- Tỷ lệ ô nhiễm vi khuẩn chung các mẫu thức ăn đường phố và dụng cụ 
chế biến là 57,74%. 
- Tỷ lệ ô nhiễm vi khuẩn vượt quá TCCP của Bộ Y tế của từng loại thực 
phẩm và dụng cụ chế biến: Nem chua: 76,7%; Thịt và sản phẩm từ thịt: 
51,7%; Cá và các sản phẩm từ cá: 43,3%; Giò chả: 60%; Rau sống 66,7%; 
Tinh bột và các sản phẩm từ tinh bột: 56,7%; Bàn tay người chế biến: 62,5%
và dụng cụ chế biến: 63,3% không đạt TCVS. 
- Tỷ lệ ô nhiễm thức ăn đường phố do 2 chủng vi khuẩn chiếm 91,1%.
10% mẫu nem chua và 13,3% mẫu giò chả ô nhiễm Tụ cầu khuẩn. Không tìm 
thấy vi khuẩn Thương hàn trong 310 mẫu thực phẩm được xét nghiệm.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 91 trang
91 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3622 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu thực trạng ô nhiễm vi khuẩn thức ăn đường phố và một số yếu tố liên quan tại thành phố Thanh Hoá năm 2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 tay 
người phục vụ 
TT Tên mẫu 
Số 
mẫu(n) 
Số mẫu 
không đạt 
Tỷ lệ 
(%) 
1 Thịt chín các loại 60 31 51,7 
2 Tinh bột và các sản phẩm từ tinh bột 30 17 56,7 
3 Cá và sản phẩm từ cá 60 26 43,3 
4 Rau sống 30 20 66,7 
5 Nem chua 30 23 76,7 
6 Giò chả 30 18 60,0 
7 Bàn tay 40 25 62,5 
8 Dụng cụ chế biến thực phẩm 30 19 63,3 
 Tổng 310 179 57,74 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
29 
Nhận xét: 
Qua kết quả ở bảng 3.5. cho thấy tỷ lệ ô nhiễm vi khuẩn chung của các 
mẫu thức ăn đường phố là 57,7%; Mẫu nem chua ô nhiễm cao nhất (76,7%), 
tiếp đến là mẫu rau sống (66,7%), thấp nhất là mẫu cá và sản phẩm từ cá 
(43,3%); Mẫu dụng cụ chế biến: 63.3%; Bàn tay người chế biến: 62,5%. 
Bảng 3.4. Thực trạng ô nhiễm TSVKHK trong từng loại thực phẩm 
TT Tên mẫu Số mẫu(n) 
Số mẫu không 
đạt TCVS 
Tỷ lệ (%) 
1 Thịt chín các loại 60 31 51,7 
2 Tinh bột chín (bún, bánh phở) 30 7 23,3 
3 Cá và sản phẩm từ cá 60 12 20,0 
4 Rau sống 30 20 66,7 
5 Nem chua 30 16 53,3 
6 Giò chả 30 7 23,3 
7 Bàn tay 40 25 62,5 
8 Dụng cụ chế biến thực phẩm 30 18 60,0 
 Tổng 310 136 43,9 
Nhận xét: 
 Ta thấy tỷ lệ ô nhiễm tổng số VKHK cao nhất trong mẫu rau sống 
(66,7%), tiếp đến là mẫu bàn tay (62,5%), thấp nhất là trong giò chả và các 
sản phẩm tinh bột chín (23,3%). 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
30 
Bảng 3.5. Thực trạng ô nhiễm vi khuẩn mẫu thịt chín các loại 
Thực trạng Coliforms E.coli S. aureus Cl. perfringens Salmonella 
Ô nhiễm (%) 95,0 58,3 10,0 6,7 0,0 
Vượt TCCP (%) 45,0 40,0 8,3 6,7 0,0 
Nhận xét: 
Tỷ lệ ô nhiễm vi khuẩn lần lượt là: Cliforms là 45,0%, E.coli là 45,0%, 
Tụ cầu là 8,3%, thấp nhất là Cl.perfringens (6,7%), không phát hiện thấy vi 
khuẩn Thương hàn. 
Bảng 3.6. Thực trạng ô nhiễm các vi khuẩn mẫu cá và sản phẩm từ cá 
Thực trạng Coliforms E.coli S. aureus Cl.perfringens Salmonella 
Ô nhiễm (%) 74,7 50,0 3,3 8,3 0,0 
Vượt TCCP (%) 43,3 26,7 2,5 5,0 0,0 
Nhận xét: 
 Vi khuẩn ô nhiễm cao nhất trong các mẫu cá và sản phẩm từ cá là 
Coliforms (43,3%), sau đó đến E.coli (26,7%), Cl.perfringens (5,0%), 
S. aureus (2,5%), không phát hiện thấy vi khuẩn Thương hàn. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
31 
Bảng 3.7. Thực trạng ô nhiễm vi khuẩn tinh bột chín (mẫu bún và bánh phở) 
Thực trạng Coliforms E.coli S. aureus Cl.perfringens Salmonella 
Ô nhiễm (%) 76,6 56,7 6,7 0,0 0,0 
Vượt TCCP (%) 56,7 46,7 6,7 0,0 0,0 
Nhận xét: 
Trong mẫu bún và bánh phở tỷ lệ ô nhiễm của các vi khuẩn là 
Coliforms (56,7%) E.coli (46,7%) S.aureus (6,7%), không phát hiện thấy vi 
khuẩn Thương hàn và Cl.perfringens. 
Bảng 3.8. Thực trạng ô nhiễm vi khuẩn mẫu nem chua 
Thực trạng Coliforms E.coli S. aureus Cl.perfringens Salmonella 
Ô nhiễm (%) 91,0 75,3 10,0 10,0 0,0 
Vượt TCCP (%) 76,7 75,3 10,0 6,7 0,0 
Nhận xét: 
Ô nhiễm vi khuẩn trong nem chua cao nhất là Coliforms (76,7%), sau đó 
đến E.coli (75,3%), không phát hiện vi khuẩn Thương hàn. 
Bảng 3.9. Thực trạng ô nhiễm vi khuẩn từ mẫu giò, chả 
Thực trạng Coliforms E.coli S. aureus CL.perfringens Salmonella 
Ô nhiễm (%) 87,0 61,7 13,3 23,3 0,0 
Vượt TCCP (%) 50,0 60,0 13.3 13,3 0,0 
Nhận xét: 
Trong mẫu giò, chả tỷ lệ ô nhiễm vi khuẩn E.coli vượt quá TCCP của Bộ 
Y tế chiếm 60%, sau đó đến Coliforms (50%), không phát hiện vi khuẩn 
Thương hàn. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
32 
Bảng 3.10. Thực trạng ô nhiễm vi khuẩn mẫu rau sống 
Thực trạng Coliforms E. coli S. aureus Cl.perfringens Salmonella 
Ô nhiễm (%) 100,0 70,3 0,0 20,3 0,0 
Vượt TCCP (%) 66,7 37,0 0,0 20,3 0,0 
Nhận xét: 
Tỷ lệ ô nhiễm các loại vi khuẩn vượt quá TCCP của Bộ Y tế trong mẫu 
rau sống là: Coliforms (66,7%), E.coli (37%), Cl.perfringens (20,3%), không 
phát hiện thấy vi khuẩn Thương hàn và S. aureus. 
Bảng 3.11. Thực trạng ô nhiễm vi khuẩn mẫu dụng cụ chế biến 
 Thực trạng Coliforms E.coli S. aureus Cl.perfringens Salmonella 
Ô nhiễm (%) 63,3 60,0 6,6 0,0 0,0 
Nhận xét: 
Tỷ lệ ô nhiễm vi khuẩn trong dụng cụ chế biến thực phẩm là: Coliforms 
(63,3%), E.Coli (60,0%), S.aureus (6,6%), không phát hiện thấy vi khuẩn 
Thương hàn và Cl.perfringens. 
Bảng 3.12. Thực trạng ô nhiễm vi khuẩn mẫu bàn tay người phục vụ 
Thực trạng Coliforms E.coli S. aureus CL.perfringens Salmonella 
Ô nhiễm (%) 62,5 62,5 2,5 0,0 0,0 
Nhận xét: 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
33 
Qua bảng trên ta thấy tỷ lệ ô nhiễm các chủng vi khuẩn ở bàn tay người 
phục vụ cao nhất là Coliforms (62,5%) và E.coli (62,5%), không phát hiện 
thấy vi khuẩn Thương hàn và CL.perfringens. 
