MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ nổi tiếng những thập niên 30 - 60 của thế kỷ trước trong văn học hiện đại Việt Nam. Ông có một phong cách thơ được nhiều thế hệ đương thời mến mộ, đặc biệt có nhiều bài tuy sáng tác trong phong trào Thơ Mới nhưng đậm chất trữ tình dân gian cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện. Di sản thơ Nguyễn Bính nói chung, thơ tình Nguyễn Bính nói riêng đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu về mặt nội dung và nghệ thuật. Tuy vậy, cho đến nay phương diện ngôn ngữ trong thơ tình của ông vẫn chưa nhận được sự quan tâm thích đáng. Ngôn ngữ có vai trò “là phương tiện thứ nhất của văn học”, nên chắc chắn việc khảo sát kỹ lưỡng hệ thống ngôn ngữ trong thơ tình Nguyễn Bính sẽ góp phần xác định những điểm độc đáo, đặc sắc về hình thức biểu hiện, nhất là về cấu trúc, âm điệu, các lớp từ giàu giá trị biểu nghĩa và các biện pháp tu từ nổi bật. Đề tài luận văn “Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính” chúng tôi đi theo hướng tiếp cận thơ Nguyễn Bính dựa trên quan hệ hữu cơ giữa nội dung và hình thức cũng như quan hệ giữa cá tính của nhà thơ và thi phẩm của ông. Mặt khác, kết quả khảo sát “Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính” có thể góp phần lý giải tại sao mảng thơ này lại có sức cuốn hút nhiều thế hệ người Việt đến vậy.
1.2. Là một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ Mới (1932 - 1945) nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung, nên khá nhiều bài thơ của Nguyễn Bính được đưa vào giảng dạy ở trường phổ thông. Trong chương trình đào tạo cử nhân Ngữ văn ở các trường đại học và cao đẳng, Nguyễn Bính luôn có vị trí một tác giả lớn. Tuy vậy, phương diện ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính nói chung, ngôn ngữ trong những bài thơ của Nguyễn Bính được giảng dạy ở nhà trường nói riêng chưa được đề cập, phân tích. Đề tài luận văn “Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính” chúng tôi lựa chọn và thực hiện với mong muốn tiếp cận mảng thơ tình của Nguyễn Bính từ góc độ ngôn ngữ, qua đó góp phần nhỏ vào việc dạy học tác giả và tác phẩm Nguyễn Bính trong nhà trường hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
Nhìn chung qua các thời kỳ khác nhau, thơ Nguyễn Bính có những thăng trầm, nhưng việc cảm thụ, đánh giá thơ Nguyễn Bính ít có những khác biệt hoặc những mâu thuẫn gay gắt. Về căn bản, những nhận xét đánh giá của giới phê bình về Nguyễn
26 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8224 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bộ giáo dục và đào tạo
Trường đại học vinh
lê thị hiền
ngôn ngữ thơ tình
nguyễn bính
Chuyên ngành: lý luận ngôn ngữ
Mã số: 60.22.01
tóm tắt Luận văn thạc sĩ ngữ văn
Vinh - 2008
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ nổi tiếng những thập niên 30 - 60 của thế kỷ trước trong văn học hiện đại Việt Nam. Ông có một phong cách thơ được nhiều thế hệ đương thời mến mộ, đặc biệt có nhiều bài tuy sáng tác trong phong trào Thơ Mới nhưng đậm chất trữ tình dân gian cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện. Di sản thơ Nguyễn Bính nói chung, thơ tình Nguyễn Bính nói riêng đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu về mặt nội dung và nghệ thuật. Tuy vậy, cho đến nay phương diện ngôn ngữ trong thơ tình của ông vẫn chưa nhận được sự quan tâm thích đáng. Ngôn ngữ có vai trò “là phương tiện thứ nhất của văn học”, nên chắc chắn việc khảo sát kỹ lưỡng hệ thống ngôn ngữ trong thơ tình Nguyễn Bính sẽ góp phần xác định những điểm độc đáo, đặc sắc về hình thức biểu hiện, nhất là về cấu trúc, âm điệu, các lớp từ giàu giá trị biểu nghĩa và các biện pháp tu từ nổi bật. Đề tài luận văn “Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính” chúng tôi đi theo hướng tiếp cận thơ Nguyễn Bính dựa trên quan hệ hữu cơ giữa nội dung và hình thức cũng như quan hệ giữa cá tính của nhà thơ và thi phẩm của ông. Mặt khác, kết quả khảo sát “Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính” có thể góp phần lý giải tại sao mảng thơ này lại có sức cuốn hút nhiều thế hệ người Việt đến vậy.
1.2. Là một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ Mới (1932 - 1945) nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung, nên khá nhiều bài thơ của Nguyễn Bính được đưa vào giảng dạy ở trường phổ thông. Trong chương trình đào tạo cử nhân Ngữ văn ở các trường đại học và cao đẳng, Nguyễn Bính luôn có vị trí một tác giả lớn. Tuy vậy, phương diện ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính nói chung, ngôn ngữ trong những bài thơ của Nguyễn Bính được giảng dạy ở nhà trường nói riêng chưa được đề cập, phân tích. Đề tài luận văn “Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính” chúng tôi lựa chọn và thực hiện với mong muốn tiếp cận mảng thơ tình của Nguyễn Bính từ góc độ ngôn ngữ, qua đó góp phần nhỏ vào việc dạy học tác giả và tác phẩm Nguyễn Bính trong nhà trường hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
Nhìn chung qua các thời kỳ khác nhau, thơ Nguyễn Bính có những thăng trầm, nhưng việc cảm thụ, đánh giá thơ Nguyễn Bính ít có những khác biệt hoặc những mâu thuẫn gay gắt. Về căn bản, những nhận xét đánh giá của giới phê bình về Nguyễn Bính khá thống nhất. Dù ở giai đoạn nào, Nguyễn Bính vẫn được xem là nhà thơ của “Chân quê”, “Hồn quê”, “Tình quê”.
Trong thời gian dài, thơ Nguyễn Bính đã được nghiên cứu xem xét ở nhiều góc độ từ nội dung đến nghệ thuật, từ tư tưởng đến phong cách, từ giọng điệu đến kết cấu. Chưa có một tác giả nào trực tiếp nghiên cứu ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính một cách tập trung có hệ thống.
* Lịch sử nghiên cứu thơ tình Nguyễn Bính
Có thể thấy các nhận định đánh giá của các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính đều gặp nhau ở điểm: ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính vừa truyền thống vừa hiện đại nhưng nghiêng về truyền thống, gần gũi với ca dao hơn là sự cách tân, đây cũng là chỗ đặc sắc hơn người của Nguyễn Bính
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của đề tài
Qua khảo sát bộ phận thơ tình Nguyễn Bính từ góc độ ngôn ngữ, đề tài có mục đích góp phần nhỏ vào quá trình nghiên cứu thơ Nguyễn Bính, một phong cách thơ có sự nối kết hiệu quả giữa truyền thống và cách tân trong nền thơ Việt Nam giữa thế kỉ XX.
