Ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố

Ngô Tất Tố đã để lại một sự nghiệp văn chương có giá trị, phong phú đặc sắc ở nhiều thể loại. Ông có một phong cách ngôn ngữ riêng, một thế giới nghệ thuật riêng giàu tinh thần sáng tạo. Từ một nhà nho ông đã trở thành nhà văn hiện thực, nhà báo tiến bộ, có tri thức sâu sắc về văn hóa truyền thống phương Đông mà nhiều người xem ông là danh nhân văn hóa của Hà Nội. Phong cách ngôn ngữ của Ngô Tất Tố vừa mang đậm tính truyền thống lại vừa rất hiện đại, luôn có sự "giao thoa" giữa ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ báo chí. Sáng tác của ông có sự kết hợp giữa tính biểu cảm, hình tượng của văn học với tính hiện thực, cập nhật của thể loại văn phóng sự.

pdf105 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6131 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cùng với từ "hủ tục", Ngô Tất Tố còn sử dụng những từ ngữ tương đồng: "Bởi vậy, những tục lệ quái ghở, mọi rợ mới được tự do kế tiếp nhau, chồng chất trên vai chúng tôi. Nhiều lúc tôi muốn hắt cái gánh nặng ấy đi, nhưng sức một mình không thể làm nổi, đành phải è cổ mà chịu. Một người chăm chỉ, cần kiệm, lao lực như tôi, chỉ vì một gánh tệ tục đè ép, đến nỗi suốt đời không ngóc đầu lên được, bây giờ đã sắp chết, gánh tệ tục ấy vẫn còn ép đến chưa tha, ông bảo có oan uổng không?" [7; 14]. Những từ ngữ như: "Tục lệ quái ghở", "mọi rợ", "cái gánh nặng", "gánh tệ tục" đã cho thấy thái độ ghê tởm của nhà văn trước những gánh tệ tục. Trong phóng sự Tập án cái đình có đoạn: "Bây giờ thời buổi văn minh những cái hủ tục ở đình trung đáng lẽ phải sửa đổi hết thì dân quê mới mong có ngày tiến bộ. Chỉ vì người ta không rõ thế nào, cho nên ít ai chú ý đến chuyện đình điếm. Anh đã làm báo cũng nên công bố cho mọi người cùng biết...Giữ lời hứa với ông tôi đã đem cái ổ hủ bại, mọi rợ này chắp lại thành thiên điều tra" [2; 158]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 70 Từ ngữ "Cái ổ hủ bại mọi rợ" thể hiện rõ thái độ đấu tranh, phê phán của nhà văn hết sức quyết liệt. Có lẽ, với Ngô Tất Tố hủ tục cũng giống như một loại "giặc", loại "giặc" này cũng nguy hiểm không kém giặc dốt. Điều tệ hại hơn là có nhiều người bằng lòng sống chung với nó, và nghĩ rằng không thể nào thau đổi được nó. Vì thế, nhiệm vụ của nhà văn là phải chỉ ra cho mọi người thấy được sự nguy hiểm của loại "giặc" đó, và tìm mọi cách để loại bỏ ra ngoài cuộc sống. Như vậy, nhờ những từ ngữ phản ánh hủ tục, Ngô Tất Tố đã đề cập được một vấn đề thời sự trong xã hội đương thời. Ông đã vạch cho mọi người thấy được âm mưu thâm độc của thực dân phong kiến khi đề ra cái gọi là "Phong trào phục cổ". Thực chất của phong trào đó là để kìm hãm nhân dân luẩn quẩn trong hủ tục, cái nghèo, lạc hậu, để từ đó chúng dễ bề cai trị. * Sử dụng nhiều từ ngữ về nạn thuế khóa Trong xã hội phong kiến Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945, thuế là nguyên nhân gây ra biết bao cái chết, biết bao đau khổ cho người dân lao động. Trong bản Dự án cải cách thuế thân thảo ra, năm 1938, Qua Ninh và Tô Dân đã vạch rõ: Thuế thân một di tích trung cổ còn sót lại mà hiện nay chỉ có người Xiêm và người Đông Dương còn phải chịu; một thứ thuế đánh vào đầu người chỉ vì lý do giản dị là người đó đã sinh ra làm người. Nắm bắt được vấn đề thời sự đó, bằng tài năng của mình Ngô Tất Tố đã viết lên Tắt đèn - một tác phẩm xuất sắc đã tố cáo chính sách sưu thuế hà khắc của chế độ phong kiến. Trong mối tai họa đó, Ngô Tất Tố xoáy sâu vào nạn thuế thân, một thứ thuế hết sức dã man của chế độ thực dân phong kiến. Trong bảng từ vựng của mình nhà văn dùng nhiều từ ngữ liên quan đến thuế khóa. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 50 trang văn của tác phẩm Tắt đèn kết quả thu được: từ "thuế" là 27 lượt/50, chiếm tỷ lệ 0,54 lượt/ trang văn bản; Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 71 từ "sưu" là 18 lượt/50, chiếm tỷ lệ 0,36 lượt/ trang văn bản; từ "vay nợ" 5 lượt/50, chiếm tỷ lệ 0,1 lượt/trang văn bản. Nhìn vào kết quả khảo sát trên, cón thể thấy rằng Ngô Tất Tố sử dụng từ ngữ liên quan đến thuế khóa với tần suất rất cao. Có thể điểm qua những đoạn văn giàu tính thời sự đó: "- Mẹ cha chúng nó! Hôm nay vẫn chưa đóng thuế, chúng nó định để tội vạ cho ai? Được! Cứ bướng đi ông thì bắt hết trâu bò! Bán ráo! Tiếng chửi om sòm như giục mấy chục cặp mắt ngơ ngẩn của bọn thợ cày đều phải nghiênh về phía đình. Ông Lý cắp cuốn sổ, một tay cầm gậy song, một tay xếch đôi ống quần móng lợn, vừa đi về phía điếm tuần vừa thét mắng những người chậm thuế. Đã năm hôm nay, nghĩa là sau khi bài bổ trình phủ đã được giao về một chữ "y", lý trưởng Đông Xá ngày nào cũng phải vất vả về thuế" [11; 8]. Việc sử dụng từ ngữ liên quan đến sưu thuế với tần suất cao giúp cho Ngô Tất Tố phản ánh được nạn "Chướng giật hồng thủy" ở nông thôn Việt Nam những ngày "nửa đêm thuế thúc trống dồn" căng thẳng, náo loạn. Nó là nguyên nhân dẫn đến cuộc sống khốn cùng của người nông dân. Họ bị chửi bới, đánh đập, phải "bán vợ đợ con" là do sưu thuế. Khi đề cập về cái thứ thuế vô nhân đạo này nhà văn Nguyễn Tuân đã viết: "Cần phải cảm ơn ông già Ngô Tất Tố đã ghi nó lại cho chúng ta. Để làm gì ? Để mà có cái mà so sánh giữa đời sáng sủa bữa nay với cái đời tối tăm trước đây" [63; 223]. Một đoạn đối thoại trong Tắt đèn: "Lý trưởng đón nói: - Số tiền ấy mới là xuất sưu của tên Hợi. Ông phủ cau mày: - Tên Hợi là tên nào? Sao thằng Dậu lại phải nộp sưu cho nó ? Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 72 - Bẩm ông lớn, tên Hợi là em ruột tên Dậu. Hắn chết đầu tháng giêng...Vì tên Dậu là thân nhân của hắn, cho nên chúng con bắt phải nộp thay. Quan phủ gặng hỏi: - Thế thì làm sao mày không đưa biên lai cho nó? Định thu lạm thuế phải không? Rồi ngoảnh lại nhìn viên thừa phái, quan phủ nói bằng giọng nghiêm nghị: - Thày thảo biên bản, nói rằng hôm nay tôi về đây khám thuế bắt lý trưởng thu thuế của tên Dậu mà không biên nhận cho nó" [11; 92]. Trong đoạn văn, nhà văn lặp đi lặp lại từ ngữ về sưu thuế. Từ ngữ về sưu thuế đi vào ngôn ngữ văn chương Ngô Tất Tố đã phơi bày thủ đoạn tham nhũng bẩn thỉu của bọn quan lại phong kiến. Chúng nhẫn tâm đè người còn sống xuống bùn đất để đòi họ phải nộp thuế, nhưng khốn nạn hơn ngay cả những người đã chết chúng cũng dựng dậy bòn cho được hai đồng bảy tiền sưu để bỏ vào túi riêng. Viết về thói "ăn bẩn" của bọn quan lại phong kiến đã có nhiều nhà văn hiện thực đề cập đến. Chẳng hạn như Nguyễn Công Hoan viết về thói "ăn bẩn" của tên quan Huyện Hinh, Nam Cao viết về Bá Kiến với thủ đoạn "hãy đập bàn đập ghế để đòi được năm đồng, nhưng được rồi thì lại vứt trả năm hào vì thương anh túng quá". Còn Ngô Tất Tố vạch trần bản chất đốn mạt của bọn quan lại phong kiến khi đánh thuế cả vào những người đã chết: "Chết cũng không trốn được sưu Nhà nước". Bằng những từ ngữ liên quan đến sưu thuế, Ngô Tất Tố đã miêu tả những nỗi thống khổ của người nông dân và vạch trần thủ đoạn tham nhũng bẩn thỉu của giai cấp thống trị. Tác phẩm của Ngô Tất Tố đã kịp thời phản ánh một vấn đề thời sự của xã hội, đó là chính sách thuế khóa, một thủ đoạn bóc lột tàn nhẫn của bọn thực dân phong kiến đối với người nông dân Việt Nam. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 73 Trên hành trình sáng tạo, bảng từ ngữ gắn với vấn đề thời sự như thuế khóa, hủ tục, tư tưởng phục cổ đã đi vào ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố để tạo nên một phong cách ngôn ngữ riêng không thể hòa lẫn. Qua tác phẩm của ông người ta thấy được những vấn đề thời sự nóng hổi đang diễn ra trong xã hội đương thời. 4.2. Vận dụng linh hoạt các phƣơng thức biểu đạt để phơi bày hiện thực Trên phương diện ngôn ngữ nghệ thuật, các phương thức biểu đạt giữ một vai trò quan trọng. Nếu như coi tác phẩm văn học là một bức tranh nghệ thuật thì các phương thức biểu đạt chính là cách thức phối màu để tạo nên vẻ đẹp cho bức tranh nghệ thuật đó. Trên tinh thần ấy, chúng tôi tiến hành khảo sát sự phối hợp các phương thức biểu đạt trong ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố. Văn bản nghệ thuật có sáu phương thức biểu đạt chính đó là: Tự sự, Miêu tả, Biểu cảm, Nghị luận, Thuyết minh, và Hành chính công vụ. Các phương thức biểu đạt có thể được kết hợp với nhau tùy từng thể loại, từng tác phẩm văn học. Nhìn chung, văn xuôi chủ yếu vận dụng các phương thức biểu đạt miêu tả, tự sự, nghị luận, biểu cảm. Các phương thức biểu đạt trên được Ngô Tất Tố vận dụng một cách linh hoạt trong tác phẩm nhằm phơi bày hiện thực. 4.2.1. Miêu tả chi tiết bức tranh hiện thực. Bất kỳ nhà văn nào khi viết lên tác phẩm văn học đều nhằm một mục đích là phản ánh cuộc sống, dù cho tác phẩm đó viết về vấn đề gì. Tuy nhiên, ở từng nhà văn, cách vận dụng các phương thức biểu đạt để phản cách cuộc sống có thể khác nhau. Điều đó, phụ thuộc vào năng lực sáng tạo của mỗi người. Trên hành trình sáng tạo của mình, Ngô Tất Tố đã nỗ lực phản ánh những mảng hiện thực nóng bỏng, gay gắt. Những tác phẩm của ông như: Tắt đèn, Lều chõng, Việc làng, Tập án cái đình... đã góp phần làm sống lại toàn cảnh xã hội Việt Nam những năm trước Cách mạng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 74 * Miêu tả cảnh ăn uống, cỗ bàn, xôi thịt ở chốn đình trung Với sở trường của mình là am hiểu cuộc sống ở nông thôn, Ngô Tất Tố đã miêu tả bức tranh đời sống sinh hoạt của người nông dân một cách chân thực. "Dưới bức chấn song phía sau đình, một chiếc mâm cao sơn đỏ chễm chện kê giữa mảnh chiếu rách cạp. Trước mâm có để mấy bó vàng hồ, một chai rượu và mấy quả cau. Trên mâm là một tảng xôi vuông vắn bằng cái lá nem và một miếng thịt lợn luộc ước chừng hai cân trở lại. Nén hương cắm trong mâm xôi chả đã hết nửa, tàn hương rụng trên mặt xôi đen xì. Các ông cụ túm năm, tụm ba, bó gối ngồi trong mấy chiếc chiếu trải liền bên cạnh bao lơn. Tất cả độ bốn chục cụ, cụ nào cụ nấy sắc mặt xám mét" [7; 106]. Cái đình trong tâm thức và tín ngưỡng của người Việt Nam thiêng liêng vô cùng. Nó là nơi thờ cúng thần linh, nơi diễn ra các cuộc tế lễ, hội hè đình đám, nơi hội tụ của cả làng trong đời sống văn hóa tinh thần. Nhưng dưới thời thực dân phong kiến mái đình mất đi vẻ đẹp văn hóa vốn có. Bọn quan lại ở hương thôn đã lợi dụng chốn đình trung để bày vẽ và duy trì những hủ tục. Trong tác phẩm Việc làng, Ngô Tất Tố miêu tả một "Tiệc giỗ hậu". Các cụ già "đã gần tám mươi tuổi đầu" bất chấp thời tiết mưa rét vẫn "loạng choạng, siêu vẹo, mấy lần suýt ngã" để đến đình làng tham dự tiệc giỗ hậu. Với phương thức miêu tả, nhà văn đã tái hiện cảnh cỗ bàn thật cụ thể, tỉ mỉ. Ở trung tâm bức tranh đình làng là "một tảng xôi vuông vắn bằng cái lá nem và một miếng thịt lợn luộc ước chừng hai cân trở lại". Cạnh đó, "độ bốn chục cụ, cụ nào cụ nấy sắc mặt xám mét" vì mưa rét. Không hề đưa ra một bình luận nào, nhưng qua phương thức miêu tả, người đọc vẫn cảm nhận được thái độ không đồng tình của nhà văn trước "hủ tục" đó. "Ngô Tất Tố không trực tiếp dùng lời lẽ của mình để đả kích nhưng qua các bài phóng sự, qua hành động Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 75 và ngôn ngữ của nhân vật, rõ ràng là bọn cường hào, lý dịch ở nông thôn đã bị vạch mặt" [63; 354]. Phương thức miêu tả càng phát huy hiệu quả khi nhà văn tái hiện Nghệ thuật băm thịt gà của anh Mới: "Bấy giờ hắn mới giở đến bộ lòng gà. Mề, gan, tim, phổi các thứ đều được thái riêng và được bày riêng vào một góc đĩa. Tuy nó chỉ có một dúm con con, nhưng trong mười đĩa không có đĩa nào thiếu thứ nào. Rồi hắn nhắc con gà lên thớt. Bắt đầu chặt lấy cái sỏ, sau mới chặt đến miếng phao câu(...) Trước hết ghè dao vào giữa hai miếng mỏ gà, để cắt cái sỏ ra làm hai mảnh. Rồi hắn úp cả đôi mảnh xuống thớt, chặt mảnh mỏ dưới làm đôi và mảnh mỏ trên làm ba..." [7; 33]. Bảy câu trong đoạn văn trên đều là những câu tả. Tả thật tỉ mỉ như vẽ ra trước mắt mọi người. Việc làng là một tác phẩm thuộc thể loại phóng sự. Như chúng ta đều biết, ngôn ngữ phóng sự đòi hỏi tính khách quan cao. Việc làng đã đáp ứng được yêu cầu đó. Trong đoạn văn, tác giả chỉ tả mà không bình luận, hay bàn bạc gì nhằm tăng tính khách quan, nhưng người đọc vẫn cảm nhận được đằng sau sự khéo léo trong "nghệ thuật băm thịt gà" của anh chàng nông dân là tất cả cái nhiêu khê trong các cuộc cỗ bàn và thói háo danh nhỏ mọn của bọn chức dịch chốn hương thôn. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét: "Con mắt quan sát và ngòi bút miêu tả của Ngô Tất Tố khá sắc sảo (người ta thường nói tới đoạn văn tả "nghệ thuật băm thịt gà" của anh Mới). Ngôn ngữ của Việc làng nói chung chính xác, giàu hình ảnh. Tác giả tỏ ra khá thông thạo ngôn ngữ nông thôn" [63; 387]. * Miêu tả cảnh làng quê với những xung đột gay gắt Chứng kiến hết thảy mọi mâu thuẫn giai cấp ở nông thôn, Ngô Tất Tố đã miêu tả làng quê với những xung đột gay gắt: "Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con bé xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay hắn: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 76 - Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho! - Tha này! Tha này! Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực Chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến trói anh Dậu. Hình như tức quá không thể chịu đựng được, chị Dậu liều mạng cự lại: - Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ! Cai lệ tát vào mặt chị một cái đánh bốp, rồi hắn cứ nhẩy vào anh Dậu. Chị Dậu nghiến hai hàm răng: - Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem! Rồi chị túm lấy hắn, ấn dúi ra cửa..." [11; 87]. Ngôn ngữ miêu tả của nhà văn thật khéo léo: Khi cần van xin, chị Dậu xưng "cháu" gọi cai lệ bằng "ông". Khi tức quá chị xưng "tôi" và gọi cai lệ là "ông". Nhưng đến lúc bị dồn đến thế chân tường không thể chịu đựng được nữa thì chị xưng "bà" và gọi cai lệ bằng "mày" và lập tức chị "túm lấy hắn, ấn dúi ra cửa". Việc thay đổi ngôn ngữ miêu tả giúp người đọc có thể hình dung được diễn biến tâm trạng của chị Dậu. Vận dụng phương thức miêu tả trong đoạn văn, Ngô Tất Tố đã phản ánh mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp nông dân với địa chủ trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng. Chị Dậu tiểu biểu cho hình ảnh người nông dân lạc quan, khỏe mạnh khi bị áp bức sẵn sàng vùng lên đấu tranh chống lại kẻ thù. Phương thức miêu tả đã giúp Ngô Tất Tố tái hiện thành công bức tranh xám màu của làng Đông Xá trong những ngày thúc thuế. Không như các nhà văn lãng mạn khi tả về thiên nhiên thường thi vị hóa, chẳng hạn như tác phẩm Đôi bạn của Nhất Linh: "Những giọt mưa đọng rơi từ lá cây này xuống lá khác lộp độp hai bên vườn. Hai người đi qua một quãng đường nức mùi thơm của một cây bưởi gần đó. Trời vừa im gió nên khi ra khỏi chỗ hương thơm, hai người tưởng như vừa ra khỏi một đám sương mù bằng hương thơm của hoa bưởi đọng lại" [74; 345]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 77 Nhờ vận dụng khéo léo phương thức miêu tả, Ngô Tất Tố đã vẽ lên bức tranh hiện thực làng quê đầy những mâu thuẫn gay gắt. Hình ảnh làng Đông Xá là hình ảnh đen tối của xã hội Việt Nam những năm trước Cách mạng. Phương thức miêu tả còn được nhà văn vận dụng thường xuyên khi tái hiện quang cảnh trường thi: *Miêu tả cảnh"lều chõng" Phóng sự Lều chõng là một đóng góp xuất sắc của Ngô Tất Tố về đề tài lịch sử, tác phẩm đã cung cấp một kho tư liệu quý giá về chế độ thi cử thời phong kiến, làm sống lại không khí khoa cử của một thời. Tác phẩm cũng thể hiện sở trường vận dụng phương thức miêu tả của Ngô Tất Tố. "Đêm càng khuya học trò kéo đến càng nhiều. Ai vào vi nào lật đật tìm đến cửa vi ấy. Dưới hàng vạn nón chóp lố nhố đứng ở bốn cửa, hàng vạn con người cùng một lối trang sức như nhau: sườn này, cái chõng tre và bộ gọng lều; sườn kia, thì bó áo tơi và cuộn áo lều, hoặc một đôi chiếu cói; trên ngực, quả bầu be và chiếc ống quyển; dưới bụng thì cái yên mộc hay cái tráp sơn. Bấy nhiêu đồ vật, nặng có, nhẹ có, lớn có, bé có, dài có, ngắn có, hết thảy xúm lại đu cả lên cái cổ yếu ớt của các ông thư sinh" [1; 103]. Trong đoạn văn trên, qua phương thức miêu tả của Ngô Tất Tố người ta không thấy sự trang nghiêm của trường thi và vẻ hăm hở của sĩ tử vào ứng thí, chỉ thấy cảnh nhếch nhác, bệ rạc, "lôi thôi". Miêu tả cảnh lều chõng, Ngô Tất Tố đã ngầm châm biếm, mỉa mai các nho sinh đang cố kiết bám theo con đường công danh cũ. Một trong những yếu tố làm nên thành công cho các nhà văn là khả năng quan sát cuộc sống. Nhờ khả năng đó, nhà văn đã đi sâu vào mọi ngóc ngách của cuộc sống, và miêu tả nó một cách chân thực, tỉ mỉ. Một điều dễ nhận thấy ở Ngô Tất Tố là quang cảnh trường thi và cảnh chè chén xôi thịt là hai mảng hiện thực mà nhà văn hay tập trung miêu tả. Có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 78 khi nhà văn miêu tả cảnh thí trường, các qui định về thi cử đến hàng vài trang sách, miêu tả tỉ mỉ giúp cho người đọc cảm nhận về những mảng hiện thực cuộc sống rõ nét hơn. Như vậy, bằng phương thức miêu tả, Ngô Tất Tố đã vẽ lên bức tranh hiện thực xã hội Việt Nam trước Cách mạng hết sức chân thực. Những bức tranh cuộc sống đó càng chứng tỏ ngòi bút miêu tả già dặn của Ngô Tất Tố. 4.2.2. Kết hợp miêu tả, nghị luận, biểu cảm để châm biếm kín đáo, sâu cay Như đã nói ở trên, các phương thức miêu tả, tự sự, nghị luận là những phương thức chủ yếu của thể loại văn xuôi. Các nhà văn bao giờ cũng vận dụng kết hợp các phương thức đó để làm tăng hiệu quả biểu đạt trong tác phẩm. Thực tế cho thấy những đoạn văn có sự kết hợp các phương thức biểu đạt bao giờ cũng tác động mạnh tới cảm xúc của người đọc hơn, chẳng hạn: "Ông Nghị rung đùi, vuốt chòm râu Tây cong vắt trên mép ngậm tăm"[11; 35]. Câu văn có mười từ thì có chín từ dùng để miêu tả cùng một lúc ba cử chỉ: rung (đùi), vuốt( râu), ngậm( tăm) của Nghị Quế. Những cử chỉ đó đã lật tẩy thói học đòi, và bản chất sùng bái Tây của hắn. Chỉ với một từ miêu tả xen lẫn biểu cảm "cong vắt" cũng đủ cho người đọc thấy được thái độ mỉa mai, châm biếm của nhà văn trước lối sống "trưởng giả học làm sang" của ông Nghị. Hơn nữa, nhà văn miêu tả chòm "râu Tây" trên mép "ngậm tăm" của ông Nghị là cách miêu tả đầy hàm ý. Ông Nghị từ lời nói, cử chỉ đến cách "nuôi râu" đều thể hiện bản chất sùng bái Tây mù quáng. Cảnh Nghị Quế ở nghị trường cũng là một trong những đoạn văn tác giả đã sử dụng thành công việc kết hợp các phương thức biểu đạt. "Vào viện ông cũng như hầu hết các ông Nghị khác, không bàn và cũng không cần nghe ai bàn. Nhưng, ông cũng chỉ ngáp vặt, chứ không ngủ gật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 79 bao giờ, vì sợ đôi giày Chí Long để ở dưới chân ghế lỡ bị mất trộm trong khi vẫn phải co chân lên mặt ghế cho hợp với thói quen của ông" [11; 26]. Sự kết hợp giữa ba phương thức: miêu tả, biểu cảm và nghị luận đã làm cho người đọc như được tận mắt nhìn thấy một Nghị Quế vừa có nét riêng, lại vừa tiêu biểu cho loại "Nghị câm", "Nghị gật" của các Hội đồng dân biểu do thực dân Pháp nặn ra để lừa bịp dân chúng. Những yếu tố miêu tả: "Vào viện ông cũng như hầu hết các