Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Do đó, chỉ khi nào người dân thực sự đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động quản lý của Nhà nước thì việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền mới thực sự thành công. Chính vì vậy mà Đảng, Nhà nước ta luôn luôn chủ trương thu hút nhân dân lao động tham gia vào các hoạt động quản lý nhà nước nói chung và quản lý hành chính nhà nước nói riêng. Nguyên tắc “Nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước” chính là sự cụ thể hóa của chủ trương đó nhằm hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
10 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 11642 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia quản lí hành chính Nhà nước, thực trạng và giải pháp cho sự vận dụng nguyên tắc vào thực tế quản lí hành chính hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NỘI DUNG
Đặt vấn đề:
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Do đó, chỉ khi nào người dân thực sự đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động quản lý của Nhà nước thì việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền mới thực sự thành công. Chính vì vậy mà Đảng, Nhà nước ta luôn luôn chủ trương thu hút nhân dân lao động tham gia vào các hoạt động quản lý nhà nước nói chung và quản lý hành chính nhà nước nói riêng. Nguyên tắc “Nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước” chính là sự cụ thể hóa của chủ trương đó nhằm hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Giải quyết vấn đề:
I. Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước:
Quản lý hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của nhà nước, được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là đảm bảo sự chấp hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp, thường xuyên công cuộc xây dựng kinh tế, văn hoá – xã hội và hành chính, chính trị. Nói cách khác, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành – điều hành của nhà nước.
Nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước là những tư tưởng chủ đạo bắt nguồn từ cơ sở khoa học của hoạt động quản lý, từ bản chất của chế độ, được quy định trong pháp luật, làm nền tảng cho tổ chức và hoạt động quản lý hành chính Nhà nước. Với nội dung như vậy, để quản lý hành chính nhà nước đảm bảo được hiệu quả hoạt động thì bản thân nó cần tôn trọng và tuân theo những nguyên tắc cụ thể như: Nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước; nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước; nguyên tắc tập trung – dân chủ; nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc....Trong phạm vi bài viết này, người viết chỉ đề cập một trong những nguyên tắc nêu trên, đó là: Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước. Cụ thể ở những nội dung sau:
1. Cơ sở của nguyên tắc:
a. Cơ sở thực tiễn:
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất của nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Do đó, chỉ khi nào người dân thực sự đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động quản lý của Nhà nước thì việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền mới thực sự thành công. Lịch sử nước ta là một minh chứng rõ ràng nhất và chính xác nhất cho bản chất của nhà nước ta. Mọi nội dung, nhiệm vụ đều xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân, phục vụ cho chính lợi ích của nhân dân, chính vì vậy việc khẳng định nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý nhà nước nói chung và quản lý hành chính nhà nước nói riêng chính là khẳng định bản chất của nhà nước cũng như là biện pháp xây dựng nhà nước pháp chế xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Việc mở rộng hình thức tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước không chỉ đòi hỏi từ sự hội nhập mà quan trọng hơn là từ chính yêu cầu của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, dân chủ hóa đời sống xã hội và của bản thân Nhà nước. Mở rộng sự tham gia mạnh mẽ của người dân vào các quá trình ra quyết định, các hoạt động quản lý nhà nước sẽ đóng góp quan trọng cho việc xây dựng một xã hội công bằng và dân chủ, ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện hiện nay. Dân là gốc, thuộc phạm trù vĩnh viễn, Đảng và Nhà nước thuộc phạm trù lịch sử. Lòng Dân là điểm xuất phát và cũng là điểm cuối cùng của ý Đảng và pháp luật, chính vì vậy cần phải nhấn mạnh tất cả các vấn đề xã hội cần được thực hiện dựa trên nguyên tắc này, hay cụ thể hơn chính là dựa theo quan điểm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
b. Cơ sở pháp lý:
Xuất phát từ những cơ sở thực tiễn nêu trên, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng nâng cao vị thế của nhân dân trong việc tham gia vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước bằng những cơ sở mang tính pháp lý đó chính là quy định cụ thể trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật.