3.2. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu
a. Nhiệm vụ
Luận văn đi vào giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Khảo sát và miêu tả về cấu trúc và âm điệu trong thơ tình Nguyễn Bính.
- Khảo sát và miêu tả các lớp từ và các biện pháp tu từ nổi bật trong thơ tình Nguyễn Bính.
b. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát 106 bài thơ tình (được sáng tác trước cách mạng tháng tám năm 1945) có trong tập thơ: Thơ tình Nguyễn Bính (Nxb Đồng Nai, 1996) và Tuyển tập Nguyễn Bính (Nxb văn học, Hà Nội 1986).
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong khi thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp thống kê - phân loại: Được dùng khi khảo sát nguồn tư liệu theo từng vấn đề cụ thể.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Nhằm làm sáng tỏ từng luận điểm, từ đó khái quát thành các luận điểm cơ bản.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: Được dùng khi so sánh đối chiếu với nhà thơ cùng thời về sử dụng ngôn ngữ để làm rõ những đặc điểm riêng về phong cách ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính.
5. Cái mới của đề tài
Chúng tôi hy vọng đây là một trong những luận văn đầu tiên cố gắng đi vào tìm hiểu ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính một cách toàn diện về phương tiện nội dung và hình thức góp phần vào việc giảng dạy thơ Nguyễn Bính trong nhà trường một cách tốt hơn.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số giới thuyết liên quan đến đề tài.
Chương 2: Cấu trúc và âm điệu thơ tình Nguyễn Bính.
Chương 3: Ngữ nghĩa ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính.
Chương 1
Một số giới thUYếT liên quan đến đề tài
1.1. Thơ và ngôn ngữ thơ
1.1.1. Sự khác biệt giữa thơ và văn xuôi
Thơ và văn xuôi là hai kiểu tổ chức ngôn từ nghệ thuật mà sự khác nhau thuần tuý bề ngoài trước hết là ở cơ cấu nhịp điệu.
Trong khi văn xuôi thể hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả bằng con đường tái hiện một cách khách quan các hiện tượng đời sống thì thơ lại phản ánh đời sống bằng cách bộc lộ trực tiếp ý thức của con người, nghĩa là con người tự cảm thấy mình qua những ấn tượng, ý nghĩa cảm xúc chủ quan của mình đối với thế giới và nhân sinh.
Tác phẩm văn xuôi thường có cốt truyện và hành động. Gắn liền với cốt truyện là một hệ thống nhân vật được khắc hoạ đầy đủ. Thơ thường không có cốt truyện, mỗi bài thơ thể hiện một tâm trạng nên dung lượng của nó thường ngắn (vì một trạng thái tâm trạng không thể kéo dài).
Trong thơ, cái tôi trữ tình giữ một vị trí đặc biệt quan trọng, thường xuất hiện dưới dạng nhân vật trữ tình. Còn ở văn xuôi thì nguyên tắc phản ánh hiện thực trong tính khách quan đã đặt trần thuật vào vị trí là nhân tố tổ chức ra thế giới nghệ thuật của tác phẩm, nó đòi hỏi nhà văn phải sáng tạo ra hình tượng người trần thuật.
Thơ là tiếng nói bộc bạch làm việc trên trục dọc (trục lựa chọn, thay thế, tương đồng, quy chiếu, trục của các ẩn dụ) còn văn xuôi là tiếng nói đối thoại làm việc trên trục ngang (trục kết hợp, trục tuyến tính).
Không gian trên trang giấy in thơ có nhiều khoảng trắng hơn trang in văn xuôi.
Trong văn xuôi, ngôn từ mang tính miêu tả (tạo hình), nó ít tập trung vào chính nó, trong khi đó thơ thì không thể tách rời ngôn từ.
Có những hình thức trung gian giữa thơ và văn xuôi: thơ văn xuôi, văn xuôi nhịp điệu. Đôi khi thơ và văn xuôi xuyên thấm lẫn nhau (ví dụ văn xuôi trữ tình) hoặc chứa đựng trong nhau những mảng văn bản “dị loại” (tác phẩm thơ có những mảng văn xuôi hoặc tác phẩm văn xuôi có những đoạn thơ xen kẽ của các nhân vật hoặc của tác giả).
1.1.2. Các đặc trưng của ngôn ngữ thơ
Để thấy rõ đặc trưng của ngôn ngữ thơ, chúng tôi phân biệt thơ với văn xuôi trên ba cấp độ: ngữ âm, từ vững, ngữ pháp.
a. Về ngữ âm
Đặc điểm nổi bật về ngữ âm để phân biệt thơ với văn xuôi là đặc trưng tính nhạc.
b. Về ngữ nghĩa
Ngữ nghĩa của ngôn ngữ thơ nhiều khi không dừng lại ở nghĩa đen, nghĩa biểu vật mà từ nghĩa ban đầu đó còn có những ý nghĩa mới tinh tế hơn, đa dạng hơn, mới lạ hơn. Đó là nghĩa bóng hay ý nghĩa biểu trưng của ngôn ngữ thơ ca.
c. Về ngữ pháp
Cấu trúc câu trong ngôn ngữ thơ thường không tuân theo quy tắc bắt buộc và chặt chẽ như câu trong văn xuôi và trong ngữ pháp thông dụng. Nhà thơ có thể sử dụng các kiểu câu khác nhau như câu đảo ngữ, câu vắt dòng, câu trùng điệp mà không làm ảnh hưởng đến việc tiếp nhận văn bản của người đọc. Ngược lại những kết hợp tổ chức ngôn ngữ “bất quy tắc” lại mở ra những giá trị mới, ý nghĩa mới cho ngôn ngữ thơ ca.
1.1.3. Các lớp từ giàu mầu sắc biểu cảm trong thơ ca Việt Nam
1.1.3.1. Lớp từ láy
Từ láy là “những từ được cấu tạo bằng cách nhân đôi tiếng gốc theo những quy tắc nhất định, sao cho giá trị giữa các tiếng trong từ vừa điệp vừa đối hài hoà với nhau về âm và về nghĩa có giá trị tương đương hoá”.
1.1.3.2. Lớp từ tình thái
Tình thái là “những từ biểu thị sắc thái tình cảm, cảm xúc của người nói”.
1.1.4. Các biện pháp tu từ thường dùng trong thơ ca
1.1.4.1. ẩn dụ
ẩn dụ là “phương thức tu từ trên cơ sở đồng nhất hai hiện tượng tương tự, thể hiện cái này qua cái kia mà bản thân cái được nói tới thì giấu đi một cách kín đáo”.
1.1.4.2. So sánh (tỉ dụ)
So sánh là “phương thức biểu đạt bằng ngôn từ một cách hình tượng dựa trên cơ sở đối chiếu hai hiện tượng có dấu hiệu tương đồng nhằm làm nổi bật đặc điểm thuộc tính của hiện tượng này qua đặc điểm thuộc tính của hiện tượng kia”.
1.1.4.3. Đối (đối ngẫu)
Đối là “một phương thức tổ chức lời văn bằng cách điệp ngữ pháp nhằm tạo ra hai vế, mỗi vế là một câu tương đối hoàn chỉnh được viết thành hai dòng cân xứng, sóng đôi với nhau”.
