LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
kinh tế thị trường ngày càng phát triển, cùng với quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, thu nhập của người dân cũng tăng lên và nhu cầu về đời sống của con người ngày càng cao và đa dạng hơn. Vì thế, nhu cầu tiêu dung của họ ngày càng nhiều, nhất là lớp trẻ thanh niên. Bên cạnh đó, khi nền kinh tế phát triển thì sản phẩm hàng hóa sẽ tăng lên và đa dạng hơn. Điều đó sẽ khiến cho xu hướng tiêu dung ngày càng tăng. Đây là xu hướng không chỉ riêng ở Việt Nam mà cũng là xu hướng chung của những nước đang trong thời kỳ hội nhập.
Đặc biệt, khi thị trường ngân hàng Việt Nam mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài vào đầu tư theo tiến trình hội nhập làm cho thị trường vay tiêu dung sôi động hơn.
Vay tiêu dùng là mảng thị trường lớn nhưng vẫn còn sơ khai, chưa được khai thác nhiều ở Việt Nam.
Vay tiêu dùng là mảng thị trường lớn nhưng chỉ được các ngân hàng Việt Nam đẩy mạnh khai thác trong vài năm gần đây. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế VN thì việc đẩy mạnh cho vay tiêu dùng trong thời gian gần đây nhằm giải quyết bài toán lợi lợi trong năm 2009, cũng như tìm đầu ra cho nguồn vốn.
Với thông tư số 01 của NHNN VN cho phép thực hiện lãi suất thỏa thuận là điều quan trọng dẫn đến việc các ngân hàng mạnh dạn cho vay cá nhân, một loạt các ngân hàng dành ra hàng trăm tỷ đồng để đưa ra các sản phẩm cá nhân như cho vay mua xe trả góp, mua nhà, cho vay cán bộ nhân viên, cho vay học sinh – sinh viên hoặc cho vay dưới hình thức liên kết với các trung tâm thương mại
Từ trước đến nay mặc dù khách hàng cá nhân sẵn sàng chấp nhận trả mức lãi suất cao hơn lãi suất mà các doanh nghiệp vay của NH nhưng vẫn khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn. Trong khi đó, thị phần cho vay tiêu dùng ở VN được các tổ chức tài chính nước ngoài đánh giá là rất có tiềm năng, các công ty tài chính nước ngoài như Mitsubisi đang rất muốn vào nhưng chưa được. Rõ ràng các NH trong nước chuyển hướng mạnh phân khúc cho vay tiêu dùng trong lúc này không chỉ là xoay sở vì khó khăn mà họ nhận ra rằng đây chính là thị phần quan trọng.Tuy nhiên không phải ai cũng có thể tiếp cận được các khoản vay cá nhân.
Trước đây những người dân, đặc biệt các tiểu thương ở chợ rất ngại tiếp xúc với nguồn vốn ngân hàng vì họ nghĩ nó phức tạp. Còn về phía ngân hàng thị ngại cho vay tiêu dùng vì sợ rủi ro cao. Nhưng cho đến nay thì vay tiêu dùng đã trở nên phổ biến và tất cả mọi khách hàng cá nhân đều đến ngân hàng để vay vốn phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của mình như: Vay vốn đề xây nhà, mua sắm vật dụng sinh hoạt (tivi, tủ lạnh, máy lạnh, máy giặt ), phương tiện phục vụ đi lại (ô tô, xe máy ) hay các nhu cầu tiêu dùng khác không vi phạm pháp luật. Vì thế hiện nay cho vay tiêu dùng trở thành mảng lớn để các ngân hàng cạnh tranh lẫn nhau và ngày càng trở nên gay gắt hơn. Với tiềm năng cao thì cho vay tiêu dùng là thị trường rộng lớn mà nhiều ngân hàng còn bỏ ngỏ.
Cho vay tiêu dùng vẫn được xem là nghiệp vụ chiếm thị phần lớn và đem lại lợi nhuận nhiều nhất cho các tổ chức Tín Dụng. Hầu hết cho vay tiêu dùng đã được các tổ chức Tín dụng tiến hành khai thác trong 10 năm nay, nhưng thị trường nay chỉ thực sự sôi động trong 3 năm trở lại đây, kể từ lúc nền kinh tế Việt Nam mở cửa hội nhập và đặc biệt khi có sự tham gia của các Thương Mại, các công ty tài chính nước ngoài. ngân hàng thương mại Cổ Phần phát triển Nhà TP.HCM (HDBank) là đơn vị cũng đang khai thác mảng cho vay tiêu dùng. Các nhóm sản phẩm chính của ngân hàng trong lĩnh vực vay tiêu dùng cho vay để mua nhà, xây nhà, sửa nhà; mua xe hơi, xe máy và các tiêu dùng khác như: mua sắm hàng hóa, dịch vụ, du học .v v
Vì vậy cho vay khách hàng cá nhân là tất yếu và là xu hướng phát triển chung của cả hệ thống ngân hàng. Khách hàng tư nhân đã và đang là mảng khách hàng tiềm năng, được nhiều ngân hàng chú trọng khai thác. Tuy nhiên để đạt được hiệu quả cao nhất cho các khoản vay cá nhân không phải ngân hàng nào cũng làm tốt. Từ những yêu cầu thực tiễn trên, nên tôi đã chọn đề tài: “Nghiệp vụ cho vay tiêu dùng tại ngân hàng TMCP phát triển Nhà TP.HCM – Chi Nhánh Hiệp Phú”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Xuất phát từ mục tiêu của đề tài, đề tài chọn đối tượng và phạm vi nghiên cứu không phải tất cả các chủ thể trong quan hệ cho vay với ngân hàng mà chỉ tập trung vào đối tượng cụ thể là khách hàng cá nhân. Mặt khác cũng chỉ đề cập đến hoạt động cho vay đối với đối tượng này.
Đề tài chọn điểm nghiên cứu thực tiễn tại ngân hàng TMCP phát triển Nhà TP.HCM - Chi nhánh Hiệp Phú.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Đề tài sẽ phân tích, đánh giá tình hình hoạt động tín dụng cá nhân, để thấy rõ thực trạng tín dụng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay khách hàng cá nhân cho ngân hàng nói chung và ngân hàng TMCP phát triển Nhà TP.HCM - Chi nhánh Hiệp Phú nói riêng.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Tuân thủ và theo đuổi tính khoa học, thực tế và khách quan, bài viết đi từ cơ sở lý thuyết rồi đề cập đến những gì đang diễn ra ở thực tế và rút ra những biện pháp thích hợp: phương pháp so sánh và đố chiếu; thống kê các số liệu; phương pháp phân tích hoạt động kinh tế.
5. Nội dung và kết cấu của luận văn:
Đề tài nghiên cứu của luận văn là Nghiệp vụ cho vay tiêu dùng tại ngân hàng TMCP phát triển Nhà TP.HCM – Chi Nhánh Hiệp Phú”.
Ngoài lời mở đầu và kết luận cùng phụ lục liên quan, thì đề tài có kết cấu gồm ba chương.
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng về Nghiệp vụ cho vay tiêu dùng cá nhân tại ngân hàng TMCP phát triển Nhà TP.HCM – Chi Nhánh Hiệp Phú
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay tiêu dùng cá nhân tại ngân hàng TMCP phát triển Nhà TP.HCM – Chi Nhánh Hiệp Phú .
59 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3830 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiệp vụ cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần phát triển nhà tp Hồ Chí Minh – Chi nhánh Hiệp Phú, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t động tín dụng của chi nhánh nói chung và bộ phận cá thể nói riêng.