91,1%
(163)
8,9%
(16)
Do mét chñng vi khuÈn Do hai chñng vi khuÈn trë lªn
Biểu đồ 3.2. Mức độ ô nhiễm các chủng vi khuẩn 
3.3. Thực trạng kiến thức và thực hành của ngƣời phục vụ thức ăn đƣờng phố. 
3.3.1. Thực trạng kiến thức của người phục vụ thức ăn đường phố 
Bảng 3.13. Kiến thức của người phục vụ thức ăn đường phố 
Nội dung Tốt 
Tỷ lệ 
(%) 
Không 
tốt 
Tỷ lệ 
(%) 
Hiểu về 10 nguyên tắc vàng 126 40,6 184 59,4 
Hiểu về nguồn nước sạch 283 91,3 27 8,7 
Hiểu về nơi chế biến TP cách mặt đất  60cm 258 83,2 52 16,8 
Hiểu biết về bảo hộ lao động 244 78,7 66 21,3 
Hiểu biết về sử dụng dụng cụ riêng biệt 265 85,5 45 14,5 
Hiểu biết về sự cần thiết của rửa tay 233 75,2 77 24,8 
Hiểu biết về tác dụng của cắt ngắn móng tay 212 68,4 98 31,6 
Hiểu biết về tác dụng của tủ bảo quản thức ăn 169 54,5 141 45,5 
Hiểu biết tác dụng chính của tủ lạnh trong 
phòng NĐTP 
97 31,3 213 68,7 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
34 
Hiểu biết về tác dụng của dụng cụ đựng chất thải 177 57,1 133 42,9 
Hiểu biết về tác dụng của học tập kiến thức 
VSATTP và KSK định kỳ 
302 97,4 8 2,6 
Nhận xét: 
Có 40,6% số người phục vụ thức ăn đường phố hiểu biết 10 nguyên tắc 
vàng về chế biến thực phẩm, 91,3% hiểu biết nguồn nước sạch, tỷ lệ hiểu biết 
về tác dụng chính của tủ lạnh trong phòng chống NĐTP mới chỉ đạt 31,3%. 
54.5
91.3
37.7
67.1
75.2 75.5
0
20
40
60
80
100Tû lÖ (%)
Cã tñ l¹nh Cã n•íc s¹ch Cã TB ®Ó phßng
c«n trïng 
Cã nhµ vÖ sinh ®¹t
tiªu chuÈn 
C¸ch biÖt ngußn «
nhiÔm 
Cã xö lý chÊt th¶i 
§iÒu kiÖn
vÖ sinh
Biểu đồ 3.3. Điều kiện vệ sinh của các cơ sở 
Nhận xét: 
Tỷ lệ các cơ sở có nguồn nước máy để sử dụng là 91,3%, cơ sở có tủ 
lạnh để bảo quản thực phẩm đạt 54,5%, thấp nhất là phương tiện phòng chống 
côn trùng (37,7). 
3.3.2 Thực trạng thực hành của người phục vụ thức ăn đường phố. 
Bảng 3.14. Thực hành về hình thức kinh doanh thức ăn 
TT Hình thức kinh doanh Số lƣợng Tỷ lệ (%) 
1 Cửa hàng cố định 193 62,3 
2 Quầy hàng, giá cố định 91 29,3 
3 Lưu động 26 8,4 
 Tổng cộng 310 100 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
35 
Nhận xét: 
 Qua bảng trên ta thấy cửa hàng cố định chiếm tỷ lệ cao nhất (62,3%), 
thấp nhất là các quầy di động (8,4%). 
Bảng 3.15. Thực hành về quy trình chế biến thức ăn 
TT Quy trình chế biến Số lƣợng Tỷ lệ (%) 
1 Quy trình chế biến một chiều 114 36,8 
2 Quy trình chế biến không đạt một chiều 196 63,2 
 Tổng cộng 310 100 
Nhận xét: 
 Quy trình chế biến một chiều chiếm tỷ lệ thấp (36,8%), cơ sở kinh 
doanh thức ăn đường phố không đạt một chiều là 63,2% 
43,9%
(136)
56,1%
(174)
NÒn nhµ, bµn s¸t mÆt ®Êt Bµn cao > = 60cm 
Biểu đồ 3.4. Vị trí chế biến và bày bán thức ăn đƣờng phố 
Nhận xét: 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
36 
Có 51,6% số cơ sở chấp hành việc bày bán thức ăn quy đúng quy định 
của Bộ Y tế, còn 43,9% cơ sở thực phẩm chế biến và bày bán trên nền nhà và 
bàn thấp sát mặt đất. 
81,6%
(253)
18,4%
(57)
ChÕ biÕn t¹i chç ChÕ biÕn tõ n¬i kh¸c ®Õn 
Biểu đồ 3.5. Hình thức chế biến thức ăn 
Nhận xét: 
Thức ăn được chế biến ngay tại cơ sở thực phẩm để phục vụ khách 
hàng là chủ yếu (81,6%), còn 18,4% cơ sở thức ăn đường phố lấy thức ăn từ 
nơi khác đến. 
20,3
73,9 74,5
93,2
33,9
0
20
40
60
80
100
Tû lÖ (%)
Trang bÞ BHL§ Th•êng xuyªn c¾t
mãng tay 
Khi b¾t ®Çu lµm viÖc Khi tiÕp xóc víi TP Röa tay sau khi ®i vÖ
sinh
Thùc hµnh 
vÖ sinh 
Biểu đồ 3.6. Thực hành trang bị bảo hộ lao động và vệ sinh cá nhân 
Nhận xét: 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
37 
Trang bị bảo hộ lao động cho những người tham gia dịch vụ thức ăn 
đường phố đạt tỷ lệ thấp (20,3%), thói quen rửa tay và cắt móng tay để đảm 
bảo vệ sinh cá nhân đạt 73,9%. 
31.3
68.7
17.7
82.3
0
20
40
60
80
100Tû lÖ (%)
§i tËp huÊn Kh«ng ®i tËp
huÊn 
XN ph©n Kh«ng XN
Ph©n 
Thùc hµnh XN ph©n
vµ tËp huÊn VSATTP
Biểu đồ 3.7. Thực hành tập huấn kiến thức VSATTP và xét nghiệm phân 
Nhận xét: 
 Tỷ lệ không đi tập huấn kiến thức VSATTP là 68,7%, không xét nghiêm 
phân phát hiện người lành mang vi khuẩn gây bệnh đường tiêu hoá là 82,3%. 
3.4. Mối liên quan của một số yếu tố nguy cơ với tình trạng ô nhiễm thức 
ăn đƣờng phố. 
3.4.1. Mối liên quan giữa kiến thức với thực hành 
Bảng 3.16. Mối liên quan giữa kiến thức VSATTP và thực hành sử dụng 
dụng cụ chế biến riêng biệt 
Tình trạng 
kiến thức VSATTP 
Tình trạng sử dụng 
dụng cụ chế biến riêng biệt 2; p. 
Không sử dụng Có sử dụng 
Kiến thức không tốt 28 17 
2 = 9,83; 
p < 0,01. 
Kiến thức tốt 99 166 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
38 
Nhận xét: 
 Có mối tương quan giữa kiến thức VSATTP của người phục vụ với thực 
hành sử dụng dụng cụ chế biến thức ăn. Những người có kiến thức VSATTP tốt 
thì sử dụng dụng cụ chế biến thức ăn hợp vệ sinh có ý nghĩa thống kê với p < 
0,01. 
Bảng 3.17. Mối liên quan giữa kiến thức VSATTP và thực hành sử dụng 
nước trong chế biến thực phẩm 
Tình trạng 
kiến thức VSATTP 
Thực trạng sử dụng 
nước trong chế biến thức ăn 
2; p. 
Sử dụng 
không hợp VS 
Sử dụng nước 
hợp VS 
Kiến thức không tốt 22 5 
2 = 6,49; 
p < 0,05.
 Kiến thức tốt 159 124 
Nhận xét: 
- Có mối liên quan giữa kiến thức VSATTP với thực hành sử dụng nước 
hợp vệ sinh trong chế biến thực phẩm. Những người có kiến thức tốt về 
VSATTP thì thực hành sử dụng nước hợp vệ sinh trong chế biến thực phẩm 
tốt hơn có ý nghĩa thống kê với P < 0,05. 
Bảng 3.18. Mối liên quan giữa kiến thức VSATTP và thực hành sử dụng BHLĐ 
Tình trạng 
kiến thức VSATTP 
Thực trạng sử dụng BHLĐ 
2; p. 
Không sử dụng Có sử dụng 
Kiến thức không tốt 60 6 2 = 7,76 
p < 0,01; Kiến thức tốt 183 61 
Nhận xét: 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
39 
Có mối tương quan giữa kiến thức VSATTP với mức độ sử dụng bảo 
hộ lao động. Những người có kiến thức VSATTP tốt, sử dụng bảo hộ lao 
động nhiều hơn có ý nghĩa thống kê với P < 0,01. 
Bảng 3.19. Mối liên quan giữa kiến thức VSATTP với sử dụng tủ bảo quản 
thức ăn đường phố 
Tình trạng 
kiến thức VSATTP 
Thực trạng sử dụng 
tủ bảo quản thức ăn 2; p 
Không sử dụng Có sử dụng 
Kiến thức VSATTP kém 29 112 2= 18,33; 
p < 0,001. Kiến thức VSATTP tốt 8 161 
Nhận xét: 
 Có mối liên quan giữa kiến thức VSATTP với tủ bảo quản thức ăn. 