ông Nghị khác, không bàn và cũng không cần nghe ai bàn. Nhưng, ông... ngáp vặt,... ngủ gật...phải co chân lên mặt ghế... thói quen của ông" kết hợp với yếu tố nghị luận "vì sợ đôi giày Chí Long để ở dưới chân ghế lỡ bị mất trộm" kèm theo các từ ngữ biểu cảm: "chứ không, bao giờ, vẫn phải, cho hợp với" đã lột trần bản chất của Nghị Quế cũng như cái gọi là "Hội đồng dân biểu" do thực dân Pháp nặn ra để lừa bịp dân chúng. Hóa ra, nghị viện toàn những kẻ "ăn bẩn", trộm cắp, dốt nát, nếu không phải "Nghị lang băm" thì cũng là "Nghị thầu khoán" chuyên ăn cướp, ăn bẩn, loại Nghị mà Tú Mỡ từng châm biếm: "...Mấy lời nhắn nhủ cùng ông Có ra Hội đồng thì miệng phải to Cũng đừng khúm núm co ro Nói không ra tiếng họ cho rằng đần Cũng đừng ngẩn mặt tần ngần Ngồi nghe diễn thuyết ngủ dần thiu thiu". (Nhắn nhủ ông Nghị) So với những nhân vật khác, Nghị Quế được Ngô Tất Tố dành cho khá nhiều "ưu ái". Kết hợp các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, nhà văn đã khắc họa khá kĩ nhân vật này. Cách trang trí nhà cửa của hắn: "muốn phản đối lối mĩ thuật bằng những khung cửa ngang phè, những cây cột phục phịch và những con rồng con phượng xanh đỏ vẽ ở ngoài bộ cánh cửa sơn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 80 vàng"; Cách trưng bày phòng khách: tranh quảng cáo sữa bò treo giữa câu đối sơn then, với một rổ trứng gà đặt trong cái tủ chè trạm dây nho, trên một bộ khay chén. Cách bài trí này chứng tỏ hắn chỉ là kẻ trọc phú, ngu dốt. Đối với Nghị Quế tất cả những gì ở thành thị và của Tây đều là sang, là "tân thời", "văn minh" cả. Nghị Quế đã tiếp thu cái "văn minh" ấy một cách rất trọc phú. Hắn dặn vợ phải gọi con là "mợ" như những bà ký, bà phán ở trên tỉnh, hắn thỏa mãn với cái đồng hồ Tây mua ở trên tỉnh đánh đúng 11 tiếng vào lúc "còi tàu 1 giờ chiều". Khi miêu tả vợ chồng Nghị Quế nhà văn có ý thức lột trần bản chất keo kiệt bủn xỉn của chúng. Đây cũng là một đặc điểm chung của tầng lớp địa chủ phong kiến. Miêu tả thái độ của Nghị Quế đối với người nông dân bằng các phương thức biểu đạt và ngôn ngữ châm biếm, Ngô Tất Tố đã làm cho lòng căm thù giai cấp trong mỗi độc giả dâng lên tột độ. Chỉ riêng điều này cũng đủ cho tác phẩm Tắt đèn xứng đáng là một bản tố khổ, bản cáo trạng đanh thép đối với thế lực phong kiến. Không chỉ có Nghị Quế, các nhân vật chức sắc khác cũng là đối tượng để Ngô Tất Tố chĩa ngòi bút châm biếm của mình, chẳng hạn như quan phụ mẫu: "Cái râu mới lạ làm sao? Nó đen hệt hắc ín và cong như cái lưỡi liềm. Nó nhọn như mũi dùi nung và bầu như dao trổ. Nó khum khum quắp lấy hai mép, giống như hai cách dơi. Nó vất vểu vểnh ra hai mang tai, gần như hai cái sừng củ ấu. Nó châu đầu dưới ống mũi, như sắp chui vào trong cái mũi dọc dừa. Nó lại giúp cho cái mồm lèm bèm thêm sự dữ dội. Nếu không biết quan phủ xuất thân từ chức thông phán, người ta sẽ tưởng ngài được làm quan chỉ vì bộ râu" [11; 89]. Bằng những câu văn vừa miêu tả, vừa biểu cảm, vừa nghị luận, nhà văn đã làm hiện lên chân dung một quan phủ thật hài hước chẳng khác gì một tên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 81 hề trong sân khấu tuồng. Bắt đầu với một câu hỏi tu từ có sắc thái mỉa mai "Cái râu mới lạ làm sao?". Sau đó, là hàng loạt những yếu tố miêu tả: "đen, cong, nhọn, khum khum quắp lấy hai mép, vất vểu vểnh ra hai mang tai, châu đầu dưới ống mũi". Những yếu tố này đã gợi tả một cách tỉ mỉ về màu sắc, đường nét, hình thù của bộ râu. Kèm theo các từ ngữ biểu cảm: "như cái lưỡi liềm ,như mũi dùi nung và bầu như dao trổ, như hai cánh dơi, gần như hai cái sừng củ ấu, như sắp chui vào trong cái mũi dọc dừa, Nó lại giúp cho cái mồm lèm bèm thêm sự dữ dội". Kết thúc đoạn văn là một câu nghị luận thể hiện rõ thái độ mỉa mai, khinh bỉ: "Nếu không biết quan phủ xuất thân từ chức thông phán, người ta sẽ tưởng ông Nghị làm quan chỉ vì bộ râu". Một chữ "tưởng" với nhiều ý nghĩa, gợi cho ta liên tưởng đến câu thơ Nguyễn Khuyến về ông Tiến sĩ giấy: Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh chọe Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi . (Vịnh Tiến sĩ giấy) Việc kết hợp linh hoạt các phương thức biểu đạt đã giúp nhà văn dùng "điểm vẽ diện", thông qua bộ râu mà đã vẽ lên bức chân dung biếm họa hoàn chỉnh về quan phụ mẫu. Không chỉ thế, toàn bộ bản chất học đòi, trọc phú của quan phủ cũng hiện lên đầy đủ. Qua đó, người đọc cảm nhận được thái độ châm biếm sâu cay của nhà văn. Sự kết hợp phương thức miêu tả với biểu cảm trong ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố còn thể hiện ở nhiều đoạn văn trong Tắt đèn. Một ví dụ khác: "Lý cựu phó lý, thủ quỹ châu đầu trên lớp bát đĩa đầy nhặng xanh, gật gù nhắc chén lên rồi đặt chén xuống. Người nhà chánh hội, người nhà lý trưởng, mấy anh tuần phu canh ngày, ken vai vây lấy rá cơm"đi hơi" và chậu nước xuýt ruồi chết nổi lều bều, soàn soạt vừa và vừa nuốt" [11; 38]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 82 Bằng những yếu tố miêu tả như "châu đầu trên bát đĩa đầy nhặng xanh" và "ken vai vây lấy rá cơm "đi hơi" và chậu nước xuýt ruồi chết nổi lều bều", bản chất "ăn bẩn" (theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng) của các đối tượng được lột trần. Bọn chúng chẳng khác gì lũ ruồi nhặng, đang tranh nhau bâu lấy người nông dân để hút máu, yếu tố biểu cảm đã bộc lộ kín đáo thái độ châm biếm của nhà văn. Một điều dễ nhận ra là ngôn ngữ Ngô Tất Tố không căng tràn cảm xúc như Nguyên Hồng. Nếu như "lời văn Nguyên Hồng vừa bừa bộ chữ nghĩa vừa tràn đày cảm xúc. Hiện thực và tình ý người viết cứ theo lời văn ngổn ngang gò đống kéo lên" [79; 57] thì lời văn Ngô Tất Tố lại thâm trầm, ý nhị. Trong nhiều trường hợp nhà văn đã khéo chế ngự cảm xúc để nó không "ùa" ra câu chữ. Phương thức miêu tả thường kết hợp với nghị luận và biểu cảm kín đáo trong ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố thể hiện sự thâm trầm của cây bút xuất thân cựu học. Mở rộng diện khảo sát chúng tôi thấy trên thể loại Tiểu phẩm báo chí ngòi bút Ngô Tất Tố cũng đã kết hợp linh hoạt các phương thức biểu đạt để nhằm mục đích châm biếm. Những người viết tiểu phẩm nổi tiếng như Lỗ Tấn quan niệm: Văn tiểu phẩm muốn tồn tại thì phải là những mũi dao nhọn, là khẩu súng có thể cùng với người đọc mở một con đường sống bằng máu. Đó là một cách nói nhấn mạnh tính chiến đấu của tiểu phẩm báo chí. Mũi nhọn châm biếm sắc sảo, thâm thúy, đánh trúng kẻ địch, gợi được sự đồng cảm tán thưởng của người đọc và cũng bật lên một tiếng cười trào phúng sâu cay. Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố cũng không đi ra ngoài quy luật đó. Vấn đề quan trọng hàng đầu là phải nhạy cảm với thời cuộc, biết phát hiện ra những khung cảnh, những sự việc mang tính tương phản, nghịch lý tồn tại trong cuộc sống. Khi viết tiểu phẩm, Ngô Tất Tố rất chú ý đến những từ ngữ biểu cảm gây ấn tượng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 83 Trong tiểu phẩm Làm no trong những ngày nước ngập, có hai mệnh đề: "làm no" và "cái ăn". Có chuyện nước ngập mùa màng mất mát, tình cảnh đói kém nên phải nghĩ đến chuyện làm no. Hai tiếng "làm no" là yếu tố mang tính chất mỉa mai. "Làm no" nói lên tình trạng khốn khó, nhặt nhạnh, chế biến thức ăn làm sao cho no bụng. Nói đến chuyện ăn uống là nói đến một thú vui, nhưng không bao giờ chuyện ăn uống thời điểm đó đem lại niềm vui, trừ một số ít kẻ giàu có. Nam Cao từng nói đến cái tủi nhục về chuyện ăn uống qua một số truyện ngắn như: Một bữa no, Quên điều độ...Hai chữ "làm no" của Ngô Tất Tố vừa mang tính khách quan vừa đạt được mục đích phê phán sâu xa. Tiểu phẩm Kêu thay cho con chó Bắc Ninh, Ngô Tất Tố miêu tả hiện tượng tỉnh Bắc Ninh đánh thêm thuế chó. Theo tin từ báo Đông Pháp thì tỉnh này có nghi định bắt những người dân thuộc phạm vi thành phố, phải đóng công sưu cho cho mỗi con chó một năm bốn hào, bất kể cho Tây hay chó An Nam...Tác giả đã bình luận rằng: loài chó tuy không có sản nghiệp, không có lương tháng, không có nghề gì kiếm ăn nhưng cũng có loài chó sướng và loài chó khổ, chó sướng được chăm sóc nuông chiều của nhà giàu và chó khổ cũng đói ăn như thân phận của chủ nó, những người nghèo khổ. Do đó, nên phân loại đánh thuế theo hạng: "Vậy xin các quan hãy cứ theo lệ thuế thân của Bắc Kỳ mà chia công sưu của chó ra làm ba hạng. Công sưu của chó tư bản, hạng công sưu của chó tiểu tư sản và hạng công sưu của chó vô sản" [2; 394]. Như vậy, xuất phát từ mục đích phơi bày hiện thực. Ngô Tất Tố đã kết hợp các phương thức biểu đạt một cách linh hoạt. Từ đó, nhà văn châm biếm, đả kích kẻ thù của nhân dân lao động là thế lực phong kiến thối nát. Sự kết hợp đó đã tạo nên giọng điệu ngôn ngữ Ngô Tất Tố thâm trầm, mà sâu cay. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84 4.3. Cấu trúc ngôn ngữ theo kiểu "vừa nâng vừa đập" Cấu trúc này ban đầu dùng những lời lẽ "đại ngôn" để nâng đối tượng lên nhưng ngay sau đó "vứt đối phương xuống sàn". Đây là một thủ pháp tiêu biểu mà các nhà văn hiện thực phê phán hay vận dụng để châm biếm bọn quan lại. Miêu tả ông Nghị, Ngô Tất Tố viết: "Nhà ông đời đời phát về bên hào. Bước đường công danh của ông bắt đầu từ chức lý trưởng vượt qua những bậc phó tổng chánh tổng rồi cơm rượu, bò lợn và quan phủ, quan tỉnh hiệp sức nhau lại đưa ông lên ghế nghị viên" [11; 26]. Lúc đầu, nhà văn "nâng" ông Nghị lên, khiến người ta tưởng người viết trân trọng lắm, nhưng ngay sau đó Ngô Tất Tố đã khéo đặt "cơm rượu, bò lợn" ngang hàng với "quan phủ, quan tỉnh...ông Nghị". Thâm ý của nhà văn đã rõ, quan phủ, quan tỉnh, ông Nghị, rồi đến phó tổng, chánh hội... thực ra chỉ là một lũ ăn hại, dốt nát như bò lợn. Ngay cả đoạn văn tả cảnh chị Dậu bán chó cũng thể hiện ý đồ châm biếm quan lại của Ngô Tất Tố: "Nghị Quế lẩm bẩm gật đầu: - Đẹp cả! Bốn con bốn kiểu: một con "huyền đề", một con "lốt hổ", một con "đen tuyền" và một con "tứ túc hoa mai". Con nào cũng cúp tai, ngắn mặt, đốm lưỡi, mắt xếch lá đề, đẹp lắm. Vừa nói hắn vừa tung tăng đi vào trong sập. Vẫn cái kiểu ngồi vắt chân chữ "ngũ", hắn vít lấy cái xe điếu ống, hút một hơi thuốc lào, rồi hắn rung đùi ra bộ đắc ý: - Biết cái gì vất vả cái ấy! Ông phủ Đặng, ông nghị Bùi, ông phán Tiên và ông cửu Xung trên tỉnh, các ông ấy đều biết tôi xem tướng chó sành lắm, ông nào cũng khẩn khoản nhờ tôi mua hộ. Tôi định đến khi nào bốn con chó này khá lớn, thì cho mỗi người một con. Nhưng lại tiếc con chó đen tuyền, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85 muốn để nhà nuôi. Vì giống chó ấy lợi chủ, nuôi nó trong nhà làm ăn thịnh vượng..." [11; 61]. Lời lẽ trong đoạn văn có vẻ như khen tài xem tướng chó của Nghị Quế, nhưng thực chất là mỉa mai sự bất tài, vô dụng của hắn. Câu văn "Biết cái gì vất vả cái đấy" cũng kết cấu theo kiểu nâng cao, đập mạnh. Tác giả nói cái "biết" của Nghị Quế để mỉa mai sự "vất vả" vì cái tài làm quan của hắn chỉ để hầu hạ, ôm chân kẻ bề trên bằng cái "sở trường, sở đoản" của một tên trọc phú. Khi bình đoạn văn trên, Nguyễn Tuân đã viết: "Ngô Tất Tố đã hạ đến cái "kỹ thuật đàn chó", đưa chất chó vào, để cho người đọc nhận rõ thêm về cái chất người bất nhân của vợ chồng thằng nhà giàu Nghị Quế. Cái đáng khuyên chuỗi thưởng khen cho bút pháp Ngô Tất Tố là tác giả vẫn cho kẻ thù giai cấp (Nghị Quế) ít nhiều cái nét gọi là nhân tính, thế nó mới càng chết cha nó. Quái thay là Ngô Tất Tố. Mới xem ai cũng thấy vợ chồng địa chủ cũng như mọi người khác thích chó, yêu gia súc, tưởng người lành hoặc kẻ bất lương cũng không khác nhau gì lắm trong việc nuôi chó con. Thằng chồng le te cho chó ăn cơm, ôn tồn hỏi về chó, rồi xem tướng chó. Hắn sung sướng. Vợ hắn và hắn bù khú, đú đởn với nhau trên câu chuyện chó con. Ấy thế rồi đùng đùng giở giọng chó má ngay với mẹ con chị Dậu đứng đấy. Đoạn này khá lắm bác Tố ạ! Cho thằng nhà giàu rước chó vào, nó mơí càng hiện rõ chất chó đểu của giai cấp nó ra" [63; 220]. Văn Ngô Tất Tố thu hút người ta không phải bằng những từ ngữ đao to búa lớn, mà bằng sự thâm thúy, hàm súc của từng con chữ. Mỗi câu, mỗi chữ trong tác phẩm đều như những mũi dao nhọn chĩa vào kẻ thù, đúng như nhận xét của nhà nghiên cứu Vũ Tú Nam: "Khi cười cợt, lúc châm biếm, mỉa mai, lúc băm bổ vạch mặt chỉ tên, lúc bóng gió từ chuyện vặt hàng ngày bắt sang một vấn đề thời sự chính trị nóng hổi một cú đá hậu...Thêm vào là một văn phong hết sức linh hoạt, vào thẳng đề như những mũi lao" [63; 181]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86 Một đoạn khác trong Tắt đèn: "Từ ngày giữ chức ông Nghị danh tiếng của ông bay khắp tỉnh Trung Sơn. Thế nhưng, suốt năm chí tối, ông không phải thết một ông khách nào, trừ hai ngày giỗ cha và giỗ mẹ" [11; 26]. Nếu như câu văn đầu nhà văn tâng bốc ông Nghị là người danh tiếng