều có nguy cơ nhiễm bệnh tiềm tàng, bao gồm những người làm việc trong các cơ Sở Y Tế, những người bên ngoài làm việc thu gom chất thải y tế và những người trong cộng đồng bị phơi nhiễm với chất thải do sự sai sót trong khâu quản lý chất thải.Các chất thải y tế này có chứa các chất hữu cơ nhiễm mầm bệnh gây ô nhiễm, bệnh tật nghiêm trọng cho môi trường xung quanh bệnh viện ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ người dân.
Tại Hà Nội cũng như các tỉnh thành khác trong cả nước, tình trạng ô nhiễm môi trường do rác thải y tế ngày càng nghiêm trọng. Việc nghiên cứu tình hình quản lý rác thải bệnh viện, đề xuất nhằm tìm ra giải pháp để cải thiện môi trường cũng là một trong những đề tài đáp ứng được yêu cầu cấp bách hiện nay của các địa bàn trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Xuất phát từ yêu cầu đó, dựa trên cơ sở khoa học và những nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu thực địa, em xin đưa ra đề tài khóa luận với tên: "Nghiên cứu đề xuất giải pháp quản lý rác thải tại Bệnh Viện Đa Khoa Hà Đông, Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội".
Đề tài đã thực hiện với mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc cải thiện và bảo vệ môi trường.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về chất thải y tế
1.1.1. Khái niệm về chất thải y tế
Theo Qui chế quản lý chất thải y tế (Bộ Y tế), chất thải y tế là vật chất ở thể rắn, lỏng và khí được thải ra từ các cơ sở y tế bao gồm chất thải y tế nguy hại và chất thải thông thường.
Như vậy, chất thải y tế có thể ở dạng rắn, lỏng, khí và thường có đặc tính và tác động xấu đối với môi trường và sức khoẻ con người. Người ta thường phân biệt hai loại chất thải y tế: chất thải nguy hại và không nguy hại.
a/ Chất thải y tế nguy hại
Chất thải nguy hại: là chất thải có chứa các chất hoặc hoá chất có một hoặc các đặc tính gây nguy hại trực tiếp (dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, gây ăn mòn, dễ lây nhiễm với các đặc tính nguy hại), hoặc tương tác với các chất khác gây nguy hại tới môi trường và sức khoẻ con người[1].
Chất thải y tế nguy hại: là chất thải y tế có chứa một trong các thành phần như: máu, dịch cơ thể, chất bài tiết, các bộ phận hoặc cơ quan con người, động vật, bơm, kim tiêm và các vật sắc nhọn, dược phẩm, hoá chất và các chất phóng xạ dùng trong y tế[1].
b/ Chất thải y tế không nguy hại: là những loại không có khả năng gây độc, như giấy, nhựa, thực phẩm dư thừa… Đối với loại chất thải này không cần lưu giữ và xử lý đặc biệt; nhưng để bảo vệ môi trường và công đồng, chúng cần được thu gom và xử lý phù hợp.
1.1.2. Nguồn gốc, thành phần và khối lượng
Thành phần và khối lượng của từng loại chất thải y tế có đặc trưng theo chức năng và nhiệm vụ chuyên môn của từng bệnh viện. Chúng có nguồn gốc chủ yếu từ các phòng khám, khoa chức năng, phòng hành chính – tổng hợp, và khu dịch vụ trong bệnh viện. Hình 1.1 mô tả nguồn gốc và các dòng thải chính trong bệnh viện.
Hình 1.1.Nguồn phát sinh chất thải bệnh viện Đa Khoa
Một cách đánh giá thuyết phục để có thể dự báo và ước lượng chất thải y tế nói chung và số lượng hay tỷ lệ chất thải y tế nguy hại nói riêng phải dựa vào các yếu tố sau:
- Số lượng, đặc điểm, phạm vi cứu chữa, qui mô khám bệnh, điều trị của tất cả các cơ sở y tế.
- Số lượng giường bệnh tại bệnh viện và các cơ sở y tế có giường bệnh từ tuyến huyện và tương đương trở lên (do ngành y tế quản lý và do các ngành khác quản lý).
- Lượng chất thải y tế phát thải mỗi ngày (kg rác/1giường bệnh.ngày đêm).
- Tỷ lệ chất thải y tế nguy hại trên tổng chất thải y tế chung của giường bệnh (giường bệnh cấp bệnh viện) mỗi ngày.
Trên cơ sở này, có thể áp dụng ước lượng khối lượng chất thải của bệnh viện cụ thể của khu vực, thậm chí có thể ước lượng khối lượng chất thải rắn cho phạm vi toàn quốc.
Khối lượng chất thải y tế không chỉ thay đổi theo từng khu vực địa lý, mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan khác như:
- Cơ cấu bệnh tật bình thường, dịch bệnh, thảm hoạ đột xuất.
- Loại và qui mô bệnh viện, phạm vi cứu chữa.
- Số lượng bệnh nhân khám, chữa bệnh, tỷ lệ bệnh nhân điều trị nội trú và ngoại trú.
- Điều kiện kinh tế xã hội của khu vực.
- Phương pháp và thói quen của nhân viên y tế trong việc khám, điều trị và chăm sóc.
- Số lượng người nhà được phép đến thăm bệnh nhân.
1.2. Tổng quan về quản lý chất thải y tế
1.2.1. Tổng quan về quản lý chất thải y tế trên thế giới
Nghiên cứu về chất thải y tế đã được tiến hành tại nhiều nước trên thế giới, đặc biệt ở các nước phát triển như Anh, Mỹ, Nhật, Canada... Các nghiên cứu đã quan tâm đến nhiều lĩnh vực như tình hình phát sinh; phân loại chất thải y tế; quản lý chất thải y tế (biện pháp làm giảm thiểu chất thải, tái sử dụng chất thải, xử lý chất thải, đánh giá hiệu quả của các biện pháp xử lý chất thải...); tác hại của chất thải y tế đối với môi trường, sức khỏe; biện pháp làm giảm tác hại của chất thải y tế đối với sức khỏe cộng đồng, sự đe dọa của chất thải nhiễm khuẩn tới sức khỏe cộng đồng; tổn thương nhiễm khuẩn ở y tá, hộ lý và người thu gom rác; nhiễm khuẩn bệnh viện, nhiễm khuẩn ngoài bệnh viện đối với người thu nhặt rác, vệ sinh viên và cộng đồng.
a. Thực trạng phát sinh chất thải y tế
Khối lượng chất thải y tế phát sinh thay đổi theo khu vực địa lý, theo mùa và phụ thuộc vào các yếu tố khác quan như: cơ cấu bệnh tật, dịch bệnh, loại, quy mô bệnh viện, phương pháp và thói quen của nhân viên y tế trong việc khám, chữa bệnh và chăm sóc bệnh nhân và rác thải bệnh nhân ở các khoa phòng.… Điều này được thể hiện trên bảng 1.1.
Bảng 1.1. Lượng chất thải phát sinh tại các nước trên thế giới theo tuyến bệnh viện
Tuyến bệnh viện
Tổng lượng chất thải y tế
(kg/ giường bệnh /ngày)
Chất thải y tế nguy hại
(kg/ giường bệnh/ngày)
Bệnh viện Trung Ương
4,1-8,7
0,4-1,6
Bệnh viện tỉnh
2,1-4,2
0,2-1,1
Bệnh viện huyện
0,5-1,8
0,1-0,4
(Nguồn: Môi trường bệnh viện nhìn từ góc độ quản lý an toàn chất thải,2004)
b. Phân loại chất thải y tế
Theo khuyến cáo của Tổ Chức Y tế Thế Giới (1992), ở các nước đang phát triển có thể phân loại chất thải y tế thành các loại sau: Chất thải không độc hại (chất thải sinh hoạt gồm các chất thải không lây nhiễm các yếu tố nguy hại); chất thải sắc nhọn (truyền nhiễm hay không truyền nhiễm); chất thải nhiễm khuẩn (khác với các vật sắc nhọn nhiễm khuẩn); chất thải hóa học và dược phẩm (không kể các loại thuốc độc với tế bào); chất thải nguy hiểm khác (chất thải phóng xạ, các thuốc độc tế bào, các bình có chứa khí có áp suất cao).