Nhũng người có kiến thức VSATTP tốt thì sử dụng tủ bảo quản thức ăn nhiều 
hơn có ý nghĩa thống kê với p < 0, 001. 
3.4.2. Mối liên quan một số yếu tố với sự ô nhiễm vi khuẩn thức ăn đƣờng 
phố 
Bảng 3.20. Mối liên quan giữa sử dụng nguồn nước với tình trạng ô nhiễm 
vi khuẩn trong thức ăn đương phố 
Sử dụng nguồn 
nước 
Thực trạng vệ sinh thức ăn 
2; p. 
Không đạt TVVS Đạt TCVS 
Sử dụng nước 
không đảm bảo vệ 
sinh 
14 13 
2 = 0,42; 
p > 0,05. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
40 
Sử dụng nước đảm 
bảo vệ sinh 
165 118 
Nhận xét: 
 Không có mối tương quan giữa việc sử dụng nguồn nước trong chế 
biến thức ăn với mức độ ô nhiễm vi khuẩn ( p > 0,05 ). 
Bảng 3.21. Mối liên quan giữa sử dụng dụng cụ riêng biệt với ô nhiễm vi 
khuẩn trong thức ăn đường phố 
Tình trạng sử dụng 
dụng cụ riêng biệt 
Tình trạng ô nhiễm 
thức ăn đường phố 
2; p. 
Có ô 
nhiễm 
Không ô 
nhiễm 
Không sử dụng dụng cụ 
riêng biệt 
29 5 2= 11,88; 
p < 0,001. 
Sử dụng dụng cụ riêng biệt 150 126 
Nhận xét: 
 Có mối liên quan giữa việc dùng dụng cụ chế biến với tình trạng ô 
nhiễm vi khuẩn trong mẫu thức ăn. Sử dụng dụng cụ chế biến thực phẩm 
không riêng biệt thì nguy cơ ô nhiễm vi khuẩn cao hơn so với sử dụng dụng 
cụ chế biến thực phẩm riêng biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
41 
Bảng 3.22. Mối liên quan giữa người tập huấn VSATTP với ô nhiễm vi 
khuẩn trong thức ăn đường phố 
Tập huấn VSATTP 
Thực trạng vệ sinh thức ăn 
2; p. Không đạt 
TVVS 
Đạt 
TCVS 
Không được tập huấn 
VSATTP 
152 61 
2 = 51,75; 
 p < 0,001. Được tập huấn 
VSATTP 
27 70 
Nhận xét: 
 Có mối liên quan giữa việc tập huấn VSATTP với tình trạng ô nhiễm vi 
khuẩn trong các mẫu thực phẩm. Người không được tập huấn VSATTP thì 
nguy cơ ô nhiễm vi khuẩn mẫu thức ăn cao hơn so với người được tập huấn 
với p < 0,001. 
Bảng 3.23. Mối liên quan giữa sử dụng bảo hộ lao động với tình trạng ô 
nhiễm vi khuẩn trong thức ăn đường phố 
Sử dụng BHLĐ 
Thực trạng vệ sinh thức ăn 
2; p. Không đạt 
TVVS 
Đạt 
TCVS 
Không sử dụng BHLĐ 139 108 
2
 = 0,05. 
p > 0,05 
 Có sử dụng BHLĐ 40 23 
Nhận xét: 
 Không có môi tương quan giữa việc sử dụng bảo hộ lao động với tình 
trạng ô nhiễm vi khuẩn mẫu thức ăn (p > 0,05). 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
42 
Bảng 3.24. Mối liên quan giữa việc bảo quản thực phẩm trong tủ kính với ô 
nhiễm vi khuẩn trong thức ăn đường phố 
Tình trạng bảo quản 
 thức ăn 
Thực trạng ô nhiễm thức ăn 
đường phố 
2; p. 
Có ô nhiễm 
thức ăn 
Không ô 
nhiễm thức ăn 
Thức ăn không để trong tủ kính 84 36 2 = 12,06; 
p < 0,001. Thức ăn để trong tủ kính 95 95 
Nhận xét: 
 Có mối liên quan giữa việc bảo quản thức ăn trong tủ kính với tình 
trạng ô nhiễm thức ăn đường phố. Thức ăn đường phố không được bảo quản 
trong tủ kính có nguy cơ ô nhiễm vi khuẩn cao hơn so với thức ăn được bảo 
quản trong tủ kính với p < 0,001. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
43 
Chƣơng 4 
BÀN LUẬN 
4.1.Một số thông tin chung 
Hiện nay, thức ăn đường phố đã được thừa nhận như là một tất yếu của 
xã hội. Thức ăn đường phố không tránh khỏi nguy cơ ô nhiễm của các yếu tố 
như vật lý, hoá học, vi sinh vật; Trong đó, ô nhiễm thức ăn đường phố do vi 
sinh vật, đặc biệt do vi khuẩn đang là vấn đề quan trọng của toàn xã hội. Thức 
ăn đường phố bao gồm 2 mặt song song cùng tồn tại: bên cạnh những mặt có 
lợi là hàng loạt các yếu tố nguy cơ có thể dẫn đến ngộ độc thực phẩm xuất 
phát từ loại hình thức ăn này. Nếu chúng ta thiếu cẩn thận trong khâu trong 
lựa chọn, chế biến và sử dụng thực phẩm thì nguy cơ ngộ độc thực phẩm rất 
dễ xảy ra. Bên cạnh đó, người phục vụ thức ăn đường phố còn thiếu kiến thức 
và thực hành về công việc này, thiếu trách nhiệm trong chế biến, kinh doanh 
thực phẩm; Công tác xử lý của các ngành chức năng đối với các cơ sở thực 
phẩm bị vi phạm chưa thoả đáng...sẽ là những yếu tố thuận lợi để ngộ độc 
thực phẩm xảy ra, nhất là khi con người sống trong điều kiện không thể tách 
rời loại hình dịch vụ này. Đảm bảo chuỗi VSATTP là việc làm không đơn 
giản, ngay ở các nước có nền công nghiệp phát triển và hệ thống kiểm soát 
chất lượng thực phẩm tiên tiến thì ngộ độc thực phẩm vẫn xảy ra [52]. Vấn đề 
là ở chỗ khống chế đến mức tối đa các nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm. Vì 
thế trong chiến lược dinh dưỡng cụ thể ở Việt Nam có một nội dung quan 
trọng liên quan đến công tác đảm bảo CLVSATTP: “ Tăng cường đảm bảo 
VSATTP…thức ăn không được là nguồn gây bệnh ” [8], [9], [43]. Muốn vậy, 
việc nâng cao kiến thức, thực hành VSATTP cho những người trực tiếp sản 
xuất và các chủ cơ sở cần được ưu tiên hàng đầu và triển khai có hiệu quả 
[52]. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
44 
 Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, người phục vụ thức ăn 
đường phố chủ yếu là nữ (81,9%) cao hơn nam (18,1%). Kết quả này phù hợp 
với đặc trưng kinh doanh thức ăn đường phố ở Việt Nam và một số công trình 
nghiên cứu đã công bố trước đây. Với đặc trưng này, chúng ta cần chú trọng 
tác động đến đối tượng là nữ giới vì họ có liên quan đến việc chế biến kinh 
doanh thực phẩm nhiều hơn. Nghiên cứu của Tống Văn Đản và Cs ở tỉnh 
Bình Dương tỷ lệ nam là 14,95% và nữ là 85,05% [26]. Nghiên cứu của tác 
giả Dương Thị Hiển tại 3 huyện của tỉnh Bắc Giang cho biết: nam giới chiếm 
tỷ lệ 28,6%, nữ giới chiếm 71,4% [42]. Theo số liệu điều tra ban đầu năm 
2005 của Cục An toàn Vệ sinh thực phẩm tại 7 thành phố thì tỷ lệ nam giới là 
24,2%, nữ là 75,8% [12]. 
Vể nhóm tuổi của những người phục vụ thức ăn đường phố: cao nhất là 
từ 19 - 55 tuổi, chiếm tỷ lệ 87,1%. Đây chính là nhóm tuổi thuộc độ tuổi lao 
động, ở độ tuổi này đã có sự tích luỹ kinh nghiệm trong cuộc sống, chín chắn 
hơn trong công việc, nhất là kinh doanh thức ăn đường phố, một việc làm liên 
quan hàng ngày với nhiều người, tác động trực tiếp đến sức khoẻ người tiêu 
dùng. Rất may người chế biến, kinh doanh thực phẩm chỉ chiếm 0,3% đối với 
nhóm tuổi 55. Nghiên cứu của tác giả 
Dương Thị Hiển tại tỉnh Bắc Giang cho thấy nhóm tuổi < 20 chiếm tỷ lệ 0%, 
nhóm tuổi 20 - 49 chiếm tỷ lệ 74,5%, nhóm tuổi ≥ 50 chiếm tỷ lệ 25,5% [42]. 
Kết quả này tương đối phù hợp với kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Kết quả 
nghiên cứu của Bùi Ngọc Quang tại thị xã Cao Bằng 9 tháng đầu năm 2007 
cũng cho thấy nhóm tuổi tử 20 - 49 chiếm tỷ lệ chủ yếu (73,7%) [48]. 
