Nguyên tắc một quốc tịch và việc giải quyết các trường hợp nhiều quốc tịch và không quốc tịch
Chúng ta đều biết quốc tịch là sự thể hiện mối quan hệ pháp lý và chính trị gắn kết giữa một cá nhân với một Nhà nước có chủ quyền. Quốc tịch là một chế định pháp lý ra đời từ một thể chế chính trị đặc biệt, đó là Nhà nước và nó tồn tại, phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Giữa Nhà nước và quốc tịch có một có một mối quan hệ qua lại, gắn bó với nhau, không thể tách rời. Với tư cách là một chế định pháp lý để xác định một nhóm người nào đó là công dân của một Nhà nước nào đó, có thể nói rằng không thể có Nhà nước nếu thiếu những nhóm người được xác định bởi chế định quốc tịch, đó là công dân bởi vì một trong ba yếu tố cơ bản tạo thành Nhà nước là lãnh thổ, cư dân và quyền lực Nhà nước.
Như vậy, có thể nói rằng quốc tịch là cơ sở pháp lý căn bản và duy nhất để xác định
một cá nhân là công dân của một Nhà nước và trên cơ sở đó là căn cứ để phát sinh các
quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân. Với tư cách là một quan hệ
pháp lý gắn liền với nhân thân của từng cá nhân, vấn đề quốc tịch phát sinh từ khi cá
nhân đó được sinh ra và gắn liền với cá nhân đó trong suốt cuộc đời cho đến khi cá
nhân đó chết đi.
Ở Việt Nam, ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời và trở thành
một quốc gia độc lập, có đầy đủ chủ quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành ngay
văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên quy định về quốc tịch Việt Nam, đó là Sắc lệnh
số 53/SL ngày 20/10/1945. Tiếp đó, Nhà nước Việt Nam tiếp tục ban hành nhiều văn
bản quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề quốc tịch:
Sắc lệnh số 73/SL ngày 07/12/1945 quy định về việc nhập quốc tịch Việt Nam;
Sắc lệnh số 215/SL ngày 20/8/1948 ấn định những quyền lợi đặc biệt cho những người
nước ngoài đã có công giúp cuộc kháng chiến ở Việt Nam;
Sắc lệnh số 54/SL ngày 14/12/1959 bãi bỏ Điều 5 và Điều 6 của Sắc lệnh số 53/SL,
quy định quốc tịch của người phụ nữ kết hôn;
Nghị quyết số 1043/NQTVQH ngày 08/12/1971 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về
việc giao cho Hội đồng Chính phủ thẩm quyền xét và quyết định những trường hợp xin
vào hoặc xin thôi quốc tịch Việt Nam;
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1988 được Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ ba thông qua
ngày 28/6/1988. Đây là đạo luật điều chỉnh riêng về vấn đề quốc tịch của Nhà nước
Việt Nam, đánh dấu một mốc mới trong quá trình hoàn thiện pháp luật về quốc tịch
của Nhà nước Việt Nam;
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 thay thế Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1988, được
Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/5/1998. Luật Quốc tịch Việt Nam
năm 1998 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/1999.
Ngoài ra các quy định về quốc tịch cũng đã được đề cập trong nhiều văn bản liên quan
khác như Hiến pháp nước CHXHCH Việt Nam tại Điều 49, 50 và 103, Bộ luật Dân sự
Việt Nam tại Điều 41, Luật Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em tại Điều 5, Điều 7.
Nhìn lại toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về lĩnh vực
quốc tịch kê từ năm 1945 cho đến nay đã thể hiện xuyên suốt một số nguyên tắc cơ
bản là:
6 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3002 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên tắc một quốc tịch và việc giải quyết các trường hợp nhiều quốc tịch và không quốc tịch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGUYÊN TẮC MỘT QUỐC TỊCH VÀ VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC TRƯỜNG HỢP NHIỀU QUỐC TỊCH VÀ KHÔNG QUỐC TỊCH
Chúng ta đều biết quốc tịch là sự thể hiện mối quan hệ pháp lý và chính trị gắn kết giữa một cá nhân với một Nhà nước có chủ quyền. Quốc tịch là một chế định pháp lý ra đời từ một thể chế chính trị đặc biệt, đó là Nhà nước và nó tồn tại, phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Giữa Nhà nước và quốc tịch có một có một mối quan hệ qua lại, gắn bó với nhau, không thể tách rời. Với tư cách là một chế định pháp lý để xác định một nhóm người nào đó là công dân của một Nhà nước nào đó, có thể nói rằng không thể có Nhà nước nếu thiếu những nhóm người được xác định bởi chế định quốc tịch, đó là công dân bởi vì một trong ba yếu tố cơ bản tạo thành Nhà nước là lãnh thổ, cư dân và quyền lực Nhà nước.