2.3.3 DOANH SỐ CHO VAY CÁ THỂ THEO MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG
BẢNG 2.4: DS CHO VAY CÁ THỂ THEO MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG
ĐVT: Tỷ Đồng
Chỉ tiêu
năm 2009
năm 2008
Năm 2007
So sánh
So sánh
2009/2008
2008/2007
Số Tiền
%
Số Tiền
%
SXKD-DV
101.2
42.4
253.1
58.8
138
-210.7
-83.2
Nhà Ở
52.2
26.8
87.2
25.4
94.7
-60.4
-69.2
Ô Tô
26.1
5.3
44.3
20.8
390
-39
-88.03
Tiêu Dùng
87.3
72.2
108.1
15.1
20.9
-35.3
-33.2
Tổng DS Cho Vay
266.8
146.7
492.7
120.1
81.86
-346
-70.2
(Nguồn: Phòng Khách Hàng Cá Nhân HDBank – CN HIỆP PHÚ )
Biểu đồ 2.4: DOANH SỐ CHO VAY THEO MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG VỐN
Cho vay cá thể theo mục đích sử dụng vốn, đây là số tiền mà ngân hàng cho vay để người dân sử dụng vào các mục đích khác nhau trong đó chủ yếu là cho vay để: Sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, nhà ở…Nhìn chung qua 3 năm , doanh số cho vay theo mục đích sử dụng vốn tăng giảm không theo một chiều mà có sự giảm xuống rồi lại tăng lên. Cụ thể: năm 2007 doanh số cho vay theo mục đích sử dung vốn là 429.7 tỷ đồng đồng, năm 2008 doanh số cho vay còn 146.7 tỷ đồng, giảm 346 tỷ tương đương 70.2% so với năm 2007. Đến năm 2009 doanh số cho vay này lại tăng lên so với 2008 nhưng vẫn thấp so với 2007 là: 266.8 tỷ đồng tức là tăng 120.1 tỷ đồng tương đương 81,86% so với năm 2008. Trong đó:
Cho vay Sản xuất kinh doanh - dịch vụ: Nhóm khách hàng vay vốn cho mục đích sản xuất kinh doanh - dịch vụ bao gồm: các cơ sở sản xuất các mặt hàng tiêu dung như: Bánh trung thu, bánh kem, nem, gốm sứ, các vật dụng bằng tre nứa…hay các hộ cá thể kinh doanh cửa hàng bách hoá, các sạp kinh doanh trong các trung tâm chợ lớn, các shop giày dép, quần áo thời trang. Qua bảng số liệu, ta thấy nguốn vốn vay của SXKD – DV luôn chiếm tỷ trọng lớn so với các khoản vay còn lại. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế theo chiều hướng tỷ lệ thuận thì các cơ sở sản xuất cũng như hộ gia đình kinh doanh cá thể ngày càng phat triển. Nhu cầu vốn của họ ngày càng tăng. Do đó, các khoản tín dụng của khoản vay này luôn chiếm tỷ trọng lớn. Đặc biệt năm 2007 là năm được đánh giá là năm phát triển toàn diện. Các mặt hàng tiêu dùng như: gốm sứ và các mặt hàng đan lát thủ công như: tre, nứa, lục bình… có giá trị xuất khẩu lớn nên nhiều cơ sở sản xuất cần lượng vốn vay lớn đẻ mở rộng cơ sở và nâng cao sản lượng. Bên cạnh đó, các nhà hàng; nhà nghỉ hay cửa hàng vi tính; quán ăn; giải khát ngày càng phát triển và có nhu cầu vay vốn để nâng cấp, mở rộng hoặc đổi mới các thiết bị, máy móc…bởi sự tác động tích cực nền kinh tế thị trường của năm 2007 căn tràn sức sống và đầy lạc quan mang lại. Để đáp ứng nhu cầu đó, nguồn vốn giải ngân trong năm cho khoản vay này khá cao đạt 253.1 tỷ đồng cao nhất trong 3 năm gần đây. Sang năm 2008, Chi Nhánh cũng tiếp tục hỗ trợ vốn phát triển SXKD – DV cho nhiều khách hàng có nhu cầu vay vốn tìm đến Chi Nhánh. Tuy nhiên, kể từ tháng 8-2007 biến cố đã xảy ra trên thị trường tín dụng bất động sản của Mỹ. Theo một dây chuyền trong sự liên thông giữa thị trường bất động sản - tiền tệ - chứng khoán đã ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều lĩnh vực và ngành nghề theo chiều hướng tiêu cực mà nên kinh tế trong nước phải chống chọi. NHNN đã phải sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ làm các NHTM mât tính thanh khoản đối diện nguy cơ phá sản cao hoặc bị thâu tóm bởi các tổ chức khác. Chính vì điều nay, đã làm doanh số cho vay giảm xuống đáng kể chỉ còn 42,4 tỷ đồng, đã giảm 210.7 tỷ đồng tương đương 83.2% so với 2007. Đến năm 2009 nền kinh tế trong nước có phần ổn định hơn năm 2008 nhưng vẫn chưa hết khó khăn do lạm phát mang lại. Nên DS cho vay lúc này đã đạt 101.2 tỷ đồng, tăng 58,8 tỷ đồng tương đương 138% so với năm 2008.
Cho vay Nhà ở: Trước đây khi có nhu cầu về xây dựng, sửa chữa nhà ở người ta thường hay vay mượn từ những người xung quanh hoặc tự để dành, rất ít người nghĩ sẽ vay từ Ngân Hàng. Khoản từ năm 2004 trở lại đây, các dịch vụ tiện ích của Ngân Hàng phát triển với tốc độ khá cao đã tạo điều kiện cho người dân dễ dàng tiếp cận nguồn vốn từ Ngân Hàng để cải thiện cuộc sống trong đó có nhu cầu về nhà ở. Do đó nhiều Ngân Hàng nói chung cũng như Chi Nhánh nói riêng đang hướng tới việc cấp tín dụng đáp ứng nhu cầu về xây dựng, sửa chữa nhà ở cho các hộ gia đình và cá thể.
Nhìn vào bảng số liệu ta thầy năm 2007 đã chi ra hơn 87 tỷ đồng cho khoản vay này cao hơn rât nhiều so vơi năm 2008-2009. Nguyên nhân là do: Do nền kinh tế tăng trưởng ở mức cao dẫn tới nhu cầu về đất đai phục vụ cho sản xuất kinh doanh và nhu cầu nhà ở của dân chúng liên tục gia tăng Thị trường bất động sản trở nên sôi động, khá nhanh và mạnh trong năm 2007 sau một thời gian dài bị đóng băng, lượng BĐS được đầu tư xây dựng và giao dịch tăng lên khá nhiều, đặc biệt là phân khúc căn hộ cao cấp.
Năm 2007, giá đất đã tăng từ 80-200% ở các quận 2,7,9 và tăng 70-80% ở quận Bình Chánh, Nhà Bè. Giá các căn hộ chung cư cao cấp đã tăng gấp 2 lần so với mức giá ban đầu mà các nhà đầu tư đã thông báo. Tất cả là do sự đầu cơ trong kinh doanh nhà đất gia tăng mạnh mẽ; do chính sách của Nhà nước về đất đai; do yếu tố tâm lý kỳ vọng vào khả năng sinh lợi vô tận của BĐS; và cuối cùng là do thiếu các thông tin về giá nhà đất.
Đến năm 2008-2009 trải qua với bao biến động lớn như khủng hoảng tài chính toàn cầu, sự giảm sút của thị trường chứng khoán… kéo theo thị trường bất động sản trong nước trở nên ảm đạm hơn bao giờ hết, giá nhà đất trên mặt bằng cả nước bắt đầu sụt giảm rõ nét, diễn biến không đồng đều và khá phức tạp. Và quay trở lại tình trạng “đóng băng” trên thị trường bất động sản. Nguyên nhân cầu giảm mạnh do giá bất động sản ở Việt nam hiện đang được đánh giá ở mức quá cao so với thu nhập thực tế; giá vàng liên tục tăng từ năm 2008; và đã có sự can thiệp của Nhà Nước nhằm hạ nhiệt thị trường bất động sản. Và với tình hình kinh tế bị suy thoái đã kéo theo nhiều doanh nghiệp và cá nhân khó trả lãi Ngân Hàng. Chính vì điều này Chi Nhánh đã dè chừng hơn trong khoản vay này và chỉ chi ra 26.8 tỷ đồng năm 2008 và 52.2 năm 2009.
Cho vay Ô tô: Có thể nói, năm 2007 là một năm tăng trưởng ngoạn mục của cả thị trường ô tô nội địa lẫn thị trường ô tô nhập khẩu. Bởi lẽ, 2007 là năm Việt Nam bắt đầu thực hiện một số cam kết thương mại quốc tế, trong đó đáng chú ý nhất là việc mở cửa thị trường cho các loại xe nhập khẩu và đặc biệt là các quyết định giảm thuế nhập khẩu. Cộng với một vài biện pháp kích thích tăng trưởng ngành ôtô khác, sức mua trên thị trường đã tăng đột biến. Ví dụ như chỉ tính riêng mặt hàng ôtô mới nguyên chiếc, trong năm qua Bộ Tài chính đã đưa ra 3 quyết định giảm thuế kéo mức thuế suất thuế nhập khẩu ôtô nguyên chiếc từ 90% xuống còn 60%. Và năm 2007 kinh tế nói chung tăng trưởng rất mạnh. Mức sống người dân được nâng cao hơn và xe hơi dần trở thành phương tiện đi lại phổ biến hơn. Vì những nguyên nhân trên, các Ngân Hàng trong nước nói chung và Chi Nhánh nói riêng rất thoáng trong việc cho vay để mua xe ô tô.Do vậy, năm 2007 đã chi ra gần 45 tỷ đồng cao nhất kể từ trước đến nay để đáp ứng cho nhu cầu mua xe của khách hàng.
Đến năm 2008 và 2009 đã co những thay đổi đảo ngược. Từ ngày 11/3/2008, Bộ Tài chính nâng thuế suất thuế nhập khẩu ôtô nguyên chiếc từ 60% lên 70% và thuế tuyệt đối với xe cũ nguyên chiếc lên trung bình 10% (quyết định này có hiệu lực từ ngày 1/4/2008).
Bên cạnh đó bước vào nửa cuối năm 2008 kinh tế thế giới suy thoái đã tác động đến Việt Nam. Các NH nói chung cũng như Chi Nhánh nói riêng đã ngừng cho vay mua xe ô tô khiến sức mua ôtô giảm hẳn. Cụ thể, năm 2008 Chi nhánh chỉ chi ra 5.3 tỷ đồng còn 2009 có phần khả quan hơn khi Chi Nhánh chi ra 26.1 tỷ đồng giảm rất nhiều so với năm 2007.