1.1.4.4. Điệp ngữ
Điệp ngữ là “một hình thức tu từ có đặc điểm: một từ, cụm từ, câu hoặc đoạn thơ văn được lặp lại với dụng ý nhấn mạnh hoặc gây ấn tượng cho người đọc, người nghe”.
1.2. Nguyễn Bính - cuộc đời và thơ
1.2.1. Cuộc đời và tác phẩm
Nguyễn Bính tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính. Nhà thơ sinh vào cuối xuân đầu hạ năm Mậu Ngọ (1918) trong một gia đình nhà nho nghèo tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Thuở bé Nguyễn Bính không được đi học ở trường mà mà chỉ học ở nhà với cha là ông đồ Nguyễn Đạo Bình, sau được cậu ruột là ông Bùi Trình Khiêm nuôi dạy. Năm 1932 Nguyễn Bính rời quê ra Hà Nội và từ đây bắt đầu nổi tiếng trong sự nghiệp sáng tác văn học. Ông được giải khuyến khích của tự lực văn đoàn với tập thơ Tâm hồn tôi (1940). Năm 1943 Nguyễn Bính được giải nhất văn học Nam Xuyên ở Sài Gòn với truyện thơ Cây đàn tỳ bà.
Năm 1947 Nguyễn Bính tham gia kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ. Nhà thơ hăng hái tham gia mọi công tác và được giữ những trách nhiệm trọng yếu. Thời gian này Nguyễn Bính sáng tác khá kịp thời và đều đặn, cổ động tinh thần yêu nước quyết chiến quyết thắng giết giặc lập công.
Tháng 11-1954 Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, ông công tác ở hội nhà văn Việt Nam. Năm 1956, ông làm chủ bút tuần báo “Trăm hoa”
Năm 1958 Nguyễn Bính về cư trú tại Nam Định, ông công tác tại ty văn hoá thông tin Nam Định.
Mùa thu năm 1965, ông theo cơ quan văn hoá Nam Định sơ tán vào huyện Lý Nhân.
Nguyễn Bính mất đột ngột vào sáng 30 tết năm ất Tỵ (20-1-1966) lúc đến thăm một người bạn ỏ xã Hoà Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Định, khi ông chưa kịp sang tuổi 49.
Trong hơn 30 năm sáng tác với nhiều thế loại khác nhau (Thơ, truyện thơ, kịch thơ, kịch bản chèo, lý luận sáng tác). Hoạt động văn nghệ của ông phong phú đa dạng song thành tựu xuất sắc nhất được độc giả ưa chuộng là thơ bởi thơ là mảng sáng tác kết tụ tài năng và tâm huyết của cuộc đời ông. Riêng về thơ có thể nói rằng ông là cây bút sung sức nhất của phong trào Thơ Mới. Chỉ trong một thời gian ngắn (1940-1945) Nguyễn Bính đã cho ra đời những tập thơ có giá trị: Tâm hồn tôi (1940); Lỡ bước sang ngang (1940); Hương cố nhân (1941); Một nghìn cửa sổ (1941); người con gái ở lầu hoa (1942); Mười hai bến nước (1942); Mây tần (1942); Bóng giai nhân (Kịch thơ - 1942); Truyện tỳ bà (truyện thơ - 1944).
Sau cách mạng Nguyễn Bính lại cho ra mắt các tập thơ: Ông lão mài gươm (1947); Đồng tháp mười (1955); Trả ta về (1955); Gửi người vợ miền Nam (1955); Trông bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958); Tình nghĩa đôi ta (1960); Đêm sao sáng (1962).
Với lối viết giầu chất trữ tình dân gian Nguyễn Bính đã tạo được một gương mặt riêng trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Năm 2000 Nguyễn Bính đã được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
1.2.2. Thơ tình trong thơ Nguyễn Bính
Trong phong trào Thơ Mới (1932 - 1945), Nguyễn Bính là nhà thơ tình có phong cách riêng. Ông tự xem mình là “Thi sĩ của thương yêu”. Đương thời, dư luận báo chí nhận xét đọc “Hương cố nhân ta thấy thi sĩ Nguyễn Bính là người đa cảm, mảnh hồn trong trẻo của tuổi thanh niên đã sớm theo luồng gió ái ân mà nên câu tuyệt diệu”.
Con tằm đã luỵ ba sinh
Mà em đã luỵ của anh muôn đời.
(Chức nữ Ngưu lang)
Trong thơ tình Nguyễn Bính có một tâm hồn luôn khao khát yêu đương, nhớ nhung, chia sẻ.
Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Bính không bình yên ổn định mà luôn ở trạng thái bất an. Và chính cái bất an ấy làm cho câu thơ sao xuyến không ngừng rất thích hợp với tâm trạng người đang yêu.
Lạ quá ! làm sao tôi cứ buồn?
Làm sao tôi cứ khổ luôn luôn?
Làm sao tôi cứ tương tư mãi
Người đã cùng tôi phụ rất tròn?
(Vâng)
Thơ tình Nguyễn Bính là tiếng lòng buồn bã, lỡ làng của một trái tim đang thổn thức yêu đương và đến với người đọc như một cô gái quê duyên dáng kín đáo.
Thơ tình Nguyễn Bính không đắm đuối ca ngợi tình yêu hưởng lạc như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng. Nguyễn Bính có ý thức không để cho tình yêu làm tha hoá biến chất, không để những ham muốn trong tình yêu lứa đôi cuốn con người vào vòng truỵ lạc.
Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ
Đành phụ nhau thôi kẻo đến ngày
Thơ tình Nguyễn Bính luôn khao khát một mái ấm gia đình đơn sơ giản dị.
Nhà gianh thì sẵn đấy
Vợ xấu có làm sao
Quốc kêu ngoài bãi sậy
Hoa súng nở đầy ao
(Thanh đạm)
Nguyễn Bính luôn nghĩ tới mối tình thuỷ chung, đến những người con gái biết chung tình với mối tình không dứt, với cuộc sống đoàn viên.
Như truyện Tương Như và Trác Thị
Đưa nhau về ở đất Lâm Cùng
Vườn xuân trắng xoá hoa cam rụng
Tôi với em Nhi kết vợ chồng
(Hoa với rượu)
Thơ tình Nguyễn Bính toát lên tình yêu thương mãnh liệt “Nguyễn Bính đã đi sâu vào thế giới tâm tình của những mảnh đời ngang trái, dở dang, phân cách, bẽ bàng. Với ngòi bút của thi nhân, Nguyễn Bính tả chân thực được nỗi u buồn, trầm lặng, giải toả được những tiếng kêu bi thương của những tâm hồn mộc mạc”. Chính điều đó đã làm cho hồn thơ Nguyễn Bính đi vào tâm hồn người đọc một cách nhẹ nhàng.
Chương 2
Cấu trúc và âm điệu thơ tình nguyễn bính
Hình thức nghệ thuật trong tác phẩm văn học bao gồm các phương tiện biểu hiện nghệ thuật kết hợp hài hoà với hình tượng nghệ thuật nhằm hướng đến phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm, đồng thời nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của nhà văn.