Với bản chất dân chủ sâu sắc, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được nhà nước ta ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Nhà nước xã hội chủ nghĩa do chính nhân dân lao động tổ chức để thực hiện quyền lực của mình. Nó là một tổ chức được lập ra nhằm phát huy tài năng, sức lực của người lao động trong việc gánh vác các công việc của nhà nước và xã hội nhằm phục vụ cho chính họ. Ghi nhận nội dung này, Điều 2 – Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) nêu rõ: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”.
Để nhân dân thực sự là người làm chủ đất nước, việc tạo điều kiện cho nhân dân lao động tham gia đông đảo vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước được Nhà nước ta ghi nhận tại Điều 3 – HP 1992: “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân ” => Quyền được tham gia vào quản lý các công việc của nhà nước và xã hội là quyền cơ bản của công dân được hiến pháp ghi nhận và đã phát huy được hiệu lực trong thực tế. Bên cạnh đó, nguyên tắc này còn được thể hiện thông qua các quy định sau của Hiến pháp 1992: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân...” (Điều 6), “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu dân ý” (Điều 53).
Bảo đảm sự tham gia của nhân dân vào công việc quản lý nhà nước nói chung và quản lý hành chính nhà nước nói riêng, ngoài những quy định tại Hiến Pháp 1992 còn được ghi nhận tại những bộ luật: Luật Bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Phòng, chống tham nhũng, trong đó quy định cụ thể các điều kiện, hình thức, phương thức để nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý của Nhà nước như việc các đại biểu, các cơ quan nhà nước phải tiếp nhận và giải quyết các đề xuất, kiến nghị, khiếu nại của người dân, tiếp thu các ý kiến đóng góp vào các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội... Các luật về các tổ chức chính trị - xã hội như Luật Công đoàn, Luật Thanh niên, Luật Mặt trận Tổ quốc cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội tham gia công việc quản lý nhà nước.....
Như vậy, các văn bản pháp lý hiện hành đã quy định khá cụ thể các hình thức, phương thức tham gia của nhân dân trong việc quản lý hành chính nhà nước, đây chính là một cơ sở pháp lí quan trọng để nhân dân tham gia vào quản lí hành chính nhà nước thực hiện quyền làm chủ của mình.
2. Nội dung của nguyên tắc:
Nguyên tắc nhân dân tham gia đông đảo vào hoạt động quản lí hành chính nhà nước thể hiện vai trò quan trọng của nhân dân trong quản lí hành chính nhà nước, đồng thời xác định những nhiệm vụ mà nhà nước phải thực hiện trong việc bảo đảm những điều kiện cơ bản để nhân dân lao động tham gia vào quản lí hành chính nhà nước.
Nguyên tắc này được thể hiện thông qua những hình thức nhân dân lao động tham gia vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Đây là những hình thức được pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện bằng các phương tiện của nhà nước. Việc tham gia đông đảo của nhân dân lao động vào quản lý hành chính nhà nước thông qua các hình thức trực tiếp và gián tiếp tương ứng như sau:
a. Tham gia gián tiếp:
* Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước
Các cơ quan trong bộ máy nhà nước là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước, việc nhân dân tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước là hình thức tham gia tích cực, trực tiếp và có hiệu quả nhất trong quản lý hành chính nhà nước. Người lao động nếu đáp ứng các yêu cầu của pháp luật đều có thể tham gia vào hoạt động của cơ quan nhà nước từ đó trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào công việc quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Người lao động có thể tham gia trực tiếp vào cơ quan quyền lực nhà nước với tư cách là thành viên của cơ quan này - họ là những đại biểu được lựa chọn thông qua bầu cử hoặc với tư cách là các viên chức nhà nước trong các cơ quan nhà nước. Khi ở cương vị là thành viên của cơ quan quyền lực nhà nước, người lãnh đạo trực tiếp xem xét và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của từng địa phương trong đó có các vấn đề quản lý hành chính nhà nước. Khi ở cương vị là cán bộ viên chức nhà nước thì người lao động sẽ sử dụng quyền lực nhà nước một cách trực tiếp để thực hiện vai trò người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, có điều kiện biến những ý chí, nguyện vọng của mình thành hiện thực nhằm xây dựng đất nước giàu mạnh.