Tuy nhiên, ở các nước phát triển, việc phân loại chất thải y tế được thực hiện nghiêm ngặt hơn. Ví dụ, ở Mỹ phân loại chất thải y tế được chia thành 8 loại:
+ Chất thải cách ly: chất thải có khả năng truyền nhiễm mạnh.
+ Những nuôi cấy và dự trữ các tác nhân truyền nhiễm và chế phẩm sinh học liên quan.
+ Những vật sắc nhọn được dùng trong điêu trị, nghiên cứu...
+ Máu và các sản phẩm của máu.
+ Chất thải động vật (xác động vật, các phần của cơ thể).
+ Các vật sắc nhọn không sử dụng.
+ Các chất thải gây độc tế bào.
+ Chất thải phóng xạ.
c. Quản lý và xử lý chất thải y tế
Trên thế giới quản lý rác thải bệnh viện được nhiều quốc gia quan tâm và tiến hành một cách triệt để từ rất lâu. Về quản lý, một loạt những chính sách, quy định đã được ban hành nhằm kiểm soát chặt chẽ loại chất thải này.
Các hoạt động phân loại, thu gom, lưu giữ và cuối cùng là xử lý được thực hiện nghiêm ngặt theo đúng quy định, đặc biệt là ở các nước phát triển. Như ở Hoa Kỳ vào năm 1996 đã bắt đầu có các luật về khí thải của lò đốt và yêu cầu của khí thải phải lọc bằng hệ thống lọc trước khi đưa vào không khí.
Đối với nước thải, biện pháp xử lý phổ biến và đạt hiệu quả cao là biện pháp/ công nghệ sinh học. Trong khi đó việc xử lý rác thải phức tạp và khó khăn hơn do khối lượng lớn và thành phần đa dạng. Đối với rác thải y tế ít nguy hại, biện pháp xử lý chủ yếu là chôn lấp, và đối với rác thải nguy hại thường được đốt. Công nghệ đốt rác được các nước phát triển thực hiện cẩn thận và hiệu quả.
1.2.2. Tổng quan về chất thải y tế ở Việt Nam
a.Thực trạng phát sinh chất thải y tế
Theo kết quả khảo sát của Vụ Điều trị - Bộ Y tế tại 24 bệnh viện năm 1998, cho thấy tỷ lệ phát sinh chất thải y tế theo từng tuyến, loại bệnh viện, cơ sở y tế rất khác nhau (bảng 1.2). Các bệnh viện sẽ có lượng chất thải rắn y tế phát sinh khác nhau và trong một bệnh viện các khoa khác nhau như khoa hồi sức cấp cứu, khoa sản, khoa ngoại có lượng chất thải rắn phát sinh là lớn nhất.
Bảng 1.2. Lượng chất thải phát sinh tại các bệnh viện theo tuyến
Tuyến bệnh viện
Đơn vị
Tổng lượng chất thải y tế
Chất thải y tế nguy hại
Bệnh viện TW
Kg/giường bệnh/ngày
0,97
0,16
Bệnh viện tỉnh
Kg/giường bệnh/ngày
0,88
0,14
Bệnh viện huyện
Kg/giường bệnh/ngày
0,73
0,11
Chung
Kg/giường bệnh/ngày
0,86
0,14
(Nguồn: Môi trường bệnh viện nhìn từ góc độ quản lý an toàn chất thải,2004)
Theo kết quả khảo sát của Bộ Y tế (2001), tại 280 bệnh viện lượng chất thải y tế phát sinh mỗi ngày khoảng 429 tấn/ngày, trong đó lượng chất thải y tế nguy hại khoảng 34 tấn/ngày, ước tính tổng lượng khoảng 15 triệu tấn/năm chất thải y tế, trong đó có khoảng 21000 tấn/năm chất thải y tế nguy hại.
b. Thành phần và phân loại chất thải y tế
Căn cứ vào các đặc điểm lý học, hóa hoc, sinh học và tính chất nguy hại, chất thải trong các cơ sở y tế được phân thành 5 nhóm:
* Nhóm chất thải lâm sàng (clinical waste): bao gồm 5 phân nhóm khác nhau là:
- Nhóm A: chất thải nhiễm khuẩn (infectious waste): vật liệu thấm máu, dịch, băng gạc, bông băng, túi đựng dịch, dẫn lưu v.v.
- Nhóm B: các vật sắc nhọn (sharps): như các loại kim tiêm, lưỡi dao mổ, dao lam dùng trong y tế, ống thuốc tiêm vỡ v.v.
- Nhóm C: chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao phát sinh từ các phòng xét nghiệm như găng tay, lam kính, bệnh phẩm v.v.
- Nhóm D: chất thải dược phẩm bao gồm dược phẩm quá hạn, bị nhiễm khuẩn, thuốc gây độc tế bào kể cảc các lọ thuốc đã được sử dụng nhưng còn tồn lưu dư lượng, và hoá chất có tính gây độc đối với tế bào.
- Nhóm E: bệnh phẩm (pathological waste): nhóm này bao gồm các mô và cơ quan người, động vật, một phần chi thể bị cắt bỏ do các can thiệp phẫu thuật (cần lưu ý là đối với nhóm chất thải này thì ngay cả khi chúng không chứa nguồn lây nhiễm nhưng cũng vẫn có khả năng gây ra tác động tâm lý rất mạnh).
* Nhóm chất phóng xạ: Nhóm chất thải phóng xạ phát sinh từ các hoạt động chuẩn đoán, hoá trị liệu và nghiên cứu như ống tiêm, bơm tiêm, giấy thấm, gạc sát khuẩn có sử dụng hoặc bị nhiễm các đồng vị phóng xạ.
* Nhóm chất thải hoá học: Chất thải hoá học bao gồm các hoá chất có thể không gây nguy hại như đường, axit béo, axít amin, một số loại muối v.v. và hoá chất nguy hại như phóc-man-đê-hít, hoá chất quang học, các dung môi, hoá chất dùng để diệt khuẩn y tế và dung dịch làm sạch, khử khuẩn, các hóa chất dùng trong khử trùng, tẩy uế, thanh trùng v.v.
* Nhóm các bình chứa khí nén có áp suất: Nhóm này bao gồm các bình chứa khí nén có áp suất như bình đựng oxy, CO2 bình gas, bình khí dung, các bình chứa khí sử dụng một lần, v.v. đa số các bình chứa khí nén này thường dễ nổ, dễ cháy nguy cơ tai nạn cao nếu không được tiêu hủy đúng qui cách.
* Nhóm chất thải sinh hoạt: Nhóm chất thải này có đặc điểm chung như chất thải sinh hoạt thông thường từ các hộ gia đình gồm giấy loại, vải loại, vật liệu đóng gói bao gói, thức ăn còn thừa, thực phẩm thải bỏ và chất thải ngoại cảnh như các loại lá cây, hoa quả rụng v.v.
c. Hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải y tế
* Hoạt động thu gom
Theo báo cáo của Trung Tâm Y tế Dự Phòng các tỉnh, đa số các bệnh viện (81,25%) đã thực hiện phân loại chất thải ngay từ nguồn nhưng việc phân loại còn phiến diện và kém hiệu quả do nhân viên tham gia công tác này chưa được đào tạo đủ tới mức trở thành kỹ năng[1]. Việc phân loại còn chưa theo đúng quy cách như tách các vật sắc nhọn ra khỏi chất thải rắn y tế, còn lẫn nhiều chất thải sinh hoạt vào chất thải y tế và ngược lại. Hệ thống ký hiệu, màu sắc của túi và thùng đựng chất thải chưa đúng qui chế quản lý chất thải bệnh viện, còn tuỳ tiện, có gì sử dụng nấy.