Cho vay tiêu dùng : trước đây người tiêu dùng, đặc biệt là các tiểu thương ở chợ rất ngại tiếp xúc nguồn vốn ngân hàng, vì nghĩ nó phức tạp. Còn phía ngân hàng thì ngại cho vay tiêu dùng vì sợ rủi ro cao. Nhưng đến thời điểm này tình thế đã thay đổi. Khách hàng thuộc tất cả các tầng lớp đều thích đến ngân hàng để vay vốn, nhất là lĩnh vực vay tiêu dùng như: như mua sắm hàng hóa, dịch vụ, du học, tiện nghi sinh hoạt gia đình, du lịch, mua bán chứng khoán… . Do đó, cho vay tiêu dùng là một thị trường rộng lớn để cạnh tranh và phát triển. HDBank – CN HIỆP PHÚ sớm nhận thấy được điều đó nên đã chi ra một khoản lớn cho những khoản vay này. Điều này được lý giải như sau: kinh tế thị trường ngày càng phát triển, thu nhập của người dân tăng theo cũng như đời sống của họ luôn được cải thiện và nâng cao. Vì thế, xu hướng tiêu dùng của người dân ngày càng nhiều hơn, nhất là tầng lớp thanh niên. Nhưng với thu nhập hiện tại họ phải mất một khoảng thời gian tiết kiệm mới có đủ số tiền chi tiêu cho các nhu cầu trên. Do đó, họ đã tìm đến NH xin vay vốn. Ưu điểm của nhóm khách hàng là họ có thu nhập ổn định. Căn cứ vào thu nhập này, NH sẽ cấp một hạn mức tối đa mà NH có thể cho khách hàng vay vừa đảm bảo an toàn cho NH trong việc thu hồi nợ, vừa đảm bảo cho khách hàng có đủ khả năng để chi trả. Bên cạnh đó các khoản vay thường nhỏ, khách hàng vay tiêu dùng thường ít quan tâm đến lãi suất mà thường quan tân đến việc có thể thoả mãn đến nhu cầu chi tiêu và số tiền họ phải thanh toán định kỳ. Dựa vào đặc điểm này NH có thể cho vay với lãi suất cao hơn lãi suất cho vay khác. Thấy được những mặt tích cực này, trong thời gian qua, Chi Nhánh đã đẩy mạnh lĩnh vực cho vay này. Khách hàng mà Chi Nhánh hướng đến là các cán bộ, công nhân viên có thu nhập ổn định. Khi có nhu cầu họ có thể đến NH để xin vay vốn mà không cần dung tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh. NH sẽ cho họ vay vốn nếu khách hàng chứng minh được nguồn thu nhập ổ định có khả năng chi trả và cam kết sẽ dung một phần trong nguồn thu nhập này để trả nợ cho NH. Hay nói cách khác, NH cấp tín dụng cho họ theo hình thức tín chấp. Ngoài đối tượng cán bộ, công nhân viên thì mọi khách hàng khác đếu có thể vay tại NH nếu có tài sản đảm bảo. Điều này, cho vay tiêu dùng vẫn còn hạn chế.
Theo bản số liệu trong 3 năm qua tổng doanh số cho vay tiêu dùng có sự tăng giảm qua các năm. Cụ thể: năm 2009 tăng 15.1 tỷ đồng tương đương 20.9% so với năm 2008, năm 2007 Chi Nhánh chi ra cho khoản vay này là 108.1 tỷ đồng, đến năm 2008 thì chi 72,2 tỷ đồng tức là giảm 33.2% so với năm 2007. Và nguyên nhân vì sao thì ta hãy nhìn lại nền kinh tế Việt Nam khoảng thời gian 2007-2009. Nếu như kết thúc năm 2007 kinh tế Việt Nam phát triển một cách toàn diện và ngoạn mục, với mức thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt kỷ lục 17,8 tỉ USD và tăng trưởng kinh tế đạt 8,4%; thị trường chứng khoán có cả một năm thăng hoa. Thì đến năm 2008-2009 Chúng ta đã phải đối mặt với những khó khăn về vấn đề thanh khoản của hệ thống tín dụng, lãi suất ngân hàng cao, những cơn sốt giá lương thực và năng lượng, thị trường chứng khoán tiếp tục bị sụt giảm…Và đây cũng là lý do làm giảm nhu cầu chi tiêu trong năm 2008-2009.
2.4 PHÂN TÍCH CÁC CHỈ TIÊU TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
BẢNG 2.5: CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI CHI NHÁNH
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
2009
2008
1. Tổng nguồn vốn
Tỷ đồng
3111.94
2738.74
2. Vốn huy động
Tỷ đồng
2806.54
2408.44
3. Doanh số thu nợ
Tỷ đồng
274
40.02
4. Tổng dư nợ
Tỷ đồng
1060
629.98
5. Nợ quá hạn
Tỷ đồng
1.32
2.59
6. Dư nợ bình quân
Tỷ đồng
845
606.2
7. Tổng dư nợ/Tổng nguồn vốn
%
34
23
8. Tổng dư nợ/Vốn huy động
lần
0.38
0.26
9. Nợ quá hạn/Tổng dư nợ
%
0.12
0,41
10. Ds thu nợ/Dư nợ bình quân
vòng
0.32
0.066
2.4.1 PHÂN TÍCH TỔNG DƯ NỢ TRÊN TỔNG NGUỒN VỐN
Trải qua 2 năm hoạt động đầy khó khăn, đặc biệt năm 2008 có nhiều biến cố đã xảy ra và làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động tín dụng của chi nhánh. Ở đây, ta thấy tổng dư nợ của hai năm chiếm tỷ lệ khá thấp trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng, điều này là có vẻ như không hợp lý vì nó trái với bản chất của một NHTM “đi vay để cho vay”. Thay vì thông thường tỷ lệ dư nợ phải đạt từ 50% trỏ lên mới được cho là hiệu quả. Nhưng cả năm 2008, 2009 đều không vượt qua con số 50 nhưng có khuynh hướng tăng lên năm sau đối với năm trước. Và vì sao lại như thế thì có thể dễ nhận thấy rằng năm 2009 - 2008 phải chống chọi với cơn bão lạm phát. Và với con số đạt được như trên đã là một thành quả đáng chúc mừng. Bởi vì đối với các Ngân hàng Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng lúc bấy giờ thì mọi hoạt động đều bị xáo trộn và khó kiểm soát .
2.4.2 PHÂN TÍCH DƯ NỢ TRÊN VỐN HUY ĐỘNG
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sử dụng vốn huy động của Ngân hàng. Qua bảng số liệu ta thấy trong 2 năm qua ngân hàng đã không khai thác triệt để nguồn vốn huy động của mình, biểu hiện là chỉ tiêu này qua qua 2 năm đều nhỏ hơn 1. Tuy nhiên, chỉ tiêu này nhỏ hơn 1 không có nghĩa là chi nhánh chưa khai thác triệt để nguồn vốn huy động của mình, mà là do phần lớn nguồn vốn huy động được lại đổ vào mua tín phiếu bắt buộc theo quy định của chính phủ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát vào đầu năm 2008 kéo dài đến 2009. Tóm lại, trong 2 năm vừa qua nguồn vốn huy động của Ngân hàng luôn tăng trưởng nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng dù đã có gói hổ trợ lãi suất từ phía NHNN.
2.4.3 PHÂN TÍCH NỢ QUÁ HẠN TRÊN TỔNG DƯ NỢ
Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Dư nợ của Ngân hàng tăng qua các năm nhưng tỷ lệ nợ quá hạn lại giảm qua các năm và còn ở mức thấp. Năm 2008 tỷ lệ nợ quá hạn chỉ có 0,41%. Tỷ lệ nợ quá hạn năm 2009 giảm còn 0.38% nằm dưới mức cho phép của NHNN là 5%. Có được kết quả này, một phần chứng kiến cảnh các NH trên thế giới bị lạm phát và cơn bão khủng hoảng tín dụng của Mỹ tàn phá nặng nề như thế nào từ đó rút được bài học cho NH Việt Nam nói chung và Chi Nhánh nói riêng. Chi Nhánh đã có những bước chuẩn bị và đề phóng, bắt đầu dè chừng với các khoản cho vay, không cho vay ồ ạt mà sẽ suy xét cẩn thận hơn; đề ra các giải pháp hữu hiệu, cứng rắn trong việc xử lý nợ, tránh những rủi ro không cần thiết.
