Nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm là vấn đề rất quan trọng và
sống còn đối với doanh nghiệp. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, nó càng quan
trọng và yêu cầu khắt khe hơn từ sự canh tranh khốc liệt của thị trường, từ yêu cầu
nâng cao chất lượng sản phẩm, và từ yêu cầu cần thiết xây dựng và phát triển sản
phẩm ngày càng phù hợp hơn với nhu cầu tiêu dùng. Doanh nghiệp muốn tồn tại,
muốn duy trì và phát triển cần phải có sự quan tâm, đầu tư đúng, đủ và phù hợp vào
hoạt động nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm.
Trong luận văn này tác giả không đề cập đến hoạt động kinh doanh xe máy
của Công ty Honda Việt Nam, vì dòng sản phẩm này của công ty đang giữ vị trí tiên
phong cho toàn bộ thị trường xe máy Việt Nam. Đây là thành quả, và là bước đà tốt
để cho công ty đẩy mạnh hoạt động lắp ráp, kinh doanh xe ôtô. Quả vậy, Honda ôtô
cũng giành những thành tựu nổi bật như: đạt doanh số bán hàng rất tốt chỉ trên hai
dòng sản phẩm, xây dựng hệ thống Đại lý 3S tiêu chuẩn cao nhất so với hệ thống
Đại lý các hãng khác, rất nghiêm túc trong việc nghiên cứu thị trường, luôn chú ý
chăm sóc khách hàng và tìm kiếm những những khách hàng trung thành.
92 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 8981 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm của công ty Honda Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Combination
Number) phù hợp với mong muốn tiêu dùng tại thị trường. Công ty có thể lắp
ráp bổ sung thêm các trang thiết bị tuỳ chọn (Option) cho xe.
iii.Lựa chọn, phát triển các màu sắc phù hợp với mong muốn người tiêu
dùng.
iv. Phát triển các dòng sản phẩm (Model) mới – theo các phương thức: Nhập
khẩu phụ tùng, phụ kiện lắp ráp trong nước CKD (Completely Knocked
Down), hoặc Nhập khẩu xe nguyên chiêc CBU (Completely Build-up Unit).
Giới hạn về đối thủ cạnh tranh sản phẩm ôtô của HVN:
Đối thủ cạnh tranh của Honda Việt Nam thì bao gồm hai loại sản phẩm đối
thủ:
i. Các sản phẩm ôtô Honda, do các công ty thương mại đứng ra nhập khẩu,
sản phẩm Honda CBU.
53
ii. Các sản phẩm của các ôtô mang nhãn hiệu khác, bao gồm cả lắp ráp
(CKD) và nhập khẩu nguyên chiếc (CBU)
4.2.1.Bắt chước sản phẩm của đối thủ
Trong thời gian qua tại Honda Việt Nam, việc phát triển sản phẩm bằng
phương thức bắt chiếc đối thủ gần như không áp dụng. Honda Civic ra đời tại thế hệ
thứ 8, phiên bản 2006. Sản phẩm luôn luôn được phát triển nhưng được định hướng
theo phong cách chính (key style): “Thể thao”, “Mạnh mẽ”, “An toàn”, đây chính là
những điểm xuyên suốt và làm nên giá trị riêng của Honda Civic, hình 4.
Đối với Honda trên toàn thế giới, sản phẩm Honda Civic là sản phẩm có
nhiều thành tựu nhất, và là sản phẩm phổ biến nhất, thị trường nào bắt đầu sản phẩm
Civic thường đi trước trong vai trò tiên phong. Bởi vì, Civic là sản phẩm Sedan
hạng trung (Hạng C), mọi tiêu chuẩn đều giữ vai trò đảm bảo, và có giá cả hạng
trung (Tại nước ngoài có giá khoảng từ $15,000 - $20,000, tại Việt Nam giá xe lắp
ráp (CKD) hiện nay: giá từ $31,000 đến $38,000 tuỳ theo loại xe 1.8MT, 1.8AT hay
2.0AT).
Hình 4. Phong cách thiết kế Honda Civic
Nguồn: Đào tạo sản phẩm, Marketing Honda Việt Nam
54
Trong nhưng sản phẩm tương tự Honda Civic có Toyota Altis, là đối thủ trực
diện, ngang ngửa và chạy suốt một quãng đường dài cùng Civic. Tuy nhiên quan
điểm của 2 xe này hoàn toàn khác nhau, Honda Civic: là sự trẻ trung, năng động,
thiết kế thể thao, vận hành mạnh mẽ; Toyota Altis: là sự chu đáo, tinh tế, chiều sâu,
và cổ điện. Về quan điểm khách hàng mục tiêu của Civic có phần khác biệt: là
những người trẻ tuổi, thành đạt, chưa có gia đình, hoặc mới lập gia đình; trong khi
đó với Altis: có thể là những người nhiều tuổi hơn, tinh tế, kín đáo. Trong phiên bản
mới nhất của 2 dòng xe này thì càng nổi bật quan điểm hơn, Civic 2010: càng thể
thao, mạnh mẽ; Altis 2009: càng tinh tế, cổ điển, và ngày càng giống và mang dấu
ấn của người “anh trai” xe Toyota Camry vỗn đã nổi danh từ lâu.
Còn với Honda CR-V, đây là một chiếc xe thể thao SUV (Sport Utility
Vehicle), ra đời tại Việt Nam vào tháng 12 năm 2008:
Hình 5. Phong cách thiết kế Honda CR-V
Nguồn: Đào tạo sản phẩm, Marketing Honda Việt Nam
55
Trong khu vực thị trường này, gần như đây là một khu vực “béo bở”, và tốt
để HVN lựa chọn và thoả sức chơi ở đây. Mặc dù một phần nhỏ vẫn phải chia sẻ
với người bạn Toyota RAV4. Tuy nhiên xe RAV4 là xe 7 chỗ, và là xe nhập nguyên
chiếc (CBU), nên cơ hội của Honda CR-V vẫn là rất rộng.
Khách hàng cho Honda CR-V được dự tính và thống kế là những: khách
hàng của Civic đi lên, khách hàng của GP Captiva, Ford Escape, Proto chuyển đổi.
4.2.2.Cải tiến sản phẩm sẵn có
Việc cải tiến sản phẩm ôtô của Honda Việt Nam rất thận trọng và không
nhiều. Việc cải tiến sản phẩm ôtô bao gồm các hoạt động sau: Cải tiến thế hệ, phiên
bản từ công ty Honda mẹ - Honda Motor Nhật Bản, đa dạng hoá – phát triển các
loại trang thiết bị tuỳ chọn (Option), các lại dung tích xe , các kiểu số (AT-MT, số
tự động hay số sàn, bao nhiêu cấp), phát triển thêm các màu sắc,...
Đối với sản phẩm Honda Civic: Ra đời từ tháng 8 năm 2006, cho đến này có
những cải tiến sau:
+ Có vài lần thay đổi, nhưng lần thay đổi nhiều nhất là vào năm 2009, tập
chung nhiều ở cụm đèn xe, làm cho xe mang đậm chất thể thao hơn. Những sự thay
đổi này rất nhỏ người ta gọi là facelift.
+ Không thay đổi được chút nào về máy và cấp số: Có 4 loại: 1.8MT, 1.8AT,
2.0MT, 2.0AT. Từ năm 2008, HVN đã loại bỏ dòng 2.0MT và không có sự phát
triển thêm nào.
+ Số lượng màu sắc ngoại thất thì cũng hạn chế, hiện nay chỉ có 4 màu: đen
ánh, ghi xám, bạc xám, nâu vàng.Tính cả những mầu đã từng loại bỏ trước đây thì
có khoảng 8 mầu.
+ Có 2 chương trình Marketing xuất hiện Option và mầu ngoại thất đặc biệt.
Thứ nhất là: kỷ niêm Honda Civic đạt chiếc xe thứ 10,000 (năm 2008), HVN cho
ra đời 150 xe màu đỏ bã trầu, tăng thêm Option đặc biệt và giá bán không đổi,
chương trình này cũng nhiều chật vật, và hiệu quả không cao. Thứ hai là: chương
trình thúc đẩy bán hàng tháng 11 năm 2010 (Honda Civic Wise Edition), HVN cho
56
ra đời 150 xe màu trắng, tăng thêm Option và giá bán tăng thêm 3,200,000 VNĐ.
Chương trình này đang được trỉển khai và chưa xác định được hiệu quả.
