Về nguyên tắc, Nhà nước pháp quyền không mâu thuẫn với hệ thống chính trị một đảng lãnh đạo. Vấn đề là ở chỗ, bản chất của đảng cầm quyền thế nào, mục tiêu chính trị của nó có phải vì lợi ích chung của dân tộc, vì con người hay không và do đó có sẵn sàng tuân theo những quy định của pháp luật hay không; có đủ phẩm chất đạo đức để vượt qua các cám dỗ quyền lực to lớn mà một đảng cầm quyền duy nhất có nhiều khả năng gặp phải hay không và nó có đặt ra và thực hiện được những kỷ luật nghiêm khắc cho chính mình hay không, v.v.
Thực tiễn phát triển của xã hội ta, đất nước ta xác nhận và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng. Hơn 74 năm qua, Đảng thể hiện tập trung ý chí, nguyện vọng và trí tuệ của toàn dân tộc. Đường lối của Đảng là sự thể hiện nhận thức của toàn xã hội về các quy luật khách quan của sự phát triển đất nước. Đó chính là căn cứ, là điều kiện cần thiết để chúng ta hoàn thiện pháp luật. Hiến pháp của nước ta đã ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng phù hợp với những nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, căn cứ vào kinh nghiệm thực tiễn và yêu cầu của xã hội, cần cụ thể hóa hơn nữa mối quan hệ lãnh đạo của Đảng, mà cụ thể là các tổ chức đảng và cấp ủy các cấp, cán bộ lãnh đạo Đảng với các cơ quan nhà nước và các chức vụ nhà nước các cấp.
19 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2549 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu về cơ sở Triết học về quan điểm của Đảng ta “Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam hiện nay?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
:
Thuật ngữ dân chủ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, “demos” có nghĩa là nhân dân. Ở các nền dân chủ, nhân dân là người có quyền tối cao đối với các nhà lập pháp và chính phủ.
Mặc dù các nền dân chủ trên thế giới mang sắc thái khác nhau nhưng vẫn có những nguyên tắc và thực tiễn nhất định để phân biệt một chính phủ dân chủ với các hình thức chính phủ khác.
Dân chủ là chính phủ trong đó tất cả công dân sử dụng quyền lực và thực hiện trách nhiệm công dân một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua những đại diện được bầu lên một cách tự do.
Dân chủ là một loạt các nguyên tắc và thực tiễn bảo vệ quyền tự do của con người; đó là sự thể chế hoá quyền tự do.
Dân chủ dựa trên nguyên tắc đa số, cùng với quyền của cá nhân và các nhóm thiểu số. Tất cả các nền dân chủ khi tôn trọng ý chí của đa số cũng đồng thời bảo vệ nghiêm chỉnh các quyền cơ bản của cá nhân và các nhóm thiểu số.
Các nền dân chủ chống lại các chính phủ trung ương tập quyền và phi tập trung hoá chính quyền ở cấp độ khu vực và địa phương, vì rằng nhân dân phải được tiếp cận chính quyền địa phương và chính quyền địa phương phải đáp ứng nhân dân một cách tốt nhất có thể.
Các nền dân chủ hiểu rằng một trong những chức năng cơ bản của họ là bảo vệ những quyền cơ bản của con người như tự do ngôn luận và tôn giáo; quyền được bảo vệ bình đẳng theo pháp luật; được tổ chức và tham gia đầy đủ vào đời sống chính trị, kinh tế và văn hoá của xã hội.
Các nền dân chủ tiến hành đều đặn các cuộc bầu cử công bằng và tự do cho tất cả công dân. Các cuộc bầu cử ở một nền dân chủ không thể là vỏ bọc che đậy cho những kẻ độc tài hay một đảng nào mà bầu cử là những cuộc cạnh tranh đích thực nhằm dành được sự ủng hộ của nhân dân.
Dân chủ buộc các chính phủ phải tuân thủ pháp quyền và đảm bảo rằng tất cả công dân đều được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật và các quyền của họ được hệ thống pháp luật bảo vệ.
Các nền dân chủ rất đa dạng, phản ánh đời sống chính trị, xã hội và văn hoá riêng biệt của mỗi nước. Các nền dân chủ dựa trên những nguyên tắc cơ bản chứ không phải những thực tiễn mang tính đồng nhất.
Công dân ở một nền dân chủ không những có quyền mà còn có nghĩa vụ tham gia vào hệ thống chính trị và đổi lại hệ thống chính trị đó bảo vệ các quyền và tự do cho họ.
Các xã hội dân chủ cam kết với các giá trị khoan dung, hợp tác và thoả hiệp. Các nền dân chủ nhận thấy rằng để đạt được sự đồng thuận đòi hỏi phải thoả hiệp và điều đó không phải lúc nào cũng có thể đạt được. Theo lời của Mahatma Gandhi “bản thân sự không khoan dung là một hình thức bạo lực và là cản trở đối với sự phát triển tinh thần dân chủ thực sự”.
Dân chủ có thể là một từ quen thuộc với nhiều người, nhưng nó là một khái niệm vẫn bị hiểu sai và sử dụng sai khi các chế độ chuyên chính và các chính thể quân sự độc tài lợi dụng để kêu gọi sự ủng hộ của quần chúng bằng cách tự gắn cho mình cái mác dân chủ. Tuy thế, sức mạnh của tư tưởng dân chủ cũng đã tạo nên những biểu hiện sâu sắc nhất và nhanh chóng nhất trong lịch sử của ý chí và trí tuệ con người: từ Pericles thời Aten cổ đại tới Vaclav Havel ở Cộng hòa Séc hiện đại, từ Tuyên ngôn Độc lập của Thomas Jefferson năm 1776 tới các bài diễn văn cuối cùng của Andrei Sakharov năm 1989.