lẫy lừng thì câu sau ta đã thấy ông Nghị bị giáng xuống "lổm ngổm bò dưới sàn". Cụm từ "quanh năm chí tối không thết một ông khách nào" cho ta thấy Nghị Quế là một kẻ keo kiệt bủn xỉn. Đây cũng là bản chất của bọn thống trị phong kiến. Đọc văn Ngô Tất Tố độc giả không thể bỏ qua bất cứ một chi tiết nào dù là nhỏ nhất, mỗi chi tiết đều hàm chứa dụng ý nghệ thuật, chẳng hạn miêu tả cử chỉ của Nghị Quế sau bữa cơm: "Dứt mạch diễn thuyết ông Nghị bưng tách nước uống một hớp lớn, súc miệng òng ọc mấy cái rồi nhổ toẹt xuống nền nhà" [11; 36]. Miêu tả "ông Nghị diễn thuyết" tưởng nhà văn cung kính, ngưỡng mộ ông, nhưng ngay sau đó cử chỉ "súc miệng òng ọc mấy cái rồi nhổ toẹt xuống nền nhà" đã lột trần bản chất thô lỗ của ông "Nghị gật" và tỏ rõ thái độ khinh bỉ của nhà văn. Khi nhận xét về nghệ thuật viết văn của Ngô Tất Tố, Tiến sỹ Vũ Duy Thông đã đánh giá: "Cấu trúc đòn đả kích châm biếm mà Ngô Tất Tố thường dùng là một sản phẩm độc đáo của ông trên văn đàn đương thời, tuy phản phất giọng điệu nhà nho, nhưng lại rất hiện đại. Có thể tạm gọi cấu trúc đó là "nâng để đập" [34; 241]. Với cấu trúc câu theo kiểu "vừa nâng vừa đập" Ngô Tất Tố đã thể hiện được bản lĩnh hiên ngang không sợ cường quyền của một nhà văn luôn đứng về phía nhân dân để bảo vệ. "Ông có cái cốt cách của một cây đại bút, mang cái dũng khí "Trợn mắt coi khinh ngàn lực sỹ, cúi đầu làm bạn đứa nhi đồng" [34; 246]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 4.4. Sử dụng câu hỏi tu từ nhƣ một vũ khí châm biếm lợi hại Ngô Tất Tố sử dụng ngòi bút làm phương tiện đả kích, châm biếm xã hội. Nghệ thuật châm biếm của nhà văn rất linh hoạt, phong phú, có khi một câu hỏi tu từ cũng thể hiện thái độ châm biếm. Trong thiên phóng sự Việc làng, tác giả vạch trần bộ mặt tham lam của bọn chức sắc ở chốn hương thôn qua việc miêu tả một cách hài hước cuộc hỗn chiến dữ dội của các "tư văn" trong làng để tranh nhau ngôi chủ tế và cái lăm lợn: "Ồ lạ! Trong đám ẩu đả lại có người mặc áo thụng lam và đội mũ nhiễu hoa bạc...Trên bãi chiến trường còn lại một tuần đinh với một đám độ hơn mười người hầu hết mặc áo thụng. Cái gì thế nhỉ ? Cớ sao người ta lại bận lễ phục để đi đánh nhau? Hay là ở đây cũng là cửa Khổng, sân Trình, cho nên dù là đánh nhau, cũng phải giữ lễ ?" [7; 99]. Những câu hỏi tu từ làm tăng thêm giá trị châm biếm của đoạn văn. Hóa ra các bậc "tư văn" cao quý trong làng lại tranh giành nhau ngôi chủ tế để được hưởng cái lăm lợn, thật mỉa mai chua chát. Đọc Tắt đèn chắc hẳn người đọc không thể nào quên được tiếng kêu than của chị Dậu: "Ối trời đất ơi! Tôi bán cả con lẫn chó và hai gánh khoai mới được hai đồng bảy bạc. Tưởng rằng đủ tiền nộp sưu cho chồng, thì chồng tôi khỏi bị hành hạ đêm nay? Ai ngờ lại còn suất sưu của người chết nữa! Khốn nạn thân tôi! Em tôi chết còn phải đóng sưu, hở trời? Tôi biết đâm đầu vào đâu cho cho được hai đồng bảy bây giờ ?" [11; 67]. Những câu hỏi tu từ trong đoạn văn trên diễn tả tình trạng cùng cực của Chị Dậu. Tiếng kêu uất ức của chị như một lời tố cáo cái thứ thuế thân tàn bạo đã xô đẩy không biết bao nhiêu gia đình vào cảnh "bán vợ đợ con". Những câu hỏi ấy cứ xoáy sâu vào lòng người đọc, gợi lên mối căm thù sâu sắc đối với tội ác của bọn thực dân phong kiến. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88 Tóm lại, Ngô Tất Tố là nhà văn có nhiều cách tân, sáng tạo trong nghệ thuật ngôn từ. Ngôn ngữ trong tác phẩm của ông luôn đồng hành cùng thời đại, cập nhật được những vấn đề thời sự đang diễn ra trong xã hội, không chỉ thế ngòi bút của ông luôn dũng cảm, tiên phong trên các mặt trận chiến đấu. Ngòi bút ấy chưa có cái sức mạnh của một "đòn xoay chế độ" nhưng trong một chừng mực nào đó, nó cũng đã làm cho người ta nhận thấy cái vô đạo của giai cấp thống trị, thấy được cuộc sống tối tăm của người lao động trong xã hội cũ. Trên phương diện ngôn ngữ, Ngô Tất Tố luôn xứng đáng là "người thư ký trung thành của thời đại". Tác phẩm của ông đã phản ánh được nhiều vấn đề thời sự của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám (mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ ở nông thôn, nạn xôi thịt, đình đám ở chốn đình trung và chính sách thuế khóa tàn bạo của thực dân Pháp). Vì vậy, đánh giá về sự nghiệp văn học Ngô Tất Tố nhà nghiên cứu Phong Lê đã viết: "Nghiệp văn của Ngô Tất Tố là nằm trọn nửa đầu thế kỷ nhưng tôi vẫn không chút e dè khi đặt Ngô Tất Tố vào hàng những văn gia của thế kỷ. Bởi ông luôn là con người của thời sự của hiện tại. Bởi ánh sáng trong tác phẩm của ông luôn luôn có sức rọi sâu và xa. Sự nghiệp của ông là dự cảm, là phát ngôn, là hiện thân những vấn đề của đất nước, của nhân dân, của thế kỷ" [70]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89 PHẦN KẾT LUẬN 1. Ngô Tất Tố đã để lại một sự nghiệp văn chương có giá trị, phong phú đặc sắc ở nhiều thể loại. Ông có một phong cách ngôn ngữ riêng, một thế giới nghệ thuật riêng giàu tinh thần sáng tạo. Từ một nhà nho ông đã trở thành nhà văn hiện thực, nhà báo tiến bộ, có tri thức sâu sắc về văn hóa truyền thống phương Đông mà nhiều người xem ông là danh nhân văn hóa của Hà Nội. Phong cách ngôn ngữ của Ngô Tất Tố vừa mang đậm tính truyền thống lại vừa rất hiện đại, luôn có sự "giao thoa" giữa ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ báo chí. Sáng tác của ông có sự kết hợp giữa tính biểu cảm, hình tượng của văn học với tính hiện thực, cập nhật của thể loại văn phóng sự. 2. Ngôn ngữ nghệ thuật của Ngô Tất Tố còn mang dấu vết của ngôn ngữ nho gia, song lại đậm đà sắc thái ngôn ngữ nông thôn Bắc Bộ từ cách sắp xếp các sự kiện theo trật tự thời gian, cách cấu trúc ngôn ngữ nhịp nhàng đăng đối, đến cách vận dụng thành ngữ, phương ngữ, cách phối hợp các phương thức biểu đạt, cách kết cấu câu văn...Với chất liệu ngôn ngữ đó, tác phẩm của ông là bức tranh chân thực về xã hội thực dân phong kiến cũ. Trong tác phẩm của ông, chất lượng những trang viết là sự kết hợp giữa những tri thức sâu sắc về văn hóa dân tộc với những sáng tạo về hình thức thể hiện, trong đó có nghệ thuật ngôn từ đúng như nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn đã nhận xét: "Cách viết của ông đơn sơ chân thực, và trước tiên đó là cách viết tình cảm cũng là cách viết mực thước, cổ điển. Song chính vì vậy nó là thứ văn chương thời nào người ta cũng đọc được" [63; 180]. 