Đối với Honda CR-V: Ra đời từ tháng 12 năm 2008, cho đến nay có những
cải tiến sau:
+ Có 1 lần thay đổi facelift rất nhỏ là: hạ thấp thân xe hơn một chút, bỏ bộ
cản nhựa đằng trước, có thêm thiết bị tăng độ cách âm. Tổng giá trị mang lại cho
khách hàng lần này tương đương 7,000,000 VNĐ.
+ Có duy nhất một loại sản phẩm là CR-V, 2.4AT, một mầu nội thất.
+ Số lượng màu sắc ngoại thất thì hạn chế, hiện nay có 4 mầu: đen anh, ghi
xám, ghi bạc, nâu vàng. Kể cả màu đã loại bỏ đến thời điểm này là 5 màu.
Nhìn chung là việc cải tiến các sản phẩm Honda Việt Nam hiện nay là rất
hạn chế. Thậm chí ngay cả những màu sắc cũng là những con số rất nhỏ. Nếu so
sánh với Hyundai Thành Công, một nhà nhập khẩu xe Hyundai nguyên chiếc thành
lập từ 2009, thì số lượng dòng sản phẩm (Model) của công ty này là 12 dòng sản
phẩm, mỗi sản phẩm có trung bình từ 4 đến 5 loại Option, và có 12 màu tương ứng
cho mỗi dòng sản phẩm. Sự so sánh này làm nổi bật sự hạn chế đó.
4.2.3.Sáng chế sản phẩm mới hoàn toàn
Sáng chế sản phẩm mới hoàn toàn ở đây là việc thực hiện các bước tương tự
như sáng chế sản phẩm mới phần hệ thống lý luận, để tìm ra sản phẩm ôtô Honda,
mà đã được sản xuất và cung cấp trên thế giới phù hợp nhất với mong muốn của
người tiêu dùng Việt Nam. Từ đó Honda Việt Nam có thể nhập nguyên chiếc, hoặc
sản xuất, lắp ráp trong nước sản phẩm này.
Việc quyết định ra đời sản phẩm Honda CR-V vào tháng 12 năm 2008, cũng
là một quyết định sáng chế sản phẩm mới hoàn toàn. Những lý do để Ban lãnh đạo
Công ty Honda Việt Nam đưa ra quyết định sản phẩm này như sau:
- Việt tuyển chọn sản phẩm, và ý tưởng sản phẩm xuất hiện từ năm 2007, khi
dự án Honda Civic đã chạy trơn chu . Lúc đầu Marketing và Ban Lãnh đạo đưa ra
57
hai sự lựa chọn: Accord, và CR-V. Lý do đưa ra hai sản phẩm này bởi vì cả hai sản
phẩm này đều thân thiện và được người tiêu dùng Việt Nam biết đến nhiều nhất,
ngay sau sản phẩm Civic. Và ngoài ra, khu vực Châu Á Thái Bình Dương Accord
và CR-V cũng là những sản phẩm rất được ưa chuộng.
- Sau quá trình nghiên cứu thị trường, phòng Marketing HVN định vị 2 sản
phẩm này trên thị trường ôtô Việt Nam, tiến hành những phương pháp so sánh đánh
giá, về chất lượng, giá cả, khả năng tiêu thụ, thì cả hai sản phẩm này đều có những
có hội rất tốt và rất khả thi.
- Tuy nhiên, về “cửa” thị trường của Honda CR-V vẫn rộng hơn, cả khu vực
khách hàng từ Daewoo Captiva, Fords Escape lên đến Santa Fe 2.2, RAV 4, thì nếu
đặt CR-V vào đó thì vô cùng hợp lý. Sản phẩm CR-V có cấu hình và trang thiết bị
tùy chọn tốt, có hệ thống an toàn cao, và giá cả thì rất hợp lý. Số lượng thống kê sản
phẩm CR-V nhập khẩu của các đơn vị nhập khâu nhỏ đạt được con số khá lớn và ổn
định hàng năm. Còn Accord có Camry là đối thủ trực diện hơn, khả năng cạnh tranh
kém hơn, giá xe này cao cũng, đây cũng là lý do HVN trì hoãn lại việc lựa chọn sản
phẩm Accord này trước. Hình 6 dưới đây là khu vực cạnh tranh và định vị sản phẩm
Honda CR-V.
58
Hình 6. Khu vực thị trƣờng lựa chọn xe CR-V
Nguồn: Kế hoạch kinh doanh, Marketing Honda Việt Nam
- Bên cạnh đó, sản phẩm đầu tiên Honda Civic là một xe sedan hạng nhỏ,
HVN cũng mong muốn sản phẩm thứ 2 là một loại sản phẩm không phải sedan, mà
là SUV. Đó chính là lý do Honda lựa chọn sản phẩm thứ 2 là Honda CR-V.
- Sản phẩm CR-V này sẽ là CR-V 2.4AT, sản phẩm xe lắp ráp trong nước,
kỳ vọng bán hàng hàng tháng là 150 xe.
Và cho đến thời điểm này, Honda Accord cũng đã được Honda Việt Nam
quyết định đưa vào thị trường Việt Nam. Tháng 1 năm 2011, Sản phẩm Accord
3.5AT, xe nhập khẩu nguyên chiếc sẽ được đưa vào thị trường. Sản phẩm này được
Honda Việt Nam kỳ vọng bán 100 xe hàng tháng, xe sẽ được nhập từ Thái Lan, hiện
nay chưa có giá chính thức.
59
CHƢƠNG III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ NGHIÊN CỨU THỊ
TRƢỜNG VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM ÔTÔ CHO CÔNG TY
HONDA VIỆT NAM
I. Xu hƣớng phát triển của thị trƣờng trong tƣơng lai và mục tiêu Doanh
nghiệp
1.1.Xu hướng phát triển của thị trường ôtô trong tương lai
Nền kinh tế Việt Nam phát triển tốt, cơ sở hạ tầng được xây dựng, phát triển
nhanh chóng. Thu nhập của người dân được tăng lên nhiều, nên thị trường ôtô trong
thời gian tới sẽ phát triển tốt. Bên cạnh đó theo thống kê của cục đăng kiểm số ôtô
lưu hành tại Việt Nam khoảng 1 triệu xe, chiếm 1/80 dân số, nên cơ hội tiêu thụ ôtô
còn rất nhiều. Theo dự báo của Tổ chức theo dõi tình hình kinh doanh quốc tế BMI
(Business Monitor International), nếu không có sự can thiệp từ chính sách của nhà
nước thì hàng năm thị trường ôtô Việt Nam sẽ tăng trưởng khoảng 20%. Tuy nhiên,
thị trường ôtô Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng từ phía Chính phủ và các chính sách
của nhà nước, nên việc xác định xu hướng thị trường cần phải căn cứ theo giai
đoạn: ngắn hạn và trung hạn.
Xu hướng thị trường ôtô trong giai đoạn ngắn hạn sắp tới: thị trường ôtô khá
không ổn định, về nhu cầu tiêu dùng hàng năm cũng sẽ tăng khoảng 10%. Các sản
phẩm tiêu thụ tốt sẽ là những xe bình dân, giá tiền thấp. Các sản phẩm ôtô hạng
trung sẽ bị chậm hơn, các sản phẩm hạng sang, và cao cấp sẽ vẫn tiêu ổn định (vì
đối tượng khách hàng này sẽ không bị ảnh hưởng nhiều bởi tình hình kinh tế). Dự
báo: năm 2011: thị trường tăng trưởng khoảng 10%, năm 2012: thị trường tăng
khoảng 30%, 2013, 2014, 2015: thị trường tăng trưởng trung bình 15%.
Xu hướng thị trường ôtô trong giai đoạn dài hạn: thị trường ôtô sẽ phát triển
ổn định, tăng trưởng hàng năm sẽ là 15-20%. Các hãng ôtô sẽ cạnh tranh với nhau
dữ dội, người tiêu dùng có khả năng lựa chọn sản phẩm cao, với giá hợp lý, bao
gồm cả 2 dòng sản phẩm lắp ráp (CKD), và nhập khẩu nguyên chiếc (CBU).