 Trước khi tham gia phục vụ thức ăn đường phố, trình độ học vấn của họ 
chủ yếu là Trung học phổ thông (49%) và Trung học cơ sở (41,6%), trình độ 
Đại học và Cao đẳng chiếm 3%, Tiểu học chiếm 5%, biết đọc, biết viết chiếm 
4%, không có trường hợp nào mù chữ, có sự khác nhau so với nghiên cứu của 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
45 
Tống Văn Đản (tỷ lệ mù chữ là 2,33%, tiểu học là 26,91%, Trung học cơ sở là 
46,84%, Trung học phổ thông là 23,92% % [26]). Theo tác giả Dương Thị 
Hiển nghiên cứu tại Bắc Giang thì tỷ lệ mù chữ là 0%; tiểu học 17,3%; Trung 
học cơ sở 45,9; Trung học phổ thông 26,5%; Trung cấp 6,1%; Đại học 4,1% 
[42]. Tác giả Hoàng Anh Tuấn khi nghiên cứu thực trạng vệ sinh và sự ô 
nhiễm VSV ở một số cơ sở dịch vụ thức ăn đường phố tại thành phố Thái 
Nguyên cho thấy tỷ lệ học vấn của những người tham gia dịch vụ này là: mù 
chữ chiếm 0,5%, Tiểu học chiếm 8%, Trung học cơ sở chiếm 42,5%, Trung 
học phổ thông chiếm 43%, Trung cấp chiếm 4,5% và Đại học chiếm 1,5% 
[49]. Tỷ lệ này tương tự với kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại thành phố 
Thanh Hoá. 
4.2. Tình hình ô nhiễm vi khuẩn TĂĐP năm 2007 tại thành phố Thanh Hóa 
Thành phố Thanh Hoá là một trung tâm có tiềm năng phát triển mạnh về 
kinh tế, văn hoá, thương mại và du lịch với hơn 200.000 dân, thu hút hàng 
ngày hàng chục ngàn người bao gồm đủ các tầng lớp đến học tập, công tác, 
làm việc, du lịch… Do đó thức ăn đường phố không còn đơn giản chỉ là vấn 
đề sức khoẻ. 
Qua nghiên cứu 310 cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm trên 
địa bàn thành phố Thanh Hoá với 310 mẫu bao gồm: thịt và các sản phẩm từ 
thịt, bún và bánh phở, cá và sản phẩm từ cá, rau sống, nem chua, giò chả, 
dụng cụ và bàn tay người chế biến thực phẩm, cho thấy: tỷ lệ mẫu không đạt 
TCVS chung trong các mẫu thực phẩm là 57,74%. Tỷ lệ này thấp hơn điều tra 
của Nguyễn Thị Sợi tại Hải Phòng (72%), nhưng lại cao hơn thị xã Kon Tum 
(46%), thành phố Buôn Ma Thuột (52,7%), tỉnh Quảng Trị (48,9%) và thành 
phố Hà Nội (46,6%). [38]. Một nghiên cứu khác của tác giả Nguyễn Thị Hiền 
và Cs, năm 1998 và năm 2002 tại thành phố Hà Nội cho thấy tỷ lệ ô nhiễm 
chung của thức ăn đường phố là 46,7% [41], thấp hơn trong nghiên cứu của 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
46 
chúng tôi. Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Văn Việt và Cs tại 
thành phố Nam Định [8], cao hơn nhiều so với nghiên cứu này: ô nhiễm vi 
sinh vật trong thịt trong nhóm thức ăn chín, chế biến sẵn là 81%, cũng tương 
đương với kết quả nghiên cứu của Hoàng Anh Tuấn tại thành phố Thái 
Nguyên (72,73%) [49]. Theo Nguyễn Khánh Trâm, nguyên nhân gây ngộ độc 
thực phẩm phần lớn là do đồ ăn, thức uống bị nhiễm VSV, chiếm gần 73% 
trong tổng số các nguyên nhân [35]. 
Trong phạm vi nghiên cứu, chúng tôi chỉ xét đến các vi khuẩn đã nêu 
trên (TSVKHK, Coliforms, E.coli, S. aureus, Cl. perfringens, Salmonella). 
Một số loại vi khuẩn khác chúng tôi chưa có điều kiện đề cập đến. Qua kết 
quả xét nghiệm chúng tôi thấy tỷ lệ ô nhiễm các vi khuẩn trên cao nhất trong 
nem chua (76,7%). Sự ô nhiễm này làm chúng ta hướng tới những điều kiện 
để vi khuẩn xâm nhập vào thực phẩm khiến tỷ lệ ô nhiễm vi khẩn tăng cao 
trong mẫu nem. Trước hết là khâu sử dụng và bảo quản nguyên liệu. Hiện 
nay, tình trạng thực phẩm, nhất là thực phẩm sống chưa được kiểm soát chặt 
chẽ. Người kinh doanh lại muốn tăng thu nhập, vì thế thực phẩm đưa vào sản 
xuất nem có thể chưa đảm bảo. Sau đó là một loạt các điều kiện khác như bảo 
quản nguyên liệu như thế nào, nguyên liệu đó có được xử lý đạt TCVS hay 
không? Công việc này hầu như các ngành chức năng chưa kiểm soát được. 
Mặt khác hệ thống giám sát, kiểm tra ở các địa phương thực sự chưa tốt, chưa 
đáp ứng được sự phát triển đa dạng của loại hình thức ăn đường phố..., bên 
cạnh đó là yếu tố môi trường, trang bị bảo hộ lao động, vệ sinh cá nhân, thực 
hành chế biến chưa đảm bảo. Trong nghiên cứu cũng chỉ ra: người kinh doanh 
thức ăn đường phố tỷ lệ rửa tay sau khi đi vệ sinh mới đạt 33,9%, khi bắt đầu 
làm việc 74,5% (biểu đồ 3.6)… 
Trong nghiên cứu cho thấy tỷ lệ ô nhiễm các vi khuẩn trên trong mẫu rau 
sống khá cao (66,7%) (bảng 3.3), có nhiều lý do trong đó phải đề cập đến vai 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
47 
trò của nguồn nước và thực hành của người kinh doanh thức ăn đường phố. 
Nghiên cứu của một tác giả ở Thái Bình: trong 45 mẫu rau thơm các loại đều 
bị nhiễm E.coli, Welshi [34]. Nghiên cứu của Bùi Ngọc Quang tại thị xã Cao 
Bằng cho thấy các mẫu rau sống ô nhiễm vi khuẩn Coliforms cũng với tỷ lệ 
100% [48]. Theo Trần Đáng, khi xét nghiệm gần 100 mẫu rau sống tại các 
tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Thanh Hoá, Hà Nam, Hải Phòng và một số nhà 
hàng ở Hà Nội, tất cả đều bị nhiễm E.coli và Coliforms từ 50-500 tế bào vi 
khuẩn trong 1 gam rau [38]. Có thể địa bàn chúng tôi tiến hành nghiên cứu là 
thành phố Thanh Hoá, nơi hầu như mọi gia đình đều sử dụng nguồn nước 
máy trong sinh hoạt cũng như trong chế biến thực phẩm, nó sẽ hạn chế sự ô 
nhiễm vi khuẩn, bởi theo đúng quy định trong nước máy hàm lượng clo dư 
phải đạt 5g/m3 nước cũng đã tiêu diệt được nhiều chủng vi khuẩn. Hơn nữa 
công tác giám sát chất lượng nguồn nước trên địa bàn thành phố Thanh Hoá 
được triển khai đều đặn, có hiệu quả. 
Trong mẫu thịt chín, tỷ lệ ô nhiễm vi khuẩn vượt quá TCCP là 51,7% 
thấp hơn trong giò, chả (60%). Có thể người phục vụ thức ăn đường phố 
không sử dụng dụng cụ chế biến riêng biệt, thực phẩm sống và chín có điều 
kiện tiếp xúc với nhau, làm lây lan vi khuẩn từ thực phẩm sống sang thực 
phẩm chín. Hơn nữa, tại một số cơ sở thức ăn đường phố vẫn dùng tay để chia 
ăn hoặc sử dụng các dụng cụ không đảm bảo vệ sinh để gắp thức ăn. Trong 
nghiên cứu đã chỉ ra: xử lý chất thải tại các cơ sở chế biến, kinh doanh đạt 
75,5%, cách biệt nguồn ô nhiễm (75,2%), có nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn (tự 
hoại) đạt 67,1%, thiết bị phòng chống côn trùng đạt tỷ lệ thấp (37,3%), (biểu 
đồ 3.3), là những điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập vào thức ăn. Mặt 
khác giò chả lại không được bày bán trong tủ bảo quản, môi trường nhiều bụi, 
côn trùng, ruồi nhặng và bàn tay không rửa sạch trước khi bán hàng sẽ là 
những nguồn mang vi khuẩn vào thức ăn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
48 
thấp hơn nghiên cứu của nhóm tác giả Vũ Văn Việt và Cs tại thành phố Nam 
Định về nhóm thức ăn chín, chế biến sẵn (78,6% ô nhiễm VSV trong thịt 
quay, 100% ô nhiễm VSV trong giò nạc bán lẻ ở chợ, trong giò bò, nem chạo, 
nem chua và chả quế [36]). Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hiền và cộng sự 
(2002) tại Hà Nội cho biết có khoảng 50-80% các mẫu thịt, 83,3% mẫu giò 
chả không đạt tiêu chuẩn vệ sinh [41]. Tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu 
của chúng tôi tại TP. Thanh Hoá. 