Theo định nghĩa trong từ điển, dân chủ “là chính phủ được thành lập bởi nhân dân trong đó quyền lực tối cao được trao cho nhân dân và được thực hiện bởi nhân dân hoặc bởi các đại diện được bầu ra từ một hệ thống bầu cử tự do”. Theo Abrham Lincoln, dân chủ là một chính phủ “của dân, do dân và vì dân”.
Tự do và dân chủ thường hay được sử dụng thay lẫn nhau nhưng hai từ này không đồng nghĩa với nhau. Dân chủ thực tế là một tập hợp những tư tưởng và nguyên tắc về tự do và cũng bao gồm một tập hợp các thông lệ và các thủ tục đã được đúc kết lại từ quá trình lâu dài, thường không bằng phẳng, của lịch sử. Một cách ngắn gọn, dân chủ là sự thể chế hóa tự do. Trên cơ sở này chúng ta có thể định rõ được các nguyên tắc cơ bản đã được thử thách qua thời gian đối với một chính phủ lập hiến, vấn đề nhân quyền, vấn đề bình đẳng trước pháp luật mà bất cứ một xã hội nào được gọi là dân chủ theo đúng nghĩa của nó cũng cần phải có.
CÁC CỘT TRỤ CỦA NỀN DÂN CHỦ
Quyền tối cao của nhân dân.
Chính phủ được thành lập dựa trên sự nhất trí của người dân.
Nguyên tắc đa số.
Các quyền thiểu số.
Đảm bảo các quyền cơ bản của con người.
Bầu cử tự do và công bằng.
Bình đẳng trước pháp luật.
Thực hiện đúng luật.
Hiến pháp đặt ra các giới hạn quyền lực của chính phủ.
Đa nguyên về chính trị, kinh tế và xã hội.
Thúc đẩy các giá trị của dung hòa, thực dụng, hợp tác và thỏa hiệp
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đảng thông qua Nhà nước để lãnh đạo xã hội và quản lý đất nước; Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức và thực hiện đường lối chính trị của Đảng cầm quyền. Mọi chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm, không chỉ là người thụ hưởng mà còn góp phần tích cực, quan trọng vào việc xây dựng, hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nhà nước pháp quyền không phải là vấn đề hoàn toàn mới lạ, mà là một phạm trù có nguồn gốc lịch sử tư tưởng từ xa xưa. Sự ra đời và phát triển của tư tưởng: “Nhà nước pháp quyền” gắn liền với sự ra đời và phát triển của dân chủ, của tư tưởng loại trừ sự chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, vô pháp luật. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp luật với hình thức pháp lý của tổ chức, thực hiện quyền lực Nhà nước. Đó là hai yếu tố không thể thiếu được khi nói đến Nhà nước pháp quyền nói chung. Trong khoa học pháp lý bàn về khái niệm Nhà nước pháp quyền vẫn còn nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau. Song khái niệm đã được hiểu tập trung theo hai khía cạnh chủ yếu sau:
Ở nghĩa chung nhất, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước trong đó pháp luật (đạo luật) thống trị trong xã hội. Nhà nước phải điều chỉnh được các quan hệ xã hội bằng pháp luật, một quốc gia nào đó chủ yếu điều chỉnh bằng văn bản dưới luật thì quốc gia đó chưa đủ về chất của Nhà nước pháp quyền. Mặt khác, Nhà nước pháp quyền cũng được hiểu là một hình thức tổ chức Nhà nước và hoạt động chính trị quyền lực công khai (công quyền), thể hiện mối quan hệ bình đẳng giữa các cá nhân và Nhà nước dựa trên cở sở của pháp luật.
Trong cuốn tìm hiểu một số khái niệm trong Văn kiện Đại hội IX của Đảng có định nghĩa: Nhà nước pháp quyền mà chúng ta quan niệm không phải là một kiểu nhà nước, trong lịch sử chỉ có bốn kiểu nhà nước: chủ nô, phong kiến, tư sản, xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền nói một cách khái quát là hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật. Đương nhiên, bao giờ pháp luật cũng mang tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Như vậy, lý luận về nhà nước pháp quyền là hệ thống các quan điểm, tư tưởng rất phức tạp, phong phú và có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng chung quy lại Nhà nước pháp quyền là khái niệm bao hàm những nội dung rất phong phú, chứa đựng những đặc trưng, những mặt cơ bản, ghi nhận một trạng thái phát triển, một trình độ phát triển của Nhà nước và tiến bộ xã hội. Nhà nước pháp quyền hiểu chung nhất là Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật, trong đó mọi chủ thể kể cả nhà nước đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật - một hệ thống pháp luật có tính phổ biến cao (đề cao tính tối cao của Hiến pháp và luật), phù hợp với ý chí, thể hiện đầy đủ những giá trị cao cả nhất của xã hội, của con người.