2.4.4 PHÂN TÍCH DOANH SỐ THU NỢ/ DƯ NỢ BÌNH QUÂN
Chúng ta biết một Ngân hàng mà việc sử dụng đồng vốn có hiêu quả hay không thì không thể chỉ nhìn vào các chỉ tiêu như: doanh số cho vay, doanh số thu nợ, tỷ lệ nợ quá hạn… mà còn phải căn cứ vào vòng quay vốn tín dụng. Nếu vòng quay vốn tín dụng càng cao thì chứng tỏ Ngân hàng đa dạng hóa hình thức cho vay và thu hồi nợ tốt , góp phần giảm tỷ lệ nợ quá hạn đồng thời làm cho đồng vốn huy động của Ngân hàng khỏi bị ứ đọng và góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Qua bảng số liệu ta thấy vòng quay vốn tín dụng của Chi Nhánh qua 2 năm qua là chậm. Nguyên nhân một phần là do các món vay chưa đến hạn thu hồi nên làm cho dư nợ bình quân tăng cao kéo theo vòng quay vốn tín dụng chậm. Mặt khác, doanh số thu nợ cũng có sự gia tăng nhưng tốc độ tăng không thể kịp với tốc độ tăng của dư nợ bình quân, chính vì thế vòng quay vốn tín dụng của Chi Nhánh chậm. Do đó, trong định hướng sắp tới của Ngân hàng cần quan tâm hơn nữa đến những món nợ đã đến hạn thu hồi, cần có những biện pháp hữu hiệu để đôn đốc khách hàng trả nợ đúng hạn, giúp gia tăng doanh số thu nợ, đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn tín dụng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và chất lượng nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng.
2.5 NHẬN XÉT HOẠT ĐỘNG TẠI HDBank – CN HIỆP PHÚ
2.5.1 ĐIỂM MẠNH
HDBank – CN HIỆP PHÚ có hội sở tại 199 Lê Văn Việt, Phường Hiệp Phú, Quận 9, TP.HCM. Với lịch sử phát triển được 5 năm, đặc điểm địa bàn tập trung đông dân cư, khu Công nghệ cao, siêu thị, hệ thống các trường đại học…Đó là những thuận lợi rất lớn đối với hoạt động kinh doanh của Chi nhánh.
Ngoài ra Chi Nhánh còn có hệ thống gồm 5 Phòng giao dịch (PGD) hoạt động tại các tuyến phố trung tâm của Quận 9, Quận Thủ Đức và Quận 2. Với lợi thế nằm trên các trục đường chính của quận, gần khu dân cư nên dễ dàng giao dịch, tiếp cận dịch vụ của Chi Nhánh cụ thể như sau:
Trụ sở chi nhánh: HDBank – CN HIỆP PHÚ;
HDBank – PGD Bình Thọ;
HDBank – PGD Linh Đông;
HDBank – PGD Nguyễn Duy Trinh;
HDBank – PGD Cát Lái;
HDBank – PGD Phước Long.
Với vị trí thuận lợi và mạng lưới rộng khắp như thế, HDBank – CN HIỆP PHÚ đã phát huy tối đa khả năng tiếp cận khách hàng từ mạng lưới, đẩy mạnh huy động vốn, tạo điều kiện đưa nhanh các sản phẩm, dịch vụ của HDBank đến với mọi đối tượng khách hàng…trong khu vực dân cư đông đúc này., HDBank – CN HIỆP PHÚ đã phát huy tối đa lợi thế của một Ngân hàng thương mại đa năng, nâng cao khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trong và ngoài nước trên địa bàn Quận 9, Thủ Đức và Quận 2. Trong chiến lược kinh doanh, phát triển mạng lưới là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chi nhánh. Nhiều năm qua, bên cạnh triển khai có hiệu quả các sản phẩm dịch vụ mới, đầu tư phát triển nguồn nhân lực, HDBank – CN – HIỆP PHÚ đã không ngừng mở rộng mạng lưới hoạt động. Từ năm 2006, thực hiện chủ trương của HDBank về mở rộng mạng lưới, hệ thống các PGD đã phát huy hiệu quả tích cực, trở thành vũ khí hữu hiệu trong cạnh tranh, góp phần vào thành công của Chi nhánh . Việc đặt các PGD gần các doanh nghiệp (DN), khu dân cư đã giúp ngân hàng tăng thêm khách hàng, tăng lượng vốn huy động, nâng cao sức cạnh tranh.
Ngân hàng luôn có các văn bản chỉ đạo hướng dẫn kịp thời và chính xác nghiệp vụ khi có văn bản mới của NHNN, của các ngành và của Chính Phủ liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng.
Ngân hàng có đội ngũ cán bộ nhiều kinh nghiệm với nhiều năm công tác tại Ngân hàng, luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Đặc biệt HDBank – CN HIỆP PHÚ đã có một khoảng thời gian dài để chứng minh và khẳng định vị thế cũng như tốc độ phát triển không ngừng của Chi Nhánh. Nên đã có được một thị phần rộng lớn và tạo được niềm tin với khách hàng. Số khách hàng truyền thống, có uy tín qua quá trình hoạt động của Phòng vẫn tiếp tục ổn định và ngày càng tạo được mối quan hệ bình đẳng khắng khít hơn. Sự tín nhiệm của khách hàng cũ lẫn mới đối với Phòng ngày càng cao thể hiện qua số khách hàng vay và tốc độ tăng trưởng tín dụng.
Những kết quả đạt được trong huy động vốn, cho vay và đầu tư cũng như phát triển dịch vụ ngân hàng trên địa bàn Tp.HCM trong thời gian qua đã nói lên lợi thế và hiệu quả tích cực từ mạng lưới kinh doanh rộng khắp của Chi nhánh. Ban Giám đốc Chi nhánh đã đề ra những biện pháp phù hợp nhằm thu hút mạnh các nguồn vốn, thực hiện nghiêm túc các văn bản chỉ đạo về công tác huy động vốn của HDBank trong từng thời điểm; xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chính sách khách hàng; kết hợp chặt chẽ công tác quy hoạch với đào tạo cán bộ chuyên sâu, chuyên nghiệp, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ giao dịch viên; tổ chức các lớp học kỹ năng giao tiếp nhất là kỹ năng giới thiệu các sản phẩm dịch vụ, cung cấp sản phẩm trọn gói cho khách hàng.
Nhằm không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, Ban Giám đốc Chi nhánh đã thành lập Ban chăm sóc khách hàng, chuyên nghiệp hóa thủ tục, đảm bảo nhanh chóng và chính xác. Tổ chức tặng quà khuyến mãi đối với những khách hàng có tiền gửi tại Chi Nhánh. Phân công cán bộ có năng lực quản lý tài khoản của khách hàng và chịu trách nhiệm tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu của khách hàng. Giải đáp và xử lý kịp thời những khó khăn, vướng mắc, kiến nghị của khách hàng, hướng dẫn khách hàng sử dụng các hình thức thanh toán phù hợp với các sản phẩm dịch vụ của Chi nhánh như: Internet Banking, chuyển tiền điện tử, thanh toán xuất nhập khẩu, SMS Banking… nhằm phục vụ khách hàng một cách có hiệu quả, giữ được khách truyền thống và thu hút khách hàng mới.Xây dựng chính sách phí ưu đãi đặc biệt đối với từng nhóm khách hàng và căn cứ mức độ giao dịch, 6 tháng một lần rà soát danh sách khách hàng để phân loại chăm sóc cho phù hợp.
Tổ chức thu chi lưu động tại chỗ cho một số các đơn vị như Công ty CP Hoàng Sinh, Kho bạc quận 9, các cơ quan báo chí, khối bệnh viện, các quỹ hỗ trợ…. Chủ động mở rộng cho vay vốn đến các thành phần kinh tế, quan tâm tạo điều kiện, giúp giải quyết khó khăn trong quá trình học tập đối với những đối tượng là sinh viên các trường cao đẳng và dạy nghề…
Năm vừa qua, riêng khối mua bán xuất nhập khẩu, Chi nhánh đã huy động được khoảng 250 tỷ đồng. Còn đối với khối Vận tải Đường sắt đã có 11 đơn vị đăng ký mở tài khoản với số dư tiền gửi khoảng 180 tỷ đồng. Chủ trương cho vay hỗ trợ lãi suất của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã thực sự đi vào cuộc sống thông qua việc Chi nhánh đã hỗ trợ cho một số các tổ chức kinh tế được vay hỗ trợ lãi suất với số tiền là 345 tỷ đồng.
2.5.2 ĐIỂM YẾU
Do cán bộ tín dụng cá nhân còn ít, cán bộ tín dụng cá nhân của Chi Nhánh một lúc phải đảm nhận quá nhiều công việc, làm cho hiệu quả công việc bị giảm xuống.
Việc cho vay cá thể dần chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh số cho vay của Chi Nhánh. Tuy nhiên, công tác thẩm định của Ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn, việc kiểm tra việc sử dụng vốn của khách hàng có đúng mục đích ghi trên hợp đồng tín dụng hay không vẫn là vấn đề nan giải...Đây là điểm cần xem xét để khắc phục trong thời gian tới.
Máy móc thiết bị của Ngân hàng còn thiếu làm cho tiến độ công việc của Ngân hàng đôi lúc còn chậm làm khách hàng phải đợi lâu.
2.5.3 NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI
Bên cạnh những cơ hội nêu trên thì Chi nhánh cũng tồn tại những thách thức vi mô và vĩ mô như: Trên địa bàn Quận 9 có khá nhiều các NHTM như NH Đầu tư và phát triển, NH Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, NHTMCP Á Châu, NHTMCP Đông Á…Chính vì vậy đã tạo nên một sự canh tranh gay gắt giữa HDBank – CN HIỆP PHÚ với các NHTM khác.