Tỷ lệ ô nhiễm vi khuẩn thấp nhất trong cá, có thể do cá là loại thức ăn 
mà các cơ sở chỉ dùng trong ngày, không để dài ngày như giò, chả, thịt. Cá 
trước khi ăn thường được nấu nóng lại, không giống như thịt quay, nem, 
chả...và cũng không dùng dụng cụ dao, thớt để thái, chặt khi nó được đưa đến 
người sử dụng. 
Các tỷ lệ ô nhiễm vi khuẩn như đã nêu trên ở thành phố Thanh Hoá cũng 
như ở tỉnh bạn đang đặt ra cho người sử dụng thực phẩm và người kinh doanh 
phải có những cải tiến trong việc chế biến, kinh doanh và người tiêu dùng 
cũng phải thông thái trong việc lựa chọn thực phẩm. 
Ngoài ô nhiễm ở các mẫu thực phẩm chúng tôi còn thấy tỷ lệ ô nhiễm vi 
khuẩn trên dụng cụ và bàn tay người chế biến thực phẩm khá cao. Tỷ lệ ô 
nhiễm ở mẫu dụng cụ chế biến là 63,3%, ở bàn tay người chế biến là 62,5%, 
(bảng 3.3). Tỷ lệ này cao hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu của tác giả 
Hoàng Anh Tuấn tại thành phố Thái Nguyên (18,18%) [49], Nguyễn Thị Hiền 
và Cs tại thành phố Hà Nội (ô nhiễm vi khuẩn 58,1% trong dụng cụ chế biến) 
[41] Cao hơn cả nghiên cứu của tác giả Phạm Thị Xá năm 1999 tại thành phố 
Thanh Hoá: mẫu bàn tay không đạt là 51,6%, dụng cụ chứa đựng thực phẩm 
không đạt là 43,7%, [53], cao hơn nghiên cứu của nhóm tác giả Lê Anh Tuấn 
và Lê Nhân Tuấn tại Hà Nội năm 2001 (37%) [50]. Điều này cho chúng ta 
thấy việc thực hành rửa tay sạch trước khi chế biến, chia ăn là hết sức cần 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
49 
thiết, điều tưởng như đơn giản nhưng thực tế rất khó thực hiện. Trong nghiên 
cứu của chúng tôi tỷ lệ rửa tay sau khi đi vệ sinh mới đạt 33,9%, (biểu đồ 
3.6); Đó sẽ là nguy cơ ô nhiễm vi khuẩn từ bàn tay vào thức ăn. Thực tế, việc 
ô nhiễm vi khuẩn từ bàn tay người chế biến và việc bao gói thực phẩm rất cần 
quan tâm, từ bàn tay không sạch sẽ đưa vi khuẩn vào thức ăn. Hơn nữa bao 
gói thực phẩm bằng các vật liệu chưa đảm bảo vệ sinh, hoặc vi khuẩn xâm 
nhập vào nguyên liệu từ môi trường không đảm bảo vệ sinh, từ nguồn nước 
bẩn...đang là điều đáng quan tâm của những cán bộ làm công tác VSATTP và 
các ban ngành trong hệ thống quản lý và tổ chức. Tiếp theo phải nói đến vấn 
đề sử dụng nguồn nước trong việc chế biến thực phẩm, bởi nguồn nước có thể 
mang rất nhiều mầm bệnh nếu nguồn nước đó không được xử lý theo quy 
trình khoa học. Hiện nay, việc sử dụng nguồn nước thiếu vệ sinh ở các cơ sở 
thực phẩm bầy bán theo kiểu quầy hàng, bán rong, quầy lưu động là điều khó 
tránh khỏi; Hoặc có thể không có nước sử dụng thì nguy cơ ô nhiễm thực 
phẩm càng trở nên trầm trọng. Việc dùng tay để chia ăn cũng không phải là 
vấn đề hiếm gặp. Chỉ cần điểm qua việc ô nhiễm vi khuẩn E.coli trong các 
nhóm thực phẩm chúng tôi nghiên cứu ở trên chúng ta cũng thấy được điều 
đáng lo ngại đối với thức ăn đường phố hiện nay trên địa bàn thành phố 
Thanh Hoá nói riêng và cả nước nói chung. Tỷ lệ này còn thấp hơn so với một 
số tỉnh báo cáo tại hội nghị khoa học năm 2001. Cụ thể là ở Thái Bình (tỷ lệ ô 
nhiêm vi khuẩn E.coli trong rau sống: 100%), Nam Định (nem chạo, nem 
chua tỷ lệ này là 100%) [39]. 
Xét ô nhiễm vi khuẩn hiếu khí trong các mẫu thức ăn ta thấy có 43,9% số 
mẫu ô nhiễm (bảng 3.4). Tỷ lệ này cao hơn nghiên cứu của Bùi Ngọc Quang 
tại thị xã Cao Bằng năm 2007 (35,6%) [48]. Sự ô nhiễm này báo hiệu các mẫu 
thực phẩm đó đã hư hỏng. Khi TSVKHK tăng cao thường đã có sự xâm nhập 
của các loại vi khuẩn khác trong mẫu thức ăn. Nguy hiểm hơn là thức ăn 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
50 
nhiễm Tụ cầu vàng. Khi ô nhiễm vi khuẩn đó, triệu chứng ngộ độc rất rầm rộ 
và thời gian xảy ra ngộ độc (từ lúc ăn đến khi có triệu chứng lâm sàng) cũng 
ngắn hơn, nguy cơ tử vong cao hơn. Như chúng ta đã biết, Thanh Hoá là một 
tỉnh thuộc Bắc miền Trung, có biên giới giáp với nước bạn Lào, điều kiện khí 
hậu mang đặc điểm chung của khí hậu cả nước: nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm 
quanh năm, là điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn phát triển mạnh. Hơn nữa, là 
một thành phố trẻ, công nghiệp bắt đầu phát triển, không tránh khỏi ô nhiễm 
môi trường kéo theo sự ô nhiễm các chủng vi khuẩn trong các mẫu thực 
phẩm để gây nên các vụ ngộ độc thực phẩm. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
các mẫu thực phẩm bị ô nhiễm Tụ cầu cao nhất trong giò chả (13.3%), sau đó 
đến nem chua (10%), (bảng 3.8, 3.9). Phải chăng trong quá trình chia thực 
phẩm đến người sử dụng, người kinh doanh thực phẩm đã dùng tay để chia và 
từ bàn tay đã đưa mầm bệnh (Tụ cầu) vào thực phẩm? Hoặc thực phẩm 
thường xuyên bầy bán ở môi trường không đảm bảo vệ sinh, vì thế Tụ cầu 
trong đất, nước, môi trường sẽ có nhiều khả năng ô nhiễm vào thực phẩm. Tỷ 
lệ mẫu thực phẩm ô nhiễm Tụ cầu cũng như ô nhiễm chung của các loại vi 
khuẩn trong mẫu giò, chả khá cao (60%). Theo nghiên cứu của Trung tâm Y 
tế dự phòng tỉnh Bến Tre năm 2007 ngay cả trong thịt chín ô nhiễm tụ cầu 
cũng lên đến 12,3%. Bên cạnh sự ô nhiễm vi khuẩn trong thức ăn đường phố, 
chúng ta cần đề cập tới sự ô nhiễm vi khuẩn trong dụng cụ chế biến, dụng cụ 
chứa đựng thực phẩm và bàn tay người chế biến. Cũng trong nghiên cứu của 
Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Bến Tre, ô nhiễm Tụ cầu trên bàn tay người 
chế biến thực phẩm lên đến 49,6%. Sự ô nhiễm vi khuẩn trong mẫu dụng cụ 
và bàn tay người chế biến thực phẩm đang là vấn đề cần được quan tâm; Vì 
thế, phải tác động đến người sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm bằng 
nhiều cách để họ có được hành vi đúng trong việc đưa thực phẩm an toàn đến 
người tiêu dùng. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ ô nhiễm vi khuẩn ở 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
51 
bàn tay người chế biến thực phẩm là 62,5%, trong mẫu dụng cụ chế biến thực 
phẩm là 63,3%, (bảng 3.3). Tỷ lệ này thấp hơn so với tỷ lệ chung của cả nước. 