Nhà nước pháp quyền có các đặc trưng cơ bản sau:
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước đảm bảo tính tối cao của pháp luật, trong đó pháp luật là ý chí chung của nhân dân. Đảm bảo sự thống trị của pháp luật trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Là nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn thiện, trong đó đề cao vai trò của Hiến pháp và các đạo luật. Tính bắt buộc của pháp luật đối với bản thân nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân. Pháp luật là tiêu chuẩn, là căn cứ cho mọi hoạt động của nhà nước và xã hội. Nhà nước trong thiết chế của nhà nước pháp quyền là nhà nước tuân thủ pháp luật, mặc dù nhà nước là người ban hành ra pháp luật đó.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do, dân chủ của công dân. Nhà nước pháp quyền không chỉ công nhận và tuyên bố các quyền tự do của công dân mà cũng phải bảo đảm thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi chúng bị xâm hại. Tự do của một người là được làm những gì mà pháp luật không cấm trong khuôn khổ pháp luật, không xâm phạm đến tự do của người khác, pháp luật chỉ cấm những người có hành vi gây hại cho xã hội.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước đảm bảo trách nhiệm lẫn nhau giữa nhà nước và công dân; quyền của công dân là trách nhiệm của nhà nước và ngược lại quyền của nhà nước là trách nhiệm của công dân. Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình cũng công dân phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nhà nước và chịu trách nhiệm về những hành vi vi phạm pháp luật của mình.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước phải có hình thức tổ chức quyền lực nhà nước thích hợp và có cơ chế hữu hiệu giám sát sự tuân thủ pháp luật, xử lý vi phạm pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện, chống chuyên quyền, lạm quyền.
Suốt trong cả chiều dài lịch sử của sự phát triển tư tưởng về nhà nước pháp quyền cho thấy những đặc trưng của nhà nước pháp quyền thể hiện những tư tưởng, quan niệm tiến bộ trong quá trình tìm tòi hình thức tổ chức, hoạt động của quyền lực công cộng trong một “xã hội công dân” thay thế “xã hội thần dân”.
Dựa trên các Văn kiện của Đảng cộng sản Việt nam và Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, có thể khái quát những đặc trưng cơ bản thuộc nội hàm khái niệm nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam như sau:
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước phải có hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, chất lượng cao thể hiện được ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội, trong đó Hiến pháp và các đạo luật phải giữ vị trí tối cao. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, cán bộ, công chức nhà nước và mọi thành viên trong xã hội phải tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua hình thức dân chủ đại diện (qua cơ quan nhà nước do mình bầu ra) và hình thức dân chủ trực tiếp.
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thực hiện được quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường được pháp chế trong xã hội, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật, bảo đảm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do và lợi ích chính đáng, hợp pháp của công dân, chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình.
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp, nhằm hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, xâm hại tới lợi ích hợp pháp của công dân từ phía Nhà nước.
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước do Đảng cộng sản Việt nam lãnh đạo. Đây là đặc điểm đặc trưng, cơ bản, rất quan trọng mang tính lý luận và đó được kiểm chứng bằng thực tế lịch sử của cách mạng Việt Nam.
Với những đặc trưng nêu trên, nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện những tư tưởng quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh ước mơ và khát vọng của nhân dân đối với công lý, tự do, bình đẳng trong một xã hội có giai cấp. Trong điều kiện đổi mới hiện nay, chúng ta đặt vấn đề đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, thực chất là tiếp thu những quan điểm tích cực, tiến bộ và khoa học về nhà nước pháp quyền nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đoàn kết dân tộc mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân - nông dân - trí thức do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đó là, Nhà nước đảm bảo tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền lực nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đó là, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ngăn ngừa sự tuỳ tiện từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm hiệu lực và hiệu quả hoạt động của nhà nước. Đó là, Nhà nước mà mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ chức Đảng, cán bộ, công chức đều phải hoạt động theo pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các hoạt động của mình. Mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Trong tình hình mới của cách mạng Việt nam, Đảng và nhà nước ta đó sáng suốt khẳng định nhiệm vụ cốt lõi của cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế là xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Nói cách khác việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam là một tất yếu khách quan. Nhận thức này được coi là một thắng lợi của quá trình đổi mới trong tiến trình xây dựng nhà nước XHCN ở nước ta. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền lực nhân dân. Hiến pháp 1992 khẳng định: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dõn. Trong thực tế, qua hơn 20 năm đổi mới, thực tiễn đó chứng minh quỏ trình cải cách tổ chức, hoạt động của nhà nước theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Đây phải được coi là thành công quan trọng đầu tiên của thực trạng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
Quá trinh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam gắn liền với quá trình phỏt triển lý luận về nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Ngay từ khi ra đời Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và nay là Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đó là Nhà nước mang bản chất của nhà nước kiểu mới được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tính pháp quyền trong tổ chức, hoạt động của nhà nước đó thể hiện trong nhiều văn kiện Đảng và thể hiện ngày càng rõ rệt hơn phù hợp với từng giai đoạn cách mạng trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980. Bản chất này của nhà nước tiếp tục được khẳng định trong các Cương lĩnh, các văn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới, được thể chế hoá rõ trong Hiến pháp 1992 và Nghị quyết sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam đòi hỏi phải dựa trên hệ thống lý luận phù hợp với chính điều kiện hoàn cảnh của Việt Nam.
Tư tưởng về xây dựng Nhà nước pháp quyền trong các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam, trong các bản Hiến pháp thể hiện quá trình nhận thức ngày càng đúng đắn, đầy đủ, cụ thể và toàn diện hơn của Đảng, Nhà nước ta về tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại cũng như vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản ở nước ta hiện nay. Những nhận thức cơ bản này là một đảm bảo quan trọng cho quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đạt được kết quả thắng lợi.