60
1.2.Mục tiêu của công ty Honda Việt Nam trong thời gian sắp tới
Mục tiêu dài hạn của công ty Honda Việt Nam là: Hỗ trợ và phát triển những
giải pháp và phương tiện giao thông tốt nhất, đóng góp cho xã hội Việt Nam -
“helping the development of the best traffic and transportation, Honda contributes
to the society of Vietnam” (Honda CEO Message, 2008). Đây là tiêu chí của Honda
Việt Nam hoạt động trong cả 2 mảng kinh doanh ôtô và xe máy. Trong Honda ngoài
khái niệm 5S áp dụng cho môi trường làm việc, còn có khái niệm 5S hoạt động kinh
doanh. 5S đó là (Sales: hoạt động bán hàng, Service: Hoạt động dịch vụ sau bán
hàng, Spare Part: Phụ tùng đầy đủ, thân thiện, Safety: Lái xe an toàn, Social: Hoạt
động xã hội). Đây là các tiêu chí xuyên suốt cho hoạt động kinh doanh của Honda.
Mục tiêu ngắn hạn của công ty, là cụ thể hoá, và đưa ra những con số có thể
đo lường được. Trong mảng kinh doanh ôtô, mục tiêu của công ty được đưa ra như
sau:
- Xây dựng, và phát triển được hệ thống Đại lý hoạt động theo tiêu chuẩn
quốc tế. Đào tạo đội ngũ nhân viên công ty, nhân viên Đại lý có kiến thức và kinh
nghiệm trong công việc. Mục tiêu đến 2015 sẽ xây dựng thành công 15 Đại lý trên
cả nước.
- Trung bình hàng năm doanh số ôtô tăng trưởng 20%.
- Cung cấp được những sản phẩm ôtô phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng,
phát triển thêm 5 dòng sản phẩm nữa đến năm 2015.
- Tiếp tục giữ vững vị thứ nhất chỉ số hài lòng khách hàng SSI (Sales
Satisfaction Index).
II.Đề xuất giải pháp nghiên cứu thị trƣờng và phát triển sản phẩm cho Công ty
Honda Việt Nam
2.1.Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu thị trường
2.1.1.Xác định vấn đề nghiên cứu
Trong quá trình xác định vấn đề nghiên cứu Honda Việt Nam thường gộp
nhiều vấn đề nghiên cứu cho một lần nghiên cứu, chẳng hạn như nghiên cứu về thị
61
trường trường cho mục đích phát triển sản phẩm kết hợp với mục đích đánh giá
chính sách bán hàng, mục đích đánh giá thương hiệu, v.v... Việc kết hợp này có
nhiều thuận lợi, tuy nhiên để nâng cao hiệu quả cho việc nghiên cứu thị trường
nhằm mục đích phát triển sản phẩm, thì nên tách ra một mục tiêu duy nhất cho một
lần nghiên cứu.
Các mục đích nghiên cứu, các khu vực nghiên cứu thường được tập trung ở
hai thành phố lớn Hà Nội, và Hồ Chí Minh. Điều này có nhiều ưu điểm vì khách
hàng hiện nay một phần lớn là tập trung ở hai thành phố lớn này. Tuy nhiên để nâng
cao hiệu quả, thì trong tương lai nên mở rộng ra các thành phố lớn khác chẳng hạn
như: Đà Nẵng, Nghệ An, Cần Thơ, Hải Phòng,...
Honda Việt Nam cũng nên nghiên cứu khách hàng của các hãng xe khác, để
trả lời xem họ suy nghĩ, đánh giá như thế nào về sản phẩm ôtô của Honda Việt
Nam.
2.1.2.Phương pháp nghiên cứu thị trường
2.1.2.1.Thu thập thông tin thứ cấp
Thu thập trong doanh nghiệp:
Để tăng hiệu quả của việc thu thập thông tin trong doanh nghiêp, có một số
phương hướng mà HVN nên chú ý:
- Đối với hệ thống hỗ trợ thống hỗ trợ quản lý bán hàng đại lý DTS (Dealer
Total Support System) hiện tại, doanh nghiệp cần phát triển phù hợp hơn với văn
hoá kinh doanh, văn hoá sử dụng tại Việt Nam. Trước hết là cần nhìn nhận lại các
quy trình nhập hàng, bán hàng, giao hàng, để phát triển phù hợp với với thực tế
nước ta; cũng cần khảo sát kỹ từ góc độ người tiêu dùng. Ngay từ bước đầu, hệ
thống mà có khả năng hỗ trợ tốt hoạt động công việc hàng ngày, và mang tính thực
tiễn cao thì sẽ được người dùng sử dụng một cách nghiêm túc và hiệu quả. Từ đây
có thể lấy ra được dữ liệu mang độ chuẩn xác cao.
62
- Đối với Báo cáo bán hàng hàng ngày, thì HVN nên thiết kế lại để mẫu báo
cáo đơn giản hơn, mang nhiều thông tin thiết thực hơn, phục vụ tốt hơn cho việc
phân tích dữ liệu khách hàng.
Thu thập ngoài doanh nghiệp:
Việc thu thập dữ liệu bên ngoài doanh nghiệp tiếp tục duy trì và tập trung
nhiều hơn vào hoạt động phân tích, loại bỏ những thông tin không có ý nghĩa nhiều,
tìm kiếm thêm những thông tin hữu ích, phù hợp với mục đích cần nghiên cứu. Môt
số diễn đàn có nhiều thông tin, phản ánh chuẩn xác về nhu cầu, mong muốn của
khách hàng, cần tìm kiếm, lọc ra những thông tin này.
Bên cạnh đó có nhiều thông tin hữu ích, do những công ty, hoặc tổ chức phi
chính phủ cung cấp, công ty cần chủ động tìm kiếm. Chẳng hạn như thông tin của
BMI (Business Monitor International - tổ chức
này hàng quý có những báo cáo rất chi tiết về tình hình sản xuất, kinh doanh ôtô
theo từng nước, và từng khu vực. Hoặc những thông tin trên:
trên đây có những thông tin rất tốt.
Đề xuất Honda R&D Việt Nam hỗ trợ khối kinh doanh ôtô tại Việt Nam
trong việc nghiên cứu thị trường, và phát triển sản phẩm.
2.1.2.2.Thu thập nguồn thông tin sơ cấp
Thuê các công ty trung gian:
Đối với nhà sản xuất, phân phối ôtô, việc nghiên cứu các chỉ số hài lòng
khách hàng: chỉ số hài lòng bán hàng SSI (Sales Satisfaction Index), và chỉ số hài
lòng dịch vụ CSI (Customer Satisfaction Index). Có ý nghĩa quan trọng, nên HVN
vẫn tiếp tục nghiên cứu các chỉ số này thông qua các công ty trung gian như J.D
Power, và TNS.
Tuy nhiên, những chỉ số này là tổng hợp của nhiều yếu tố. Trong hoạt động
phát triển sản phẩm, HVN nên thuê một trong các công ty này tập trung nghiên cứu
chuyên sâu về vấn đề sản phẩm ôtô Honda Việt Nam, cũng như kỳ vọng của khác
hàng về sản phẩm có thể tốt hơn. Các mẫu khách hàng ở đây có thể lựa chọn: khách
63
hàng tiềm năng, khách hàng chọn xe của đối thủ, khách hàng yêu thích và khách
hàng trung thành của Honda Việt Nam. Nhưng chủ đề nên chủ yếu tập trung vào
vấn đề sản phẩm hiện tại và phát triển sản phẩm.
Honda Việt Nam tiến hành nghiên cứu:
Số lượng nhân viên Marketing ôtô của Honda Việt Nam không nhiều, nên
để Honda Việt Nam có thể tự tiến hành nghiên cứu nhiều, thì trước hết là nên tăng
số lượng nhân viên lên nhiều hơn.
Phương pháp thảo luận nhóm (FGD) vẫn tiếp tục duy trì với tần suất nhiều
hơn, các câu hỏi tập nên trung vào sản phẩm, và chất lượng sản phẩm. Các sản
phẩm so sánh, nên mở rộng ra nhiều hơn.
HVN có thể sử dụng phương pháp phỏng vấn qua điện thoại, để hỏi khách
hàng đã mua xe, những cảm nhận về sản phẩm ôtô Honda Việt Nam. Khách hàng
kỳ vọng điều gì hơn, đây là những câu hỏi, và cách thức đơn giản có thể tiến hành.
Nếu áp dụng phương pháp quan sát, nhân viên phòng Marketing có thể đến
Đại lý để quan sát hành vi mua hàng của khách hàng, để đánh giá thái độ, cảm nhận
của họ về sản phẩm của công ty.