Với hoạt động Ngân hàng trong bối cảnh hiện nay, theo các chuyên tài chính, khủng hoảng đã dần đi qua, sự hồi phục đã diễn ra và cơ hội đang đến với ngành ngân hàng, nhưng không hoàn toàn bền vững. Chính vì thế, nếu không nâng cao sức cạnh tranh và xây dựng được định hướng phát triển mang đậm nét riêng, thì hoạt động của mỗi ngân hàng khó có thể đạt hiệu quả cao. Có nghĩa, nếu ngân hàng không cẩn trọng thì sẽ phải còn đối mặt với nhiều thách thức.
Theo đánh giá của các chuyên gia trong ngành tài chính, Bởi năm 2009, Việt Nam đã thực hiện cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Hệ thống ngân hàng trong nước sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh lớn từ những ngân hàng nước ngoài trong năm 2009 và các năm tới, đòi hỏi khả năng quản trị của ngân hàng Việt Nam cao hơn, tăng tốc và hiệu quả hơn trước. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng trong nước phải đảm bảo để sự cạnh tranh này không tạo nên tình trạng bất ổn trong hệ thống tài chính quốc gia. Vì vậy, thách thức sẽ tiếp tục song hành đối với hoạt động của ngành ngân hàng trong năm tài chính 2010.
Năm 2010, Chính phủ đã đưa ra thông điệp kiểm soát tăng trưởng tín dụng không vượt quá 25%, thấp hơn nhiều nếu so với con số 38 - 39% của năm 2009, hiện chính sách tiền tệ đã bắt đầu được "siết" lại làm cho hoạt động của các ngân hàng sẽ khó khăn hơn và khó khăn lớn nhất vẫn là nguồn vốn; lúc này áp lực huy động vốn tiếp tục gia tăng, dẫn đến cho vay ra cũng phải cẩn trọng và chọn lọc khách hàng tốt nhất để cho vay, người vay phải trả lãi suất cao. Điều đó cũng dễ hiểu, vì với một nền kinh tế bắt đầu phục hồi thì vốn liếng sẽ trở nên khan hiếm. Trước đây, những người có vốn khó đầu tư, kinh doanh do các kênh đầu tư sụt giảm nên gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi suất, nhất là năm 2008 lãi suất tiền gửi tăng cao. Còn tình hình thị trường hiện nay đã thay đổi, khi các kênh đầu tư khác đã và đang dần hồi phục, nhiều người sẽ rút vốn ra để đầu tư thay vì gửi vào ngân hàng. Thị trường bất động sản sẽ ấm lên và khả năng phục hồi vào cuối năm nay; Thị trường chứng khoán cũng sẽ phục hồi và thị trường trái phiếu hấp dẫn hơn. Vì vậy, tiền gửi vào ngân hàng sẽ ít đi, đó là chưa kể đối với việc khống chế trần lãi suất huy động và đây cũng là vấn đề khó khăn nhất của ngân hàng trong năm nay. Một khó khăn khác nữa đó là tín dụng thắt chặt, nên nguồn vốn cho vay bất động sản, chứng khoán vốn mang lại lợi nhuận lớn cũng bị hạn chế.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CÁ NHÂN TẠI HDBANK – CN HIỆP PHÚ
3.1 NHỮNG TỒN TẠI, NGUYÊN NHÂN VÀ CÁCH KHẮC PHỤC TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI HDBank – CN HIỆP PHÚ
3.1.1 NHỮNG TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN
Bên cạnh những kết quả đạt được trong quá trình hoạt động kinh doanh Chi Nhánh vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế cần phải nhanh chóng khắc phục như:
- Việc huy động vốn khó khăn không chỉ đối với HDBank – CN HIỆP PHÚ mà còn nhiều đối với các Ngân Hàng khác nữa ở hiện tại và trong thời gian sắp tới. Bởi lẽ, người dân hiện nay linh hoạt hơn trong việc đầu tư vốn của mình trong điều kiện nền kinh tế ngày càng hồi phục sau khủng hoảng nặng nề và chắc chắn nó sẽ còn phát triển hơn nữa. Người dân đã sử dụng đồng vốn của mình để mở cửa hàng kinh doanh tạp hoá, mở nhà hàng, quán ăn, quán giải khát, đầu tư vốn đi xuất khẩu lao động, đầu tư bất động sản, xổ số, mua sắm đồ dung tiện nghi trong gia đình, nhu cầu vui chơi,đi học…có thể nó mang lợi nhuận nhiều hơn so với gửi tiết kiệm tại Ngân Hàng để hưởng lãi suất. Ngoài ra sự có mặt của công ty bảo hiểm đã làm ảnh hưởng đến nguồn vốn huy động của Ngân Hàng. Nhiều hộ tham gia mua bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học tập cho con cái…So với Ngân Hàng, bảo hiểm có ưu thế hơn ở chỗ là: có nhân viên bảo hiểm đến tận nhà để vận động người dân tham gia và thấy được lợi ích từ bảo hiểm rằng: Bảo hiểm bảo đảm cho quá trình tái sản xuất và đời sống của xã hội được diễn ra bình thường, nhằm xử lý các rủi ro, các biến cố. Với những lợi ích trên, nhiều khách hàng đã không chọn gửi tiền tiết kiệm vào Ngân Hàng. Điều này đã làm mất đi kênh huy động vốn cho Ngân Hàng.
- Mặc dù theo xu hướng mở rộng đối tượng khách hàng, nhưng số lượng khách hàng được vay tiêu dùng còn rất hạn chế. Chi nhánh mới chỉ cho vay chủ yếu đối với các cán bộ Nhà Nước do Chi Nhánh có thể nắm vững được thu nhập của họ. Điều này đã làm hạn chế số lượng khách hàng vay vốn tại Chi Nhánh.
- Khâu kiểm tra sử dụng vốn sau khi giải ngân cho khách hàng còn hạn chế. Vẫn còn xảy ra tình trạng khách hàng sau khi vay vốn đã không sử dụng toàn bộ vốn vay cho phương án sản xuất, kinh doanh như đã trình bày với Chi Nhánh. Đến khi xảy ra nợ xấu, họ mới bắt đầu tìm cách giả quyết.
3.1.2 CÁCH KHẮC PHỤC NHỮNG HẠN CHẾ
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế với sự canh tranh gay gắt như hiện nay để có thể tồn tại và đứng vững trên thị trường. Điều đầu tiên, phải nhận thấy những điểm hạn chế của mình để tìm cách khắc phục, sau đó đưa ra những giải pháp bước đi cụ thể và đúng hướng. Sau đây là một số biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên.
Thứ nhất, về công tác huy động vốn:
Hoạt động Ngân Hàng đóng vai trò chủ đạo trên thị trường tài chính nhưng rủi ro rất đa dạng. Nếu có sự thu hẹp đáng kể về khối lượng vốn, Ngân Hàng sẽ có ít nguồn lực để cho vay. Điều này gián tiếp gây ra sự suy giảm trong hoạt động kinh tế. Mặt khác, tính hệ thống và tác động dây chuyền trong hoạt động Ngân Hàng liên thông khá lớn, nếu một Ngân Hàng khó khăn sẽ ảnh hưởng đến hoạt động chung toàn ngành. Chính vì thế, Huy động vốn là một nghiệp vụ tạo nguồn vốn trong kinh doanh, là khâu mở đường vững chắc không những mở rộng được nghiệp vụ tín dụng mà còn đem đến cho Ngân Hàng nhiều lợi nhuận.
Do vậy, đã đến lúc Chi Nhánh cần tập trung quản trị rủi ro thanh khoản, tín dụng và lãi suất. Chi Nhánh cần nâng cao khả năng dự báo và thực hiện tốt vai trò tư vấn lãi suất đối với khách hàng, giúp doanh nghiệp phòng ngừa và hạn chế rủi ro cho mình và Chi Nhánh.
Tăng cường các khâu quảng cáo, tiếp thị, khuyến mãi đối với khách hàng bằng nhiều hình thức như: gửi tiền có thưởng, xổ số trúng thưởng theo số thứ tự của sổ tiết kiệm, số tài khoản tiền gửi…,lãi suất tương đối hợp lý, áp dụng biểu phí thanh toán hợp lý đối với những khách hàng quan hệ gửi tiền thanh toán lớn và thường xuyên.
Hiện tại, HDBank triển khai các hợp đồng chuyển tiền đặc thù với nhiều ngân hàng lớn, có uy tín tại những quốc gia có đông người Việt Nam đang sinh sống và làm việc. Đó là:
Hoa Kỳ
Wells Fargo Bank
Nga
Russky Slaviansky Bank
Đức
Deutsche Bank
Hàn Quốc
Korea Exchange Bank
Đảo Síp (Cyprus)
Laiki Bank (Cyprus Popular Bank)
Arabia
Al Rajhi Bank
Malaysia
CIMB Bank
Qua những hợp tác đặc biệt này, HDBank giúp khách hàng tiết kiệm được thời gian, chi phí khi chuyển tiền về Việt Nam. Với sự liên kết như vậy Ngân Hàng đã thu hút thêm lượng vốn trong dân cư từ khách hàng có con em đang học tập ở nước ngoài, hay đi công tác, du lịch...Do vậy, HDBank cần có kế hoạch để phát triển dịch vụ này ra nhiều nước trên thế giới.