Theo qui định, chất thải y tế và chất thải sinh hoạt đều được hộ lý và y công thu gom hằng ngày tại khoa phòng. Các đối tượng khác như bác sĩ, y tá còn chưa được giáo dục, huấn luyện để tham gia vào hoạt động quản lý chất thải y tế. Tình trạng chung là các bệnh viện không có đủ các phương tiện bảo hộ khác cho nhân viên trực tiếp tham gia vào phân loại thu gom, vận chuyển và tiêu huỷ chất thải.
* Lưu trữ, vận chuyển chất thải y tế tới nơi tiêu huỷ
Chất thải rắn y tế được thu gom phân loại và vận chuyển về khu trung chuyển tại bệnh viện. Thực tế trong quy hoạch xây dựng cũng chưa có những hướng dẫn cho việc xây dựng, các khu vực trung chuyển chất thải rắn bện viện. Hầu hết các điểm tập trung chất thải rắn y tế được bố trí trên một khu đất bên trong khuôn viên bệnh viện thành một khu trung chuyển. Các khu trung chuyển có điều kiện vệ sinh không đảm bảo, có nhiều nguy cơ gây rủi ro do vật sắc nhọn rơi vãi, côn trùng dễ dàng xâm nhập ảnh hưởng đến môi trường bệnh viện. Một số điểm tập trung rác không có mái che, không có rào bảo vệ, vị trí lại gần nơi đi lại, những người không có nhiệm vụ dễ xâm nhập. Chỉ có một số ít bệnh viện có nơi lưu trữ chất thải đạt tiêu chuẩn qui định.
Chất thải rắn y tế được nhân viên của Công Ty Môi Trường Đô Thị (URENCO) đến thu gom các túi chất thải tại khu vực trung chuyển của bệnh viện. Phần đông các nhân viên bệnh viện lẫn nhân viên của Công Ty Môi Trường Đô Thị đều thiếu thông tin và hiểu biết về những nguy cơ có liên quan đến việc thu gom, vận chuyển và tiêu huỷ chất thải rắn y tế nguy hại. Qua điều tra cho thấy, đa số các nhân viên bệnh viện không biết nơi thiêu huỷ cuối cùng của bệnh viện ở đâu.
Việc phối hợp liên ngành kém hiệu quả trong mọi công đoạn của quy trình quản lý chất thải bệnh viện. Mới có vài công ty bước đầu nghiên cứu sản xuất được phương tiện để thu gom, vận chuyển chất thải, tuy nhiên còn đang ở giai đoạn thí điểm chưa sản xuất đại trà. Đối với các bệnh viện đã phân loại, tách chất thải y tế và chất thải sinh hoạt để xử lý riêng, nhưng ngay ở một số địa phương Công Ty Môi Trường Đô Thị do chưa có hệ thống thiết bị đốt, thiêu huỷ chất thải rắn y tế nguy hại nên đã từ chối vận chuyển và xử lý chất thải rắn y tế. Chỉ có 18,75% trong tổng số các bệnh viện có chất thải được vận chuyển ra khỏi bệnh viện bằng xe chuyên dụng của Công Ty Môi Trường Đô Thị[1] .
* Các phương pháp xử lý và tiêu huỷ chất thải rắn y tế
+ Thiêu đốt chất thải rắn y tế
Một thực tế, trong nhiều năm trước đây khi đầu tư xây dựng bệnh viện chúng ta hoàn toàn chưa hoạch toán đến khoản chi phí cho xử lý chất thải. Phần lớn các bệnh viện tự xây dựng lấy lò đốt của mình và cũng không theo tiêu chuẩn quy định. Tình trạng chung của phần lớn các bệnh viện trong cả nước hiện nay là thiêu đốt chất thải y tế tại các lò đốt thủ công không có hệ thống xử lý khí thải kể cả những bệnh viện có khối lượng chất thải y tế cần thiêu đốt rất đáng kể ở Hà Nội. Trong các lò đốt thủ công xây bằng gạch chất thải được đốt bằng củi hoặc dầu, theo cách thủ công nên khi vận hành khói bụi mù mịt, mùi khí cháy khó chịu bay ra khu dân cư.
Hiện nay ở nhiều tỉnh trong cả nước đã có lò đốt chất thải rắn y tế đã được lắp đặt và đưa vào khai thác vận hành tại Việt Nam, (Phụ lục 3). Trong đó Hà Nội là tỉnh được đầu tư 5 lò đốt với công suất 450kg/h, nhiều nhất trong tất cả các tỉnh thành. Ngoài ra Kiên Giang, Thái Nguyên 2 lò. Cũng theo bảng ta thấy, ở nhiều bệnh viện, số lượng và chủng loại lò đốt chất thải y tế được sử dụng khá đa dạng và phong phú. Trong đó, lò đốt chất thải hiệu Hoval MZ4 và MZ2 là được sử dụng nhiều nhất.
Công Ty Công Trình Đô Thị (URENCO) Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh đã đầu tư hệ thống xử lý chất thải rắn y tế bao gồm cả khâu thu gom, vận chuyển chất thải rắn y tế từ bệnh viện và vận chuyển tới xí ngiệp đốt rác để tiêu huỷ. Hiện tại có 2 lò đốt chất thải rắn y tế theo mô hình tập trung được vận hành lò đốt Del Monego 200 tại xí nghiệp đốt rác Tây Mỗ – Hà Nội và lò đốt Hoval GG-24 tại xí ngiệp đốt rác Bình Hưng Hoà - Thành Phố Hồ Chí Minh với công nghệ nhập của nước ngoài. Thành Phố Hồ Chí Minh cơ bản đã ổn định được công tác xử lý chất thải bệnh viện nhờ có hệ thống quản lý, thu gom năng động. Tại Hà Nội, sau 8 tháng thử nghiệm lò đốt hoạt động tốt, tuy vậy công suất của lò đốt này cũng chỉ giải quyết được 4 tấn/ngày so với nhu cầu của hàng chục bệnh viện tại thành phố là trên 12 tấn/ngày.
Một số bệnh viện khác như Viện Lao và Bệnh Phổi, bệnh viện C Đà Nẵng và bệnh viện Vũng Tàu, với sự giúp đỡ của công ty Wamwe Engineering, đã lắp đặt lò đốt chất thải y tế Hoval MZ2 của Thuỵ Sĩ có công nghệ hiện đại với nhiệt độ thiêu đốt có hiệu quả. Qua thời gian theo dõi trên 15 tháng của sở Khoa Học Công Nghệ và Môi Trường Hà Nội lò đốt của Viện Lao và Bệnh Phổi đã thiêu đốt trên 10 tấn rác y tế nguy hại với kết quả tốt, đảm bảo an toàn về môi trường. Tuy nhiên, do số lượng chất thải rắn y tế nguy hại của Viện Lao và Bệnh Phổi không nhiều nên công suất thiêu đốt của lò chưa được khai thác hiệu quả. Các mẻ đốt gián đoạn hoặc cách nhật nên lãng phí nhiên liệu và gây hao tổn thiết bị.
Một số bệnh viện, tuy đã lắp đặt lò đốt hiện đại nhưng lại không hoạt động được vì vị trí đặt lò đốt gần nhà dân và khi vận hành không đúng kỹ thuật có khói đen và mùi khí thải bốc lên gây cảm giác khó chịu nên bị nhân dân phản đối do vậy không vận hành được hoặc một vài thiết bị tạm dừng khai thác do bị hỏng chưa có phụ tùng thay thế như ở bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội và bệnh viện Hữu Nghị đa khoa Nghệ An).