2.1.3.Xử lý các thông tin
Số lượng nhân viên thực hiện xử lý số liệu không nhiều và còn trẻ, nên công
ty nên tăng thêm nhân lực nhiều kinh nghiệm để thực hiện nhiệm vụ này. Việc loại
bỏ, lựa chọn, phân tích số liệu cần có kinh nghiệm, và kỹ thuật để số liệu được
chính xác hơn. Ngoài ra, bộ phận này cần chủ động phân tích, xử lý các thông tin,
kể cả chưa nhận được yêu cầu của cấp trên và Ban lãnh đạo. Ngoài ra, có thể nhờ bộ
phận kinh doanh, bộ phận chăm sóc khách hàng (CR), hỗ trợ phân tích ngay chính
các dữ liệu họ cung cấp.
Tăng cường áp dụng công nghệ, và công nghệ thông tin vào xử lý số liệu để
tăng tính hiệu quả. Nên bổ sung sử dụng các phần mềm như: SPSS, STATA, SAS,
Crystall Report,.... Trong trường hợp cần thiết yêu cầu sự hỗ trợ của bộ phận Công
64
nghệ thông tin (IT) hoặc thuê nhân viên giỏi về công nghệ thông tin về phân tích số
liệu.
Trong một vài trường hợp, có thể thuê một công ty bên ngoài đứng ra phân
tích, và xử lý số liệu.
2.1.4.Giới thiệu các kết quả nghiên cứu
Việc công ty yêu cầu cao về báo cáo, có ưu điểm là người đọc dễ hiểu, tạo
được thói quen làm báo cáo, nhân viên có điều kiện rèn luyện khả năng làm báo
cáo, mọi nội dung công việc sẽ được trình bày khoa học, dễ hiểu. Tuy nhiên có
nhược điểm là mất rất nhiều thời gian làm việc của nhân viên, có những việc có thể
báo cáo bằng miệng hoặc hình thức khác. Bên cạnh đó cũng sẽ có nhiều báo cáo
“chống chế” hoặc thông tin không nhiều.
Công ty nên yêu cầu báo cáo hợp lý, khoa học để đạt được mục đích thông
tin và có nhiều thời gian giải quyết công việc hàng ngày.
2.1.5.Sử dụng các kết quả nghiên cứu
Việc kỹ càng trong phê duyệt và ra các quyết định Marketing có ưu điểm là
cẩn thận, đánh giá tốt hiệu quả, cũng như tránh các sai lầm. Tuy nhiên nếu mất
nhiều thời gian quá, thì sẽ mất đi cơ hội, và cũng có thể làm giảm hiệu quả của việc
ra quyết định, của việc ban hành chính sách hay những chiến dịch Marketing.
2.2. Hoàn thiện hệ thống thông tin nghiên cứu thị trường
Hệ thống thông tin nghiên cứu thị trường, hay là hệ thống thông tin Marketing
là một yếu tố cực kỳ quan trọng đảm bảo Marketing có hiệu quả như một kết quả
của xu hướng Marketing toàn quốc và quốc tế, chuyển từ nhu cầu của người mua
sang mong muốn của người mua, và chuyển từ cạnh tranh bằng giá cả sang cạnh
tranh phi giá cả. Tất cả các công ty đều có một hệ thống thông tin Marketing, nhưng
những hệ thống này khác nhau rất nhiều về mức độ tinh vi. Trong rất nhiều trường
hợp thông tin không có hay đến chậm hay không thể tin cậy được. Ngày nay ngày
càng có nhiều công ty đang cố gắng cải tiến hệ thống thông tin Marketing của mình.
65
Một hệ thống thông tin Marketing được thiết kế tốt gồm bốn hệ thống con. Hệ
thống con thứ nhất là hệ thống ghi chép nội bộ đảm bảo cung cấp những số liệu hiện
thời về mức tiêu thụ, chi phí, dự trữ, lưu kim, và những tài khoản phải thu và phải
chi. Hệ thống con thứ hai là hệ thống tình báo Marketing, cung cấp cho những nhà
quản trị Marketing những thông tin hàng ngày về những diễn biến trong môi trường
ở bên ngoài. Hệ thống thứ ba là nghiên cứu Marketing đảm bảo thu thập những
thông tin liên quan đến một vấn đề Marketing cụ thể đặt ra trươc công ty. Hệ thống
thứ tư là hệ thống hỗ trợ quyết định Marketing gồm các phương pháp thống kê và
các mô hình quyết định để hỗ trợ những nhà quản trị Marketing thông qua các quyết
định đúng đắn hơn.
Hệ thống thông tin Marketing (MIS) bao gồm con người, thiết bị và quy trình
thu thập, phân loại, phân tích, đánh giá và phân phối những thông tin cần thiết, kịp
thời và chính xác cho những người soạn thảo các quyết định Marketing.
Khái niệm hệ thống thông tin Marketing được minh họa trong hình 7. Để tiến
hành phân tích lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra, những nhà quản trị Marketing
cần những thông tin về tình hình diễn biến của môi trường Marketing. Vai trò của
MIS là xác định những nhu cầu thông tin của người quản trị, phát triển những thông
tin cần thiết và phân phối thông tin đó kịp thời cho những nhà quản trị Marketing.
Thông tin cần thiết được phát triển thông qua ghi chép nội bộ ở công ty, hoạt
động tình báo Marketing, nghiên cứu Marketing và phân tích hỗ trợ quyết định
Marketing. Bây giờ ta sẽ mô tả từng hệ thống con chủ yếu trong MIS của công ty.
66
Hình 7. Hệ thống thông tin Marketing
Nguồn: Philip Kotler, Marketing căn bản, NXB Lao động xã hội Hà Nội, 2007
Yêu cầu: Xác định đúng nhu cầu thông tin cho phép chúng ta có được thông
tin cần thiết và không phải tốn tiền bạc và thời gian cho tìm kiếm những thông tin
không cần thiết
Phương pháp: Ban lãnh đạo công ty cần phải trả lời một số câu hỏi để tìm ra
những loại thông tin mà họ cần có:
1. Những loại quyết định gì mà thường phải đưa ra?
2. Những thông tin nào bạn cần để đưa ra các quyết định đó?
3. Những loại thông tin gì bạn thường nhận được?
4. Những thông tin gì bạn cần mà hiện tại chưa nhận được?
5. Thông tin gì bạn cần có hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng..?
6. Những chủ đề đặc thù nào bạn muốn được cung cấp?
2.2.1.Hệ thống ghi chép nôi bộ
Bao gồm các báo cáo về đơn đặt hàng, hồ sơ khách hàng, các nhà cung cấp,
tình hình tiêu thụ, doanh số... Chúng giúp nhà quản trị khám phá cơ hội, phát hiện
các vấn đề quan trọng cần giải quyết.
67
Tại Honda Việt Nam có hai nguồn số liệu mà có thể sử dụng như nguồn “ghi
chép nội bộ”, đó là hệ thống báo cáo hàng ngày và dữ liệ từ hệ thống hỗ trợ quản lý
bán hàng DTS.
2.2.2. Hệ thống tình báo Marketing
Trong khi hệ thống ghi chép nội bộ cung cấp những số liệu về các kết quả,
thì hệ thống tình báo Marketing lại cung cấp những số liệu về tình hình đang diễn
ra. Ta định nghĩa hệ thống tình báo Marketing như sau:
Hệ thống tình báo Marketing là một tập những thủ tục và nguồn mà những
nhà quản trị sử dụng để nhận được những thông tin hàng ngày về những diễn biến
cần biết trong môi trường Marketing.
Những nhà quản trị nghiên cứu môi trường theo bốn cách:
+ Xem xét không có chủ đích: Tiếp xúc chung với những thông tin mà nhà
quản trị không có mục đích rõ ràng trong đầu.
+ Xem xét có chủ đích: Tiếp xúc có định hướng, không cần phải tìm kiếm
nhiều, với lĩnh vực hay kiểu thông tin ít nhiều đã được xác định rõ ràng.
+ Tìm kiếm không chính thức: Một nỗ lực tương đối hạn chế và không định
trước để có được một thông tin xác định hay một thông tin phục vụ cho một mục
đích xác định.
+ Tìm kiếm chính thức: Một nỗ lực có cân nhắc, thường là tiếp sau một kế
hoạch, một thủ tục hay một phương pháp đã xây dựng trước, để có được một thông
tin nhất định.
Những nhà quản trị Marketing tiến hành công tác tình báo Marketing chủ
yếu qua việc tự đọc sách, báo và các ấn phẩm thương mại, từ khách hàng, những
người cung ứng, những người phân phối và những người khác ở bên ngoài, cũng
như nói chuyện với những nhà quản trị khác và nhân viên trong công ty. Song hệ
thống này vẫn mang tính chất tuỳ tiện và những thông tin có giá trị có thể bị thất lạc
hay đến quá muộn. Những nhà quản trị có thể nhận thức ra một hành động của đối
68
thủ cạnh tranh, một nhu cầu của khách hàng mới hay một vấn đề của đại lý quá
muộn nên không thể đáp ứng tốt nhất được.
