Nguyên nhân, hậu quả và biện pháp của tình trạng hai quốc tịch
Khái niệm quốc tịch và người hai quốc tịch:
Quốc tịch là mối liên hệ mang tính chất pháp lý - chính trị giữa một cá nhân với một quốc gia nhất định và biểu hiện ở tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý được pháp luật quy định và đảm bảo.
Xuất phát từ chủ quyền quốc gia, mỗi nước đều có quyền quy định trong pháp luật nước mình những phương thức hưởng quốc tịch nhất định. Nhìn chung, hầu hết các quốc gia đều ghi nhận các phương thức sau: hưởng quốc tịch theo sự sinh đẻ (huyết thống), hưởng quốc tịch theo sự gia nhập quốc tịch, hưởng quốc tịch theo sự lựa chọn quốc tịch và phương thức hưởng quốc tịch theo sự phục hồi quốc tịch. Ngoài ra, thực tiễn sinh hoạt quốc tế còn có phương thức thưởng quốc tịch.
Đa phần, một người sinh ra chỉ có một quốc tịch, tuy nhiên có những trường hợp do những nguyên nhân khác nhau, mà một người có thể có hai quốc tịch và cũng có thể không có quốc tịch nào.
Người có hai quốc tịch là tình trạng pháp lý của một người cùng một lúc là công dân của cả hai quốc gia. Nói cách khác, pháp luật của cả hai quốc gia đều coi người đó là công dân của mình, trên cơ sở đó cùng một lúc họ sẽ đồng thời được hưởng các quyền và gánh vác các nghĩa vụ công dân của cả hai quốc gia. Thực tiễn cho thấy, những người mang hai quốc tịch là nguyên nhân gây ra trở ngại rất lớn cho quốc gia trong việc thực hiện chủ quyền của mình đối với dân cư, và trong một chừng mực nhất định nó gây ra trở ngại cho quốc gia trong quan hệ hợp tác quốc tế.
* Nguyên nhân: Việc đưa đến tình trạng hai quốc tịch do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng phổ biến có các nguyên nhân sau:
4 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 14270 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên nhân, hậu quả và biện pháp của tình trạng hai quốc tịch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
* Khái niệm quốc tịch và người hai quốc tịch:
Quốc tịch là mối liên hệ mang tính chất pháp lý - chính trị giữa một cá nhân với một quốc gia nhất định và biểu hiện ở tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý được pháp luật quy định và đảm bảo.
Xuất phát từ chủ quyền quốc gia, mỗi nước đều có quyền quy định trong pháp luật nước mình những phương thức hưởng quốc tịch nhất định. Nhìn chung, hầu hết các quốc gia đều ghi nhận các phương thức sau: hưởng quốc tịch theo sự sinh đẻ (huyết thống), hưởng quốc tịch theo sự gia nhập quốc tịch, hưởng quốc tịch theo sự lựa chọn quốc tịch và phương thức hưởng quốc tịch theo sự phục hồi quốc tịch. Ngoài ra, thực tiễn sinh hoạt quốc tế còn có phương thức thưởng quốc tịch.
Đa phần, một người sinh ra chỉ có một quốc tịch, tuy nhiên có những trường hợp do những nguyên nhân khác nhau, mà một người có thể có hai quốc tịch và cũng có thể không có quốc tịch nào.
Người có hai quốc tịch là tình trạng pháp lý của một người cùng một lúc là công dân của cả hai quốc gia. Nói cách khác, pháp luật của cả hai quốc gia đều coi người đó là công dân của mình, trên cơ sở đó cùng một lúc họ sẽ đồng thời được hưởng các quyền và gánh vác các nghĩa vụ công dân của cả hai quốc gia. Thực tiễn cho thấy, những người mang hai quốc tịch là nguyên nhân gây ra trở ngại rất lớn cho quốc gia trong việc thực hiện chủ quyền của mình đối với dân cư, và trong một chừng mực nhất định nó gây ra trở ngại cho quốc gia trong quan hệ hợp tác quốc tế.