- Ngoài ra, người lao động có thể tham gia gián tiếp vào hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua việc thực hiện quyền lựa chọn những đại biểu xứng đáng thay mặt mình vào cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương hay địa phương. Ðây là hình thức tham gia rộng rãi nhất của nhân dân vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
- Bên cạnh đó, nhân dân lao động có thể tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước khác (cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử) với tư cách là những cán bộ, công chức.
* Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội
- Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân lao động tham gia tích cực vào hoạt động của các tổ chức xã hội. Các tổ chức xã hội là công cụ đắc lực của nhân dân lao động trong việc thực hiện quyền tham gia vào quản lý hành chính nhà nước. Thông qua các hoạt động của các tổ chức xã hội, vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân lao động được phát huy. Ðây là một hình thức hoạt động có ý nghĩa đối với việc bảo đảm dân chủ và mở rộng nền dân chủ ở nước ta.
b. Tham gia trực tiếp:
* Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở
- Ðây là hoạt động do chính nhân dân lao động tự thực hiện, các hoạt động này gần gũi và thiết thực đối với cuộc sống của người dân như hoạt động bảo vệ an ninh trật tự, vệ sinh môi trường,...Những hoạt động này xảy ra ở nơi cư trú, làm việc, sinh hoạt nên mang tính chất tự quản của nhân dân.
- Thông qua những hoạt động mang tính chất tự quản này người lao động là những chủ thể tham gia tích cực nhất, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của họ được tôn trọng và bảo đảm thực hiện.
* Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý hành chính nhà nước
- Ðiều 53 – Hiến pháp 1992 quy định công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận những vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội hay chính người dân trực tiếp thực hiện.
- Kiểm tra các cơ quan quản lý nhà nước.
- Tham gia trực tiếp với tư cách là thành viên không chuyên trách trong hoạt động cơ quan quản lý, các cơ quan xã hội.
- Tham gia với tư cách là thành viên của tập thể lao động trong việc giải quyết những vấn đề quan trọng của cơ quan...
Việc trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý hành chính nhà nước là một hình thức có ý nghĩa quan trọng để nhân dân lao động phát huy vai trò làm chủ của mình.
Ðây là nguyên tắc được nhà nước ta thừa nhận và bảo đảm thực hiện. Nguyên tắc này thể hiện bản chất dân chủ sâu sắc giữ vai trò quan trọng thiết yếu trong quản lý hành chính nhà nước. Nhân dân không chỉ có quyền giám sát đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước; thực hiện khiếu nại tố cáo nếu cho rằng cán bộ hành chính nhà nước vi phạm quyền lợi của họ hoặc thực hiện không đúng đắn, mà còn có quyền tự mình tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước, trực tiếp thể hiện quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động. Ðiều này này khẳng định vai trò hết sức đặc biệt của nhân dân lao động trong quản lý hành chính nhà nước, đồng thời xác định những nhiệm vụ mà nhà nước phải thực hiện trong việc đảm bảo những điều kiện cơ bản để nhân dân lao động được tham gia vào quản lý hành chính nhà nước. Ðiểm thú vị về mặt lý luận của nguyên tắc đó chính là nó chỉ thực sự có ý nghĩa khi được bảo đảm thực hiện trên thực tế. Có thể mở rộng, tăng cường quyền của công dân trong hoạt động quản lý, nhưng không được phép hạn chế, thu hẹp những gì mà Hiến pháp đã định.