Là một nhà Thơ Mới, Nguyễn Bính vừa kế thừa nhiều hình thức của thơ ca dân tộc nhưng lại là một nhà cách tân, sáng tạo trên cấu trúc và mô hình truyền thống có sẵn. Đi vào tìm hiểu cấu trúc và âm điệu trong thơ tình Nguyễn Bính cũng chính là tìm hiểu những cách tân về hình thức nghệ thuật trong thơ tình Nguyễn Bính.
2.1. Các thể thơ tiêu biểu trong thơ tình Nguyễn Bính
2.1.1. Kết quả thống kê phân loại về thể thơ
Bảng 1: Phân loại các thể thơ trong thơ tình Nguyễn Bính
Thể thơ
Số lượng (bài)
Tỉ lệ (%)
Thơ lục bát
50
47,16
Thơ bảy chữ
48
45,28
Thơ năm chữ
5
4,71
Thơ đường luật
3
2,83
Tổng
106/106
Qua khảo sát 106 bài thơ tình của Nguyễn Bính trước cách mạng, một điều chúng tôi dễ nhận thấy là thơ ông không có sự xuất hiện thơ tự do, thơ văn xuôi như các nhà Thơ Mới khác. Nhà thơ sử dụng chủ yếu và tiêu biểu nhất vẫn là thể thơ lục bát với số lượng nhiều nhất 50 bài (47,16%), tiếp đến là thể thơ 7 chữ 48 bài (45,28%). Ngoài ra để góp phần làm tăng sự phong phú cho thể loại thơ tình, Nguyễn Bính còn sáng tác một số bài thơ 5 chữ và thơ Đường luật trong đó thơ Đường luật chiếm số lượng ít nhất 3 bài (2,83%) trong tổng số 106 bài thơ tình Nguyễn Bính
2.1.1.1. Thể thơ lục bát
Thơ tình lục bát của Nguyễn Bính là những bài thơ tình hoàn chỉnh, mỗi bài là một câu chuyện về một cuộc đời, một thân phận, có cảnh ngộ và tâm trạng riêng như trong các bài Lỡ bước sang ngang, Lòng mẹ, Người hàng xóm...Bởi vậy mà dung lượng bài thơ tình lục bát của Nguyễn Bính phần lớn là những bài thơ dài.
Qua khảo sát 50 bài thơ tình lục bát của Nguyễn Bính chúng tôi thấy có 22 bài thơ lục bát dưới 10 dòng trong số đó có một bài ngắn nhất là 2 dòng (Hoa cỏ may) và 28 bài thơ lục bát dài trên 10 dòng trở lên.
Trong thơ Nguyễn Bính, âm hưởng của thơ ca dân gian còn vang vọng ở thể thơ lục bát (thể loại điển hình nhất của ca dao dân ca). Nguyễn Bính đã biết cách làm giàu cho sáng tác của mình trên mảnh đất văn hoá dân gian, từ đó khai thác và khơi nguồn cảm hứng để tạo nên những thi phẩm mới
Nguyễn Bính hay vận dụng cách ngắt nhịp đều đặn, hài hoà như ca dao truyền thống. Đó là nhịp 2/2/2;3/3 (câu lục) và 2/2/2/2; 4/4 (câu bát) thường thấy của ca dao.
Ngôn ngữ thơ lục bát của Nguyễn Bính gần gũi với ngôn ngữ thơ ca dân gian còn bởi nó giàu hình ảnh, màu sắc, nhạc điệu. Nhà thơ đã chọn cho mình cách biểu hiện thế giới tình cảm trừu tượng thông qua những sự vật hiện tượng cụ thể xung quanh, những cảnh quan bình dị nơi thôn dã gần gũi thân quen, đó là thế giới của giàn đỗ ván, ao rau cần, dậu mồng tơi, hoa chanh hoa bưởi, gió cả, giời cao
Một điều đáng chú ý là những từ có vùng mờ nghĩa hết sức đặc sắc của thơ ca dân gian đã hoà hợp vào thơ Nguyễn Bính một cách rất tự nhiên. Những đại từ phiếm chỉ ‘‘người’’, ‘‘ai’’, ‘‘ta’’, ‘‘mình’’ hoặc những cụm từ phím chỉ ‘‘người ấy’’, ‘‘bên ấy’’, ‘‘bên này’’rất tế nhị,
Nguyễn Bính còn làm tăng sắc thái biểu hiện của ngôn ngữ thơ bằng việc sử dụng thành thạo các biện pháp tu từ mà ca dao hay dùng. Những hình ảnh ẩn dụ, so sánh thường xuyên đi về trong thơ Nguyễn Bính. Nói tình yêu đôi lứa, tác giả thường dùng hình ảnh hoa -bướm, trầu -cau,bến-đò, nói về thân phận người con gái đi lấy chồng mà không có hạnh phúc, tác giả gọi là lỡ bước sang ngang, mười hai bến nước, nói tới thân phận tha hương nhà thơ viết thân nhạn, số long đong.
Nguyễn Bính sử dụng rất thuần thục lối đan chữ thường thấy trong thơ ca dân gian kiểu: chín nhớ mười mong, bảy nổi ba chìm, ....
Về mặt cấu tứ bài thơ, khảo sát thơ tình Nguyễn Bính nói chung và thơ tình lục bát Nguyễn Bính nói riêng trước cách mạng, ta có thể nhận thấy trong thơ ông cũng có các cách cấu tứ bài thơ theo thể phú, thể tỷ và thể hứng. Đây là ba thể chính trong kết cấu bài ca dao.
Lục bát trong thơ tình Nguyễn Bính vừa có những đặc điểm gần gũi về nghệ thuật thể hiện như trong thơ ca dân gian mà chúng tôi đã trình bày ở trên nhưng lục bát trong thơ tình Nguyễn Bính có những sáng tạo mới mẻ về hình ảnh, nhịp điệu trong cách thức và ý nghĩa sử dụng so với ca dao.
Thơ lục bát của Nguyễn Bính là sự trở về với những hình ảnh gần gũi quen thuộc trog ca dao, với những bờ tre, gốc lúa, mảnh vườn, con đò, bến nước, nương dâu. Nhưng điều đáng chú ý là Nguyễn Bính sử dụng hình ảnh chất liệu dân dã của ca dao nhưng ông đã thổi vào đó cái hồn của Thơ Mới.
Hình ảnh dòng sông, con thuyền đi vào thơ Nguyễn Bính cũng có sự khác biệt so với ca dao. Cánh buồm hư ảo xuất hiện trong thơ ông như một sự mở rộng đến cao độ. Một cánh buồm mở rộng cả không gian, thời gian và chất chứa tâm trạng của sự chia xa.
Anh đi đấy, anh về đâu ?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm..
(Cánh buồm nâu)
Cũng là hình ảnh ngọn mồng tơi quen thuộc nhưng nếu trong ca dao, ngọn mồng tơi cũng như giải yếm, cành hồng là những nhịp cầu thể hiện khát vọng gắn kết đôi lứa lại với nhau.