Nghiên cứu của Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Bến Tre năm 2007 cho thấy có 
49,6% mẫu bàn tay người chế biến thực phẩm ô nhiễm Tụ cầu, trong mẫu 
dụng cụ chế biến thực phẩm có đến 57,7% ô nhiễm Tụ cầu và 25,8% ô nhiễm 
vi khuẩn E.coli. Nghiên cứu đó cũng chỉ ra một tỷ lệ đáng báo động ở Bến 
Tre là: trong dụng cụ chứa đựng thức ăn sẵn có 12,7% mẫu thực phẩm thuộc 
nhóm thức ăn đường phố ô nhiễm vi khuẩn tụ cầu; 28,5% ô nhiễm vi khuẩn 
E.coli. Theo Cục An toàn Vệ sinh thực phẩm có đến 80% bàn tay người chế 
biến mắm tôm nhiễm vi khuẩn E.coli. Tỷ lệ này còn cao hơn ở một số tỉnh: 
bàn tay nhiễm E.coli ở Thái Bình là 92%, Hải Dương là 64,7% và thấp hơn ở 
thành phố Hà Nội (37%), Huế (37%) [34]. Đáng lo ngại hơn, nguyên nhân 
gây ô nhiễm thực phẩm không chỉ có một loài vi khuẩn mà có nhiều loài vi 
khuẩn khác nhau, trong đó có cả Tụ cầu sinh ngoại độc tố đã được tìm thấy 
khi kiểm nghiệm. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy có 8,9% mẫu không đạt tiêu 
chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm mà nguyên nhân do một chủng vi khuẩn, 
chủ yếu các mẫu đều bị ô nhiễm từ 2 chủng vi khuẩn trở lên, tỷ lệ ô nhiễm 2 
chủng vi khuẩn quá cao (91,1%), (biểu đồ 3.2). 100% mẫu nem chua và giò, 
chả có 5 chủng vi khuẩn, trong đó 10% mẫu nem và 13,3% giò chả ô nhiễm 
Tụ cầu, (bảng 3.8, 3.9). Đây thật sự là điều đáng báo động về nguy cơ và tính 
chất của các vụ ngộ độc thực phẩm vì khi thực phẩm chế biến ăn ngay bị ô 
nhiễm bởi 2 chủng vi khuẩn trở lên thì nguy cơ gây nên tình trạng ngộ độc 
cấp tính cao gấp hàng trăm lần so với 1 chủng. 
4.3. Thực trạng kiến thức, thực hành về vệ sinh an toàn thực phẩm của 
ngƣời tham gia dịch vụ thức ăn đƣờng phố 
Thực phẩm bị ô nhiễm vi khuẩn theo nhiều con đường khác nhau: từ môi 
trường không khí, nguồn nước, dụng cụ chế biến, vệ sinh cá nhân người tham 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
52 
gia chế biến thực phẩm. Địa bàn thành phố Thanh Hoá trong những năm gần 
đây đều gia tăng về mật độ dân số, sự xuất hiện của một số khu công nghiệp, 
sự tăng nhanh về số lượng cơ sở thức ăn đường phố dưới các hình thức đa 
dạng: người bán hàng rong như: xôi, bánh cuốn, chả..., các quầy hàng như: 
quán cháo lươn, quán phở, tiết canh, lòng lợn..., quán cố định vẫn mọc lên 
nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của dịch vụ thức ăn đường 
phố. Điều này cũng phù hợp với điều tra của viện Dinh dưỡng Trung ương: có 
tới hơn 60% số người được hỏi thích sử dụng thức ăn đường phố. Theo điều 
tra của Cục An toàn Vệ sinh thực phẩm, tỷ lệ sử dụng thức ăn đường phố cho 
bữa ăn sáng từ 74% năm 2000 lên 90% năm 2004, bữa trưa từ 71% năm 2000 
lên 81% năm 2004. Theo điều tra của Trung tâm Dinh dưỡng thành phố Hồ 
Chí Minh năm 2003 có 99,5% người dân có sử dụng thức ăn đường phố và 
hơn một nửa là sử dụng thường xuyên hàng ngày [36]. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi cho thấy số cửa hàng mang tính cố định (ổn định lâu dài) chiếm tỷ 
lệ cao nhất (62,3%), sau đến quầy hàng, giá cố định 29,3%, thấp nhất là thức 
ăn đường phố lưu động như gánh hàng, xe đẩy (8,4%), (bảng 3.14). Điều đó 
nói lên bất cứ ở địa phương nào trong giai đoạn hiện nay cũng tồn tại mô hình 
“ thức ăn đường phố ”. Với đặc thù thức ăn đường phố như ở nước ta thì các 
vụ ngộ độc hay xảy ra là vấn đề khó tránh khỏi. Điều chúng ta muốn nói lên 
là làm sao khống chế đến mức thấp nhất các vụ ngộ độc thực phẩm và các 
thiệt hại do ngộ độc thực phẩm gây ra. Gần như ai cũng nhận thấy rất rõ là các 
quầy hàng lưu động không đủ các điều kiện vệ sinh như các cơ sở thực phẩm 
khác và nguy cơ xảy ra ngộ độc do các quầy hàng này sẽ rất lớn. Một tín hiệu 
đáng mừng là các cơ sở thức ăn đường phố mang tính ổn định lâu dài chiếm 
tỷ lệ khá cao (62,3%), (bảng 3.15). Các cơ sở thực phẩm này chắc chắn được 
trang bị tốt hơn về cơ sở vật chất và các điều kiện trang thiết bị khác cũng như 
việc tiếp cận các thông tin của người kinh doanh thực phẩm tại các cơ sở đó 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
53 
về vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ tốt hơn. Vì họ xem đây là nghề chính, không 
có nó thì không duy trì được cuộc sống vật chất của họ. Tác giả Tống Văn 
Đản, qua nghiên cứu về thức ăn đường phố ở tỉnh Bình Dương đã đưa ra nhận 
xét: người bán hàng đa số (59,8%) chỉ kinh doanh vào 1 buổi trong ngày, 
nhưng lợi nhuận từ thức ăn đường phố là nguồn thu nhập chính của 89,37% 
gia đình [26]. Điều đó cũng khiến cho họ cần thiết phải mua sắm trang bị cho 
cơ sở của mình đảm bảo yêu cầu vệ sinh theo quy định của Bộ Y tế. Qua 
nghiên cứu của chúng tôi thấy rằng việc bầy bán thức ăn trên bàn cao từ 60 
cm trở lên chiếm tỷ lệ khá cao 56,1%, (biểu đồ 3.4). Vì vậy, việc ô nhiễm 
thực phẩm từ đất, nước, không khí...chắc chắn sẽ ít hơn so với thực phẩm bầy 
bán ở vị trí thấp hơn, tuy nhiên tỷ lệ bầy bán thức ăn trên bàn thấp và sát mặt 
đất vẫn còn ở mức 43,9%, điều đó vẫn tạo điều kiện tốt cho các nguy cơ gây ô 
nhiễm thực phẩm. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nghiên cứu của 
Tống Văn Đản và cộng sự tại 3 huyện trọng điểm tỉnh Bình Dương năm 2005. 
Theo kết quả nghiên cứu của tác giả tỷ lệ này là 72,43% [26]. Kết quả: “Khảo 
sát ban đầu dịch vụ thức ăn đường phố ở địa điểm cố định trên địa bàn tỉnh 
Quảng Trị” của tác giả Trần văn Chí và cộng sự cho thấy thái độ của người 
bán thức ăn đường phố về việc bầy bán thức ăn trên bàn cao từ 60 cm trở lên 
đạt tỷ lệ 62,94%. Xuất phát điểm từ việc xây dựng nhà xưởng và nhận thức 
chưa đầy đủ các kiến thức về VSATTP nên một trong các khâu đảm bảo cho 
thực phẩm an toàn hơn đó chính là việc bố trí nhà ăn theo quy trình một 
chiều. Về vấn đề này, người chế biến, kinh doanh thực phẩm chưa có những 
hiểu biết cơ bản về nó, thêm vào đó là thức ăn đường phố vẫn tồn taị quán ăn 
“di động ” như bán hàng rong, bán hàng bằng xe đẩy… nên không thể thực 
hiện được quy trình này. Chính các yếu tố nêu trên đã dẫn đến tỷ lệ cơ sở thức 
ăn đường phố đạt quy trình chế biến một chiều thấp (36,8%)… Quy trình chế 
biến không đảm bảo một chiều dễ gây nên sự ô nhiễm chéo giũa thực phẩm 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
54 
sống và chín. Đó cũng là nguyên nhân làm gia tăng các vụ NĐTP. Về việc 
chế biến thức ăn tại chỗ chiếm tỷ lệ khá cao (81,6%), chỉ có 18,4% là thực 
phẩm đưa từ nơi khác đến cũng đã hạn chế được một số mầm bệnh ô nhiễm 
vào thực phẩm. Theo lời khyuên của các nhà thực phẩm, đó cũng là một 
nguyên tắc nằm trong 10 nguyên tắc vàng trong chọn, mua và chế biến thực 
phẩm: thức ăn phải được ăn ngay sau khi vừa nấu chín. Qua tìm hiểu kiến 
thức của những người kinh doanh thức ăn đường phố trên địa bàn thành phố 
Thanh Hoá năm 2007 ta nhận thấy kiến thức của họ đang dừng lại ở mức độ 
nhất định. Những kiến thức cơ bản liên quan đến công tác đảm bảo 
CLVSATTP như hiểu biết về 10 nguyên tắc vàng trong lựa chọn, chế biến 
thực phẩm mới chỉ đạt 40,6%. Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của 
Dương Thị Hiển tại 3 huyện của tỉnh Bắc Giang (17,3%) [42]. Hiểu biết về 
nguồn nước sạch: 54,8%, hiểu biết đầy đủ về trang bị bảo hộ lao động: 78,7%, 
hiểu biết về tác dụng của tủ kính: 81%, về tác dụng chính của dụng cụ chứa 
đựng chất thải: 57,1%, về tầm quan trọng của việc học tập kiến thức VSATTP 
và khám sức khoẻ định kỳ: 97,4%, đặc biệt hiểu biết về tác dụng chính của tủ 
lạnh trong việc đề phòng ngộ độc thực phẩm đạt ở mức quá thấp: 31,3%. 