Còn lại đa số các bệnh viện tiêu huỷ chất thải rắn y tế bằng lò đốt thủ công không đạt tiêu chuẩn vệ sinh môi trường. Trong các năm 1999-2000, tổ chức y tế thế giới đã viện trợ cho Bộ Y Tế 2 lò đốt chất thải chế tạo tại nước ngoài để trang bị cho 2 bệnh viện tuyến tỉnh trong đó có lò INCINCO lắp đặt và đưa vào vận hành tại bệnh viện đa khoa Bắc Ninh. Cũng trong thời gian trên, chính phủ đã phê duyệt dự án của bộ y tế trang bị 25 lò đốt chất thải bệnh viện kiểu Hoval bằng nguồn vốn vay của chính phủ cộng hoà Áo, hiện tại 25 lò đốt rác y tế này đã đi vào hoạt động và cải thiện đáng kể năng lực tiêu huỷ chất thải rắn y tế nguy hại của nhiều địa phương.
Xử lý chất thải nguy hại bằng phương pháp đốt thường có chi phí đầu tư và vận hành cao trong biện pháp xử lý chất thải rắn, nhưng lại có ưu điểm tốt nhất mà các giải pháp khác không có được như: xử lý triết để các nguy cơ lây lan mầm bệnh, thể tích lượng tro xỉ phải chôn lấp ít, có thể tái sử dụng nhiệt v.v. nên vẫn được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Đối với nước ta, lò đốt mới chỉ được áp dụng trong phạm vi rất hạn hẹp để đốt chất thải y tế và đốt thử nghiệm chất thải công nghiệp như chất thải da dày. Mặc dù số lượng lò đốt chất thải chưa nhiều nhưng khá đa dạng về nguồn gốc xuất xứ, công xuất đốt và khả năng xử lý khói thải của lò đốt.
Cho đến nay, vẫn chưa có một nghiên cứu thống kê cụ thể nào về các lò đốt hiện đang hoạt động tại các bệnh viện ở Việt Nam và hiệu quả xử lý của các lò thiết kế và chế tạo trong nước. Một vấn đề mà các nhà môi trường quan tâm là ô nhiễm thứ cấp tạo ra trong quá trình đốt chất thải rắn y tế nguy hại cần được quan tâm nghiên cứu.
+ Chôn lấp chất thải y tế
Chôn lấp rác thải y tế đang là một trong những vấn đề phức tạp và khó giả quyết tại các bệnh viện. Trong hầu hết các bệnh viện tuyến huyện và một số bệnh viện tuyến tỉnh, chất thải y tế được chôn lấp tại bãi rác công cộng hay chôn lấp trong khu đất của bệnh viện. Trường hợp chôn lấp trong bệnh viện chất thải được chứa trong hố đào và lấp đất lên, nhiều khi lớp đất phủ trên mặt quá mỏng không đảm bảo vệ sinh. Đặc biệt đối với một số loại chất thải đặt biệt như bào thai, rau thai và bộ phận cơ thể bị cắt bỏ sau phẫu thuật được thu gom để đem chôn trong khu đất của bệnh viện hoặc chôn trong nghĩa trang của địa phương. Do diện tích mặt bằng của bệnh viện bị hạn chế nên nhiều bệnh viện hiện nay gặp khó khăn trong việc tìm kiếm diện tích đất để chôn lấp chất thải nguy hại.
Bên cạnh đó, đối với các loại rác thải như vật sắc nhọn, bao bì đựng hóa chất…được chôn lấp cùng với chất thải y tế khác tại khu đất bệnh viện hay tại bãi rác cộng đồng. Hiện nay, ở một số bệnh viện vẫn còn hiện tượng chất thải nhiễm khuẩn nhóm A được thải lẫn với chất thải sinh hoạt và được vận chuyển ra bãi rác của thành phố, do vậy chất thải nhiễm khuẩn không có xử lý đặc biệt gì trước khi tiêu huỷ chung.
1.3. Thực trạng quản lý rác thải y tế tại Hà Nội
Thành phố Hà nội đang gặp phải nhiều khó khăn trong vấn đề quản lý và xử lý rác thải y tế. Hiện nay trên địa bàn thành phố có khoảng 30 bệnh viện và rất nhiều cơ sở y tế lớn nhỏ khác nhau. Lượng rác thải phát sinh ra từ các bệnh viện và cơ sở y tế trên địa bàn Hà Nội chiếm một lượng đáng kể so với tổng số rác thải của thành phố, đã gây ra nhiều vấn đề trong công tác quản lý chất thải. Hiện nay, mỗi ngày có khoảng 10 – 20 tấn rác thải y tế được thải ra. Hầu hết rác thải đều được vận chuyển đến các công ty môi trường đô thị trên Hà Nội như công ty môi trường đô thị ở Cầu Diễn, công ty môi trường đô thị và công nghiệp 10... Ở các bệnh viện thì luôn luôn phải có bệnh nhân và phải có người thân chăm sóc bệnh nhân nên lượng rác thải, vì vậy, phức tạp hơn về thành phần và khối lượng, gây khó khăn hơn cho việc xử lý của bệnh viện.
Đối với việc xử lý chất thải bệnh viện tại Hà Nội, hầu hết chất thải y tế đều được thu gom và đưa về các công ty môi trường đô thị trong thành phố. Bệnh viện sẽ ký hợp đồng với các công ty và lượng rác sẽ được vận chuyển hàng ngày. Một số bệnh viện thì đã sử dụng lò thiêu đốt bằng dầu, củi. Hầu như các bệnh viện không chú ý nhiều đến việc bảo vệ môi trường, công việc chính của họ là cứu người do vậy vấn đề môi trường vẫn còn sơ sài. Theo báo cáo của Bộ Y tế thì sắp tới thành phố sẽ đầu tư kinh phí mua 16 lò đốt chất thải rắn y tế để xử lý toàn bộ lượng rác thải y tế phát sinh trong quá trình khám và chữa bệnh của 16 bệnh viện thuộc Sở Y tế Hà Nội. 16 bênh viện bao gồm: Bệnh viện Đa khoa các huyện Hoài Đức, Đan Phượng, Phúc Thọ, Ba Vì, Quốc Oai, Thanh Oai, Mỹ Đức, Mê Linh, Sóc Sơn, Đông Anh, Phú Xuyên, Thường Tín, Thạch Thất; Bệnh viện Đa khoa Vân Đình (huyện Ứng Hòa); Bệnh viện Đa khoa Đức Giang (quận Long Biên) và Bệnh viện Tâm thần huyện Mỹ Đức. Hiện nay, khu vực nội thành của Hà Nội trước khi mở rộng, tất cả các bệnh viện đều có hợp đồng thu gom, xử lý rác thải y tế theo lò đốt rác thải y tế tập trung, một số bệnh viện khu vực phía tây Hà Nội (khu vực Hà Tây cũ) đã được đầu tư đã lắp đặt lò đốt chất thải rắn y tế độc hại như bệnh viện Hà Đông, Sơn Tây... Hà Nội phấn đấu trong 2 năm 2010 và 2011 toàn bộ hệ thống xử lý chất thải lỏng y tế và chất thải rắn y tế độc hại sẽ được đầu tư, lắp đặt, hoàn thiện đưa vào sử dụng, giải quyết cơ bản vấn đề chất thải độc hại y tế tác động đối với môi trường, đảm bảo vệ sinh y tế và sức khỏe người dân trong cộng đồng.