Hợp tác với công ty xuất khẩu lao động, thông qua họ để tuyên truyền về dịch vụ cung cấp vốn có nhu cầu xuất khẩu lao động và các dịch vụ hỗ trợ nguồn tiền ngoại hối chuyển về cho gia đình, người than, bạn bè. Chi Nhánh có thể thu hút nguồn kiều hối đáng kể chuyển về và gửi ở Chi Nhánh. Điều này sẽ đóng góp một phần không nhỏ trong việc gia tăng nguồn vốn và phí dịch vụ cho Chi Nhánh.
Thực hiện giữa công tác tín dụng và công tác huy động vốn, tích cực thu nợ để tạo nguồn luân chuyển cho vay, gắn trách nhiệm cán bộ tín dụng trong công tác huy động vốn.
Tạo phong cách giao dịch của mỗi cán bộ: hoà nhã, nhiệt tình, vui vẻ, bí mật, xử lý nghiệp vụ nhanh chính xác và luôn lấy phương châm “khách hàng là thượng đế” trong mọi quan hệ kinh doanh.
Thứ hai, về hoạt động tín dụng cá nhân:
Hiện nay, Chi nhánh hầu hết chỉ cho vay tín chấp đối với công nhân viên nhà nước. Tuy nhiên, không chỉ công nhân viên nhà nước mới có nguồn thu nhập ổn định mà các nhân viên của nhiều công ty ngoài quốc doanh cũng có thu nhập ổn định và có nhu cầu vay vốn cho mục đích tiêu dùng và tâm lý của họ thích vay tín chấp hơn là thế chấp. Do đó, Chi Nhánh nên liên kết và mở rộng hình thức dịch vụ trả lương cho nhân viên với các công ty tư nhân trên địa bàn một cách nhanh và sớm nhất có thể trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, thông qua đó làm cơ sở để mở rộng tín dụng tiêu dùng trong dân cư. Vì xu hướng tín dụng tiêu dùng sẽ trở thành xu hướng phát triển tất yếu khi nền kinh tế ngày càng phát triển.
Cán bộ tín dụng cần nắm bắt nhanh chóng các thông tin thị trường diễn ra hàng ngày thông qua các phương tiện truyền thông,sách báo…để có thêm cơ sở đánh giá phương án sản xuất, kinh doanh của khách hàng.
Để hạn chế các khoản nợ quá hạn từ có đến không còn, Chi Nhánh cần thực hiện tốt các công việc sau:
Chú trọng vào tính khả thi và hiệu quả của dự án, cho vay phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế gia đình.
- Phân công nhiệm vụ cho nhân viên theo khu vực, địa bàn, giao quyền được quyết định cho vay trong hạn mức tuỳ vào khả năng và trình độ chuyên môn.
- Chấp hành nghiêm túc các qui chế, qui định, qui trình các văn bản hướng dẫn về đầu tư tín dụng nhất là công tác thẩm định các dự án, phương án vay vốn.
- Tiến hành phân loại nợ quá hạn theo nguyên nhân, cần làm rõ các nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn để có hướng xử lý thực hợp cho từng nhóm. Nếu nguyên nhân thuộc về trách nhiệm của cán bộ tín dụng thì phải có những hình thức xử phạt cụ thể.
3.2 RỦI RO VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA KHI CHO VAY KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN TẠI HDBank – CN HIỆP PHÚ
3.2.1 RỦI RO
Bất cứ hoạt động kinh doanh nào trong nền kinh tế thị trường đều gặp rủi ro. Đặc biệt hoạt động kinh doanh của Ngân hàng lại là một lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm càng không tránh được những rủi ro. Và các khoản nợ xấu là một vấn đề luôn làm cho các nhà quản trị NHTM quan tâm. Bất cứ NHTM nào dù có quản lý tài chính chặt chẽ đến đâu thì vẫn không thể triệt tiêu hết nợ xấu, bởi vì nguy cơ rủi ro tiềm ẩn từ mọi nơi, mọi phía. Do đó quản lý hạn chế rủi ro là nhiệm vụ hàng đầu của các NHTM. Bởi vì bản chất và chức năng của Ngân Hàng là một tổ chức tài chính trung gian chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất sở hữu những khoản vay là thuộc quyền sở hữu của những người gửi tiền vào Ngân Hàng. Do vậy, nếu một khoản vay nào bị thất thoát không thu hồi được thì ngân hàng sẽ phải sử dụng nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền.
Rủi ro tín dụng, theo khái niệm cơ bản nhất, là khả năng khách hàng nhận khoản vốn vay không thực hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với Ngân Hàng, gây tổn thất cho Ngân Hàng, đó là khả năng khách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi cho Ngân Hàng. Từ đó, có nhiều tiêu chí phản ảnh rủi ro tín dụng của NHTM như:
- Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ.
- Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu.
- Tỷ lệ nợ xấu trên quĩ dự phòng tổn thất.
- Nợ đáng nghi ngờ (nợ có vấn đề) - có khả năng chuyển thành nợ xấu cao.
- Nợ không có tài sản đảm bảo.
3.2.1.1. Từ phía khách hàng
Khi khách hàng nhận khoản giải ngân từ ngân hàng, họ sẽ dùng đồng vốn vào mục đích kinh doanh như: Đầu tư vào dây chuyền sản xuất, đầu tư mua nguyên vật liệu… Trong quá trình sản xuất kinh doanh tất yếu sẽ phát sinh những rủi ro không mong muốn mà đôi khi các doanh nghiệp không lường trước được như:
- Rủi ro do nền kinh tế không ổn định.
- Rủi ro do các thủ tục pháp lý ở các địa phương còn rườm rà.
- Rủi ro do thị trường bị bóp méo bởi hàng hóa nhập lậu.
Khách hàng không đánh giá hết được những rủi ro khi sử dụng đồng vốn, đánh giá chi phí vốn cũng như khả năng sinh lợi của đồng vốn; Công tác quản lý nguồn vốn của khách hàng còn thấp, chưa có khả năng lập kế hoạch sản xuất, do đó không tự chủ được trong sản xuất; sử dụng không đúng mục đích đăng ký ban đầu trong hồ sơ xin vay vốn. Đồng vốn không sử dụng đúng mục đích tất yếu sẽ khó khăn trong việc kiểm soát dòng vốn cũng như kiểm soát rủi ro của đồng vốn.
3.2.1.2. Từ đảm bảo tín dụng:
Trong quá trình phát mãi tài sản của khách hàng, do vì tâm lý của đa số người dân cho rằng tài sản đó không phù hợp cho quá trình sản xuất kinh doanh nên thời gian bán tài sản bảo đảm bị kéo dài nên ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ quá hạn.
Tài sản thế chấp của khách hàng đa số là bất động sản nên thời gian bán tài sản để thu hồi nợ có thể kéo dài, đôi khi không tiêu thụ được.
Trong quá trình cho vay mà người bảo lãnh gặp phải những tình huống khó khăn như tai nạn, bệnh tật,… Điều đó có thể dẫn đến người bảo lãnh không có khả năng thực hiện những lời cam kết của mình, tức là không có khả năng thay mặt người vay trả nợ cho ngân hàng đầy đủ cả gốc và lãi.
Trong quá trình vay vốn nhiều gia đình gặp phải những hoàn cảnh khó khăn như người thân gặp tai nạn, bệnh tật,…cho nên làm gián đoạn quá trình sản xuất kinh doanh làm cho hiệu quả giảm sút.
3.2.1.3. Đối với Ngân hàng
- Các ngành nghề của các khách hàng đi vay là rất đa dạng: Đa phần các cán bộ tín dụng Ngân Hàng không thể có đầy đủ thông tin cũng như hiểu biết về các ngành nghề lĩnh vực mà khách hàng đang đầu tư kinh doanh. Hơn nữa, các cán bộ Ngân Hàng cũng rất khó thẩm định được số liệu tài chính do khách hàng cung cấp có “đúng đắn” và chính xác tuyệt đối hay không, trên thực tế các hộ kinh doanh cá thể có thói quen kinh doanh không ghi chép sổ sách, hóa đơn…Vì thế, khi các cán bộ ngân hàng sử dụng các báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp để phân tích trong công tác thẩm định sẽ đưa ra cái nhìn lệch lạc thiếu chuẩn xác.
- Bên cạnh đó công tác tiếp cận từng khách hàng để kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay có hợp pháp hay không thì rất khó khăn, điều đó làm cho việc kiểm tra khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích hay không còn rất hạn chế, cho nên ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho ngân hàng.
- Do chạy theo doanh số cho vay cho nên cán bộ tín dụng lơ là trong công tác thẩm định khách hàng.
- Do công tác đánh giá tài sản bảo đảm sai lầm hoặc do biến động giá tài sản đảm bảo dẫn đến cho vay vượt mức của tài sản bảo đảm, do đó khi phát mải tài sản không đủ thu hồi nợ vay.