Ngay từ lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở kế thừa và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin vào điều kiện hoàn cảnh nước ta. Người đã khẳng định: Nhà nước ta là một nhà nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích là vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương đều do dân cử. Tư tưởng về xây dựng nhà nước kiểu mới của dân, do dân và vì dân ngày càng được thể hiện rõ rệt trong các văn kiện của Đảng cộng sản Việt nam, trong các bản Hiến pháp qua các thời kỳ. Tuy nhiên, xét về thời điểm sử dụng thuật ngữ, lần đầu tiên Văn kiện của Đảng sử dụng thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” là Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII. Tại phần thứ 2 về “Những nhiệm vụ chủ yếu trong thời gian tới” của Văn kiện hội nghị này đó nêu nhiệm vụ thứ 7 là “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt nam của dân, do dân và vì dân” . Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân, quản lý mọi mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền XHCN được xây dựng trên cở sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng lãnh đạo.
Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khoá VII (1/ 1995) đó nêu ra 5 quan điểm cơ bản cần nắm vững trong quá trình xây dựng kiện toàn nhà nước; một trong 5 quan điểm là xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với gia cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng cộng sản lãnh đạo. Gắn xây dựng nhà nước pháp quyền với tăng cường pháp chế XHCN; quản lý xã hội bằng pháp luật đồng thời coi trọng giáo dục đạo đức XHCN.
Văn kiện đại hội lần thứ VIII tiếp tục nhắc lại 5 quan điểm và các nhiệm vụ xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước. Tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 ban chấp hành TƯ khoá VIII về “phát huy quyền làm chủ của nhân dân tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh” khi đánh giá đã nêu nhận xét đầu tiên là: đó từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Mặt khác khi phân tích nguyên nhân yếu kém trong xây dựng nhà nước, Nghị quyết chỉ rõ: việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều việc phải vừa làm vừa tìm tòi rút kinh nghiệm.
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Mặt khác Văn kiện cũng xác định: Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là nhiệm vụ số một, nhiệm vụ bao trùm, chi phối các nhiệm vụ khác trong nội dung phần thứ IX về “đẩy mạnh cải cách tổ chức, hoạt động của Nhà nước...”. Như vậy, Văn kiện Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định rõ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là vấn đề tất yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đồng thời đúc kết tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong quá trình nhận thức, vận dụng và bổ sung vào thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Trong thời gian qua, công tác xây dựng pháp luật được quan tâm hơn, cơ chế xây dựng pháp luật được đổi mới, do đó hệ thống pháp luật đó có những đổi mới quan trọng phù hợp với sự thay đổi cơ chế kinh tế, với tình hình và nhiệm vụ mới của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Hiến pháp được sửa đổi thích ứng với đòi hỏi của tình hình. Các văn bản luật được quan tâm ban hành để điều chỉnh cho hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật phát triển khá cân đối, điều chỉnh cho các lĩnh vực: tổ chức, hoạt động của nhà nước (Luật Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Toà án, Viện kiểm sát...); trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; trong lĩnh vực kinh doanh (Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật kinh doanh bảo hiểm...); trong bảo vệ quyền của công dân và các chủ thể... Hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật được tăng cường. Nhà nước đó dần thực sự dựa vào phỏp luật để quản lý nhà nước và quản lý xã hội.
Quan điểm chỉ đạo quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN không phải là xây dựng một Nhà nước mới khác về bản chất của Nhà nước XHCN mà Đảng và nhân dân ta đó tiến hành hơn mấy chục năm qua. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân là nhiệm vụ cốt lõi của cải cách tổ chức, hoạt động của nhà nước, là cách cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt nam chính là quá trình tiếp tục xây dựng Nhà nước XHCN trong điều kiện hoàn cảnh mới. Dựa trên các văn kiện của Đảng, các quy định của Hiến pháp, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải được thực hiện trên cơ sở nắm vững những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh xây dựng đất nước và các văn kiện của Đảng ta.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam nhưng phải giữ vững bản chất giai cấp, bản chất dân chủ thực sự rộng rãi của Nhà nước XHCN. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, phù hợp với đặc điểm truyền thống về lịch sử, văn hoá Việt Nam, có bản sắc Việt Nam; đảm bảo kế thừa và phát huy truyền thống, kinh nghiệm quản lý đất nước của dân tộc ta qua suốt chiều dài lịch sử, tiếp thu có chọn lọc thành tựu của thế giới.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải trở thành yêu cầu cấp bách đối với toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Nói cách khác bất cứ nội dung nào của cải cách tổ chức, hoạt động của nhà nước đều phải thấm nhuần yêu cầu và định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là một quá trình từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện, phải tiến hành từng bước vững chắc, phải dựa trên cơ sở thường xuyên tổng kết thực tiễn, kịp thời điều chỉnh bổ sung. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN gắn liền với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, phát triển nền dân chủ xã hội XHCN và tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị. Phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết và phải đảm bảo ổn định chính trị, ổn định kinh tế-xã hội, ngăn chặn được âm mưu và hành động của các thế lực thù địch và bọn cơ hội.
Nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN:
Tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực hiện nghiêm minh pháp luật, đáp ứng yêu cầu của với nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hợp tác hội nhập quốc tế và bảo vệ Tổ Quốc trong tình hình mới. Hướng đến hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của toàn xã hội, nhất là cho tổ chức, hoạt động của nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước, đồng thời có chuẩn mực rõ ràng để đánh giá đúng sai, tăng cường pháp chế trong đời sống nhà nước và xã hội. Một mặt coi trọng hoàn thiện Hiến pháp, các luật điều chỉnh tất cả các lĩnh vực hoạt động của nhà nước và xã hội, mặt khác phải xác định được thứ tự ưu tiên cần thiết và nâng cao tính khả thi, tính hiệu lực và hiệu quả của pháp luật trong cuộc sống. Đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật. Pháp luật về tổ chức hoạt động của nhà nước phải đi liền với pháp luật về phát triển kinh tế, pháp luật về bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, pháp luật về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Pháp luật nội dung phải đi liền với pháp luật hình thức. Pháp luật phải gắn liền với đảm bảo thực hiện pháp luật nghiêm minh. Hoạt động lập pháp muốn vậy phải vừa đảm bảo chất lượng vừa phải theo kịp yêu cầu của sự phát triển. Mặt khác phải đẩy mạnh các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, mở rộng các hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật, dịch vụ và tư vấn pháp lý trong xã hội, xây dựng nếp sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật, xây dựng nền văn hoá pháp lý trong đời sống xã hội.
Tiếp cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước. Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài hạn về lập pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn thi hành luật. Quốc hội phải làm tốt chức năng của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.
Đẩy mạnh cải cách hành chính. Xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá. Điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng thống nhất quản lý vĩ mô việc thực hiện các nhiệm vụ trong cả nước bằng hệ thống pháp luật, chính sách hoàn chỉnh. Định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc, cung cấp dịch vụ công.
Phân công, phân cấp nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý theo ngành và theo lãnh thổ; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; tổ chức hợp lý hội đồng nhân dân; kiện toàn các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân và bộ máy chính quyền cấp cơ sở.
Đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng một nền tư pháp trong sạch, công tâm, khách quan, độc lập trong hoạt động nghiệp vụ đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền. Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Sắp xếp lại hệ thống toà án nhân dân, phân định hợp lý thẩm quyền của tòa án các cấp. Tổ chức lại cơ quan điều tra theo hướng gọn đầu mối. Thành lập cảnh sát tư pháp.
Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế. Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân, hoàn thiện các quy định về tiêu chuẩn đại biểu, các quy định về bầu cử, ứng cử trên cơ sở thật sự phát huy dân chủ. Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, thảo luận quyết định những vấn đề quan trọng. Chăm lo con người, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Tôn trọng các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đó ký kết hoặc tham gia. Quan tâm giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực. Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, coi trọng cả năng lực và đạo đức. Có kế hoạch, chính sách đào tạo cán bộ, công chức và sắp xếp đội ngũ cán bộ công chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, kịp thời thay thế cán bộ, công chức thoái hoá, yếu kém. Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn.
Đấu tranh chống tham nhũng. Tăng cường tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, ở các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở. Gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, chống buôn lậu.
Bổ sung hoàn thiện các cơ chế chính sách, không để sở hở, lợi dụng. Xoá bỏ các thủ tục hành chính phiền hà. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, kiểm kê, kiểm soát. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương nâng cao đời sống, chống đặc quyền đặc lợi.
Phát huy vai trò của đảng viên, tổ chức đảng, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng và toàn xã hội trong đấu tranh chống tham nhũng. Có chính sách khen thưởng đối với người có thành tích. Thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức. Xử lý nghiêm theo pháp luật và theo Điều lệ Đảng những cán bộ, đảng viên vi phạm ở bất cứ cấp nào, lĩnh vực nào. Xem xét trách nhiệm hình sự hoặc có hình thức kỷ luật thích đáng đối với những người đứng đầu cơ quan, đơn vị nơi xảy ra những vụ tham nhũng lớn, gây hậu quả nghiêm trọng.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là yêu cầu cấp bách. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là bảo đảm cho việc giữ vững bản chất XHCN của nhà nước và cho sự thành công của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Trong quá trình hiện nay sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước thể hiện ở việc đề ra chủ trương, đường lối và các chính sách lớn định hướng cho sự phát triển trong từng thời kỳ; lãnh đạo nhà nước thực thi Hiến pháp, pháp luật; xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, có trí tuệ, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng; kiểm tra việc quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; củng cố nâng cao chất lượng và hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên trong bộ máy nhà nước.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một quan điểm quan trọng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Để thực hiện tốt quan điểm chỉ đạo của Đảng, cần tập trung phân định rõ chức năng của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; đồng thời, để thiết thực tạo lập cơ sở thiết yếu của sinh hoạt dân sự cần: bố trí khoa học đội ngũ công chức thực thi công vụ; minh bạch hóa công tác xây dựng đội ngũ công chức; xây dựng rành mạch các chế tài liên quan đến trách nhiệm của quản lý hành chính nhà nước; coi trọng hiệu quả chức năng phục vụ xã hội của cả đội ngũ công chức và của nhà nước.
Xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta là phù hợp với tiến bộ xã hội. Ý tưởng về một nhà nước quản lý xã hội vì sự công bằng cho mọi người thường được bắt đầu từ thực trạng của những bất bình đẳng trong xã hội. Trong điều kiện nước ta, khi đó có nhà nước của dân, do dân, vì dân, có Hiến pháp và hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện nhưng vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền vẫn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và toàn xã hội. Chính vì lẽ đó Đại hội X của Đảng một lần nữa tái khẳng định: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với những trọng tâm cụ thể là: tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đẩy mạnh cải cách hành chính; đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại; xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người; nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân; thực hiện các giải pháp nhằm chấn chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức.