ở gần sao chẳng sang chơi
Để anh cắt ngọn mùng tơi bắc cầu
Cô kia cắt cỏ bên sông
Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang
(Ca dao)
Trong thơ Nguyễn Bính những hình ảnh trên lại trở thành biểu tượng cho sự ngăn cách về tâm hồn, là khoảng cách tâm lí mà con người không dễ gì vượt qua được. Chàng trai và cô gái trong thơ lục bát Nguyễn Bính chỉ cách nhau bởi giậu mồng tơi mà đành thu hẹp mình trong nỗi buồn, nỗi cô đơn ngập tràn.
Giá đừng có giậu mồng tơi
Thể nào tôi cũng sang chơi thăm nàng
(Người hàng xóm)
Cuối cùng chàng trai chỉ còn biết gửi hồn vào con bướm trắng, con bướm của mộng tưởng vẫn đi về giữa đôi bên để làm vơi bớt nỗi cô đơn của chàng trai.
Tìm hiểu thơ tình Nguyễn Bính trước năm 1945, ta thấy thơ lục bát của ông có những dấu ấn riêng. Lục bát của Nguyễn Bính nhiều khi phá vỡ tính cân xứng hài hoà của lục bát cổ, đặc biệt là về nhịp điệu. Lục bát trong thơ tình Nguyễn Bính vừa ngắt nhịp theo kiểu truyền thống vừa có những kiểu ngắt nhịp phá cách linh hoạt diễn tả tình cảm tâm hồn của nhân vật trữ tình và cái tôi trữ tình.
Lục bát của Nguyễn Bính mang bản sắc,diện mạo trong thơ tình Nguyễn Bính nói riêng và thơ Nguyễn Bính nói chung trong phong trào thơ mới (1932-1945).Lục bát trong thơ tình Nguyễn Bính thể hiên tâm trạng cái tôi Thơ Mới, mang đủ mọi cung bậc, cảm xúc buồn vui, ngậm ngùi, cay đắng vừa như kể chuyện lại vừa như trữ tình.
2.1.1.2. Thể thơ bảy chữ
Sau sự thành công của thể lục bát, thể thơ bảy chữ cũng được Nguyễn Bính thể hiện khá thành công trong đề tài viết về mùa xuân. Thơ bảy chữ của Nguyễn Bính có số lượng 48 bài (45%) trong tổng số 106 bài thơ tình Nguyễn Bính.
Cùng với Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Thế Lữ đều viết về mùa xuân và đã có nhiều bài thơ hay được khơi nguồn từ cảm hứng xuân. Song trong mạch cảm hứng về thơ xuân ấy, thơ xuân Nguyễn Bính vẫn có một vẻ riêng.
2.1.1.3. Thể thơ 5 chữ
Thơ 5 chữ là thể thơ truyền thống xuất hiện trong sáng tác dân gian qua thể loại vè và đồng dao.
Số lượng bài thơ 5 chữ tuy ít hơn rất nhiều so với lục bát và thơ 7 chữ của Nguyễn Bính. Thơ 5 chữ của Nguyễn Bính có 5/106 bài (4,7%). Những bài thơ này tuy câu chữ có vẻ hạn hẹp nhưng không vì thế mà nội dung tình cảm lại khô khan, nghèo nàn. Ngược lại trong khuôn khổ hình thức ấy Nguyễn Bính đã biết lựa chọn và tổ chức ngôn ngữ để tạo nên cho thơ 5 chữ của mình một thế giới cảnh vật đầy ắp màu sắc hình khối đặc biệt là thế giới tình cảm phong phú, tinh tế của lòng người.
Thơ tình 5 chữ của Nguyễn Bính là những bài thơ tình tác giả viết về tình yêu lứa đôi, tình cảm vợ chồng, mỗi khổ gồm 4 câu, bài dài nhất là 7 khổ. Cách ngắt nhịp và gieo vần cũng khác với thể hát giặm. Nếu thể hát giặm chỉ ngắt 1 nhịp 3/2 cố định như khổ thơ trên thì thơ 5 chữ của Nguyễn Bính nhịp thơ được ngắt linh hoạt theo dòng tâm trạng và cảm xúc và tâm trạng nhân vật trữ tình, nhịp xen kẽ 2/3 và 3/2 trong một khổ thơ, tác giả gieo vần chân gián cách ở cuối câu thơ.
Thể thơ 5 chữ trong thơ tình Nguyễn Bính dù rất ít nhưng đã góp phần làm giàu thêm trong sự đa dạng, đa giọng của thể loại thơ tình Nguyễn Bính.
2.1.2. Tổ chức của các bài thơ tình Nguyễn Bính
2.1.2.1. Khái niệm tiêu đề trong văn bản thơ
Tiêu đề là tên gọi cuả một văn bản thơ, thường ở đầu văn bản, được trình bày bằng những con chữ riêng cho phép phân biệt nó với toàn bộ phần còn lại của văn bản.
2.1.2.2. Tiêu đề các bài thơ tình của Nguyễn Bính
Bảng 2: Độ dài tiêu đề các bài thơ tình của Nguyễn Bính
độ dài tiêu đề
Số bài
tỉ lệ %
ví dụ
1 âm tiết
5
4,7%
Nhớ, ghen…
2 âm tiết
43
40,5%
Chờ nhau, Chân quê…
3 âm tiết
30
28,3%
Người hàng xóm, Mùa xuân xanh…
4 âm tiết
20
18,8%
Một trời quan tái…
5 âm tiết
1
0,9%
Giấc mơ anh lái đò…
6 âm tiết
4
3,7%
Người con gái ở lầu hoa…
7 âm tiết
3
2,8%
Hà Nội ba mươi sáu phố phường..
Qua khảo sát độ dài tiêu đề các bài thơ tình Nguyễn Bính chúng tôi thấy rằng: Tiêu đề các bài thơ tình Nguyễn Bính có độ dài ngắn nhất là 1 âm tiết và dài nhất là 7 âm tiết. Tiêu đề được Nguyễn Bính dùng nhiều nhất là 2 âm tiết và 3 âm tiết (68,8%), tiêu đề dùng ít nhất là 5 âm tiết (0,9%). Điều này chứng tỏ đồ dài tiêu đề Nguyễn Bính rất ngắn gọn nhưng vẫn thể hiện đầy đủ nội dung chủ đề các bài thơ tình Nguyễn Bính.
Bảng 3: Cấu tạo tiêu đề các bài thơ tình Nguyễn Bính
Cấu tạo tiêu đề
Số bài
tỉ lệ %
ví dụ
Từ
12
11.32%
Nhớ, Ghen…
Cụm từ
84
79,24%
Lỡ bước sang ngang, Hoa với rượu...
Câu
10
9,43%
Người con gái ở lầu hoa, Nàng đi lấy chồng...
Qua bảng cấu tạo tiêu đề các bài thơ tình Nguyễn Bính chúng tôi thấy rằng cấu tạo tiêu đề các bài thơ tình Nguyễn Bính nhiều nhất là cụm từ (79,24%) và cấu tạo tiêu đề ít nhất là câu (9,43%).
2.1.3. Khổ thơ trong thơ tình Nguyễn Bính
Khổ thơ xét về hình thức biểu hiện gồm nhiều câu thơ, có một ý tương đối độc lập hoặc có một khoảng cách nhất định khi viết, khi in.