- Chính vì rất khó khăn trong việc đánh giá tình hình tài chính khách hàng, nên Ngân Hàng thường có xu hướng ưu tiên các hồ sơ vay vốn có tài sản thế chấp, đảm bảo. Tuy nhiên khi dẫn đến việc xử lý thu hồi nợ cũng rất khó khăn.
- Theo các văn bản hướng dẫn cưỡng chế thu hồi nợ đều ghi rõ: "Trong trường hợp bên đi vay không đảm bảo khả năng thanh toán, Ngân hàng có quyền xử lý tài sản nợ vay". Trên thực tế, Ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là một cơ quan quyền lực Nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Hơn nữa các thủ tục pháp lý kiện ra tòa án để thực hiện xử lý tài sản thế chấp cũng rất rườm rà, gây mất chi phí và thời gian đối với Ngân hàng.
- Trình độ của các cán bộ tín dụng đôi khi còn khá hạn chế. Ngoài ra còn có nhiều cán bộ tín dụng vì những lợi ích vật chất sẵn sàng tiếp tay cho các khách hàng làm giả hồ sơ giấy tờ để xin vay vốn. Chính điều này đã dẫn đến những rủi ro rất lớn ngay từ khâu giải ngân.
3.2.2 BIỆN PHÁP
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế tất yếu xuất hiện quan hệ tín dụng giữa các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Sự luân chuyển dòng vốn giữa một bên CẦN vốn và một bên CÓ vốn nhàn rỗi đã xuất hiện quan hệ tín dụng.
Hiện nay, công tác quản trị rủi ro tín dụng có vai trò cực kỳ quan trọng đối với các Ngân Hàng nói riêng và cả hệ thống tài chính nói chung. Việc đánh giá, thẩm định và quản lý tốt các khoản cho vay, các khoản dự định giải ngân sẽ hạn chế những rủi ro tín dụng mà Ngân Hàng sẽ gặp phải, và tất yếu sẽ giảm bớt nợ xấu cho Ngân Hàng.
Đảm bảo tín dụng được coi là tiêu chuẩn xét duyệt cho vay nhưng phải thấy rằng đây không phải tiêu chuẩn quan trọng nhất hay nói cách khác nó không phải mang tính nguyên tắc. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường các hoạt động kinh tế diễn ra hết súc phức tạp. vì thế mọi dự đoán rủi ro của môi trường đều mang tính tương đối. Trong môi trường kinh doanh như vậy, đảm bảo tín dụng là một tiêu chuẩn bổ xung những biện pháp rủi ro tín dụng diễn biến không thuận lợi của môi trường kinh doanh như hiện nay.
3.2.2.1. Thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ: Thẩm định, đánh giá, lựa chọn khách hàng để cho vay một cách chính xác, khi cho vay cần đưa ra mức tín dụng phù hợp với nhu cầu vay vốn của từng dự án và khả năng trả nợ của khách hàng. Trong quá trình cho vay đòi hỏi ngân hàng phải thường xuyên giám sát tín dụng để kịp thời có biện pháp xử lý thích hợp đối với khoản vay có dấu hiệu không tốt nhằm ngăn chặn và hạn chế rủi ro tín dụng.
- Tìm hiểu, phân tích và nhận định thông tin về khách hàng
Thông tin về khách hàng là vấn đề luôn được quan tâm của người cho vay. Đây cũng là cơ sở quan trọng của người cho vay đưa ra quyết địng cấp tín dụng hay không. Cho dù là khách hàng truyền thống hay khách hàng mới thì việc tìm hiểu thông tin về họ vẫn không thể bỏ qua và phải được coi là một trong những biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn những rủi ro tín dụng xảy ra.
- Làm tốt công tác thẩm định trong khi xem xét cho vay
Đặc thù của ngành cho vay đòi hỏi cán bộ cho vay phải nắm bắt được kiến thức cơ bản về thị trường, các ngành nghề, các thành phần kinh tế thuộc nhiều lĩnh vực sản xuất với những thị trường riêng biệt và sản phẩm đầu ra của dự án kinh doanh của khách hàng. Cán bộ cho vay cần phải xem xét lại việc thẩm định khách hàng nhằm mục đích nâng cao hiệu quả thẩm định, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
Thẩm định về khách hàng nên tập trung vào một số nội dung sau:
+ Thẩm định tư cách pháp lý của bên đi vay
+ Thẩm định về kinh ngiệm sản xuất kinh doanh của bên đi vay
+ Tính toán, xác định mức thu nhập của khách hàng vay
+Thẩm định lĩnh vực, ngành nghề sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn.
3.2.2.2. Thực hiện tốt công tác giám sát, xếp hạng rủi ro và những biện pháp xử lý thu hồi nợ
Giám sát cho vay
+ Xem xét khách hàng sử dụng đúng mục đích hay không
+ Kiểm soát được mức độ rủi ro cho vay phát sinh trong quá trình sử dụng vốn của khách hàng.
Phát hiện nhanh những yếu tố bất lợi hay những khoản cho vay chính không đúng hướng mà chính sách cho vay đã đặt ra cho từng đối tượng khách hàng, cho từng giai đoạn.
Việc xếp hạng rủi ro dựa trên cơ sở mức độ tín nhiệm và khả năng trả nợ của khách hàng.
Củng cố mối quan hệ giữa ngân hàng với chính quyền địa phương nơi cho vay với những khoản nợ lớn: Thực tế hoạt động tín dụng của ngân hàng trong thời gian qua cho thấy vai trò của các cấp chính quyền, đoàn thể trong việc hổ trợ cho người dân vay vốn, đồng thời dựa vào uy tín của các cấp chính quyền để tác động thu hồi nợ vay là rất hữu hiệu.
Từng cán bộ tín dụng phụ trách địa bàn và lãnh đạo phải nắm vững cụ thể thực trạng nợ quá hạn trong phạm vi mình quản lý để từ đó đưa ra những biện pháp thu hồi nợ thích hợp.
3.2.2.3. Xác định giá trị tài sản đảm bảo
Trong hoạt động cho vay, tài sản đảm bảo là một trong những yếu tố quan trọng để hạn chế rủi ro cho các khoản vay. Các tài sản này phải được định giá trên cơ sở thị trường như: tính lỏng, đầy đủ hồ sơ pháp lý, sự biến động của giá cả... từ đó đưa ra một giá trị hợp lý.
3.2.2.4. Phân tán rủi ro
“ Không nên bỏ tất cả trứng vào cùng một giỏ”
+ Không tập trung cho vay một ngành, một lĩnh vực hay một khu vực;
+ Không nên dồn vốn đầu tư vào một số khách hàng;
+ Cho vay hợp vốn, đồng tài trợ.
3.2.2.5. Trích lập dự phòng rủi ro
Trích lập dự phòng rủi ro là biện pháp để khắc phục tình trạng sảy ra tổn thất trong hoạt động cho vay. Mặc dù trích lập dự phòng rủi ro sẽ làm tăng chi phí cho ngân hàng, nhất là chi phí cơ hội khi không sử dụng nguồn vốn đó để đầu tư cho các đối tượng hấp dẫn và đương nhiên làm giảm thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên trích lập dự phòng không chỉ là biện pháp mà còn là nguyên tắc bắt buộc của ngân hàng cho vay để chống đỡ rủi ro cho vay. Khi mà các khoản cho vay nợ quá hạn mất khả năng thu hồi.
3.2.2.6. Tăng cường và nâng cao chất lượng cán bộ cho vay
Chính sách hỗ trợ, động viên kịp thời cả về vật chất và tinh thần của đối với cán bộ tín dụng là việc làm hết sức cần thiết. Biện pháp náy kích thích tinh thần làm việc, đặt lợi ích tập thể lên lợi ích cá nhân của người cán bộ. Qua đó hạn chế được rủi ro xuất phát từ sai sót của cán bộ cho vay do quá tải trong công việc.
Bên cạnh những hình thức khen thưởng, động viên khuyến khích cũng cần đưa ra những hình thức kỷ luật nghiêm khắc đối với những sai sót, sơ hở do thiếu trách nhiệm của cán bộ tín dụng dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Tuỳ theo mức độ thiệt hại mà ngân hàng có biện pháp sử lý khác nhau như: cảnh cáo, khiển trách; trừ công tác phí, trừ lương ...Biện pháp này áp dụng nhằm nâng cao ý thức tự giác, tự chịu trách nhiệm của mỗi cán bộ cho vay
Tóm lại: trên đây là một số giải pháp cơ bản về phòng chống rủi ro trong hoạt động cho vay của HDBank chi nhánh 3 TP.HCM với mục đích ngăn ngừa và hạn chề đến mức tối thiểu xảy ra khi thực hiện hoạt động cho vay.
3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CÁ NHÂN TẠI HDANK – CN HIỆP PHÚ
3.3.1 ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Trong những tháng tới, giá cả hàng hóa có thể sẽ còn tiếp tục chịu tác động tiêu cực của các yếu tố: Hệ lụy của chính sách nới lỏng tài chính và các gói kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu dùng áp dụng trong năm 2009; Tác động dây chuyền của việc tăng giá điện, than, xăng dầu, cước vận chuyển... Giá cả của nhiều loại hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu trên thị trường thế giới tăng do kinh tế thế giới phục hồi.