Một câu hỏi đặt ra, trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện những khía cạnh nào của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam? Từ thực tiễn hoạt động quản lý của Nhà nước ta cũng như đòi hỏi của đời sống xã hội, câu trả lời được đưa ra là:
Phải phân định rõ chức năng của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, nổi lên các quan hệ giữa lập pháp và hành pháp; giữa hành pháp và tư pháp. Chức năng của nhà nước là khái niệm chỉ rõ thuộc tính hoạt động quản lý và cai trị của nhà nước; trong đó, nổi bật nhất là chức năng của nhà nước trong các hoạt động sản xuất vật chất của một quốc gia. Đối với một nhà nước, hoạt động cai trị bên trong lãnh thổ gọi là đối nội và hoạt động bên ngoài lãnh thổ gọi là đối ngoại. Nhận thức về chức năng của nhà nước như thế ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị và nó vẫn là cơ sở để xem xét các hoạt động cụ thể của nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
Bố trí khoa học đội ngũ công chức lãnh đạo và công chức thực thi theo hướng chuyên nghiệp hóa đội ngũ công chức thực thi công vụ và nâng cao năng lực thực thi, hoạch định chính sách đối với đội ngũ công chức lãnh đạo: chẳng hạn, quan hệ giữa giám đốc sở, vụ trưởng với đội ngũ chuyên viên thành thạo công việc; giữa những người đứng đầu với đội ngũ viên chức chuyên nghiệp: ví như viện trưởng và nghiên cứu viên, trưởng khoa và các bác sỹ...
Minh bạch hóa trong công tác xây dựng đội ngũ ngay từ giai đoạn tuyển dụng. Muốn vậy, nguyên tắc công khai phải trở thành yếu tố căn bản trong các khâu của hoạt động xây dựng nguồn lực. Minh bạch là một yêu cầu như một nguyên tắc ứng xử công vụ. Xây dựng rành mạch các chế tài liên quan đến trách nhiệm là một trong những đặc trưng của quản lý hành chính nhà nước. Thông thường, tính bảo thủ và thoái thác trách nhiệm là những thuộc tính luôn có trong con người. Ở đâu có sự nêu cao trách nhiệm, đề cao tự giác và tự trọng chức vụ thì ở đó những nhược điểm này sẽ mất đi. Những sai sót trong quản lý không được minh định trách nhiệm là một điều không phù hợp với nguyên tắc của nhà nước pháp quyền. Theo đó, mỗi công chức (kể cả công chức lãnh đạo và công chức thực thi) được trao một chức vụ với những quyền hạn và nhiệm vụ rõ ràng, có giới hạn, có phạm vi rành mạch - nghĩa là chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Một khi không có sự rành mạch trách nhiệm, sẽ gây sai sót, nhập nhằng và tất yếu dẫn đến tình trạng mất đoàn kết nội bộ, bất ổn, rối loạn, đơn thư khiếu kiện kéo dài...
Coi trọng hiệu quả phục vụ xã hội trên mọi phương diện nhu cầu cá nhân trong kinh doanh, sinh hoạt dân sự là một trong những tiêu chuẩn của cải cách và đổi mới trong tổ chức và hoạt động của nhà nước. Tình trạng phiền hà, sách nhiễu công dân đang là vấn đề bức xúc, khi giải quyết triệt để trong quản lý và điều hành xã hội hiện nay. Điều đó giải thích tại sao sự khởi xướng cải cách hành chính bắt đầu bằng cải cách thủ tục hành chính đó được tiến hành từ những năm 90 của thế kỷ trước nhưng đến nay vẫn còn hàng loạt các rào cản đối với các sinh hoạt kinh doanh, sản xuất và dân sự (cư trú, xây dựng, cải tạo nhà cửa, học hành...).
Để tiếp tục hoàn thiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm thiết thực xây dựng cơ sở cho sinh hoạt dân sự, Đại hội X của Đảng yêu cầu cần: "Đẩy nhanh công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên các mặt: hệ thống thể chế, chức năng, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy; cán bộ, công chức; phương thức hoạt động. Định rõ việc Nhà nước phải làm và bảo đảm đủ điều kiện để làm tốt; khắc phục tình trạng buông lỏng hoặc làm thay, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan của Đảng và cơ quan nhà nước; hiện đại hóa nền hành chính nhà nước". Kế thừa và phát huy những tư tưởng tiến bộ của nhân loại, Đảng ta cho rằng việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân, vì dân phải phù hợp với chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối của nền kinh tế thị trường với định hướng XHCN. Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân phải phù hợp với tính chất xã hội hoá theo hướng phát huy cao độ sáng kiến của cá nhân, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân tự do sáng tạo trong mọi hoạt động của mình.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của đảng
Đảng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một trong những điều kiện và môi trường tiên quyết của một quốc gia tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và một xã hội phát triển tiên tiến.
Nội dung quan trọng của Nhà nước pháp quyền là khẳng định cội nguồn quyền lực nhà nước là ở nhân dân. Để bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, trong đó nhà nước là của nhân dân chứ không phải nhân dân là của nhà nước, Nhà nước pháp quyền đề cao tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, nhà nước chỉ được làm những điều pháp luật cho phép, còn nhân dân được làm tất cả những điều pháp luật không cấm, pháp luật bảo đảm cho sự phát triển tự do tối đa của nhân dân. Vai trò của pháp luật trong việc xây dựng và duy trì một xã hội trật tự ổn định, trong đó không chỉ mỗi công dân, mỗi cá nhân, mà bản thân nhà nước và những người đứng đầu chính quyền cũng phải tôn trọng pháp luật đã được khẳng định. Hai mặt dân chủ và pháp luật trong Nhà nước pháp quyền gắn bó hữu cơ, làm tiền đề tồn tại cho nhau và tạo nên bản chất của Nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại. C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin đánh giá cao giá trị nhân văn của học thuyết Nhà nước pháp quyền mà cách mạng tư sản đã cống hiến cho nhân loại.