2.1.3.1. Số liệu thống kê - phân loại khổ thơ trong thơ tình Nguyễn Bính
Khảo sát 106 bài thơ tình của Nguyễn Bính, chúng tôi thấy có 82 bài thơ chia khổ, số lượng khổ thơ là 418 khổ.
Trong thơ tình Nguyễn Bính bài có số khổ nhiều nhất là 25 khổ (Hoa với rượu), bài có số khổ ít nhất là một khổ (Hoa cỏ may). Những bài thơ nhiều khổ thường nằm ở thể thơ 7 chữ: Hoa với rượu (25 khổ), Mười hai bến nước (24 khổ), Viếng hồn trinh nữ (18 khổ). Phổ biến trong mỗi khổ thơ tình Nguyễn Bính là mỗi khổ 4 câu ở cả thơ lục bát, thơ 7 chữ và thơ 5 chữ.
2.1.3.2. Khổ thơ mở đầu và khổ thơ kết thúc các bài thơ tình của Nguyễn Bính
Trong thơ tình Nguyễn Bính có 82 bài thơ chia khổ và 24 bài thơ không chia khổ. Các bài thơ chia khổ đều có khổ mở đầu và khổ kết thúc.
Khổ thơ mở đầu và kết thúc đã góp phần làm nổi bật phong cách thơ tình Nguyễn Bính đầy tự do, cảm xúc, không hề có sự lệ thuộc hay gò ép trong việc thể hiện nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật thơ. Khổ thơ mở đầu và kết thúc có sự liên hệ chặt chẽ giữa nội dung và hình thức tạo nên tính chỉnh thể trong toàn bộ tác phẩm thơ tình Nguyễn Bính.
2.2. Âm điệu trong thơ tình Nguyễn Bính
a/ Vần điệu thơ
Vần là một “Phương tiện tổ chức văn bản thơ dựa trên cơ sở sự lặp lại không hoàn toàn các tiếng ở những vị trí nhất định của dòng thơ nhằm tạo nên tính hài hòa và liên kết của dòng thơ và giữa các dòng thơ”.
b/ Nhịp điệu thơ
Nhịp điệu là “Một phương tiện quan trọng để cấu tạo hình thức nghệ thuật trong văn học, dựa trên sự lặp lại có tính chu kỳ, cách quảng hoặc luân phiên các yếu tố có quan hệ tương đồng trong thời gian hay quá trinh nhằm chia tách và kết hợp các ấn tượng thẩm mỹ”.
c/ Thanh điệu trong thơ
Thanh điệu là “hiện tượng nâng cao hoặc hạ thấp giọng nói trong một âm tiết. Trong tiếng việt có 6 thanh điệu, có tác dụng khu việt vỏ âm vị và được gọi là âm vị thanh điệu… mỗi thanh điệu được xác định bằng một chùm các tiêu chí khu biệt về âm vực, về âm điệu, về đường nét”.
2.2.1. Vần điệu trong thơ tình Nguyễn Bính
Bảng 4: Số liệu kết quả thống kê các loại vần trong thơ tình Nguyễn Bính
Phân loại vần
Số lượng cặp vần
Tỷ lệ %
Vần chính
416
36,26
Vần thông
139
12,11
Vần ép
112
9,76
Vần chân
259
22,58
Vần lưng
221
19,26
Qua bảng thống kê kết quả các loại vần trong 106 bài thơ tình Nguyễn Bính chúng tôi thấy có tỷ lệ số vần như sau: Xét theo mức độ hoà âm số cặp gieo vần chính là 416 cặp (36,26%), số cặp gieo vần thông 139 cặp (12,11%). Xét theo vị trí gieo vần thì số cặp gieo vần chân 259 cặp (22,58%), số cặp gieo vần lưng 221 cặp (19,26%).
2.2.2. Nhịp điệu trong thơ tình Nguyễn Bính
Thơ tình Nguyễn Bính đã xuất hiện những lối ngắt nhịp không còn tuân theo những quy tắc truyền thống mà tuân theo tần số dao động của tình cảm, diễn tả tâm trạng chủ quan của cái tôi cá thể, đào sâu vào thế giới nội tâm của con người. Do vậy nhịp điệu trong thơ ông là nhịp điệu tâm hồn. Lối ngắt nhịp trong thơ tình Nguyễn Bính rất tự do, mới mẻ, xôn xao hơi thở thời đại.
2.2.3. Thanh điệu trong thơ tình Nguyễn Bính
Góp phần làm nên tính nhạc tiềm ẩn trong thơ Nguyễn Bính không thể không nói đến thanh điệu. Trong thơ Nguyễn Bính giữa các câu thơ nói riêng và giữa toàn bài thơ nhà thơ đã khéo léo phối hợp các yếu tố ngữ âm đặc biệt là thanh điệu làm cho câu thơ, bài thơ mang âm hưởng và tính nhạc độc đáo.
Tiểu kết chương 2
Nguyễn Bính vừa có kế thừa những yếu tố nghệ thuật truyền thống, nhưng phần cách tân sáng tạo của ông vẫn là chủ yếu. Đặc biệt ông làm mới lối thơ xưa của dân tộc bằng cách cấu tứ thiên về trình bày, diễn tả, cách thức và ý nghĩa dùng từ ngữ, hình ảnh mới lạ, nhịp thơ đầy biến hoá linh hoạt, giọng điệu phong phú.
Chương 3
Ngữ nghĩa của ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính
Hệ thống các phương tiện biểu hiện nghệ thuật trong thơ tình Nguyễn Bính vô cùng phong phú và đa dạng. trong phong trào Thơ mới (1932 - 1945), ông được xem là nhà thơ “Chân quê, tình quê, hồn quê”. Ngôn ngữ thơ ông trong sáng, giản dị, mộc mạc giàu màu sắc dân gian. Đi vào vào tìm hiểu hình thức nghệ thuật cũng chính là tìm hiểu nét đặc sắc về phong cách thơ tình Nguyễn Bính và những đặc điểm về ngữ nghĩa ngôn ngữ trong thơ tình Nguyễn Bính.
3.1. Từ ngữ giàu giá trị biểu cảm trong thơ tình Nguyễn Bính
3.1.1. Từ láy âm trong thơ tình Nguyễn Bính
Trong thơ tình Nguyễn Bính, các từ láy được dùng có vai trò thể hiện đa dạng các trạng thái, cung bậc tình cảm của nhân vật trữ tình và cái tôi trữ tình. Trong 106 bài thơ tình, Nguyễn Bính đã dùng 105 từ láy (với 120 lượt dùng trong 53 bài). Trong đó, từ láy phụ âm đầu 81/105 từ (77,1%), từ láy hoàn toàn 13/105 từ (12,4%) từ láy vần 11/105 từ (10,5%).
3.1.2. Từ tình thái trong thơ tình Nguyễn Bính
Qua khảo sát và thống kê 106 bài thơ tình Nguyễn Bính chúng tôi thấy tình thái trong thơ tình Nguyễn Bính gồm các nhóm: Tình thái gọi đáp, tình thái bộc lộ cảm xúc, tình thái tạo câu nghi vấn hoặc mệnh lệnh, cầu khiến. Tổng số từ tình thái mà chúng tôi khảo sát trong 106 bài thơ tình là 343 từ và cụm từ tình thái.