Chính điều này đã đặt ra cho người quản lý và các ban ngành hữu quan nhiều 
hoạt động quan trọng trong đó không thể thiếu công tác truyền thông giáo dục 
sức khoẻ ở cộng đồng mà trực tiếp là những người sản xuất, chế biến, kinh 
doanh thực phẩm để hạn chế NĐTP có thể xảy ra trong cộng đồng. Theo Đào 
Thị Hà, Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và Cs thì hiểu biết 
của người kinh doanh thức ăn đường phố về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm 
là tương đối tốt: nhận thức đúng về trang bị bảo hộ lao động: 83,5%, về 
nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm: 77% do bụi, 66% do nguyên liệu thực 
phẩm không đảm bảo [33]. Từ kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm của 
người chế biến, kinh doanh thực phẩm đến hành động đúng cũng là một vấn 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
55 
đề cần quan tâm của toàn xã hội. Thực tiễn chúng ta đều biết, có những công 
việc mọi người đều hiểu rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của nó, nhưng để biến 
hiểu biết của họ thành công việc cụ thể còn vô vàn khó khăn và nhất thiết phải 
có thời gian. 
Thực hành ở người chế biến, kinh doanh thực phẩm còn nhiều vấn đề cần 
quan tâm: từ vệ sinh cá nhân, vệ sinh khu vực chế biến, kinh doanh, khâu bảo 
quản, bầy bán, chia ăn...Chỉ cần mất an toàn vệ sinh một trong các khâu trên 
thì nguy cơ ngộ độc thực phẩm dễ dàng xảy ra. Trong nghiên cứu, chúng tôi 
nhận thấy trang thiết bị và điều kiện vệ sinh cơ sở còn nhiều hạn chế: tỷ lệ cơ 
sở có tủ lạnh để bảo quản thực phẩm đạt 54,5%, vẫn còn 45,5 % số cơ sở 
chưa có tủ bảo quản lạnh. Như vậy thực phẩm nói chung, nhất là thực phẩm 
có nguy cơ phân huỷ cao như các loại thực phẩm thuộc nhóm chất đạm dễ bị 
biến chất ôi thiu. Tỷ lệ cơ sở có nước sạch đạt tỷ lệ khá cao: 91,3%, xử lý chất 
thải: 75,5%, cơ sở cách biệt nguồn ô nhiễm: 75,2%, cơ sở có nhà vệ sinh đạt 
tiêu chuẩn: 67,1%, thấp nhất là tỷ lệ cơ sở có thiết bị phòng chống côn trùng: 
37,7%. Các điều kiện vệ sinh chưa đảm bảo trên sẽ tác động trực tiếp vào 
thực phẩm và gây nên ô nhiễm trong thực phẩm. Điều kiện vệ sinh này cũng 
nằm trong điều kiện vệ sinh chung của một số nghiên cứu khác. Theo Tống 
Văn Đản và Cs: vệ sinh nơi bán hàng sạch mới chỉ đạt 34,22%, ruồi nhặng 
nơi bán hàng không có đạt 27,91%, rác thải được cho vào thùng chứa có nắp 
đậy đạt 35,88% [26]. Theo tác giả Dương Thị Hiển tại 3 huyện tỉnh Bắc 
Giang về vệ sinh cá nhân và trang bị bảo hộ lao động cho người chế biến, 
kinh doanh thức ăn đường phố tại các cơ sở thực phẩm cũng chưa thực hiện 
tốt: trang bị bảo hộ lao động đạt tỷ lệ quá thấp: 20,3%, thường xuyên cắt ngắn 
móng tay: 73,9%, rửa tay khi bắt đầu làm việc: 74,5%, khi tiếp xúc với thực 
phẩm: 93,2%, rửa tay sau khi đi vệ sinh chỉ dừng lại ở tỷ lệ 33,9%. Vì thế, vi 
khuẩn E.coli và một số vi khuẩn khác sẽ có điều kiện xâm nhập vào thực 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
56 
phẩm dễ dàng hơn thông qua bàn tay của người chế biến, kinh doanh thực 
phẩm. Phải chăng do thói quen, do đầu tư cho công việc này quá lớn hay việc 
giám sát, kiểm tra và xử lý vi phạm chưa nghiêm ở các cấp. Nghiên cứu của 
Tống Văn Đản tỷ lệ này còn thấp hơn ở 3 huyện trọng điểm của tỉnh Bình 
Dương: trang phục riêng cho bán hàng đạt 11,63%, móng tay cắt ngắn, sạch: 
82,39% [26]. Một nghiên cứu khác của tác giả Trần Văn Chí và cộng sự tại 
Quảng Trị chỉ ra rằng tỷ lệ rửa tay sau khi đi vệ sinh, sau khi làm vệ sinh cơ 
sở, sau khi tiếp xúc với thực phẩm tươi sống, trước khi bán hàng cũng chỉ đạt 
37,64%. Theo nhóm tác giả Nguyễn Thị Hiền và cộng sự nghiên cứu năm 
1998 và năm 2002 tại Hà Nội cho thấy tỷ lệ móng tay để dài là 26,8% [41], 
đây rõ ràng là những yếu tố tác động tới sự ô nhiễm vi khuẩn vào thực phẩm. 
Công tác tập huấn và khám sức khoẻ, trong đó có xét nghiệm phân phát hiện 
người lành mang trùng là nội dung quan trọng của người chế biến, kinh doanh 
thực phẩm. Bởi chính người lành mang trùng sẽ đưa vào môi trường nhiều 
mầm bệnh nguy hiểm. Trong nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tập huấn kiến thức vệ 
sinh an toàn thực phẩm vẫn còn thấp (31,3%), xét nghiệm phân phát hiện 
người lành mang trùng cũng chỉ đạt 17,7%. Một thực tế hiện nay người chế 
biến, kinh doanh thực phẩm rất đa dạng, có người đã mất sức lao động, có 
người đã nghỉ hưu, có người do sức khoẻ không đảm bảo nên đã chuyển từ 
công việc nặng nhọc hơn sang chế biến, kinh doanh thức ăn đường phố. Điều 
này cũng cần có sự giám sát chặt chẽ của các ngành chức năng; Sự kiểm tra, 
thanh tra và xử lý các vi phạm là hết sức cần thiết để mầm bệnh không lây 
truyền vào thực phẩm do người chế biến, kinh doanh. Theo một số nghiên cứu 
của tỉnh bạn cho thấy ở tỉnh Bình Dương năm 2005 có 11,3% được tập huấn 
kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm, thấp hơn trong nghiên cứu của chúng tôi 
tại TP Thanh Hoá năm 2007 [26]. Bà Rịa - Vũng Tàu: tỷ lệ học tập kiến thức 
VSATTP và khám sức khoẻ là 42,7% [34]. Kết quả nghiên cứu của Dương 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
57 
Thị Hiển tại tỉnh Bắc Giang số người đã qua lớp tập huấn VSATTP đạt tỷ lệ 
60,% [42]; Nghiên cứu của tác giả Hoàng Anh Tuấn ở Hà Nội năm 2001, tỷ lệ 
học tập kiến thức VSATTP là 41%, khám sức khoẻ định kỳ là 35% [49]. Các 
nghiên cứu trên đều cao hơn kết quả của chúng tôi tại thành phố Thanh Hoá 
năm 2007. 
4.4. Một số yếu tố liên quan đến ô nhiễm vi khuẩn trong thức ăn đƣờng phố 
 Trong điều kiện sống hiện nay, con người thường xuyên sử dụng thức ăn 
 đường phố, xem nó như là một tồn tại tất yếu của xã hội. Sự ô nhiễm thực 
phẩm ở nước ta cũng như tại thành phố Thanh Hoá đã tác động xấu tới sức 
khoẻ người tiêu dùng. Những yếu tố tác động tới chất lượng thực phẩm bị ô 
nhiễm vi khuẩn, nếu con người có nhận thức đầy đủ, có hành vi tốt trong sản 
xuất, kinh doanh và lựa chọn thực phẩm thì các yếu tố tác động tới ô nhiễm vi 
khuẩn trong thức ăn đường phố sẽ hạn chế rất nhiều. 