- Đề nghị các cơ quan chức năng, ngành có phân tích đánh giá nguyên nhân tác động tăng giá hàng hóa và dự báo cho thời gian tới để chủ động có biện pháp ổn định giá, tăng cường thông tin tuyền truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng để hạn chế yếu tố tăng giá do tâm lý, tập trung các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho DN và Ngân hàng.
- Đề nghị các chuyên ngành chức năng, chính quyền các huyện,quận, TP... phối hợp, tạo điều kiện giúp ngành Ngân hàng đẩy nhanh tiến độ xử lý, cưỡng chế, phát mại tài sản để thu hồi các khoản nợ xấu, nợ đọng, nhất là các DN có biểu hiện xấu, không hợp tác với Ngân hàng, tạo điều kiện giúp ngành Ngân hàng hoạt động an toàn, hiệu quả.
- Ngành Ngân Hàng mang tính hệ thống và tác động dây chuyền trong hoạt động ngân hàng liên thông khá lớn,nếu một ngân hàng khó khăn sẽ ảnh hưởng đến hoạt động chung toàn ngành. Chính vì thế, Đề nghị Ngân Hàng có ý kiến với Chính phủ là nghiên cứu, bổ sung thêm quy định NHNN Việt Nam thống nhất quản lý đối với các ngân hàng vì các lý do sau đây:
+ NH thương mại cũng là tổ chức tín dụng thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng;
+ Tạo điều kiện thuận lợi, thống nhất thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.
- Đối với Chính Phủ và các Bộ: cần sớm ban hành các văn bản pháp luật cho phép TCTD được toàn quyền xử lý TSĐB để thu hồi vốn và có những biện pháp hỗ trợ công tác này được tiến hành nhanh chóng đảm bảo nguồn vốn hoạt động cho NH
- Ngân hàng nên kiến nghị Nhà nước hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính trong điều hành chính sách, đảm bảo nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, giúp các Ngân Hàng chủ động dự báo và đưa ra những giải pháp thích ứng.
3.3.2 ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG HDBANK HỘI SỞ
Cần mở rộng hơn nữa các chi nhánh Ngân Hàng. Hiện nay mới chỉ tập trung ở các thành phố lớn, tầm hoạt động còn hẹp. Thực tế cho thấy thay vì tập trung cạnh tranh ở những đô thị lớn, Ngân Hàng nên chớp lấy thời cơ khai phá thị phần khách hàng tiền gửi và tiền vay ở vùng sâu, vùng xa. Vốn đầu tư ban đầu có thể lớn nhưng ngân hàng sẽ hoàn vốn nhanh và đó là động lực kéo cả guồng máy vào cuộc đua nhằm hoàn thiện hệ thống thanh toán. Lợi nhuận bền vững sẽ từ đó mà ra...Cơ hội gia tăng lợi nhuận đột biến cho ngành Ngân Hàng trong năm 2010 có thể ít hơn, nhưng tiềm năng tăng trưởng còn rất khả quan. Thành công sẽ thuộc về những ngân hàng có chiến lược đầu tư bài bản, năng động thích ứng với thời cuộc và tận dụng mọi cơ hội trong kinh doanh
Hoàn thiện các chính sách và quy chế cho vay, và quy trình thẩm định tín dụng một cách chặt chẽ đến từng chi nhánh và các phòng giao dịch để phù hợp với từng thời điểm, hạn chế được rủi ro tín dụng.
Ban lãnh đạo Ngân Hàng cần nâng cao hiệu quả quản lý công nhân viên trong tổ chức, đảm bảo tất cả mọi người trong hệ thống HDBank chấp hành tốt nội quy và quy định của tổ chức.
Cần phối hợp trao đổi học tập với các Ngân Hàng Quốc Tế để theo kịp sự phát triển tiên tiến trong hoạt động Ngân Hàng Thế Giới. Từng bước hiện đại hóa công tác của các phòng ban. Đặc biệt là phòng tín dụng.
Mở rộng giờ hoạt động chẳng hạn như giao dịch vào buổi trưa, và cả ngày thứ bảy để tạo điều kiện cho tất cả các chủ thể có thể tiếp cận với các dịch vụ của Ngân Hàng.
Thực hiện kiểm toán nội bộ chặt chẽ hơn để phát hiện kịp thời những sai sót không đáng kể làm ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của Ngân Hàng, đặc biệt là hoạt động cho vay của Ngân Hàng.
Thường xuyên mở các khóa đào tạo nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ nhân viên đặc biệt là nhân viên tín dụng trong việc thẩm định hồ sơ tín dụng. Ngoài ra cần mở những lớp tìm hiểu về pháp luật, kiến thức pháp luật không chỉ giúp cán bộ phòng tín dụng dễ dàng hơn trong việc phát hiện những thủ đoạn nhằm hợp lý hóa hồ sơ vay vốn của khách hàng.
Hiện đại hóa công nghệ Ngân Hàng: ngày nay khi công nghệ thông tin bùng nổ, công nghệ ngân hàng ngày càng hiện đại thì việc đưa tin học vào hoạt động ngân hàng trở thành một nhu cầu bức xúc của hầu hết ngân hàng. Do đó cần trang bị cơ sở vật chất, kỷ thuật hiện đại, trang bị các máy tính, máy thanh toán ở trụ sở và các điểm giao dịch sao cho tiện lợi; cần phải thường xuyên nâng cao hoàn thiện công nghệ để thu thập thông tin nhanh nhất, thuận tiện nhất, xu hướng tự động hóa, hình thành hệ thống dự phòng, kho dữ liệu có phương án đảm bảo an toàn trong mọi tình huống. Đồng thời ngân hàng cần phải nghiên cứu hoàn thiện và hiện đại hóa quá trình quản lý rủi ro, phân tích dự báo, xếp hạng tín dụng…
KẾT LUẬN
Tín dụng ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế hiện nay. Vì tín dụng góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả trên thị trường. Trong điều kiện nền kinh tế lạm phát, tín dụng được coi là một trong những biện pháp hữu hiệu làm giảm lạm phát. Tín dụng góp phần ổn định đời sống tạo ra công ăn việc làm và ổn định trật tự xã hội, thúc đẩy sản xuất phát triển, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng để phục vụ nhu cầu sống như mua xe, xây dựng nhà và sửa chữa nhà ở, du học, tiêu dùng, kinh doanh sản xuất hộ gia đình,…
Hiện nay có rất nhiều ngân hàng mới thành lập. Để không bị tụt hậu và cạnh tranh với các ngân hàng khác trong thị trường tiền tệ hiện nay thì HDBank phải không ngừng làm mới, phải luôn đẩy mạnh và nâng cao chất lượng tín dụng để tạo vị thế trong lòng khách hàng, luôn tạo niềm tin và thể hiện được nét riêng của mình, tạo ấn tượng tốt cho khách hàng khi có nhu cầu cho vay thì nghĩ ngay đến HDBank.
Tín dụng cũng là một nghiệp vụ quan trọng và tạo ra lợi nhuận cao nhất cho các ngân hàng. Chi nhánh có đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn cao, thái độ phục vụ ân cần nên Ngân hàng đã đạt được kết quả rất khả quan. Nguồn vốn huy động đều tăng qua các năm, với nhiều hình thức huy động vốn phong phú đã thu hút được vốn nhàn rỗi trong dân cư và đã đạt hiệu quả trong công việc sử dụng nguồn vốn huy động bằng việc mở rộng quy mô tín dụng thông qua các chính sách ưu đãi khách hàng đã tạo được niềm tin và uy tín cho khách hàng vay vốn. Từ đó giúp cho hoạt động của Ngân hàng ngày càng hiệu quả, lợi nhuận của NH cũng tăng lên.
Lắng nghe khách hàng đóng góp ý kiến, từ đó khắc phục những mặt còn hạn chế và phát huy những điểm mạnh đã đạt được nhằm tạo mối liên kết lâu dài với khách hàng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, HDBank - Hiệp Phú vẫn còn một số hạn chế: Mạng lưới phân phối của NH còn quá nhỏ chưa thu hút được tối đa nguồn vốn trong dân cư và phần nào hạn chế những khách hàng ở xa không tiếp cận được nguồn vốn của NH mà tìm đến NH khác. Số lượng nhân viên ở bộ phận tín dụng còn hạn chế nên ảnh hưởng đến thời gian giải quyết hồ sơ cho khách hàng cộng với thủ tục rườm rà và phụ thuộc quá nhiều từ hội sở trong các quyết định cho vay đặc biệt là những khoản vay lớn. Do đó cần có sự giúp đỡ của các cấp lãnh đạo thành phố và Ngân hàng hội sở nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách
+ Lý thuyết nghiệp vụ ngân hàng thương mại – Tác giả TS Nguyễn Minh Kiều xuất bản tháng 02/2009.
+ Tiền tệ ngân hàng – Tác giả TS Nguyễn Minh Kiều
+ Tín dụng ngân hàng – Tác giả TS Hồ Diệu.
Website
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KHOA LUAN TOT NGHIEP PHAN PHU HOANG.DOC
- BIA + PHU.doc