Những công ty kinh doanh giỏi đã tiến hành thêm một số bước nữa nhằm
nâng cao chất lượng và số lượng của công tác tình báo Marketing.
Thứ nhất, họ huấn luyện và động viên lực lượng bán hàng phát hiện và báo
cáo những diễn biến mới. Các đại diện bán hàng là “tai mắt” của công ty. Cương vị
công tác của họ rất thuận lợi cho việc thu lượm những thông tin mà các phương tiện
khác đã bỏ sót. Song vì quá bận nên thường không cung cấp được những thông tin
quan trọng. Công ty phải xác định cho lực lượng bán hàng cần được phát những
mẫu báo cáo in sẵn để dễ dàng điền thông tin vào. Các đại diện bán hàng cần phải
biết những kiểu thông tin nào thì gửi cho cán bộ quản trị nào
Thứ hai, công ty động viên những người phân phối, những người bán lẻ và
những người trung gian khác cung cấp những tin tức tình báo quan trọng.
Một số công ty đã cử ra những chuyên viên để thu thập thông tin tình báo
Marketing. Họ cho người đóng giả người đi mua sắm để theo dõi việc trình diễn
hàng ở các đại lý và chi nhánh của mình. Họ tìm hiểu các đối thủ cạnh tranh thông
qua việc mua các sản phẩm của các đối thủ, dự khai trương các cửa hàng và các
cuộc triển lãm thương mại, đọc các tư liệu được công bố của các đối thủ cạnh tranh,
dự các hội nghị cổ đông của họ, nói chuyện với những công nhân viên cũ và những
công nhân viên đang làm việc cho họ, các đại lý, những người phân phối, những
người cung ứng và các đại lý vận tải của họ, sưu tầm các quảng cáo của các đối thủ
cạnh tranh, và đọc các tạp chí, báo như Diễn đàn doanh nghiệp, Thời báo kinh tế
Viêt Nam, Marketing.... và các báo cáo khác của các hiệp hội ngành nghề.
Thứ ba, công ty mua thông tin của những người cung cấp ở bên ngoài, như
các công ty nghiên cứu thị trưòng, của AC Nielsen Company và Information
Resources, Inc. Những công ty nghiên cứu này có thể thu thập những số liệu điều
tra nghiên cứu về cửa hàng và người tiêu dùng với chi phí rẻ hơn nhiều so với
trường hợp từng công ty tự làm lấy.
69
Thứ tư, một số công ty đã thành lập một trung tâm thông tin Marketing nội
bộ để thu thập và cung cấp tin tức tình báo Marketing. Đội ngũ này nghiên cứu
những ấn phẩm chủ yếu và những bản tin hữu quan rồi biên soạn một bản tin để
cung cấp cho những nhà quản trị Marketing. Họ thu thập và lưu trữ những thông tin
hữu quan và giúp những nhà quản trị trong việc đánh giá những thông tin mới.
Những dịch vụ này đã nâng cao đáng kể chất lượng thông tin cung cấp cho những
nhà quản trị Marketing.
2.2.3.Hệ thống nghiên cứu Marketing
Những nhà quản trị thường tổ chức nghiên cứu các vấn đề cụ thể phục vụ mục
tiêu chiến lược của mình. Họ cũng có thể cần điều tra nghiên cứu thị trường, thử
nghiệm mức độ ưa thích sản phẩm, dự báo mức tiêu thụ theo vùng hay nghiên cứu
hiệu quả quảng cáo. Những nhà quản trị thường không có nghiệm vụ hay thời gian
để thu thập những thông tin đó. Họ cần đặt nghiên cứu Marketing chính thức.
Chúng ta định nghĩa nghiên cứu Marketing như sau:
Nghiên cứu Marketing là thiết kế có hệ thống, thu thập, phân tích và thông báo
những số liệu và kết quả tìm được về một tình huống Marketing cụ thể mà công ty
đang gặp phải.
Những nguồn cung ứng nghiên cứu Marketing
Một công ty có thể xúc tiến nghiên cứu Marketing theo một số cách. Những
công ty nhỏ có thể thuê sinh viên hay giáo sư của một trường đại học tại địa phương
thiết kế và thực hiện đề án, hay họ có thể thuê một công ty nghiên cứu Marketing
riêng cho mình. Nhà quản trị nghiên cứu Marketing thường làm việc dưới quyền
phó chủ tịch phụ trách Marketing và là người chỉ đạo quản lý nghiên cứu, cố vấn
của công ty và người bào chữa.
Các công ty thường cấp kinh phí cho công tác nghiên cứu Marketing trong
khoảng từ 1 đến 2% doanh số bán của công ty. Khoảng từ 50% đến 80% số tiền này
do bộ phận nghiên cứu Marketing trực tiếp chi, số còn lại được sử dụng để mua
những dịch vụ của các công ty nghiên cứu Marketing ở bên ngoài.
70
Phạm vi nghiên cứu Marketing
Những người nghiên cứu Marketing đã phát triển vững chắc các hoạt động và
phương pháp của mình. Phạm vi nghiên cứu của marketing bao gồm từ sản phẩm,
định giá, phân phối, khuyên mại cho đến các hành vi mua sắm của khách hàng.
Những hoạt động này được hưởng lợi nhiều của những phương pháp ngày càng
hoàn hảo. Nhiều phương pháp nghiên cứu, như xây dựng các phiếu câu hỏi và chọn
mẫu địa bàn, đã xuất hiện ngay từ buổi đầu và đã được những người nghiên cứu
Marketing ứng dụng nhanh và rộng rãi. Những phương pháp khác, như nghiên cứu
động cơ và các phương pháp toán học, gặp nhiều trở ngại hơn, và đã gây ra những
cuộc tranh cãi kéo dài và sôi nổi trong giới hoạt động thực tiễn về ích lợi thực tế của
chúng. Song chúng cũng được chấp nhận là những phương pháp nghiên cứu
Marketing.
Trình tự nghiên cứu Marketing (Trình tự nghiên cứu thị trường)
Trình tự nghiên cứu thị trường đã được trình bày chi tiết các bước như trong
chương I. Hình 8 dưới đây mô tả lại toàn bộ các bước.
Hình 8. Trình tự nghiên cứu thị trƣờng
Yêu cầu của công tác nghiên cứu Marketing
Phương pháp khoa học: Nghiên cứu Marketing có hiệu quả cần sử dụng
những nguyên tắc của một phương pháp khoa học: Quan sát kỹ lưỡng, xây dựng các
giả thiết, dự đoán, và kiểm nghiệm.
Tính sáng tạo trong nghiên cứu: Nghiên cứu Marketing phải cố gắng đưa ra
được những cách mới để giải quyết một vấn đề.
Sử dụng nhiều phương pháp: Những người nghiên cứu Marketing có trình độ
đều vứt bỏ quan điểm quá tin tưởng vào một phương pháp bất kỳ nào, rồi cố gắng
Xác định
vấn đề
nghiên cứu
Thu thập
thông tin
thị trường
Xử lý các
thông tin
Giới thiệu
các kết quả
nghiên cứu
Sử dụng
các kết quả
nghiên cứu
71
làm cho phương pháp đó thích ứng với vấn đề chứ không đi theo một con đường
khác. Họ cũng thừa nhận rằng nên thu thập thông tin từ nhiều nguồn để có được độ
tin cậy lớn hơn.
Sự phụ thuộc lẫn nhau của các mô hình và số liệu: Những người nghiên cứu
Marketing có trình độ đều thừa nhận rằng ý nghĩa của các sự kiện đều được rút ra từ
các mô hình của vấn đề. Những mô hình đó đã giúp tìm kiếm kiểu thông tin và vì
vậy cần được xây dựng hết sức rõ ràng.
Giá trị và chi phí của thông tin: Những người nghiên cứu Marketing có trình
độ đều tỏ ra quan tâm đến việc xác định giá trị của thông tin so với chi phí để có
thông tin đó. Tỷ số giá trị chi phí giúp bộ phận nghiên cứu Marketing xác định nên
thực hiện đề án nghiên cứu nào, nên sử dụng phương thức nghiên cứu nào và có nên
thu thập thêm thông tin nữa không sau khi đã có những kết quả ban đầu. Chi phí
nghiên cứu thường dễ định lượng, song giá trị thì khó dự đoán hơn. Giá trị phụ
thuộc vào độ tin cậy và tính có căn cứ của những kết quả nghiên cứu thu được và
mức độ ban lãnh đạo sẵn sàng chấp nhận và hành động theo các kết quả thu được
đó.