Bảng 5: Từ ngữ tình thái trong thơ tình Nguyễn Bính
Kiểu tình thái
Vị trí
Số lượng từ ngữ tình thái
Gọi đáp
Đầu câu
25 từ (7,28%)
Cuối câu
20 từ (5,83%)
Đầu câu
59 từ hoặc cụm từ (17,2%)
Bộc lộ cảm xúc
Giữa câu
49 từ hoặc cụm từ (14,28%)
Cuối câu
63 từ hoặc cụm từ (18,36%)
Tạo câu nghi vấn hoặc
Đầu câu
71 từ hoặc cụm từ (20,69%)
mệnh lệnh, cầu khiến
Giữa câu
10 từ hoặc cụm từ (2,91%)
Cuối câu
46 từ hoặc cụm từ (13,41%)
3.1.3. Từ địa phương trong thơ tình Nguyễn Bính
Qua khảo sát 106 bài thơ tình Nguyễn Bính, chúng tôi thấy tác giả dùng 42 từ địa phương (với 85 lượt dùng). Cụ thể, từ “giời” dùng (25 lần), “giăng” (16 lần), “giậu” (4 lần). Còn các từ khác được tác giả dùng từ 1 đến 2 lần. Từ địa phương trong thơ tình Nguyễn Bính mang sắc thái biểu cảm cho thơ.
3.1.4. Từ khẩu ngữ trong thơ tình Nguyễn Bính
Cùng với việc sử dụng ngôn ngữ địa phương thơ tình Nguyễn Bính còn dùng một số từ khẩn ngữ trong giao tiếp sinh hoạt hàng ngày của cuộc sống người dân quê. Việc chêm cài các từ cửa miệng của thôn dân vào lời thơ cùng với tổ chức câu thơ theo cấu trúc ngữ đoạn của khẩu ngữ đã làm cho thơ tình Nguyễn Bính mang đậm chất ‘‘điệu nói’’của dân gian.
3.2. Từ ngữ biểu thị tình yêu trong thơ tình Nguyễn Bính
3.2.1. Động từ biểu thị tình yêu
Qua khảo sát thống kê 106 bài thơ tình Nguyễn Bính chúng tôi thấy được sự xuất hiện của các động từ chỉ các động thái của tình yêu là các từ: Yêu, nhớ, thương, tương tư, ghen, và các danh từ tình, duyên…
Từ ngữ chỉ tình yêu trong thơ tình Nguyễn Bính là 227 từ trong đó tần số xuất hiện của động từ là 177 lần, có thể chia động từ chỉ tình yêu trong thơ tình Nguyễn Bính thành các từ cụ thể.
3.2.1.1. Động từ “yêu”
Qua khảo sát 106 bài thơ tình Nguyễn Bính chúng tôi thấy động từ “yêu” xuất hiện 50/177 động từ chỉ các trạng thái của tình yêu.
3.2.1.2. Động từ “nhớ”
Trong thơ Nguyễn Bính, “nhớ” thường đi sóng đôi với “”thương” thành cặp “nhớ - thương”.
Nổi nhớ trong thơ tình Nguyễn Bính là sự thể hiện tình yêu của những mối tình xa cách, trắc trở có khi yêu là nhớ, nhớ là mong tạo thành cặp sóng đôi “nhớ - mong”.
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người.
(Tương tư)
3.2.1.3. Động từ “thương”
Cũng như các động từ khác, động từ thương trong thơ tình Nguyễn Bính cũng thể hiện phong phú và mang nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Động từ “thương” trong thơ tình Nguyễn Bính thường đi kèm với các động từ cùng sắc thái: thương yêu, thương xót, thương nhớ, thương đau, thương tiếc, buồn thương, sầu thương.
3.2.1.4. Động từ “tương tư”
ở một khía cạnh khác, thơ tình Nguyễn Bính nói về “tương tư”. Động từ “tương tư” tuy xuất hiện không nhiều trong thơ tình Nguyễn Bính nhưng nó là một đặc điểm của ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính.
3.2.1.5. Các động từ khác
Ngoài các động từ chỉ trực tiếp các trạng thái của tình yêu như yêu, nhớ, thương, tương tư. Chúng tôi còn thấy nhiều động từ khác trong thơ tình Nguyễn Bính chỉ các trạng thái của tình yêu như ghen, hôn, uống, muốn, bám, nghĩ, lấy, ôm, thề, say…
3.2.2. Danh từ biểu thị tình yêu trong thơ tình Nguyễn Bính
3.2.2.1. Danh từ “tình’’
Trong thơ tình Nguyễn Bính, từ “tình” được dùng để chỉ những mối tình trắc trở (16 lần), mối tình đơn phương (10 lần), mối tình thuỷ chung (3 lần), tình trong ý nghĩa khác (8 lần).
3.2.2.2. Một số danh từ khác
Ngoài danh từ “tình” tác giả còn sử dụng một số danh từ khác chỉ tình yêu như danh từ: duyên, lứa đôi, cái duyên, cái yêu…
3.2.3. Cụm từ biểu thị tình yêu trong thơ tình Nguyễn Bính
3.2.3.1. Cụm động từ
Qua khảo sát 106 bài thơ tình Nguyễn Bính, chúng tôi thấy tác giả không những dùng nhiều động từ biểu thị các trạng thái của tình yêu mà ông còn có sự lựa chọn và kết hợp giữa các từ với nhau tạo thành các cụm động từ. Trong các cụm từ chỉ tình yêu trong thơ tình Nguyễn Bính thì cụm động từ chiếm số lượng nhiều nhất 75 cụm (51,72%).
3.2.3.2. Cụm danh từ
Trong thơ tình Nguyễn Bính cụm danh từ tuy được dùng ít hơn cụm động từ nhưng cụm danh từ cũng có sự kết hợp độc đáo và mới lạ. Qua khảo sát, thống kê 106 bài thơ tình Nguyễn Bính chúng tôi thấy có 50 cụm danh từ (34,48%)
3.2.3.3. Cụm tính từ
Trong thơ tình Nguyễn Bính, cụm tính từ xuất hiện không nhiều 20 cụm (13,79%), cụm tính từ trong thơ tình Nguyễn Bính chủ yếu là cụm tính từ chỉ màu sắc, bên cạnh những từ ngữ chỉ màu sắc thực của cảnh vật như trong ca dao, Nguyễn Bính còn dùng màu sắc để biểu thị trạng thái tâm hồn con người.
3.3 Các biện pháp tu từ thường dùng trong thơ tình Nguyễn Bính
3.3.1. Biện pháp ẳn dụ
Qua khảo sát 106 bài thơ tình của Nguyễn Bính thì có 30 bài tác giả sử dụng hình ảnh ẳn dụ, như vậy cứ 3,5 bài thơ có một bài sử dụng ẩn dụ. Có bài mật độ ẩn dụ khá dày đặc như Lỡ bước sang ngang xuất hiện 20 ẩn dụ.