1.4. Một số nghiên cứu về quản lý chất thải y tế
1.4.1. Những nghiên cứu trên thế giới
Theo tổ chức Y tế thế giới, có 18 – 64% cơ sơ y tế chưa có biện pháp xử lý chất thải đúng cách. Tại các cơ sở y tế, 12,5% công nhân xử lý chất thải bị tổn thương do kim đâm xảy ra trong quá trình xử lý chất thải bị tổn thương do kim đâm xảy ra trong quá trình xử lý chất thải y tế.
Theo H.Ô-ga-oa, cố vấn tổ chức Y tế thế giới về sức khỏe, môi trường khu vực Châu Á, phần lớn các nước đang phát triển không kiểm soát tốt chất thải y tế, chưa có khả năng phân loại chất thải y tế mà xử lý cùng với tất cả các loại chất thải. Từ những năm 90, nhiều quốc gia như Nhật Bản, Singapo, Australia, Newzieland đã đi đầu trong công tác xử lý chất thải y tế, Malaixia có phương tiện xử lý rác thải tập trung trên bán đảo và các hệ thống xử lý rác thải riêng biệt cho các bệnh viện ở xa tại Boocneo.
Ở các nước phát triển đã có công nghệ xử lý chất thải y tế đáng tin cậy như đốt rác bằng lò vi sóng, tuy nhiên đây không phải là biện pháp hữu hiệu được áp dụng ở các nước đang phát triển, vì vậy, các nhà khoa học ở các nước Châu Á đã tìm ra một số phương pháp xử lý chất thải khác để thay thế như Philippin đã áp dụng phương pháp xử lý rác bằng các thùng có lắp đậy, Nhật Bản đã khắc phục vấn đề khí thải độc hại từ các thùng đựng rác có nắp đậy kín bằng việc gắn vào các thùng có những thiết bị cọ rửa, Indonexia chủ trương nâng cao nhận thức trước hết cho các bệnh viện về mối nguy hại của chất thải y tế gây ra để bệnh viện có biện pháp lựa chọn phù hợp.
1.4.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Ở nước ta chất thải y tế đã được quản lý bằng hệ thống các văn bản pháp luật, nhưng việc thực hiện chưa nghiêm túc theo quy định, hầu hết chất thải rắn y tế ở các bệnh viện chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra ngoài môi trường. Nhiều bệnh viện không có hệ thống thu gom, xử lý nước thải hoặc có nhiều hệ thống cống rãnh đã bị hư hỏng, xử lý xuống cấp, rác thải không được phân loại, chôn lấp thủ công hoặc đốt thủ công tại chỗ. Thực trạng như sau:
* Về quản lý rác thải:
Kết quả điều tra năm 2002 của Bộ Y tế tại 294 bệnh viện trong cả nước cho thấy 94,2% bệnh viện phân loại chất thải y tế tại nguồn phát sinh, chỉ có 5,8% bệnh viện chưa thực hiện. Các bệnh viện tuyến trung ương, tuyến tỉnh, bệnh viện tư nhân thực hiện phân loại chất thải rắn y tế ngay tại ngồn tốt hơn các bệnh viện tuyến huyện và bệnh viện ngành. Có 93,9% bệnh viện thực hiện tách riêng vật sắc nhọn ra khỏi chất thải y tế, hầu hết các bệnh viện sử dụng chai nhựa, lọ truyền đã dùng để đựng kim tiêm. Nhưng qua kiểm tra thực tế, việc phân loại chất thải y tế ở một số bệnh viện chưa chính xác, làm giảm hiệu quả của việc phân loại chất thải. 85% bệnh viện sử dụng mã màu trong việc phân loại, thu gom và vận chuyển chất thải.
Kết quả nghiên cứu tại 6 bệnh viện Đa Khoa tỉnh của Đinh Hữu Dung (2003) cho thấy: cả 6 bệnh viện đều phân loại chất thải rắn ngay tại nguồn phát sinh nhưng chưa có bệnh viện nào phân loại đúng theo quy chế của bộ y tế và việc phân loại phụ thuộc vào hình thức xử lý hiện có của bệnh viện.
Kết quả kiểm tra của Bộ Y tế (2007) tại 4 bệnh viện Hà Nội, bệnh viện Lao và bệnh viện phổi trung ương được đánh giá là bệnh viện quản lý rác thải tốt nhất trong 4 bệnh viện được kiểm tra nhưng đoàn kiểm tra đã phát hiện trong buồng bệnh chỉ có thùng đựng rác sinh hoạt thiếu thùng chứa đờm của bệnh nhân. Ở bệnh viện Việt Đức tất cả rác thải đều chứa chung trong một túi đựng rác màu vàng.
Theo báo cáo của bộ y tế (2009) tỷ lệ bệnh viện thực hiện phân loại chất thải y tế là 95,6% và thu gom hàng ngày là 90,9%. Phương tiện thu gom chất thải y tế như túi, thùng đựng chất thải, xe đẩy rác, nhà chứa rác còn thiếu và chưa đồng bộ, hầu hết chưa đạt yêu cầu của quy chế quản lý chất thải y tế. Chỉ có khoảng 50% các bệnh viện trên phân loại, thu gom đạt yêu cầu theo quy chế.
* Về nước thải
Kết quả kiểm tra của bộ y tế (2004) tại 175 bệnh viện ở 14 tỉnh, thành phố thì có đến 31,5% bệnh viện không có hệ thống thoát nước thải, chủ yếu ở các bệnh viện tuyến huyện. Trong số bệnh viện có hệ thống thoát nước chung gồm cả nước mưa, nước thải sinh hoạt, nước thải y tế, chỉ có 21,1% bệnh viện có hệ thống thoát nước thải riêng biệt, 26,3% bệnh viện có hệ thống thoát nước thải kín, 31,4% hở và 42,3% vừa kín vừa hở.
Theo báo cáo của bộ y tế (2009) tỷ lệ bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải tuyến trung ương là 71%, tuyến tỉnh là 46%, tuyến huyện là 30%, và bệnh viện tư nhân là 85%. Tính chung tỷ lệ bệnh viện có hệ thống xử lý rác thải là 37% và chỉ có khoảng 30% trong số này đạt tiêu chuẩn cho phép. Hiện cả nước có gần 640 bệnh viện cần được trang bị hệ thống xử lý nước thải, số bệnh viện cần cải tạo lại hệ thống xử lý nước thải khoảng 220 bệnh viện.
* Về khí thải bệnh viện
Chỉ có một số bệnh viện lớn có hệ thống xử lý khí thải hoặc có hotte hút hơi khí độc tại các khoa, phòng xét nghiệm, X quang, còn đa phần các bệnh viện chưa có hệ thống xử lý khí thải.
CHƯƠNG II
MỤC TIÊU- NỘI DUNG – ĐỐI TƯỢNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2. 1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung: Góp phần vào việc nâng cao hiệu quả quản lý rác thải y tế tại các bệnh viện Việt Nam.
Mục tiêu cụ thể: Đánh giá thực trạng, từ đó đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý chất thải y tế tại bệnh viện Đa Khoa Hà Đông, Thành phố Hà Nội.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung sau:
- Đánh giá hiện trạng rác thải y tế tại bệnh viện;
- Nghiên cứu ảnh hưởng của rác thải y tế đối với môi trường xung quanh của bệnh viện;
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý rác thải y tế của bệnh viện;
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rác thải y tế.
2.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lí rác thải y tế
- Đối tượng khảo sát:
- Con người: Cán bộ, viên chức của Bệnh viện, bệnh nhân, người nhà bệnh nhân.