Đạo đức Marketing: Hầu hết các công tác nghiên cứu Marketing đều có lợi
cho cả công ty bảo trợ lẫn khách hàng của nó. Thông qua nghiên cứu Marketing các
công ty hiểu nhiều hơn những nhu cầu của người tiêu dùng và có khả năng cung
ứng những sản phẩm và dịch vụ thỏa mãn đầy đủ hơn. Tuy nhiên, việc lạm dụng
nghiên cứu Marketing cũng có thể gây thiệt hại hay khó chịu cho người tiêu dùng.
2.2.4. Hệ thống phân tích thông tin Marketing
Hệ thống hỗ trợ marketing là một bộ các dữ liệu có phối hợp, các hệ thống,
công cụ và phương pháp cùng với phần mềm và phần cứng hỗ trợ mà một tổ chức
sử dụng để thu thập và giải thích những thông tin hữu quan phát ra từ doanh nghiệp
và môi trường rồi biến nó thành cơ sở để đề ra biện pháp Marketing.
Ngày nay những người quản lý Marketing ở nhiều công ty đã có những công
cụ Marketing được trang bị máy tính. Đối với những nhà quản trị Marketing những
72
công cụ này cũng giống như bảng điều khiển trong buồng lái đối với những người
lái máy bay… Nó trang bị cho những người quản lý phương tiện "lái" hoạt động
kinh doanh theo đúng hướng. Thường xuyên xuất hiện những chương trình phần
mềm mới để giúp những nhà quản trị Marketing phân tích, lập kế hoạch và kiểm tra
các hoạt động. Chúng giúp thiết kế các công trình nghiên cứu Marketing, phân khúc
thị trường, định nghĩa và dự toán ngân sách quảng cáo, phân tích các phương tiện,
lập kế hoạch hoạt động của lực lượng bán hàng.
2.3.Tăng cường đào tạo đội ngũ nhân viên trong nghiên cứu thị trường, phân
tích thị trường
Trong mọi hoạt động nói chung, hoạt động kinh doanh nói riêng con người
luôn luôn là trung tâm và trong hoạt động nghiên cứu thị trường cũng vậy, muốn
nghiên cứu có hiệu quả thì công ty phải có đội ngũ cán bô làm nghiên cứu có trình
độ chuyên môn cao, nhiệt tình trong công việc, am hiểu về thị trường. Hiện tại
phòng Marketing của công ty có 6 cán bộ, bao gồm cả trường phòng. Trong thời
gian sắp tới, tác giả đề xuất tăng thêm 5 người nữa, để mỗi nhóm công việc có 2 cán
bộ. Nâng cao hiệu quả công việc, và giảm tải bớt công việc như phân chia hiện tại
(Phụ lục sơ đồ bộ phận Marketing).
Để phát huy được năng lực của cán bộ công nhân viên trong công ty thì công
ty phải quan tâm hơn nữa đến việc đào tạo chuyên môn cho cán bộ thị trường cụ
thể như sau:
- Phải đào tạo và đào tạo lại chuyên môn cho cán bộ nghiên cứu thị trường
bằng việc cho họ tham gia các lớp học ngắn hạn, dài hạn về nghiên thị trường và
phân tích thị trường. Việc đào tạo từ công việc cũng phải chú ý cho những cán bộ
trẻ nỗ lực, và có khả năng phát triển cao (On job training).
- Ưu tiên tuyển chọn các đối tượng có năng lực chuyên môn, nhiệt tình trong
công việc, sử dụng thành thạo thiết bị văn phòng, có thời gian thử thách trước khi
chính thức có quyết định nhận và khi đã tuyển chọn vào công ty thì phải bố trí đúng
ngành nghề đã đào tạo.
73
- Liên kết các phòng ban trong công ty, củng cố mối quan hệ giữa các nhân
viên trong nội bộ công ty, gắn bó lợi ích chung của toàn công ty với lợi ích riêng
của mỗi thành viên. Từ đó tạo ra ưu thế cạnh tranh bằng sức mạnh trong nội bộ
công ty, và là điều kiện để dẫn đến thành công.
- Ban lãnh đạo công ty cần đề ra các chế đọ thưởng phạt thoả đáng nhằm
kích thích năng suất, hiệu quả làm việc của các cán bộ. Có chế độ thưởng phạt hợp
lý cho cán bộ nào khai thác được nhu cầu thị trường mang lại lợi nhuận cho công ty.
Nếu không có những kích thích lợi ích kinh tế thì sẽ dẫn đến vấn đề là đội ngũ cán
bộ thụ động, không nhiệt tình trong công việc, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
của toàn công ty.
- Công ty cần tổ chức cho cán bộ làm nghiên cứu thị trường đi thực tế ở các thị
trường, hội trợ triển lãm,… để học hỏi kinh nghiệm từ thực tiễn và từ các đối tác
kinh doanh.
Tóm lại, để nâng cao chất lượng của hoạt động nghiên cứu thị trường Công ty
cần hết sức chú trọng đến việc đào tạo nâng cao trình độ kiến thức chuyên môn về
thị trường cho cán bộ làm nghiên cứu thị trường.
Để thực hiện được điều này thì ban lãnh đạo công ty cần phải chú trọng hơn
nữa đến vấn đề nhân sự, phải đầu tư thoả đáng cho việc đào tạo nhân sự. Hàng năm
hay hàng tháng công ty phải tổ chức thi tay nghề cho cán bộ công nhân viên, kiểm
tra các kiến thức về ngành nghề mà họ đang hoạt động từ đó biết được những điểm
tồn tại để có kế hoach đào tạo và đào tạo lại lao động, nâng cao trình độ lao động
của Công ty.
Là một tế bào trong cơ thể sống của công ty, bộ phận nghiên cứu thị trường rất
cần sự phối hợp với các phòng ban khác trong công ty. Nó có thể tồn tại độc lập
một mình nhưng sự tồn tại đó không có ý nghĩa. Nghiên cứu thị trường có vai trò
quan trọng trong việc thu thập các thông tin để từ đó đưa ra các quyết định, nhưng
tự nó không thể giải quyết hết thảy mọi công việc mọi vấn đề, nó chỉ là mắt xích
trong chuỗi mắt xích liên kết. Chỉ khi các mắt xích liên kết chặt chẽ với nhau thì
74
bánh xe kinh doanh mới vận hành được, điều đó có thể thấy rất rõ trong công ty như
sau: Nhóm nghiên cứu thị trường của phòng Marketing chịu trách nhiệm thu thập và
xử lý thông tin, sau đó Phòng Marketing đưa thông tin này lên Ban lãnh đạo và chia
sẻ với các phòng ban khác, và dưới sự chỉ đạo của Ban lãnh đạo công ty, để đưa ra
các quyết định Marketing đúng đắn, và phù hợp.
2.4.Giải pháp phát triển sản phẩm dựa trên các kết quả nghiên cứu thị trường
Theo khảo sát, thống kê, và nghiên cứu đặc điểm tâm lý và kỳ vọng về mặt
sản phẩm khi mua xe ôtô tại Việt Nam, được ưu tiên như sau:
i. Thương hiệu tốt (Những thương hiệu nổi tiếng như: Mercedes, BMV,
Lexus, Accura,...)
ii. Chất lượng sử dụng tốt (An toàn, bền, tiết kiệm nhiên liệu,...)
iii. Có nhiều trang thiết bị tuỳ chọn (Option), hoăc có những trang thiết bị
tuỳ chọn được coi là “sang” như: ghế da, xi nhan gương chiếu hậu, kính
điện, ghế điều chỉnh điện, ....Thậm chí có một một số trang thiết bị tuỳ chọn
giá trị sử dụng không cao, như: cửa sổ trời (Việt Nam đường xá bụi bặm,
hầu như rất ít khi dùng).
iv. Phong cách thiết kế sản phẩm(cổ điển, thể thao, trẻ trung,...)