Như vậy, có thể nói rằng quốc tịch là cơ sở pháp lý căn bản và duy nhất để xác định
một cá nhân là công dân của một Nhà nước và trên cơ sở đó là căn cứ để phát sinh các
quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân. Với tư cách là một quan hệ
pháp lý gắn liền với nhân thân của từng cá nhân, vấn đề quốc tịch phát sinh từ khi cá
nhân đó được sinh ra và gắn liền với cá nhân đó trong suốt cuộc đời cho đến khi cá
nhân đó chết đi.
Ở Việt Nam, ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời và trở thành
một quốc gia độc lập, có đầy đủ chủ quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành ngay
văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên quy định về quốc tịch Việt Nam, đó là Sắc lệnh
số 53/SL ngày 20/10/1945. Tiếp đó, Nhà nước Việt Nam tiếp tục ban hành nhiều văn
bản quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề quốc tịch:
Sắc lệnh số 73/SL ngày 07/12/1945 quy định về việc nhập quốc tịch Việt Nam;
Sắc lệnh số 215/SL ngày 20/8/1948 ấn định những quyền lợi đặc biệt cho những người
nước ngoài đã có công giúp cuộc kháng chiến ở Việt Nam;
Sắc lệnh số 54/SL ngày 14/12/1959 bãi bỏ Điều 5 và Điều 6 của Sắc lệnh số 53/SL,
quy định quốc tịch của người phụ nữ kết hôn;
Nghị quyết số 1043/NQTVQH ngày 08/12/1971 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về
việc giao cho Hội đồng Chính phủ thẩm quyền xét và quyết định những trường hợp xin
vào hoặc xin thôi quốc tịch Việt Nam;
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1988 được Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ ba thông qua
ngày 28/6/1988. Đây là đạo luật điều chỉnh riêng về vấn đề quốc tịch của Nhà nước
Việt Nam, đánh dấu một mốc mới trong quá trình hoàn thiện pháp luật về quốc tịch
của Nhà nước Việt Nam;
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 thay thế Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1988, được
Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/5/1998. Luật Quốc tịch Việt Nam
năm 1998 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/1999.
Ngoài ra các quy định về quốc tịch cũng đã được đề cập trong nhiều văn bản liên quan
khác như Hiến pháp nước CHXHCH Việt Nam tại Điều 49, 50 và 103, Bộ luật Dân sự
Việt Nam tại Điều 41, Luật Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em tại Điều 5, Điều 7.
Nhìn lại toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về lĩnh vực
quốc tịch kê từ năm 1945 cho đến nay đã thể hiện xuyên suốt một số nguyên tắc cơ
bản là:
Nguyên tắc một quốc tịch,
Nguyên tắc bảo hộ quyền có quốc tịch của công dân;
Nguyên tắc bảo hộ quyền về quốc tịch của phụ nữ khi kết hôn với người nước
ngoài;
Nguyên tắc bảo hộ quyền về quốc tịch của trẻ em khi làm con nuôi người nước
ngoài và quyền về quốc tịch của trẻ em nước ngoài khi được công dân Việt Nam xin
làm con nuôi;
Nguyên tắc bảo hộ quyền được thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước
ngoài của công dân Việt Nam và quyền được trở lại quốc tịch Việt Nam của người
gốc Việt Nam ở nước ngoài;
Nguyên tắc bảo hộ quyền của người nước ngoài xin gia nhập quốc tịch Việt Nam;
Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc.
Nguyên tắc bảo hộ quyền và lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam, kể cả đối
với công dân Việt Nam đang sinh sống tại nước ngoài;
Nguyên tắc nhân đạo.
Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về quốc tịch của Việt Nam luôn được xuyên suốt
và thể hiện trong các văn bản pháp luật, trong đó đặc biệt là nguyên tắc một quốc
tịch. Theo đó, nguyên tắc một quốc tịch được thể hiện ở chỗ: Nhà nước công nhận
công dân chỉ có một quốc tịch. Nguyên tắc này được áp dụng tại nhiều quốc gia trên
thế giới. Tại Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 quy định: "Nhà nước CHXHCN
Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam". Thể
theo quy định này, tất cả những người Việt Nam dù cư trú ở trong nước hay ngoài
nước mà chưa được Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam cho thôi quốc tịch Việt Nam đều
là người có quốc tịch Việt Nam. Công dân Việt Nam muốn nhập quốc tịch nước ngoài,
thì về nguyên tắc, họ phải thôi quốc tịch Việt Nam.