* Nguyên nhân: Việc đưa đến tình trạng hai quốc tịch do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng phổ biến có các nguyên nhân sau:
- Xuất phát từ chủ quyền của quốc gia đối với dân cư đông thời gắn với các điều kiện kinh tế, chính trị xã hội làm xuất hiện xung đột về pháp luật giữa các quốc gia: là hiện tượng nhiều hệ thống pháp luật cùng điều chỉnh một vấn đề nhưng kết quả điều chỉnh lại khác nhau, khi quy định về các trường hợp hưởng và mất quốc tịch.
Trường hợp này xảy ra khi đứa trẻ được sinh ra trên lãnh thổ quốc gia có luật quốc tịch áp dụng nguyên tắc luật nơi sinh nên đứa trẻ sẽ mang quốc tịch của nước đó, đồng thời cha mẹ đứa trẻ lại là công dân của nước có luật quốc tịch áp dụng nguyên tắc huyết thống nên đứa trẻ mang thêm quốc tịch theo quốc tịch của cha mẹ
VD: Đứa trẻ A có cha mẹ là công dân của nước áp dụng nguyên tắc huyết thống (Việt Nam) sinh ra trên lãnh thổ của nước áp dụng nguyên tắc nơi sinh (Brazin). Do vậy theo luật của Brazil đứa trẻ sẽ mang quốc tịch Brazil, theo luật của Việt Nam thì đứa trẻ cũng có quốc tịch của Việt Nam.
- Do một cá nhân được hưởng quốc tịch mới nhưng không đương nhiên bị mất quốc tịch cũ. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do luật quốc tịch của nước họ không có quy định về việc đương nhiên mất quốc tịch khi vào quốc tịch mới.
- Do những thay đổi về điều kiện thực tế của cá nhân: cá nhân được hưởng thêm quốc tịch do kết hôn hoặc nhận nuôi con nuôi hoặc được quốc gia nước ngoài tặng thưởng quốc tịch do công lao của họ đóng góp cho quốc gia đó.
VD: A là công dân Việt Nam, A lấy chồng là người có quốc tịch Pháp. Theo luật của Pháp, thì A cũng có quốc tịch của Pháp, đồng thời theo pháp luật Việt Nam thì A vẫn được giữ quốc tịch của Việt Nam.
* Hệ quả: Tình trạng hai quốc tịch đưa đến những hệ quả pháp lý thuận lợi và khó khăn như sau.
Thuận lợi:
Sẽ được hưởng quyền lợi kinh tế chính trị, phúc lợi của các quốc gia mà họ là công dân, họ sẽ có những thuận lợi rất lớn trong việc xuất nhập cảnh cư trú đi lại trên lãnh thổ các quốc gia mà họ là công dân, và cùng một lúc được nhiều nước bảo hộ khi họ ở nước ngoài.
VD: Tuy không có khái niệm quốc tịch châu Âu ( đối với EU), nhưng người có tư cách công dân châu Âu sẽ được toàn bộ các quốc gia châu Âu bảo hộ khi ở nước ngoài.
Về bất lợi:
- Sự khó khăn trong việc bảo hộ ngoại giao cho công dân.
Thứ nhất, việc tiến hành bảo hộ ngoại giao người hai quốc tịch. Điều này xuất hiện tình huống một quốc gia thực hiện bảo hộ ngoại giao đối với công dân của mình ở quốc gia mà người đó cũng có quốc tịch, việc bảo hộ này là không có cơ sở (Điều 4 - Công ước La Haye năm 1930, từ giờ nói gọn , VD: Điều 4).
VD: A đồng thời là công dân của cả Việt Nam và Hoa Kì sẽ không được nhà nước Việt Nam bảo hộ khi A cư trú trên lãnh thổ Hoa Kì.
Thứ hai, hai quốc gia tiến hành bảo hộ ngoại giao đối với một người coi là công dân của hai nước ở nước thứ ba. Đối với trường hợp này, nước thứ ba sẽ có quyền quyết định quốc gia là công dân của ai.