2.2.1.Bắt chước sản phẩm của đối thủ
Đây là giải pháp mà Honda Việt Nam nên tận dụng, từ đối thủ là những nhà
nhập khẩu xe ôtô Honda khác. Để có thể sản xuất, lắp ráp thành công một dòng xe
ôtô, thì nhà máy cần trang bị cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, nguồn nhân lực và cần
một thời dài chuẩn bị. Tuy nhiên đề xuất của tác giả ở đây là, từ những sản phẩm xe
Honda được các nhà nhập khẩu khác nhập có thị hiếu, và doanh số cao trên thị
trường. Honda có thể trực tiếp đứng ra nhập khẩu dòng xe này, ngay lập tức có thể
bán và khai thác thị trường. Trong những năm vừa qua, Honda Accord và Honda
Accord là những sản phẩm được các nhà nhập khẩu nhập về nhiều, có thị hiếu và
doanh số cao trên thị trường. Hai dòng xe này HVN có thể nhập về để kinh doanh
75
và có thể đảm bảo được số lượng tốt, sự cạnh tranh của HVN so với những nhà
nhập khẩu ngoài là: hệ thống Đại lý bán hàng, mối quan hệ tốt với những khách
hàng trung thành, và khả năng bảo hành cho khách hàng.
2.2.2.Cải tiến sản phẩm sẵn có
Từ nhận định, đánh giá Honda Việt Nam là công ty chậm hoặc không tiến
hành nhiều những đổi mới cho sản phẩm hiện tại. Trong khi đó những đối thủ rất
linh hoạt trong việc này, phần nào cũng làm giảm đi khả năng cạnh tranh về sản
phẩm của công ty Honda Việt Nam. Dựa trên sự thành công và vị thế của 2 sản
phẩm Honda Civic, Honda CR-V này, công ty cần có những linh hoạt trong chính
sách phát triển, cải tiến, đang dạng hoá sản phẩm, để phù hợp hơn với nhu cầu
người tiêu dùng. Cụ thể như sau:
Đối với Honda Civic:
Theo dõi sát việc phát triển các thế hệ, phiên bản của công ty mẹ. Việc phát
triển, thay đổi cần được tiến hành nhanh chóng.
Phát triển phong phú các loại Option, phù hợp với nhiều nhu cầu, mong muốn
cho khách hàng tiêu dùng. Tại mỗi thời điểm đối với 1.8MT, 1.8AT, 2.0MT chỉ có
duy nhất một loại Option, mà HVN có nguyên tắc là không bán cho xe Taxi. Hoạt
động này có ưu điểm là giữ được thương hiệu riêng, đặc biệt cho Civic là “không
Taxi”, tuy nhiên cũng giới hạn một phần lớn khách hàng cho Honda Việt Nam.
Trong thời gian tới, HVN nên tìm ra một sản phẩm cao cấp hơn Civic rồi xây dựng
một hình ảnh “không taxi”, còn Civic nên đa dạng hoá sản phẩm này. Cụ thể như
sau:
+ Hạ thấp sản phẩm xe Civic 1.8 MT: có thể là hạ Option xuống cực thấp, hoặc
hạ xuống 1.6MT, đối tượng khách hàng của sản phẩm này là những khách hàng
bình dân có mong muốn đi xe ôtô thương hiệu Honda, và khách hàng là những hãng
taxi, hoặc những công ty cho thuê xe tự lái, hoặc có lái. Sản phẩm này sẽ cạnh tranh
76
với khách hàng của Toyota Vios, Kia Forte, GM Deawoo Lacetti,.... Sản phẩm
mang thương hiệu sản phẩm “Civic” sẽ cạnh tranh rất tốt với những sản phẩm này.
+ Nâng cao sản phẩm xe Civic 2.0AT: Option và hình dáng xe này được nâng
rất cao theo định hướng người anh Honda Accord (Năm 2009, Toyota đã thực hiện
việc nâng cả Altis và Vios theo người anh Camry). Xe này sẽ được dùng để cạnh
tranh với những khách hàng rớt xuống từ khách hàng của Honda Accord, hay
Camry. Đối thủ cho sản phẩm nâng cấp này sẽ là: Hyundai Sonata, Nissan Teana,
hoặc Ford Mondeo. Và điểm cạnh tranh ở đây là giá của Civic sẽ thấp hơn những
đối thủ được so sánh trên.
+ Đa dạng hoá các loại trang thiết bị tuỳ chọn (Option) cho xe, để người tiêu
dùng có nhiều sự lựa chọn hơn. Phát triển thêm các loại màu sắc ngoại thất, nội thất.
+ Thông thường sản phẩm lắp ráp trong nước (CKD) sẽ có những điểm khác
biệt với sản phẩm nhập khâu nguyên chiếc (CBU), HVN nên tìm cách giải quyết
những vấn đề này để người tiêu dùng cảm thấy thoả mãn nhất với sản phẩm
Đối với Honda CR-V:
Theo dõi sát việc phát triển các thế hệ, phiên bản của công ty mẹ. Việc phát
triển, thay đổi cần được tiến hành nhanh chóng.
Đa dạng hoá các loại trang thiết bị tuỳ chọn, màu sắc ngoại thát, nội thất,
dung tích xe, loại và cấp số. Cụ thể như sau:
+ Hiện này Honda Việt Nam đang sản xuất, lắp ráp xe CR-V, 2.4AT. Xe CR-
V nhập khẩu nguyên chiếc (CBU) là xe 2.0AT. Từ những yếu tố này, HVN có thể
phát triển thêm loại xe CR-V 2.0MT, hoặc CR-V 2.0 AT. Vì đặc trưng là xe thể
thao (SUV), nên việc phát trỉển xe số sàn (MT) cũng là những điểm nổi bật cho xe.
+ Đa dạng hoá các loại màu sắc ngoại thất, nội thất để khách hàng có nhiều
lựa chọn hơn trong việc quyết định mua xe.
+ Ngoài ra công ty có thể nghiên cứu phát triển ra dòng CR-V 7 chỗ (hiện
nay là xe 5 chỗ). Việc này kết hợp với việc nâng cao trang thiết bị tùy chọn xe
77
(Option), từ đó sản phẩm có thể cạnh tranh ra rộng hợn trong giải sản phẩm đang
cạnh tranh. Đối thủ lúc đó có thể là: Hyundai Santa Fe, Hyundai Tucson,...
Có một điều đặc biệt là 2 sản phẩm Honda Civic, CR-V này đều được đánh
giá là rất ồn. HVN nên nghiên cứu, cải tiến để giảm độ ồn cho 2 xe này.
2.2.3.Sáng chế sản phẩm mới hoàn toàn
Cho đến thời điểm này Honda Việt Nam đã lắp ráp, sản xuất được 2 dòng xe:
Honda Civic và Honda CR-V. Và thông tin từ Honda Việt Nam là tháng 1 năm
2011, Honda Việt Nam sẽ nhập nguyên chiếc dòng xe Accord 3.5 từ Thái Lan, và
người tiêu dùng có thể mua sản phẩm này tại các Đại lý Honda ôtô uỷ nhiệm trên
toàn quốc.
Thông tin về ra mắt sản phẩm Accord đã làm cho người tiêu dùng hào hứng
hơn với sản phẩm ôtô Honda tại Việt Nam. Bởi vì một thời gian khá dài (từ 2006
đến 2009). HVN chỉ ra mắt được được có 2 dòng xe, mà đang ở giai đoạn cuối của
vòng đời sản phẩm. Honda Civic và Honda CR-V dự kiến sang chuyển đổi sang thế
hệ mới vào cuối nắm 2011, đầu năm 2012. Xuất phát từ lý do này, thêm vào đó là
thị trường ôtô năm 2010, và cả dự báo năm 2011 cũng không được sáng sủa lắm.
Nếu chỉ “chơi” bằng hai sản phẩm này thì doanh số HVN sẽ sút giảm rất nhiều.
Việc HVN ra đời sản phẩm Accord, sẽ phần nào “cứu cánh” lại việc sụt giảm đó.
Nhận xét về hoạt động sáng chế hay phát triển sản phẩm mới tại Honda Việt
Nam, thì hoạt động này diễn ra rất chậm. Nếu Honda Việt Nam linh hoạt hơn nữa
mà đưa sản phẩm Accord vào Việt Nam từ năm 2009, thì doanh số bán hàng cộng
dồn của HVN sẽ tăng được thêm vài ngàn xe nữa. Bởi vì trong 2 năm quá số lượng
Accord, Nissan Teana nhập khẩu qua các nhà thương mại rất nhiều.