Cụ thể hoá nguyên tắc một quốc tịch của Việt Nam, Luật Quốc tịch Việt Nam năm
1998 đã đưa ra một số quy định cụ thể là:
Người có quốc tịch Việt Nam bao gồm người đang có quốc tịch Việt Nam cho
đến ngày Luật này có hiệu lực và người có quốc tịch Việt Nam theo quy định của
Luật này (Điều 14).
Trẻ em khi sinh ra có cha mẹ đều là công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việt
Nam, không kể trẻ em đó sinh trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam (Điều 16).
Trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, còn người kia là người
không quốc tịch, hoặc có mẹ là công dân Việt Nam, còn cha không rõ là ai, thì có
quốc tịch Việt Nam, không kể trẻ em đó sinh trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam
(Điều 17).
Trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, còn người kia là công
dân nước ngoài, thì có quốc tịch Việt Nam, nếu có sự thoả thuận bằng văn bản của
cha mẹ vào thời điểm đăng ký khai sinh cho con (Điều 17).
Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh có cha mẹ đều là người
không quốc tịch, nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam, thì cú quốc tịch Việt Nam
(Điều 18).
Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh có mẹ là người không quốc
tịch, nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam, còn cha không rõ là ai, thì có quốc tịch
Việt Nam (Điều 18).
Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi và trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không
rõ cha mẹ là ai, thì có quốc tịch Việt Nam (Điều 19).
Công dân nước ngoài được nhập quốc tịch Việt Nam thì không còn giữ quốc tịch
nước ngoài, trừ trường hợp đặc biệt do Chủ tịch nước quyết định (Khoản 3 Điều 20).
Như vậy, trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt Nam về quốc tịch cho thấy
nguyên tắc một quốc tịch là nguyên tắc được quán triệt nhất trong suốt gần 60 năm
nay trong pháp luật về quốc tịch của Việt Nam, nó là sự thể hiện tính duy nhất và
thống nhất của chủ quyền của một quốc gia và phù hợp với xu hướng chung của các
nước trên thế giới là hạn chế tối đa tình trạng hai hay nhiều quốc tịch, tình trạng có
thể dẫn đến những hậu quả pháp lý, chính trị và xã hội phức tạp trong quan hệ giữa
các quốc gia.
Tuy nhiên, trên thực tế, nguyên tắc một quốc tịch này đã và đang trở thành một thách
thức đòi hỏi Việt Nam cũng như một số nước khác phải quan tâm và tìm giải pháp tháo
gỡ do có những xung đột pháp luật về quốc tịch giữa Việt Nam và một số nước. Điều
này được thể hiện ở chỗ do lịch sử để lại, hiện tại Việt Nam có trên 2 triệu người đang
sinh sống ở nước ngoài, thêm vào đó, kể từ khi Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới
và mở cửa nên hiện nay có hàng chục vạn công dân Việt Nam làm ăn và định cư lâu
dài ở nước ngoài. Những trường hợp này khi họ đã đáp ứng được đầy đủ các điều kiện
để nhập quốc tịch nước ngoài thì họ được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài xem
xét và cho nhập quốc tịch nước ngoài. Đối với những nước mà pháp luật về quốc tịch
của họ không quy định người nước ngoài khi nhập quốc tịch nước sở tại thì phải thôi
quốc tịch gốc thì số công dân Việt Nam định cư ở những nước này sẽ đương nhiên trở
thành người có hai quốc tịch, đó là quốc tịch Việt Nam và quốc tịch nước ngoài. Việc
công dân Việt Nam có hai quốc tịch nêu trên đã dẫn đến một vấn đề hết sức phức tạp
là quyền bảo hộ và quyền được bảo hộ theo pháp luật nước nào. Xét về nguyên tắc,
thì đối với những trường hợp này, Nhà nước Việt Nam vẫn công nhận họ là công dân
Việt Nam (vì họ chưa làm thủ tục thôi quốc tịch Việt Nam), khi về nước họ vẫn được
đối xử như các công dân Việt Nam khác và khi họ ở nước ngoài thì họ vẫn có thể nhận
được sự bảo hộ của Nhà nước Việt Nam đối với công dân của mình; nhưng trên thực tế
đôi khi đã phát sinh những tranh chấp trong việc thực hiện quyền bảo hộ và quyền
được bảo hộ công dân gốc Việt Nam đối với một số nước.