3. Không chỉ là một nhà văn, Ngô Tất Tố còn là một nhà báo chuyên "vạch mặt chỉ trán" những tên chóp bu của chế độ phong kiến đương thời. Chính tố chất nhà báo đã tạo nên tính thời sự và tính chiến đấu trong các tác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90 phẩm văn chương của Ngô Tất Tố. Ngôn ngữ trong các tác phẩm của ông luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai yếu tố văn học và báo chí. Hai yếu tố này không hạn chế hay loại trừ nhau mà luôn bù đắp cho nhau. Chất văn học tăng thêm giá trị về tình cảm, giá trị nhân văn và sự tươi tắn trong mạch văn của nhiều bài báo, tạo cho tính thời sự tính chiến đấu của tiểu phẩm báo chí có sức mạnh phong phú hơn. Ở một số tác phẩm văn học của Ngô Tất Tố, chất báo chí góp phần tạo nên tính thời sự của những trang viết. Sự thực của cuộc đời được tôn trọng làm cơ sở tạo dựng nên cốt truyện, nhân vật gây niềm tin nơi người đọc. Phóng sự Việc làng, Tập án cái đình trên cái gốc vẫn là tác phẩm ký nhưng cũng mang rất nhiều chất văn học. Tiểu thuyết Tắt đèn viết về cuộc đời của người nông dân bần cùng nhưng lại đậm chất thời sự. Sự hòa quện giữa chất văn học và chất báo chí là đặc điểm nổi bật trong ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn. 4. Ngô Tất Tố và những tác phẩm của ông vẫn có giá trị nghệ thuật lớn lao với cuộc sống hôm nay, ông là "người cùng thời với chúng ta" (Phong Lê). Gần tám thập kỷ qua, cuộc đời và văn nghiệp Ngô Tất Tố trải qua nhiều chặng đường, được đánh giá và tiếp nhận qua nhiều thời kỳ lịch sử, song Ngô Tất Tố đã được tôn vinh, được đánh giá như một nhà văn lớn của thế kỷ XX, nhà văn xuất sắc của dòng văn học hiện thực phê phán, nhà văn tin cậy của nông dân. Ngô Tất Tố xa chúng ta đã hơn nửa thế kỷ, nhưng ông vẫn hiện lên qua từng trang sách. Tác phẩm của ông đem lại nhiều giá trị nhận thức và sự rung động sâu sắc cho người đọc. Trên phương diện ngôn ngữ nghệ thuật ông đã có nhiều đóng góp đáng trân trọng cho nền văn học nước nhà. Ngô Tất Tố là một hiện tượng độc đáo của văn chương hiện thực thời kỳ 1930 - 1945. Từ một nhà nho xuất thân nơi "cửa Khổng sân Trình" ông đã trở thành một nhà văn hiện thực xuất sắc, một nhà báo tiên phong trong nhiều lĩnh vực. Sự kết hợp sâu sắc vốn sống nơi làng quê với một vốn kiến thức sâu rộng về Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91 văn hóa, về phong tục và đời sống hiện thực đã tạo cho ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố có được sức mạnh của "ngòi bút chiến đấu có phẩm chất cách mạng. Phẩm chất cách mạng ấy biểu hiện ở chỗ ngòi bút của ông biết tôn trọng sự thật và biết đứng về phía quần chúng bị áp bức mà phát biểu" [63; 50]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 Tác giả Luận văn và ông Ngô Hoành Trù, ngƣời con thứ sáu của Ngô Tất Tố ( Ảnh chụp ngày 12 tháng 7 năm 2009) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 Làng Lộc Hà, quê hƣơng Ngô Tất Tố (Ảnh chụp ngày 12 tháng 7 năm 2009) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO * Tác phẩm của Ngô Tất Tố: [1]. Ngô Tất Tố (1990), Lều chõng, NXB Cửu Long, Hồ Chí Minh. [2]. Ngô Tất Tố (1996), Ngô Tất Tố toàn tập, Tập I, NXB Văn học, Hà Nội. [3]. Ngô Tất Tố (1996), Ngô Tất Tố toàn tập, Tập II, NXB Văn học, Hà Nội. [4]. Ngô Tất Tố (1996), Ngô Tất Tố toàn tập, Tập III, NXB Văn học, Hà Nội. [5]. Ngô Tất Tố (1996), Ngô Tất Tố toàn tập, Tập IV, NXB Văn học, Hà Nội. [6]. Ngô Tất Tố (1996), Ngô Tất Tố toàn tập, Tập V, NXB Văn học, Hà Nội. [7]. Ngô Tất Tố (2001), Việc làng Tác phẩm và dư luận, NXB Văn học, Hà Nội. [8]. Ngô Tất Tố (2002), Lều chõng tác phẩm và dư luận, NXB Văn học, Hà Nội. [9]. Ngô Tất Tố (2002), Tắt đèn Tác phẩm và dư luận, NXB Văn học, Hà Nội. [10]. Ngô Tất Tố, Trong rừng nho, [11]. Ngô Tất Tố (2005), Tắt đèn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. [12]. Ngô Tất Tố (2005), Cẩm hương đình (Cao Đắc Điểm sưu tầm), NXB (dịch) Hội Nhà văn, Hà Nội. [13]. Ngô Tất Tố (2005), Tiểu phẩm báo chí (Cao Đắc Điểm sưu tầm), [14]. Ngô Tất Tố (2005), Chuyện người đương thời (Cao Đắc Điểm sưu tầm), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.¦ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 [15]. Ngô Tất Tố (2005), Thơ, Thơ dịch, Bình thơ (Cao Đắc Điểm sưu tầm), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. * Những Tác phẩm văn học, Sách, Báo, Tạp chí khác: [16]. Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. [17]. Lê Hải Anh (2006), Ngôn ngữ nghệ thuật Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945, Luận án Tiến sỹ. [18]. Hoài Anh (1995), "Ngô Tất Tố, từ ông đầu xứ đến nhà văn khai sinh nền văn học hiện thực", Chân dung văn học, NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. [19]. Vũ Tuấn Anh (1999), "Đời sống thể loại trong quá trình văn học đương đại", Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Viện Văn học, Hà Nội. [20]. Vũ Bằng (1973), "Về một truyện dài nổi tiếng nhất của Ngô Tất Tố - truyện Tắt đèn", Tạp chí Văn học, Sài Gòn. [21]. Phan Kế Bính (2002), Việt Nam phong tục, NXB Tổng hợp Đổng Tháp. [22]. Nam Cao (1996), Truyện ngắn chọn lọc, NXB Văn học, Hà Nội. [23]. Nam Cao (2006), Sống mòn, NXB Văn học, Hà Nội. [24]. Hồ Biểu Chánh (1923), Cay đắng mùi đời, NXB Sài Gòn, HCM. [25]. Hồ Biểu Chánh (1923), Chúa tàu Kim Qui , NXB Sài Gòn, HCM. [26]. Hồ Biểu Chánh (1925), Nhơn tình ấm lạnh , NXB Sài Gòn, HCM. [27]. Hồ Biểu Chánh (1929), Cha con nghĩa nặng, NXB Càn Long, HCM . [28]. Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp (1959), Vấn đề dân cày (Tái bản lần 2), NXB Sự thật, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 [29]. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. [30]. Nguyễn Du (2002), Truyện Kiều, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. [31]. Nguyễn Đức Đàn, Phan Cự Đệ (1999), Bước đường phát triển tư tưởng và nghệ thuật của Ngô Tất Tố, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. [32]. Phan Cự Đệ (1993), "Ngô Tất Tố trong sự nghiệp đổi mới hôm nay", Ngô Tất Tố với chúng ta, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. [33]. Phan Cự Đệ (1997), Ngô Tất Tố, Văn học Việt Nam 1930 -1945 NXB Giáo dục, Hà Nội. [34]. Phan Cựu Đệ (chủ biên) (2005), Di sản báo chí Ngô Tất Tố ý nghĩa lý luận và thực tiễn, NXB Văn học, Hà Nội. [35]. Phan Cựu Đệ (2004), Văn học Viẹt Nam thế kỷ XX, NXB Giáo dục, Hà Nội. [36]. Phan Cựu Đệ (1997), "Ngô Tất Tố", Văn Học Việt Nam 1930 - 1945, NXB Giáo dục, Hà Nội. [37]. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ , NXB Văn học, Hà Nội. [38]. Cao Đắc Điểm (2007), Tạp chí ANTG cuối tháng, tháng 3, năm 2007. [39]. Cao Đắc Điểm (2003), "Góp phần hoàn thiện chân dung Ngô Tất Tố", Tạp chí Văn học, số 6/2003, tr8-12. [40]. Cao Đắc Điểm (2003),"Từ Bắc Ninh tới Hà Nội: Một con người trọn đời với nghề báo, nghiệp văn", Tạp chí Thăng Long - Hà Nội ngàn năm, số 17/2003, tr44. [41]. Bùi Xuân Đính (1985), Lệ làng phép nước, NXB Pháp lý, Hà Nội [42]. Bùi Xuân Đính (1998), Hương ước và quản lý làng xã, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. [43]. Hà Minh Đức (1998), "Tiểu phẩm văn học và báo chí của Ngô Tất Tố", Tạp chí văn học, số 11/1998, tr11 - 18 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 [44]. Hà Văn Đức (1997), "Ngô Tất Tố nhà văn tin cậy của nông dân", Các nhà văn được giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. [45]. Trần Văn Giáp (1941), Lược thảo về khoa cử Việt Nam, Nhà in Khai trí Tiến Đức, Hà Nội. [46]. Nhiều tác giả (2004), Tự sự học, NXB Đại học sư phạm Hà Nội, Hà Nội. [47]. Nhiều tác giả (1996), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. [48]. Nhiều tác giả (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, HàNội. [49]. Nhiều tác giả (1996) Từ điển giải thích thành ngữ Tiếng Việt, NXB, HàNội. [50]. Nhiều tác giả (2006) Ngữ văn 10( tập 2), NXB Giáo dục, HàNội. [51]. Nhiều tác giả (1997), Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. [52]. Nhiều tác giả (1988), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. [53]. Lê Thị Đức Hạnh (1983), "Đặc sắc trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố", Tạp chí Văn học, số 6, tr 91. [54]. Lê Thị Đức Hạnh (1993) "Ngô Tất Tố một tài năng lớn", Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 12/ 1993. [55]. Nguyễn Công Hoan (1993), Đời viết văn của tôi, NXB Văn học, Hà Nội. [56]. [Nguyễn Công Hoan (2004), Truyện ngắn chọn lọc, NXB Văn học, Hà Nội. [57]. Lê Thị Hoàn (2009) Thành ngữ trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Luận văn cử nhân khoa học Ngữ văn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 [58]. Đỗ Kim Hồi (1990),"Tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố", Tạp chí Văn học, số 3, Hà Nội. [59]. Nguyên Hồng (1997), Nguyên Hồng về Tác giả, tác phẩm. NXB Giáo dục, Hà Nội. [60]. Nguyên Hồng (1997), Tuyển tập Nguyên Hồng, NXB Văn học, Hà Nội. [61]. Phạm Mạnh Hùng (2001), Thi pháp hoàn cảnh trong tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, NXB Thanh niên, Hà Nội. [62]. Nguyễn Thị Huệ (2010), Thành ngữ trong văn xuôi hiện thực phê phán Việt Nam qua một số sáng tác tiêu biểu của Ngô Tất Tố và Nam Cao, Luận văn cử nhân khoa học Ngữ văn. [63]. Mai Hương, Tôn Phương Lan (2000), Ngô Tất Tố Về Tác giả và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. [64]. Mai Hương (biên soạn) (1993), Ngô Tất Tố với chúng ta, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. [65]. Phú Hương, (1939), Báo Đông phương, số 10, ngày 1- 9-1939. [66]. Trần Đình Hượu, Lê Trí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930, NXB Giáo dục, Hà Nội. [67].Trần Đăng Khoa (1999), Chân dung và đối thoại, NXB Thanh niên, Hà Nội. [68]. Trần Trọng Kim (2001), Nho giáo, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. [69]. Kim Lân (1997), "Những ngày sống với bác Tố", Tuyển tập Kim Lân, NXB Văn học, Hà Nội. [70]. Phong Lê (1994), Ngô Tất Tố một chân dung lớn một sự nghiệp lớn, Tạp chí văn học số 1, tr 1-5. [71]. Phong Lê (1963), "Những đóng góp của Ngô Tất Tố trong Tắt đèn", Tạp chí văn học, số 3. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 [72]. Phong Lê (1997), Nam Cao - Phác thảo sự nghiệp và chân dung, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. [73]. Phong Lê (2005), Về Văn học Việt Nam nghĩ tiếp..., NXB Đại học quốc gia, Hà Nội. [74]. Nhất Linh (1991), Đôi bạn, NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội. [75]. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), "Đọc Cửa biển nghĩ về Nguyên Hồng và tiểu thuyết", Nguyên Hồng về Tác giả, tác phẩm. NXB Giáo dục, Hà Nội. [76]. Nguyễn Đăng Mạnh (2003), Nhà văn Việt Nam hiện đại - chân dung và phong cách, NXB Văn học, Hà Nội. [77]. Nguyễn Đăng Mạnh (1973), "Ngô Tất Tố", Lịch sử Văn học Việt Nam, tập V (1930 - 1945), NXB Giáo dục, Hà Nội. [78]. Tôn Thảo Miên (Tuyển chọn) (2007), Truyện ngắn Thạch Lam Tác phẩm và lời bình, NXB Văn học, Hà Nội. [79] . Lê Hồng My (2006), Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng, NXB Giáo dục, Hà Nội. [80]. Nguyễn Đăng Na (2003), Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại - những vấn đề văn xuôi tự sự, NXB Giáo dục, Đà Nẵng. [ 81]. Thiết Khẩu Nhi (1930), "Tiên sinh Phạm Quỳnh cãi lộn với ông Thượng Chi", Phổ Thông, số ra ngày 26-10-1930. [82]. Vũ Ngọc Phan (1994), Nhà văn hiện đại, NXB Văn học - Hội nghiên cứu giảng dạy Thành phố Hồ Chí Minh. [83]. Vũ Trọng Phụng (2004) Lục xì, NXB Văn học, Hà Nội. [84]. Vũ Trọng Phụng (2006), Cạm bẫy người, NXB Văn học, Hà Nội. [85]. Vũ Trọng Phụng (2006), Kĩ nghệ lấy Tây, NXB Văn học, Hà Nội. [86]. Vũ Trọng Phụng (2007), Số đỏ, NXB Văn học, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 [87]. Nguyễn Phượng (2002), Ngôn từ nghệ thuật Vũ Trọng Phụng, Luận án Tiến sỹ. [88]. Lê Thị Quỳnh (2009), Ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh trong các sáng tác trước năm 1945, Luận văn Thạc sỹ. [89]. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại, NXB Giáo dục, Hà Nội. [90]. Vũ Duy Thanh (2008), Lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của Ngô Tất Tố, Luận văn Thạc sỹ. [91]. Chu Thiên (2002), Bút nghiên, NXB Văn hóa -Thông tin, Hà Nội. [92]. Trần Thị Minh Thu (2003), Ngô Tất Tố nhà văn của phong tục làng quê Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Luận văn Thạc sỹ . [93]. Cù Đình Tú (2003), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt ,NXB Giáo dục, Hà Nội. [94]. Trần Minh Tước (1939) "Một nhà văn của dân quê - Ngô tất Tố trong Tắt đèn", Báo Mới, số 4 ra ngày 15/6/1939. [95]. Trần Thị Việt Trung (2002), Lịch sử phê bình văn học Việt Nam, giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfngon_ngu_nghe_thuat_ngo_tat_to_1947.pdf