 Trong nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy giữa kiến thức và thực hành 
của người chế biến, kinh doanh thực phẩm có mối liên quan chặt chẽ. Với 
những người có hiểu biết tốt về VSATTP thì sử dụng tủ lạnh trong bảo quản 
thực phẩm nhiều hơn so với người không có kiến thức VSATTP có ý nghĩa 
thống kê với p < 0,001; ( Bảng 3.19 ). 
 Sử dụng dụng cụ chế biến thức ăn riêng biệt (sống, chín riêng biệt) có tác 
dụng ngăn ngừa sự ô nhiễm thức ăn bởi vi khuẩn. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra 
sự quan hệ mật thiết của vấn đề này. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, ở 
những ngời có kiến thức VSATTP tốt thì thực hành sử dụng dụng cụ chế biến 
riệng biệt cao hơn so với nhóm người không có kiến thức VSATTP tốt; (Bảng 
3.16). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy có mối liên quan giũa 
kiến thức VSATTP với thực hành sử dụng nước sạch trong chế biến thức ăn 
với p < 0,05; ( Bảng 3.17 ). 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
58 
 Ý thức sử dụng bảo hộ lao động trong quá trình chế biến thức ăn không 
những chỉ góp phần giảm tai nạn lao động mà còn góp phần làm giảm bớt tình 
trạng ô nhiễm vi khuẩn trong thức ăn. Ý thức bảo hộ lao động thường gắn liến 
với sự hiểu biết của con người. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy ở 
những người có kiến thức VSATTP tốt thì sử dụng bảo hộ lao động nhiều hơn 
có ý nghĩa thống kê với p < 0,01; (Bảng 3.18). 
 Những người được tập huấn về VSATTP sẽ được nâng cao kiến thức về 
VSATTP, điều này sẽ giúp cho họ có kiến thức, thái độ và hành vi tốt hơn 
trong việc làm giảm sự ô nhiễm vi khuẩn vào thức ăn trong. Phân tích kết quả 
các xét nghiệm các mẫu thức ăn, chúng tôi thấy các mẫu thức ăn lấy từ các 
quầy quán của những người không được tập huấn VSATTP, mức độ ô nhiễm 
vi khuẩn cao hơn so với các quầy quán được tập huấn VSATTP có ý nghĩa 
thống kê với p < 0,001; (Bảng 3.22). Điều này, chứng tỏ có mối liên quan 
chặt chẽ giữa những người được tập huấn với tình trạng ô nhiễm vi khuẩn 
trong thức ăn đường phố. 
 Kết qua trên cho thấy, để đảm bảo an toàn thức ăn cho người tiêu dùng thì 
vấn đề nâng cao kiến thức VSATTP cho những người phục vụ là rất cần thiết. 
 Ngoài kiến thức về VSATTP, các điều kiện phục vụ thức ăn đường phố 
cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hạn chế sự xâm nhập của vi khuẩn 
vào thức ăn. Nếu chỉ có kiến thức VSATTP tốt thì chưa đủ điều kiện đảm bảo 
VSATTP cho người tiêu dùng mà cần phải xem xét hai vấn đề này trong mối 
quan hệ hữu cơ với nhau. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các 
thức ăn không được bày, bảo quản trong tủ kính có nguy cơ bị nhiễm bẩn bởi 
vi khuẩn cao hơn so với thức ăn được bảo quản trong tủ kính có ý nghĩa thống 
kê với p < 0,001, (bảng 3.24). Điều này cho thấy, đối với những người phục 
vụ thức ăn đường phố, ngoài việc nâng cao kiến thức VSATTP còn phải được 
trạng bị các phương tiện bảo quản thức ăn thích hợp. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
59 
Đã có một số nghiên cứu cho thấy nguồn nuớc phục vụ chế biến thực phẩm 
không bảo đảm vệ sinh đều dẫn tới tình trạng ô nhiễm thức ăn bởi Coliform 
(38,18% ) và E.Coli ( 25,54% ). Một số chỉ tiêu vợt quá tiêu chuẩn cho phép 
tới 10 – 15 lần [ 42 ], [ 49 ]. Tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi cho 
thấy không có sự liên quan giũa việc sử dụng nguồn nuớc với tình trạng ô 
nhiễm thức ăn. Điều này có thể do các cơ sở kinh doanh ăn uống chủ yếu sử 
dụng nguồn nước máy được kiểm soát hàm lượng Clo dư khá chặt chẽ. Trong 
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sử dụng nguồn nước máy trong chế biến thức ăn là 
91,3%, (biểu đồ 3.3); Mặt mẫu thức ăn để xết nghiệm chủ yếu là thức ăn chín. 
Có thể chính điều này đã dẫn đến không có mối liên quan giũa sử dụng nguồn 
nuớc với tình trạng ô nhiễm vi khuẩn thức ăn đường phố. Kết quả của chúng 
tôi còn cho thấy không có mối liên quan giữa sử dụng bảo hộ lao động với ô 
nhiễm thức ăn đường phố, (bảng 3.23 ). Có thể do người sử dụng bảo hộ lao 
động trong chế biến và kinh doanh thực phẩm chiếm tỷ lệ thấp ( 20,3% ), 
(biểu đồ 3.6), hơn nữa số đông những người làm dịch vụ thức ăn đường phố 
đã có ý thức vệ sinh cá nhân khá tốt như cắt móng tay thường xuyên (73,9%) 
và 91,3% sử dụng nước sạch trong quá trình chế biến thức ăn (biểu đồ 3.3, 
3.6)...Tuy nhiên, để làm rõ vấn đề này đòi hỏi cần có các nghiên cứu tiếp 
theo.
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
60 
KẾT LUẬN 
- Tỷ lệ ô nhiễm vi khuẩn chung các mẫu thức ăn đường phố và dụng cụ 
chế biến là 57,74%. 
- Tỷ lệ ô nhiễm vi khuẩn vượt quá TCCP của Bộ Y tế của từng loại thực 
phẩm và dụng cụ chế biến: Nem chua: 76,7%; Thịt và sản phẩm từ thịt: 
51,7%; Cá và các sản phẩm từ cá: 43,3%; Giò chả: 60%; Rau sống 66,7%; 
Tinh bột và các sản phẩm từ tinh bột: 56,7%; Bàn tay người chế biến: 62,5% 
và dụng cụ chế biến: 63,3% không đạt TCVS. 
- Tỷ lệ ô nhiễm thức ăn đường phố do 2 chủng vi khuẩn chiếm 91,1%. 
10% mẫu nem chua và 13,3% mẫu giò chả ô nhiễm Tụ cầu khuẩn. Không tìm 
thấy vi khuẩn Thương hàn trong 310 mẫu thực phẩm được xét nghiệm. 
- Có hiểu biết về sử dụng dụng cụ chế biến riêng biệt, bảo hộ lao động 
(80%), hiểu biết về các nội dung khác đạt thấp hơn. 
- Thực hành: trang bị phục vụ, tập huấn VSATTP và xét nghiệm phân 
phát hiện người lành mang trùng đạt ở mức thấp. 
- Nghiên cứu đã cho thấy mối liên quan giữa kiến thức VSATTP với sử 
dụng tủ bảo quản thức ăn (p < 0,001), với dụng cụ riêng biệt (p < 0,01), với sử 
dụng nước sạch (p < 0,05), với thực hành sử dụng bảo hộ lao động (p < 0,01). 
- Có mối liên quan giữa sử dụng dụng cụ riêng biệt với ô nhiễm vi khuẩn 
trong thức ăn (p < 0,001), với tập huấn kiến thức VSATTP (p < 0,001), với 
bày, bán thức ăn trong tủ kính (p < 0,001). 
- Không có mối liên quan giữa việc sử dụng bảo hộ lao động, sử dụng 
nguồn nước với ô nhiễm vi khuẩn trong thức ăn đường phố tại thành phố 
Thanh Hoá; (p > 0,05). 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
61 
KHUYẾN NGHỊ 
- Các ngành, các cấp đặc biệt là những người trực tiếp làm công tác quản 
lý chất lượng VSATTP cần tăng cường tập huấn cho các cơ sở chế biến, kinh 
doanh thức ăn đường phố để họ hiểu các quy định đối với Nhà nước và trách 
nhiệm của mình đối với người tiêu dùng. Kết hợp với truyền thông để người 
tiêu dùng lựa chọn thực phẩm an toàn. 
- Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra các cơ sở thức ăn 
đường phố, tập trung đến nhóm thực phẩm có nguy cơ ô nhiễm cao như nem, 
giò, chả. 
. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 nghien_cuu_thuc_trang_o_nhiem_vi_khuan_thuc_an_duong_pho_va_mot_so_ye_.pdf nghien_cuu_thuc_trang_o_nhiem_vi_khuan_thuc_an_duong_pho_va_mot_so_ye_.pdf