3.3.2. Biện pháp so sánh
Qua khảo sát 106 bài thơ tình của Nguyễn Bính thì chúng tôi thấy có 108 lần Nguyễn Bính dùng so sánh để xây dựng hình tượng. So sánh nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính là một hiện tượng phổ biến với tần số xuất hiện là 50% trên tổng số các bài thơ tình Nguyễn Bính.
Trong thơ tình, Nguyễn Bính hay sử dụng phương pháp so sánh ngang - bằng và so sánh hơn. Cụ thể so sánh ngang - bằng (A như B) xuất hiện 98 lần (90.7%), so sánh hơn (A hơn B) xuất hiện 10 lần (9,25%) trong tổng số.
3.3.3. Biện pháp đối
Kết cấu đối trong thơ Nguyễn Bính hiện ra với nhiều dáng vẻ, đối vế nọ với vế kia, đối câu này với câu khác, thậm chí đối cả khổ thơ này với khổ thơ khác.
3.3.4. Biện pháp điệp
Trong thơ tình, Nguyễn Bính đã dùng một cách phổ biến các điệp từ, điệp ngữ trong câu mà đặc biệt tác giả dùng nhiều điệp từ, điệp cụm từ một lúc đan chéo, liên tiếp với nhau trong bài thơ làm tô đậm, nhấn mạnh tâm trạng, tình cảm của nhân vật trữ tình, khắc sâu vào ký ức của người đọc, tập trung vào nội dung, ý nghĩa của bài thơ.
Tiểu kết chương 3
Để xây dựng thành công hình tượng nhân vật và tứ thơ, Nguyễn Bính không những tìm đến chất liệu của ca dao mà ông còn sử dụng các lớp từ thuần Việt cũng như các phương pháp biểu đạt tu từ mang tính truyền thống. Những phương tiện nghệ thuật này thể hiện rõ lối tư duy, cách cảm, cách nghĩ của nhà thơ. Đó là lối tư duy, lối nói vừa trực tiếp cụ thể, lại vừa hình ảnh, mộc mạc thẳng thắn mà cũng hết sức tế nhị, khéo léo. Các trạng thái cung bậc tình cảm yêu đương, nhớ nhung, tương tư, thất vọng, đợi chờ, cô đơn, buồn đau…Không xa lạ gì với thơ mới nhưng chỉ Nguyễn Bính mới có được thứ ngôn ngữ “Chân quê” phù hợp với người Việt Nam.
Kết luận
Nghiên cứu đề tài “Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính” một cách toàn diện về phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật, chúng tôi đi đến những kết luận sau:
1. Có thể nói, với 106 bài thơ tình chúng tôi khảo sát trong luận văn được Nguyễn Bính sáng tác vào thời kỳ trước cách mạng đã khẳng định sức mạnh, tài năng và tâm huyết trong cuộc đời thơ ông và trong phong trào thơ mới (1932-1945). Đề tài luận văn “Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính” chúng tôi đi vào giải quyết hai nội dung chính của thơ tình Nguyễn Bính: thứ nhất là miêu tả về cấu trúc và âm điệu thơ tình Nguyễn Bính,thứ hai là khảo sát và miêu tả các biện pháp tu từ và các lớp từ chỉ trạng thái, sắc thái biểu cảm, lớp từ biểu thị tình yêu trong thơ tình Nguyễn Bính.
2. Xét về nội dung cấu trúc và âm điệu trong thơ tình Nguyễn Bính. Trong tất cả các thể thơ Nguyễn Bính sử dụng, thơ lục bát là thể thơ tiêu biểu có số lượng nhiều nhất đã tạo nên bản sắc và diên mạo trong thơ tình Nguyễn Bính nói riêng và thơ Nguyễn Bính nói chung trong phong trào thơ mới (1932-1945). Lục bát trong thơ tình Nguyễn Bính thể hiện tâm trạng cái tôi thơ mới, mang đủ loại cung bậc, cảm xúc buồn vui, ngậm ngùi, cay đắng vừa như kể chuyện lại vừa như trữ tình. Thơ tình Nguyễn Bính là những bài thơ dài nhiều khổ, khổ thơ mở đầu và khổ thơ kết thúc các bài thơ tình Nguyễn Bính đầy tự do cảm xúc, không hề có sự lệ thuộc hay gò ép trong việc thể hiện nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật thơ. Nhịp điệu trong thơ tình Nguyễn Bính có sự cách tân so với ca dao, nhịp điệu thơ tình Nguyễn Bính không tuân theo quy tắc truyền thống mà tuân theo tần số dao động của tình cảm, diễn tả tâm trạng chủ quan của cái tôi cá thể, đào sâu vào thế giới nội tâm của con người.
3. Xét về ngữ nghĩa ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính. Từ láy thể hiện đa chiều các trạng thái tình cảm của nhân vật trữ tình và cái tôi trữ tình. Từ tình thái thể hiện muôn màu muôn vẻ các sắc thái tình cảm, những xôn xao trong cảm xúc của cái tôi trữ tình. Từ địa phương vừa tạo nên sắc thái biểu cảm vừa thể hiện phong cách ngôn ngữ riêng của tác giả. Từ ngữ biểu hiện tình yêu trong thơ tình Nguyễn Bính phong phú đa dạng thể hiện mọi cung bậc của tình cảm: nhớ thương, tương tư, mong chờ, giận hờn, ghen tuông, trách móc, xót xa, biệt ly, mơ mộng, ước mong, thất tình, tan vỡ. Điều này đã làm nên tính chân thật đa dạng của thơ tình Nguyễn Bính, đi con đường ngắn nhất đến tâm hồn người đọc. Các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, đối, điệp trong đó nổi bật nhất là biện pháp so sánh đã cụ thể hoá những cảm xúc, tâm hồn tình cảm của con người hiện đại.
4. Việc nghiên cứu thơ Nguyễn Bính mà đặc biệt là thơ tình Nguyễn Bính bằng sự đi sâu chi tiết vào ngôn ngữ tình yêu là một đóng góp hoàn toàn mới giúp chúng ta có một hình dung chung nhất, cơ bản nhất về thơ tình Nguyễn Bính ở phương diện nội dung và hình thức, cách thức thể hiện và ý nghĩa của ngôn ngữ tình yêu. Mặt khác nhằm khẳng định một tài năng có giọng điệu, ngôn ngữ riêng biệt khó trộn lẫn với ai trong phong trào Thơ Mới (1932-1945).
Chọn đề tài “Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính” chúng tôi muốn góp một phần tiếng nói vào việc khẳng định vị trí và sức sống của thơ tình Nguyễn Bính trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên do thời gian và trình độ có hạn nên việc giải quyết vấn đề này một cách thấu đáo không phải là một việc làm dễ dàng. Do vậy công việc của chúng tôi ở đây cũng chỉ dừng lại ở những khám phá bước đầu.
Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Vinh
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Trần Văn Minh
Phản biện 1: GS. TS. Nguyễn Văn Khang
Phản biện 2: TS. Đặng Lưu
Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn Thạc sĩ
họp tại Trường Đại học Vinh
vào hồi ..... giờ ..... ngày ..... tháng 12 năm 2008
Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Trường Đại học Vinh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ngôn ngữ thơ tình nguyễn bính.doc