Ở nước ta để bảo đảm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì một trong những vấn đề chiến lược là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do vậy, cần làm sáng tỏ về bản chất, nội dung cũng như những đặc trưng của nó, tạo thành hệ thống quan điểm lý luận định hướng cho việc hoàn thiện nhà nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hiện nay, Việt Nam đã có đủ các tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội để từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân, có sắc thái riêng, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, truyền thống, văn hóa của Việt Nam. Cần nhận thức rằng việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là quá trình lâu dài, phải được tiến hành từng bước, chia thành nhiều giai đoạn, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mỗi giai đoạn tương ứng với một mức độ phát triển của xã hội và của nhà nước. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cần quán triệt những vấn đề có tính nguyên tắc sau:
1 - Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là cách thức cơ bản để phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Đó là Nhà nước trong đó bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, vì thế quyền lực nhà nước là thống nhất, không tam quyền phân lập nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đó là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do dân chủ, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ngăn ngừa mọi sự tuỳ tiện lạm quyền từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, đồng thời ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương. Đó là Nhà nước mà mọi tổ chức (kể cả tổ chức đảng), hoạt động phải dựa trên cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình. Vì vậy, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có quan hệ khăng khít với xây dựng xã hội công dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động nội lực của toàn thể nhân dân, của tất cả các thành phần kinh tế vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xã hội công dân là bộ ba hợp thành không thể tách rời, là điều kiện và tiền đề cho nhau, là bảo đảm và kết quả của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2 - Hiến pháp và pháp luật nước ta ghi nhận quyền của công dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị, đề đạt nguyện vọng, yêu cầu của mình với các cơ quan nhà nước. Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền khiếu nại, tố cáo, v.v.. Các quyền và sự tự do đó trong nhiều trường hợp là điều kiện để nhân dân kiểm tra hoạt động của Nhà nước, nhưng trước hết đó là một trong những phương thức quan trọng để thực hiện dân chủ. Vì vậy, cần chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Đổi mới cơ chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cán bộ, công chức trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân.
Quyền lực nhà nước ở nước ta là quyền lực nhà nước thống nhất. Sự thống nhất đó là ở mục tiêu chung phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc. Xét theo cơ chế tổ chức thì quyền lực nhà nước tối cao, tức là những chức năng và thẩm quyền cao nhất thuộc về những cơ quan đại diện cho nhân dân. Ở nước ta, đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội có thẩm quyền lập hiến và lập pháp; quyền giám sát tối cao; quyền quyết định kế hoạch phát triển đất nước; quyền lập ra các cơ quan và chức vụ quốc gia cao nhất. Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
3 - Một trong những điểm cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là quyền lực nhà nước thống nhất trên cơ sở phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối hợp là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động lập pháp đang đứng trước những nhiệm vụ mới mẻ và phức tạp của việc điều chỉnh pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Lập pháp phải bảo đảm tính khả thi của các quy định pháp luật, tính hiệu lực và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật vào cuộc sống. Hoạt động lập pháp phải vừa bảo đảm chất lượng, vừa theo kịp yêu cầu của sự phát triển. Muốn vậy, cần tổ chức tốt hơn nữa quy trình lập pháp. Quy trình đó phải vừa bảo đảm phản ánh được sự phát triển sống động của đời sống xã hội trong các lĩnh vực, lại vừa bảo đảm tính chuyên môn pháp lý của các quy định để có sự phối hợp chặt chẽ giữa khâu làm luật với việc ban hành các văn bản dưới luật, tổ chức thực hiện pháp luật.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực đổi mới và cải cách nhưng tổ chức và hoạt động của bộ máy hành pháp của nước ta còn nhiều nhược điểm, còn nhiều mặt chưa theo kịp và đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Tổ chức hành pháp chưa thông suốt, còn yếu trong việc xử lý những mối liên kết dọc và ngang, thậm chí còn có hiện tượng cục bộ. Chế độ phân cấp trách nhiệm còn thiếu rành mạch, làm trầm trọng thêm tác phong làm việc quan liêu và dựa dẫm. Thẩm quyền và trách nhiệm cá nhân chưa được quy định chặt chẽ. Thái độ làm việc và trách nhiệm trước dân của đội ngũ cán bộ, công chức vẫn còn là vấn đề đáng nói hiện nay.
Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta trước sau như một đều khẳng định các yêu cầu về bình đẳng, công bằng, về sự độc lập của toà án khi xét xử, bảo đảm mọi vi phạm đều bị xử lý, tăng cường bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của người dân. Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động tư pháp đã trở thành một hoạt động hết sức quan trọng của Nhà nước ta, thể hiện vai trò mới, những đòi hỏi và những nhiệm vụ mới của lĩnh vực hoạt động đó. Trên cơ sở những thành tựu và kinh nghiệm đã có, cần đẩy mạnh cải cách tư pháp theo Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị (khóa IX) mà những nội dung cơ bản phải là cải cách hoạt động xét xử và cải cách các thủ tục tố tụng, nâng cao năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm chính trị - pháp lý của cán bộ tư pháp.