- Văn bản: Các văn bản luật, văn bản về tổ chức …
- Rác thải bệnh viện
- Cơ sở vật chất để quản lí rác của bệnh viện: xe đẩy, lò đốt …
- Phạm vi và địa điểm nghiên cứu:
Công tác quản lý rác thải tại Bệnh viện Đa khoa Hà Đông
- Thời gian nghiên cứu: từ 14/2/2011 – 20/4/2011
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp kế thừa số liệu thứ cấp
Phương pháp kế thừa số liệu thứ cấp rất cần thiết và được nhiều người sử dụng trong quá trình nghiên cứu, nhằm giảm bớt thời gian và khối lượng công việc nghiên cứu. Các tài liệu thu thập được đề tài kế thừa và và sử dụng bao gồm những kết quả nghiên cứu và nhưng thông tin liên quan được công bố ở các báo cáo và công trình nghiên cứu từ trước đến nay.
Để phục vụ cho quá trình hoàn thiện khóa luận, đề tài đã kế thừa tài liệu từ các nguồn như sau:
- Tài liệu về điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội của bệnh viện;
- Các báo cáo, công trình nghiên cứu có liên quan đến môi trường bệnh viện và Quận Hà Đông;
- Các số liệu tổng quát về quá trình thu gom, phân loại, xử lý chất thải y tế ở Việt Nam;
- Tài liệu trên internet, sách, báo chí...
2.4.2. Phương pháp thu thập số liệu ngoại nghiệp
* Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
+ Trực tiếp khảo sát, điều tra các nguồn xả thải và lượng rác thải tại các nguồn đó;
+ Trực tiếp xuống các khoa chuyên môn, các phòng ban để điều tra cơ cấu tổ chức, thiết bị vật tư, nhân lực quản lý rác thải của bệnh viện.
* Phương pháp điều tra qua bảng hỏi
Sử dụng bảng hỏi để điều tra các vấn đề môi trường có liên quan đến rác thải y tế. Số câu hỏi trong 1 bảng hỏi tuỳ thuộc vào đối tượng được hỏi.
Với cán bộ và nhân viên y tế của bệnh viện: bảng hỏi có 18 câu hỏi, phỏng vấn 40 người và được thực hiện trong một ngày (ngày 20/3/2011) và thu được các kết quả được tổng hợp trong mẫu biểu 01 và 02.
Mẫu biểu 01. Cán bộ nhân viên y tế tại BV được hướng dẫn về Quy chế quản lý chất thải của Bộ y tế
Chỉ số nghiên cứu
Kết quả
n
%
Đã dược hướng dẫn
Chưa được hướng dẫn
Mẫu biểu 02.Điều kiện nhân lực và vật chất của bệnh viện về thực hiện quản lý chất thải rắn y tế
Chỉ số nghiên cứu
Kết quả
n
%
Nhân lực phục vụ, quản lý rác thải
Đủ
Thiếu
Trang thiết bị phục vụ công tác quản lý, xử lý rác thải
Đủ
Thiếu
Các văn bản hướng dẫn
Đủ
Thiếu
Với người dân xung quanh bệnh viện: bảng hỏi gồm có 10 câu, phỏng vấn 40 người và thực hiện vào một ngày (ngày 22/3/2011).
Phiếu câu hỏi được bố trí các câu hỏi đều dễ trả lời, tránh các câu hỏi có tính khái quát cao. Các câu hỏi tập trung vào các vấn đề liên quan đến mục tiêu, nội dung nghiên cứu của đề tài, đảm bảo thu thập đủ các thông tin cần thiết từ ý kiến của người dân. Để tăng độ chính xác của các câu trả lời, các đối tượng được phỏng vấn đã được giải thích rõ và hướng dẫn cách thức trả lời câu hỏi. Các câu hỏi được thu thập lại trong ngày sau đó. Kết quả phỏng vấn được khai thác để xây dựng các mẫu biểu, từ đó rút ra kết luận về ảnh hưởng của rác thải với môi trường bệnh viện và sức khỏe cộng đồng.
2.4.3. Phương pháp xử lý nội nghiệp
Phương pháp này được sử dụng để xử lý các thông tin sau khi đã thu thập được từ các phương pháp khác nhau. Phương pháp này bao gồm:
+ Xử lý toán học đối với các thông tin định lượng, biểu diễn bằng tập rời rạc, bằng số liệu, đồ thị, biểu đồ để tìm mối liên quan giữa các thông số, chỉ số khảo sát để xây dựng các luận cứ, khái quát hoá vấn đề để rút ra được các kết luận chính từ các nguồn dữ liệu của các phương pháp thu thập khác nhau.
+ Sử dụng phần mềm Word, Excel để xây dựng biểu đồ, đồ thị, miêu tả các mối liên quan xuất hiện trong vấn đề nghiên cứu.
CHƯƠNG III
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN,
KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1. Vị trí địa lý
Quận Hà Đông có diện tích là 32,9 km2, nắm ở phía Tây nam so với Hồ Gươm của thủ đô Hà Nội, cách Hồ Gươm 12 km, có quốc lộ 6 chạy qua.
- Phía Đông giáp huyện Thanh Trì
- Phía Tây giáp huyện Quốc Oai, Hoài Đức
- Phía Nam giáp huyện Thanh Oai
- Phía Bắc giáp huyện Từ Liêm, Hoài Đức
Hình 3.1. Bản đồ khu vực nghiên cứu
3.1.2. Đặc điểm địa hình
Hà Đông là một quận thuộc thủ đô Hà Nội, nằm bên bờ sông Nhuệ, cách trung tâm Hà Nội 10 km về phía Tây. Hà Đông là nơi đặt trụ sở một số cơ quan hành chính cấp thành phố của thủ đô Hà Nội. Hà Đông vốn là một vùng đất giàu truyền thống văn hóa và hiện nay là một trong những địa phương có tốc độ phát triển nhanh nhất của Hà Nội.
Nằm hoàn toàn trong khu vực châu thổ Sông Hồng, Hà Đông có địa hình tương đối bằng phẳng và không có đồi núi. Địa hình Hà Đông thấp dần theo hướng từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông với độ cao trung bình là 4 – 7km.
3.1.3. Đặc điểm đất đai
- Diện tích đất tự nhiên của Quận Hà Đông là : 3336ha Trong đó :
+ Đất nội thành : 873 ha
+ Đất ngoại thành : 2463 ha
- Về địa chất: Hà Đông có lịch sử hình thành do quá trình trấm tích, chủ yéu là đất pha cát, điều kiện địa chất thuận lợi cho công tác xây dựng.
3.1.4. Điều kiện khí hậu
Nằm trong vùng khí hậu đồng bằng Bắc Bộ mang đặc thù của miền khí hậu nhiệt đới gió mùa, nên khu vực nghiên cứu có 2 mùa rõ rệt: mùa đông khô lạnh và hè nóng ẩm mưa nhiều.
+ Nhiệt độ trung bình năm là 230 C. Nhiệt độ không khí trung bình mùa hè là 27,50 C và nhiệt độ không khí trung bình mùa đông là 18,50 C.
+ Lượng mưa trung bình + từ tháng 5 – 9: 235.2 mm.
+ từ tháng 10 – 4 (năm sau): 72,34 mm.
+ Gió : chịu ảnh hưởng của 2 hướng gió chính: Mùa hè gió Đông Nam, mùa đông gió Đông Bắc.
3.1.5. Đặc điểm thủy văn
Khu vực nghiên cứu nằm trong vùng có mạng lưới thủy văn khá dày đặc. Trong khu vực có tổng số sông, ao, hồ ở Hà Đông : 52,6 ha gồm các sông: Sông Nhuệ, Sông La Khê, Sông La Khê và có nhiều hồ như hồ Văn Quán, hồ Bệnh Viện Đa khoa Hà Đông sông Nhuệ. Điều đó đã tạo điều kiện cho khu vực có nguồn nước khá phong phú. Mạch nước ngầm khu vực Hà Đông có độ sâu 50- 70m mạch nước ngầm bề mặt có chiều sâu 0,8 – 2,8 m.