VD: A có hai quốc tịch là Thái Lan và Pháp (được sinh ra và sống ở Thái Lan, làm việc và lấy vợ ở Pháp). Do tính chất công việc, A sang công tác ở Đức và tại đây A đã thực hiện một tội phạm. Trường hợp này, Đức sẽ chỉ công nhận một trong hai quốc tịch của A hoặc công nhận quốc tịch mà A có mốt quan hệ gắn bó nhất – nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu ( Điều 5)
- Việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của cá nhân. Trong việc thực hiện nghĩa vụ quân sự, người có hai quốc tịch thực hiện nghĩa vụ quân sự ở lãnh thổ của một trong số các quốc gia mình mang quốc tịch hoặc phục vụ trong quân đội nước ngoài hoặc vì các lý do khác tương tự từ phía các quốc gia khác mà người đó cũng có quốc tịch thì không thể bị coi là người trốn tránh nghĩa vụ.
Như vậy sẽ nảy sinh tình trạng pháp lý khó khăn cho việc thực hiện chủ quyền quốc gia đối với dân cư, thậm chí gây phức tạp cho quan hệ hợp tác giữa các quốc gia trong vấn đề dân cư.
* Giải pháp: Để giải quyết vấn đề người có hai hay nhiều quốc tịch, biện pháp các quốc gia thực hiện là :
- Giải pháp quốc tế:
Để hạn chế và ngăn ngừa các trở ngại do hiện tượng hai hay nhiều quốc tịch mang lại, trong quan hệ hợp tác của mình các quốc gia đã ký kết các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương nhằm mục đích ngăn chặn, hạn chế và tiến tới loại bỏ các trường hợp hai hay nhiều quốc tịch. Các điều ước sẽ chia thành hai loại, một loại giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa các quốc gia do việc một người có hai hay nhiều quốc tịch, còn loại kia loại trừ tình trạng hai quốc tịch. Theo các điều ước hữu quan, những người có hai hay nhiều quốc tịch sẽ có quyền tự do lựa chọn một quốc tịch trong số những quốc tịch mà họ hiện có.
VD: Theo điều 6 Công ước, các quốc gia sẽ tạo điều kiện cho công dân được thôi quốc tịch nếu người đó thường trú hoặc cư trú ở nước ngoài và đáp ứng pháp luật quốc gia về thôi quốc tịch.
Trong trường hợp không lựa chọn được quốc tịch thì họ được coi là công dân của nước nơi họ cư trú thường xuyên, nơi công dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ chủ yếu, có tài sản chủ yếu của họ (theo nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu – Điều 5)
Ngoài các điều ước đa phương, các quốc gia cũng đã ký các điều ước song phương về quốc tịch, cụ thể như Hiệp định Pháp – Bỉ 1949, Hiệp định Pháp – Italya 1953…Đa phần các hiệp định này đều quy định nếu công dân nước kí kết này gia nhập quốc tịch nước kí kết khác thì công dân đó sẽ mất quốc tịch gốc hoặc sẽ chỉ được chọn một quốc tịch.
- Giải pháp quốc gia: các quốc gia sẽ cụ thể hóa trong luật (luật Quốc tịch), các giải pháp để giải quyết tình trạng người hai, nhiều quốc tịch. Từ đó, thay đổi theo lộ trình để giảm dần lượng người có hai quốc tịch cho đến khi hạn chế thấp nhất tình trạng đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật quốc tế, NXB. CAND, Hà Nội , 2007;
TS. Nguyễn Thanh Long, ThS. Nguyễn Thị Kim Ngân,Vấn đề hai hay nhiều quốc tịch trong pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia, Tạp chí Luật học số 06/2009
TS.Vũ Đức Long, Công ước quốc tế về hạn chế tình trạng hai hay nhiều quốc tịch , Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 3/1998;
Công ước Lahay năm 1930 về xung đột quốc tịch.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nguyên nhân, hậu quả và biện pháp của tình trạng hai quốc tịch.doc