Để đưa ra giải pháp phát triển mới hoàn toàn cho Honda Việt Nam, tác giả
xin đưa ra 2 giai đoạn:
Trong giai đoạn ngắn hạn:
Chúng ta có thể dự đoán sát tình hình thị trường, và thuế nhập khẩu nguyên
chiếc (CBU) vẫn còn khá cao. Honda Việt Nam nên tiếp tục phát triển thêm 2 dòng
xe nữa trong năm 2010.
78
+ Cụ thể là Honda Việt Nam có thể sản xuất thêm dòng xe Fit (Ở thị trường
Châu Âu gọi là xe Jazz), đây là dòng xe Hatchback. Ở Việt Nam hiện này, cũng khá
thịnh hành dòng xe này (như Toyota Yaris, Hyundai i20, i30,...). Tuy nhiên chưa có
một sản phẩm lắp ráp (CKD) nào tại Việt Nam cho phân khúc dòng xe này. Đây là
cơ hội mà HVN có thể chớp lấy nhanh chóng.
+ Honda Việt Nam có thể nhập khẩu nguyên chiếc thêm dòng xe Civic
Coupe. Thương hiệu Civic tại Việt Nam đã được xây dựng cẩn thận, kỹ càng và
giành nhiều thành tích tại thị trường Việt Nam. Đối tượng khách hàng của dòng xe
này sẽ là: một số khách hàng của Civic mà có mong muốn sản phẩm mới, sản phẩm
sành điệu; một số khách hàng của Hyudai Genesis Coupe, và nhiều khách hàng rơi
xuống từ những sản phẩm cao cấp BMW.
Trong giai đoạn dài hạn:
Chúng ta dự đoán thị trường ôtô Việt Nam sẽ ổn định, các chính sách về thuế
nhập khẩu sẽ theo cam kết WTO, và tiệm cận mức 0%. Lúc này HVN có thể đẩy
mạnh quá trình nhập khẩu xe nguyên chiếc, và khai thác đến nhiều khách hàng mà
trước kia đã bỏ qua. Giải pháp ở đây là:
+ HVN có thể phát triển nhiều dòng xe thể thao, đa dụng (SUV, MPV), dòng
xe sedan cao cấp, hoặc thấp hơn. Chẳng hạn HVN có thể kinh doanh các dòng xe:
Element, Pilot, Odyssey Minivan,...
+ Lúc này yêu cầu về tiết kiệm nhiêu liệu, sạch với môi trường được đặt lên
hàng đầu. HVN cần chú ý phát triển các dòng xe lai Hybrid (Xe chạybằng 2 máy:
máy xăng, kết hợp với máy điện). Những xe này sẽ được nghiên cứu phát triển cao,
và ưu tiên đặt lên hàng đầu.
79
KẾT LUẬN
Nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm là vấn đề rất quan trọng và
sống còn đối với doanh nghiệp. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, nó càng quan
trọng và yêu cầu khắt khe hơn từ sự canh tranh khốc liệt của thị trường, từ yêu cầu
nâng cao chất lượng sản phẩm, và từ yêu cầu cần thiết xây dựng và phát triển sản
phẩm ngày càng phù hợp hơn với nhu cầu tiêu dùng. Doanh nghiệp muốn tồn tại,
muốn duy trì và phát triển cần phải có sự quan tâm, đầu tư đúng, đủ và phù hợp vào
hoạt động nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm.
Trong luận văn này tác giả không đề cập đến hoạt động kinh doanh xe máy
của Công ty Honda Việt Nam, vì dòng sản phẩm này của công ty đang giữ vị trí tiên
phong cho toàn bộ thị trường xe máy Việt Nam. Đây là thành quả, và là bước đà tốt
để cho công ty đẩy mạnh hoạt động lắp ráp, kinh doanh xe ôtô. Quả vậy, Honda ôtô
cũng giành những thành tựu nổi bật như: đạt doanh số bán hàng rất tốt chỉ trên hai
dòng sản phẩm, xây dựng hệ thống Đại lý 3S tiêu chuẩn cao nhất so với hệ thống
Đại lý các hãng khác, rất nghiêm túc trong việc nghiên cứu thị trường, luôn chú ý
chăm sóc khách hàng và tìm kiếm những những khách hàng trung thành.
Tuy nhiên, kết quả hiện tại trong mảng kinh doanh ôtô Honda Việt Nam có
được dường như thấp hơn những gì mà nó có thể làm được trong giai đoạn thị
trường ôtô Việt Nam gần đây. Số lượng sản phẩm phát triển được có thể nói là ít,
chỉ có hai sản phẩm, hệ thống Đại lý cũng chưa xây dựng được nhiều, hình ảnh
thương hiệu cũng còn hạn chế so với đối thủ bậc “đàn anh” như Toyota. Sự so sánh
vị trí của thương hiệu ôtô Honda tại Việt Nam so với các đối thủ khác còn thấp hơn
khi so sánh thương hiệu ôtô Honda tại các nước khác so với các đối thủ khác tại
nước đó. Có thể nhận xét ngắn gọn là Honda Việt Nam còn quá cẩn thận hay dè dặt
trong mảng kinh doanh này, hay thực sự Honda Việt Nam chưa đầu tư thích đáng để
có thể tiến nhanh và xa hơn.
Cuối luận văn, từ góc độ cá nhân tác giả cũng manh dạn đưa ra những giải
pháp nhằm hạn chế những điểm yếu, phát huy những điểm mạnh để công ty Honda
80
Việt Nam có thể phát triển nhanh và xa hơn. Mà cụ thể tác giả đưa ra những giải
pháp nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu thị trường nhằm phát triển những sản
phẩm ôtô phù hợp hơn với thị trường Việt Nam. Trong quá trình 3 năm làm việc
của tác giả tại Honda Việt Nam, đây cũng là những điều mong mỏi được đóng góp
ý kiến, được đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu, phát triển
được những sản phẩm phù hợp nhất cho thị trường Việt Nam.
Do sự giới hạn của thời gian, kiến thức lý luận, kinh nghiệm đánh giá cũng
như thông tin về doanh nghiệp của tác giả, nên luận văn không thể tránh khỏi những
thiếu sót, rất mong nhận được sự quan tâm và góp ý của thầy cô cùng bạn đọc về
vấn đề này.
81
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu sách:
1. David Begg, Stanley Fisher, Rudiger Dornbusch, nhóm Giảng viên khoa
Kinh tế - ĐH KTQD dịch giả, Kinh tế học, NXB Thống kê Hà Nội, 2008
2. Honda Soichiro, Nguyễn Trí Dũng Biên dịch, Biến giấc mơ thành sức mạnh
đi tới, NXB Văn Hoá Sài Gòn, 2006
3. Philip Kotler, Marketing căn bản, NXB Lao động xã hội Hà Nội, 2007
4. Philip Kotler, Những nguyên lý tiếp thị, NXB TP Hồ Chí Minh, 1994
5. Philip Kotler, Quản trị Marketing, NXB Thống kê Hà Nội, 1994
6. Tập thể tác giả Đại học Ngoại thương, Giáo trình Marketing lý thuyết, NXB
Giáo dục, 2000
7. Trần Đình Chiến, Quản trị Marketing, NXB Đại học KTQD, 2010
8. Nguyễn Văn Lịch, Nguyễn Quang Hạnh, Kinh tế chính trị Mác – Lênin, Học
Viện Công Nghệ Bưu Chính Viễn Thông Hà Nội, 2006
9. Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân Hà
Nội, 2006
10. Nguyễn Trung Văn, Nguyễn Thanh Bình, Phạm Thu Hương, Giáo trình
Marketing Quốc tế, NXB Lao động xã hội Hà Nội, 2008
Tài liệu khác và các tài liệu trên internet:
1. Những tài liệu nội bộ của công ty Honda Việt Nam
2. Honda Vietnam,
3. Đăng kiểm Việt Nam,
82
4. Honda Automobiles Vietnam,
5. American Marketing Association,
6. Business Monitor International,
7. American Marketing Association,
8. Những tư liệu từ hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Việt Nam – VAMA,
9. ì-và-mở-rộng-thị-trường-tiêu-thụ-
là-nhân-tố-cơ-bản-tạo-điều-kiện-cho-doanh-nghiệp-tồn-tại-và-phát-triển-
trong-cơ-chế-thị-trường
10.
11.
360/San_pham_moi_va_qua_trinh_phat_trien_san_pham_moi/
12. Các diễn đàn ôtô, xe máy ,
hui.com/diendan/ ,
13.
viet-nam.htm
14. Công ty Nielsen Việt Nam
15. Công ty TNS
16.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5929_1291.pdf