Sông Nhuệ là thủy vực quan trọng nhất của Hà Đông, với chiều dài 74km, rộng trung bình 30 – 40m, diện tích là 107,530ha, trong đó diện tích chảy qua Hà Đông chiếm 1,630ha, Sông Nhuệ có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và du lịch của người dân. Sông có chiều dày lớp nước lớn nhất từ cầu Hà Đông, 3,46m; mực nước lớn nhất là 5,77m và có lưu lượng dao động từ 26m3/s vào mùa khô đến 150m3/s vào mùa mưa. Hiện nay, chức năng chính của sông Nhuệ là cung cấp nước cho hoạt động sản xuất chủ yếu là tưới tiêu, và tiêu thoát nước thải cho toàn thành phố.
3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
3.2.1. Điều kiện kinh tế
Hà Đông là một quận của thành phố Hà Nội có tốc đô phát triển mạnh so với toàn thành phố. Thế mạnh kinh tế của vùng là dịch vụ - thương mại. Quận có nhiều điểm dịch vụ - thương mại quan trọng, cụ thể:
+ Dịch vụ tài chính ngân hàng trên địa bàn có 9 chi nhánh ngân hành cấp 1, gồm các ngân hàng thương mại, nhà nước, ngân hàng cổ phần, 6 chi nhánh công ty bào hiểm thương mại, chi nhánh hải quan Hà Đông phục vụ công tác xuất nhập khẩu hàng hóa.
+ Trung tâm xúc tiến thương mại Hà Đông, các siêu thị vừa và nhỏ trong các khu đô thị mới.
+ Hệ thống khách sạn, nhà hàng phát triển có sức hút khách trong vùng đến nghỉ ngơi.
Điều đó đã dẫn đến mức tăng trưởng kinh tế bình quân tăng nhanh, từ năm 1997 đến 2005 đạt 17,9%. Cơ cấu chuyển dịch giữa các ngành kinh tế tích cực và hiệu quả. Tính đến năm 2008, thương mại dịch vụ chiếm 42,05 %, công nghiệp xây dựng chiếm 53,20%, nông nghiệp còn 4,75 %. Thu nhập bình quân đầu người/ năm đạt 1090.00 USD.
3.2.2. Văn hóa và giáo dục
Hà Đông có nền văn hóa truyền thông lâu đới có nhiều địa danh nổi tiếng gắn với lịch sử phát triển của đất nước nói chung và của Hà Nội nói riêng như: Làng lụa Vạn Phúc, làng Đa sỹ xưa nổi tiếng với nhiều nhân tài tiến sĩ nay nỗi tiếng với nghề rèn truyền thống, xã Văn Khê nổi danh là “Trai làng có quân công, tiến sĩ, gái làng là nương phi, hoàng hậu”.
Duy trì và phát triển văn hóa làng nghề như xây dựng làng nghề văn hóa, xây dựng các hoạt động du lịch làng nghề như làng lụa Vạn Phúc. Duy trì các hội làng truyền thống như hội làng La Khê, Đa Sỹ...
Hà Đông có 22 trường mâm non, 20 trường tiểu học, 15 trường trung học cơ sở, 5 trường THPT, 4 Trường Đại học, 5 học viện, 6 cao đẳng và 5 trung tâm giáo dục.
3.2.3. Dịch vụ y tế
Dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe của cộng đồng trên địa bàn nghiên cứu được chú trọng. Trên địa bàn quận Hà Đông có các bệnh viện lớn: Bệnh viện Quân Y 103, bệnh viện Đa khoa Hà Đông, bệnh viện Y học Cổ truyền Tuệ Tĩnh, bệnh viên Y học Dân tộc đã được đầu tư từng bước trang thiết bị hiện đại đáp ứng nhu cầu khám và chữa bệnh cho người dân. Trong đó, bệnh viện đa khoa Hà Đông là một trong những cơ sở khám chữa bệnh lớn của Thủ đô với nhiệm vụ khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân khu vực phía Tây – Nam thành phố và các vùng lân cận. Bệnh viện đa khoa Hà Đông hiện có 550 giường bệnh, với 27 khoa lâm sàng, cận lâm sàng và 6 phòng chức năng. Trong năm qua, bệnh viện đã khám cho trên 274 nghìn lượt bệnh nhân đạt 144% kế hoạch được giao, trong đó có 33.715 bệnh nhân được điều trị nội trú và 11.994 bệnh nhân điều trị ngoại trú. Công suất sử dụng giường bệnh đạt 126,69%. Để thu hút người bệnh đến điều trị, bệnh viện đã triển khai thực hiện nhiều kỹ thuật mới nhằm đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao của người bệnh. Các kỹ thuật chuyên môn sâu ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong điều trị như phẫu thuật nội soi tiết niệu (u xơ tiền liệt tuyến, tán sỏi bàng quang), nội soi tiêu hoá (cắt RT, túi mật), phẫu thuật nội soi sản phụ khoa, phẫu thuật sọ não, thần kinh, cột sống…Trong năm, bệnh viện cũng đã cấp cứu và điều trị thành công nhiều ca bệnh hiểm nghèo như nhồi máu cơ tim, ngộ độc cóc, rắn cắn, sốc chấn thương, suy đa tạng…
Công tác chăm sóc và phục vụ người bệnh cũng luôn được bệnh viện chú trọng. Tinh thần thái độ phục vụ người bệnh và y đức luôn được duy trì. Người bệnh được phục vụ tận tình, chu đáo; các quy tắc ứng xử và giao tiếp của các y bác sĩ, đặc biệt là các điều dưỡng viên, hộ lý đã được nâng cao. Bệnh viện thường xuyên tổ chức kiểm tra, giám sát công tác chăm sóc người bệnh; mở các lớp tập huấn về kiến thức và kỹ năng phục vụ cho các điều dưỡng viên và hộ lý. Duy trì sinh hoạt hội đồng người bệnh ở cấp khoa và bệnh viện, những ý kiến đóng góp của người bệnh được lắng nghe và giải quyết kịp thời. Công tác vệ sinh buồng bệnh được thực hiện tốt, đảm bảo vệ sinh môi trường không để xảy ra lây chéo trong bệnh viện. Bên cạnh đó, bệnh viện cũng chú trọng tuyên truyền, hướng dẫn cho cán bộ y tế, bệnh nhân cũng như người nhà bệnh nhân tăng cường các biện pháp vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường bằng nhiều hình thức như tờ rơi, áp phích, các phòng khám tư vấn, tuyên truyền thông qua những buổi họp hội đồng người bệnh để mọi người có ý thức tự bảo vệ sức khoẻ cho mình và cộng đồng.
Nhờ vậy trong năm qua, bệnh viện đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, được Ngành đề nghị Bộ Y tế công nhận danh hiệu Bệnh viện xuất sắc toàn diện. Có được thành công đó là do có sự cố gắng, nỗ lực của toàn thể cán bộ, công nhân viên trong toàn bệnh viện. Phát huy những thành tích đã đạt được, năm 2010, cán bộ, công nhân viên bệnh viện đa khoa Hà Đông quyết tâm phấn đấu khắc phục mọi khó khăn, tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như tinh thần trách nhiệm của mỗi người, để xây dựng bệnh viện ngày càng phát triển với mục tiêu tất cả vì sức khoẻ của nhân dân.
3.2.4. Giao thông và cơ sở hạ tầng
Tổng diện tích đất giành cho giao thông đô thị là 277,33 ha chiếm 31,97% so với diện tích xây dựng đô thị.
- Đường bộ mạng lưới giao thông đang được đầu tư
- Đường sắt : Tuyến đường sắt từ Hà Nội – Lào Cai chạy qua Hà Đông là 6,5 km
- Đường thủy có một con sông lớn chạy qua : Sông Nhuệ và sông Bạch Đằng thuận lợi cho giao thông đường thủy tưới tiêu nước cho nông nghiệp.