Qua phần trình bày ở trên cho thấy nguyên tắc một quốc tịch là một nguyên tắc được
nhất quán và xuyên suốt trong các văn bản về pháp luật quốc tịch của Việt Nam
nhưng trên thực tế hiện vẫn còn một bộ phận không nhỏ công dân Việt Nam đang định
cư ở nước ngoài đang đồng thời có hai quốc tịch là quốc tịch Việt Nam và quốc tịch
nước sở tại nơi họ đang sinh sống. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng công dân
Việt Nam có hai quốc tịch là:
Do có sự khác nhau giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước trong việc
áp dụng cách xác định quốc tịch theo nguyên tắc quyền huyết thống và nguyên tắc
quyền nơi sinh;
Do pháp luật của nước mà công dân Việt Nam đang định cư không quy định về
việc nhập quốc tịch nước ngoài thì phải thôi quốc tịch gốc.
Để khắc phục tình trạng này, với góc độ là người nghiên cứu khoa học về quốc tịch,
chúng tôi cho rằng có hai giải pháp là:
Việt Nam ký điều ước song phương với các nước có công dân Việt Nam sinh
sống, tuy nhiên chúng tôi cho rằng giải pháp này không đơn giản và khó có thể giải
quyết ngay được.
Giải pháp thứ hai theo chúng tôi có thể thực hiện được là: cần nghiên cứu để
sửa đổi, bổ sung Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 về vấn đề đương nhiên mất
quốc tịch Việt Nam khi công dân Việt Nam đang định cư ở nước ngoài đã được nhập
quốc tịch nước ngoài. Tuy nhiên, giải pháp này cũng ảnh hưởng phần nào đến việc
thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc của Nhà nước Việt Nam vì trên thực tế
người Việt Nam định cư ở nước ngoài muốn nhập quốc tịch nước ngoài là để họ ổn
định cuộc sống và thuận lợi cho việc làm ăn ở nước ngoài còn đại đa số vẫn muốn
có sự gắn bó với quê hương, đất nước và vẫn muốn còn quốc tịch Việt Nam .
Về vấn đề người không quốc tịch ở Việt Nam: Sau năm 1975, khi miền Nam đã hoàn
toàn được giải phóng, có một số lượng người nước ngoài vẫn tiếp tục ở lại, làm ăn,
sinh sống tại Việt Nam và đặc biệt là từ giai đoạn từ 1975 đến 1979, do sự tàn bạo
của chế độ diệt chủng Pôn Pốt nên đã có hàng vạn người đã chạy tị nạn từ Campuchia
sang Việt Nam, trong đó có cả người Campuchia, người Hoa và một số người là Việt
kiều. Được sự hỗ trợ của Tổ chức về Người tỵ nạn của Liên hợp quốc (UNHCR), Việt
Nam đã thành lập một số trại tỵ nạn tại TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước và
Tây Ninh. Trong thời gian qua, một số ít người tỵ nạn đã được đưa sang định cư tại
nước thứ ba, một số ít đã quay trở lại Campuchia, còn lại phần lớn số người tỵ nạn
Campuchia vẫn đang sinh sống tại Việt Nam trong các trại tỵ nạn nói trên (hiện nay tổ
chức UNHCR đã ngừng viện trợ cho các trại tỵ nạn này).
Do biến động của chiến tranh nên hầu hết số người này đều không có bất cứ giấy tờ
nào để chứng minh quốc tịch của họ. Căn cứ để khẳng định quốc tịch của số người này
chủ yếu là dựa trên lời khai của họ và các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam căn cứ
vào đó để ghi quốc tịch của họ vào Thẻ thường trú của người nước ngoài tại Việt Nam.