4 - Một trong những nội dung cơ bản của nguyên tắc phân công và phối hợp quyền lực nhà nước và cải cách hành chính là sự phân công, phân cấp giữa trung ương và địa phương. Sự phân công, phân cấp ấy phải nhằm khuyến khích và nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Việc phân công và phân cấp giữa trung ương và địa phương phải dựa trên nền tảng của một hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, có tính chuyên nghiệp cao và đủ sức giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đây đang là một khâu yếu.
5 - Đề cao pháp luật, tăng cường pháp chế phải đi liền với việc đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo thói quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ và mọi tầng lớp nhân dân. Cho nên, xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống phải thực sự là hai mặt của một nhiệm vụ. Đổi mới và hoàn thiện pháp luật phải đi liền với đổi mới và hoàn thiện thực tiễn áp dụng pháp luật. Tăng cường hoạt động xây dựng pháp luật phải đi liền với việc khuyến khích và tạo điều kiện cho các hoạt động của các tổ chức và công dân nhằm sử dụng đầy đủ quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ của họ, sự khuyến khích tính tích cực pháp lý phải đi liền với việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý, đổi mới và cải cách hành chính và hệ thống tư pháp. Đồng thời, đề cao pháp luật và pháp chế còn đặt ra nhiệm vụ phải bằng mọi cách nâng cao sự hiểu biết pháp luật, đấu tranh có hiệu quả với các vi phạm và tội phạm, kiên quyết chống quan liêu và tham nhũng trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
6 - Thực thi quyền lực và thi hành pháp luật là những hoạt động luôn luôn cần đến sự kiểm tra, giám sát đầy đủ và hữu hiệu. Các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải thực sự được coi trọng và hoàn thiện ở mức cao nhất, bảo đảm cho quyền lực nhà nước luôn nằm trong quỹ đạo phục vụ nhân dân và đất nước, pháp luật luôn luôn được tôn trọng, pháp chế và kỷ cương được giữ vững. Đối với các cơ quan nhà nước, kiểm tra, giám sát là cách tốt nhất để các cơ quan đó thực hiện đúng chức trách và thẩm quyền của mình, đồng thời là điều kiện phối hợp các hoạt động một cách có hiệu quả. Đến lượt mình, các hoạt động, các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải có sự phân công, phối hợp đầy đủ và hoàn thiện hơn.
7 - Nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện những tư tưởng, quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh mơ ước và khát vọng của nhân dân đối với công lý, tự do, bình đẳng. Trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân hiện nay, về mặt nhận thức, cần khẳng định các mối quan hệ chủ đạo giữa các nguyên tắc và yêu cầu của Nhà nước pháp quyền với hệ thống chính trị duy nhất một đảng lãnh đạo; với phương thức tổ chức nhà nước tập trung có phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; với việc tôn trọng các quyền tự do của công dân và nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân trong việc bảo đảm một xã hội trật tự, kỷ cương.
Về nguyên tắc, Nhà nước pháp quyền không mâu thuẫn với hệ thống chính trị một đảng lãnh đạo. Vấn đề là ở chỗ, bản chất của đảng cầm quyền thế nào, mục tiêu chính trị của nó có phải vì lợi ích chung của dân tộc, vì con người hay không và do đó có sẵn sàng tuân theo những quy định của pháp luật hay không; có đủ phẩm chất đạo đức để vượt qua các cám dỗ quyền lực to lớn mà một đảng cầm quyền duy nhất có nhiều khả năng gặp phải hay không và nó có đặt ra và thực hiện được những kỷ luật nghiêm khắc cho chính mình hay không, v.v..
Thực tiễn phát triển của xã hội ta, đất nước ta xác nhận và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng. Hơn 74 năm qua, Đảng thể hiện tập trung ý chí, nguyện vọng và trí tuệ của toàn dân tộc. Đường lối của Đảng là sự thể hiện nhận thức của toàn xã hội về các quy luật khách quan của sự phát triển đất nước. Đó chính là căn cứ, là điều kiện cần thiết để chúng ta hoàn thiện pháp luật. Hiến pháp của nước ta đã ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng phù hợp với những nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, căn cứ vào kinh nghiệm thực tiễn và yêu cầu của xã hội, cần cụ thể hóa hơn nữa mối quan hệ lãnh đạo của Đảng, mà cụ thể là các tổ chức đảng và cấp ủy các cấp, cán bộ lãnh đạo Đảng với các cơ quan nhà nước và các chức vụ nhà nước các cấp. Hoàn thiện những cơ sở pháp lý đó sẽ giúp tránh được những biểu hiện bao biện, làm thay hay can thiệp không đúng nguyên tắc của cấp ủy và cán bộ Đảng vào công việc chính quyền mà có thời kỳ nhiều nơi mắc phải.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng và quản lý nhà nước, trong vai trò phản biện và trong giám sát hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường không phải chỉ dựa vào quyền uy, mệnh lệnh, mà là bằng trí tuệ, năng lực lãnh đạo của Đảng, ở khả năng vạch ra đường lối chính trị đúng đắn, ở sự gắn bó với nhân dân và khả năng giáo dục, thuyết phục toàn xã hội chấp thuận, ở vai trò tiên phong của đảng viên và tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện quan trọng nhất, cơ bản nhất đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_phat_huy_dan_chu_xd_va_hoan_thien_nn_pqxhcn_0384.doc