3.3. Giới thiệu chung về BV Đa Khoa Hà Đông
3.3.1. Lịch sử ra đời của bệnh viện
Bệnh viện đa khoa Hà Đông có lịch sử hình thành và phát triển gần 100 năm, nguyên là cơ sở điều trị tuyến cuối của Hà Tây cũ nay thuộc Bệnh viện Đa khoa tuyến thành phố của Hà Nội. Tuy cơ sở vật chất còn thiếu thốn, nguồn nhân lực còn hạn chế song các y bác sỹ nơi đây luôn xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm cơ bản là khám chữa bệnh cho nhân dân, đặc biệt là giải quyết tốt khám chữa bệnh cho các đối tượng chính sách, người nghèo và trẻ em.
Năm qua, Bệnh viện đã điều trị cho gần 300 nghìn lượt bệnh nhân, phẫu thuật thành công cho 7 nghìn người bệnh có ca mổ khó. Lấy niềm vui của bệnh nhân là động lực, bệnh viên luôn đảm bảo chế độ thường trực cấp cứu suốt ngày đêm không để tai biến hay sai sót ảnh hưởng tính mạng người bệnh, nhiều bệnh nhân nặng đã được cứu chữa kịp thời. Với tinh thần coi bệnh nhân như người nhà, ưu tiên tất cả tình yêu thương dành cho người bệnh nên các y bác sỹ nơi đây luôn nhận được những phản hồi tích cực từ phía bệnh nhân và người nhà bệnh nhân. Đội ngũ y bác sỹ Bệnh viện luôn có ý thức nâng cao tinh thần, trách nhiệm với người bệnh, chế độ giao tiếp với người bệnh và gia đình bệnh nhân. Nội dung về y đức được quán triệt sâu rộng đến từng cán bộ. Thông qua các kỳ bỏ phiếu thăm dò người bệnh và gia đình người bệnh cho thấy, không có kiến nghị nào về y đức và trách nhiệm của các cán bộ y tế.
3.3.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý bệnh viện
- Ban giám đốc và 33 khoa phòng (27 khoa Lâm sàng và Cận Lâm sàng, 06 phòng chức năng).
- Các đoàn thể chính trị và tổ chức xã hội.
+ Đảng bộ Bệnh viện gồm 23 chi bộ với 158 đảng viên.
+ Công đoàn cơ sở Bệnh viện gồm 32 công đoàn bộ phận với 471 đoàn viên công đoàn.
+ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có 121 đoàn viên.
+ Chi hội Cựu chiến binh có 93 hội viên.
+ Chi hội Y tá điều dưỡng có 259 hội viên.
CHƯƠNG IV KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Hiện trạng rác thải y tế tại bệnh viện
4.1.1. Nguồn phát sinh, thành phần và khối lượng chất thải bệnh viện
a. Nguồn phát sinh
Rác thải phát sinh trong bệnh viện từ nhiều nguồn khác nhau. Qua điều tra và khảo sát thực tế cho thấy, các nguồn phát sinh rác thải bao gồm từ các hoạt động chăm sóc sức khỏe người bệnh đến các hoạt động sinh hoạt của cán bộ công nhân viên, bệnh nhân và người nhà bệnh nhân trong bệnh viện (hình 4.1)
Hình 4.1. Sơ đồ nguồn phát sinh chất thải bệnh viện đa khoa Hà Đông
Rác thải phát sinh trong quá trình hoạt động bệnh viện có thể phân chia thành hai nhóm theo tính chất ô nhiễm và biện pháp xử lý.
*Rác thải từ hoạt động chuyên môn chiếm 10 – 15% bao gồm
+Phòng khám bệnh phẩm thải ra: mủ các tổ chức hoại tử, bông băng gạc nhiễm khuẩn, dụng cụ, nẹp cố định, quần áo nhiễm khuẩn.
+ Khoa xét nghiệm thải ra: máu, hóa chất, bơm kim tiêm, kim chích máu, chai lọ đựng bệnh phẩm sau khi xét nghiệm, môi trường nuôi cấy, ...
+ Khoa điều trị thải ra: bông băng, mủ hoại tử, tổ chức hoại tử đã cắt lọc, bơm kim tiêm, thuốc thừa, các dịch bệnh phẩm, ...
+ Khoa dược phẩm thải ra: quá hạn, dược phẩm bị nhiễm khuẩn, dược phẩm không còn sử dụng.
* Rác thải sinh hoạt chiếm 85 – 90%, lượng rác này sinh ra từ các hoạt động sinh hoạt của bác sĩ, nhân viên y tế và người nhà bệnh nhân ở nội trú.
b. Thành phần và khối lượng rác thải y tế
Thành phần và lượng rác thải y tế tại bệnh viện phát sinh phụ thuộc chủ yếu vào các hoạt động chuyên môn và quản lý, số giường bệnh và số bệnh nhân nằm điều trị. Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, rác thải tại bệnh viện được phân loại thành: rác thải nguy hại (chiếm 10-15%) và rác thải sinh hoạt (chiếm 85-90%).
Kết quả điều tra rác thải sau 3 năm từ năm 2008 – 2010 được trình bày qua bảng 4.1
Bảng 4.1. Khối lượng rác thải trong 3 năm.
TT
Năm
Khối lượng rác(tấn)
1
2008
150
2
2009
165
3
2010
185
Từ kết quả trên bảng 4.1 ta thấy, lượng rác thải năm 2009 tăng hơn so với năm 2008 là 15 tấn/năm, năm 2010 so với năm 2009 tăng hơn 20 tấn/năm. Như vậy, lượng rác thải có xu hướng tăng lên theo từng năm do lượng bệnh nhân đến khám bệnh ngày càng tăng
Thành phần và khối lượng rác thải y tế có trong bệnh viện được trình bày trên bảng 4.2 và hình 4.2.
Bảng 4.2. Thành phần và khối lượng chất thải rắn y tế của bệnh viện
STT
Nhóm chất thải y tế
Loại dạng
Khối lượng chất thải
(kg/ tháng)
1
Chất thải phóng xạ
Chất thải phóng xạ rắn, lỏng và khí phát sinh từ các hoạt động chuẩn đoán, điều trị, nghiên cứu và sản xuất.
Không xác định
2
Bình chứa áp suất
Bình chứa O2, CO2,...Các bình này dễ gây cháy, nổ khi thiêu đốt.
3
Chất thải lây nhiễm
Kim tiêm, đầu sắc nhọn của dây chuyền, lưỡi dao mổ, cưa, các ống tiêm, mảnh thủy tinh vỡ và các loại sắc nhọn khác.
425
Bơm tiêm nhựa, chất thải bị thấm máu, thấm dịch sinh học của cơ thể và các chất thải phát sinh từ buồng bệnh cách ly.
560
Bệnh phẩm và các dụng cụ đựng, dính bệnh phẩm. Các mô, cơ quan, bộ phận cơ thể người, nhau thai, bào thai và xác động vật thí nghiệm.
600
4
Chất thải hữu cơ, hóa học nguy hại
Dược phẩm quá hạn, kém phẩm chất, không còn khả năng sử dụng trong y tế.
0
Vỏ chai thuốc, lọ thuốc, các dụng cụ dính thuốc gây độc tế bào và các chất tiết ra từ người bệnh nhân được điều trị bằng hóa liệu.
8
Thủy ngân: nhiệt kế, huyết áp kế, thủy ngân bị vỡ, chất thải từ hoạt động nha khoa.
2
Cadimi (từ pin, ắcquy), Chì (từ tấm gỗ bọc chì hay vật liệu tráng chì sử dụng trong ngăn tia xạ từ các khoa chuẩn đoán hình ảnh, xạ trị)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- - Nghiên cứu đề xuất giải pháp quản lý rác thải tại Bệnh Viện Đa Khoa Hà Đông, Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội.doc