Như vậy, trên thực tế có thể gọi số người này là người nước ngoài (có xác định được
quốc tịch) nhưng cũng có thể gọi họ là người không quốc tịch. Với tình trạng pháp lý
như vậy, trong những năm qua, những người này đã gặp nhiều khó khăn trong cuộc
sống, hầu hết họ chỉ là những người đi làm thuê. Các đặc quyền với tư cách là công
dân Việt Nam thì họ đều không được hưởng: quyền bầu cử, ứng cử, vay vốn ngân
hàng, làm việc trong các cơ quan Nhà nước.v.v… Mặc dù Chính phủ Việt Nam cũng đã
cố gắng tạo điều kiện để họ ổn định cuộc sống tại Việt Nam nhưng sự hỗ trợ này cũng
chỉ dừng lại ở mức "giải pháp tình thế" bởi vì rào cản pháp lý lớn nhất mà họ gặp phải
đó là vấn đề quốc tịch.
Do xác định vấn đề quốc tịch là một vấn đề rất quan trọng liên quan đến việc thực
hiện quyền con người, trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam cũng đã có nhiều
văn bản chỉ đạo các cơ quan liên quan ở trung ương (Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ
Công an..) tiến hành việc rà soát, phân loại đối tượng để từng bước giúp cho số người
này sớm được ổn định cuộc sống theo hướng:
Đối tượng nào có điều kiện đi định cư ở nước thứ ba thì tạo điều kiện cho họ
làm các thủ tục để đi định cư ở nước ngoài;
Đối tượng nào muốn hồi hương thì bàn với nước đối tác để cho họ được hồi
hương;
Đối tượng nào muốn định cư ở Việt Nam và có nguyện vọng xin nhập quốc tịch
Việt Nam thì xem xét, giải quyết cho họ được nhập quốc tịch Việt Nam;
Đối tượng nào muốn định cư ở Việt Nam mà không có nguyện vọng xin nhập
quốc tịch Việt Nam thì xem xét cấp cho họ các giấy tờ tuỳ thân theo quy chế quản
lý người nước ngoài;
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chính phủ Việt Nam, Bộ Tư pháp đã cùng các Bộ ngành
liên quan tổ chức khảo sát tại một số tỉnh phía nam, sau đó thống nhất hướng giải
quyết cho số người tỵ nạn có nguyện vọng xin nhập quốc tịch Việt Nam theo 2 loại đối
tượng:
Người nước ngoài có Giấy chứng nhận quốc tịch nước ngoài do cơ quan ngoại
giao, lãnh sự của nước ngoài tại Việt Nam cấp, nay xin nhập quốc tịch Việt Nam thì
giải quyết cho họ được nhập quốc tịch Việt Nam theo diện người nước ngoài gia
nhập quốc tịch Việt Nam;
Người nước ngoài không được cơ quan ngoại giao, lãnh sự của nước ngoài mà
họ khai có quốc tịch xác nhận là họ có quốc tịch nước đó, nay xin nhập quốc tịch
Việt Nam thì giải quyết cho họ được nhập quốc tịch Việt Nam theo diện người không
quốc tịch gia nhập quốc tịch Việt Nam.
Với cách giải quyết như trên, trong thời gian qua, nhiều trường hợp người nước ngoài
hoặc người không quốc tịch đang định cư tại Việt Nam đã được Chủ tịch nước CHXHCN
Việt Nam ký quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.
Theo dự tính của Bộ Tư pháp, thì vấn đề giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam
của người nước ngoài hoặc người không quốc tịch đang định cư tại Việt Nam sẽ được
giải quyết về cơ bản trong vòng từ 3 đến 5 năm tới.
Như vậy, qua những nội dung trình bày khái quát trên đây cho thấy nguyên tắc một
quốc tịch là một nguyên tắc mang tính nhất quán trong các văn bản pháp luật về quốc
tịch của Việt Nam và trong những năm qua, Nhà nước Việt Nam luôn kiên trì thực hiện
nguyên tắc này. Bên cạnh đó việc giải quyết tình trạng không quốc tịch của người
nước ngoài đang sinh sống tại Việt Nam cũng là một vấn đề đang được Nhà nước Việt
Nam quan tâm.
Về phần mình, trong thời gian tới, Bộ Tư pháp dự kiến sẽ tổ chức một Hội nghị về tổng
kết 7 năm thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998, trên cơ sở đó sẽ có những
nhận định, đánh giá cũng như những kiến nghị với Chính phủ trong trong việc tiếp tục
phải hoàn thiện pháp luật về quốc tịch, trong đó tập trung ưu tiên vào việc tìm các giải
pháp để giải quyết tình trạng một người có hai hoặc nhiều quốc tịch hoặc giải quyết
tình trạng người không quốc tịch.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nguyên tắc một quốc tịch và việc giải quyết các trường hợp nhiều quốc tịch và không quốc tịch.doc