3. Ý nghĩa của việc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước:
Xuất phát từ nền tảng Hiến pháp và xem xét bản chất của pháp luật và các chính sách thể hiện trong các văn kiện pháp lý, có thể lập luận những lý do và ý nghĩa chính trị của việc công chúng tham gia vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước như sau:
Tất cả các hoạt động kinh tế, văn hóa, giáo dục, chính trị, xã hội...đều liên quan trực tiếp tới nhân dân lao động, vì nhân dân phục vụ, như vậy ở đây nhân dân lao động với tư cách là người chịu sự quản lý của các chủ thể quản lý cũng đồng thời là đối tượng mà hoạt động quản lý hướng tới nhằm phục vụ, bảo vệ là người hơn ai hết cần có quyền tham gia vào cỗ máy quản lý hành chính nhà nước này. Có như vậy, quyền làm chủ của nhân dân mới có thể phát huy tối đa hiệu quả cũng như lợi ích của nhân dân được bảo vệ. Nhân dân ủy quyền cho Quốc Hội và Hội đồng nhân dân thực hiện quyền lực của mình. Đây là ý nghĩa chính trị của sự ủy nhiệm trong chế độ dân chủ đại diện của chế độ ta. Tuy nhiên, ủy nhiệm không phải trao toàn bộ quyền lực của nhân dân cho bộ máy nhà nước mà là công dân giám sát và góp ý hoạt động của cơ quan nhà nước. Nghĩa là dù bằng hình thức trực tiếp hay gián tiếp, nhân dân lao động có quyền tham gia vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước và được bảo đảm quyền Hiến định đó.
Trong xã hội, tồn tại các thành viên trong xã hội vốn không đồng nhất về lợi ích, quyền lợi và địa vị kinh tế, chính trị cũng như những khác biệt khác như khác biệt về giới, về nhóm dân tộc, các nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội. Do tính chất không đồng nhất này, hay còn gọi là sự không cân xứng về vị thế và lợi ích của đối tượng đó, nên các nhóm lợi ích khác nhau cần được phát biểu quan điểm, cần được lên tiếng và có những hoạt động cụ thể nhằm hạn chế những rào cản đó, trên cơ sở đó xây dựng một nhà nước công bằng dân chủ.
Xuất phát từ hai luận điểm trên đây, sự tham gia ý kiến một cách chủ động của nhân dân vào các hoạt động quản lý hành chính nhà nước là biện pháp thiết thực và cụ thể nhất nhằm đảm bảo bản chất của nhà nước ta.
II. Vấn đề vận dụng nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay:
1. Đánh giá việc vận dụng nguyên tắc này trong quản lý hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay:
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì các phương thức, hình thức để người dân tham gia vào quá trình xây dựng luật pháp, chính sách, vào các công việc quản lý hành chính Nhà nước đã được quy định rất đa dạng, phong phú. Nó cho phép người dân có thể biểu đạt được ý chí, nguyện vọng của mình với các cơ quan nhà nước trong việc hình thành nên các chính sách, pháp luật cũng như việc quyết định và thi hành pháp luật. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng, bên cạnh những thành quả đạt được từ sự thừa nhận, tôn trọng và thu hút nhân dân lao động tham gia vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước thì sự tham gia của người dân vào quá trình này vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế. Cụ thể như sau:
1.1. Những mặt tích cực:
Đối với hình thức tham gia gián tiếp, một đặc trưng của hình thức này chính là nhân dân lao động không trực tiếp thực hiện quyền làm chủ của mình mà thông qua các cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức chính trị - xã hội. Như vậy, nhân dân có thể tham gia vào hoạt động quản lý hành chính rộng rãi và hiệu quả hơn; trong hình thức nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp mà họ là thành viên. Theo hình thức này, những nguyện vọng, ý kiến của người dân được các tổ chức đó tập hợp lại để chuyển tới các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước xem xét, giải quyết. Hiện nay, trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, các tổ chức chính trị - xã hội đã có những thay đổi trong tổ chức và phương thức hoạt động, gắn chặt hơn với quần chúng, với các đoàn viên, hội viên. Đồng thời, trong xã hội, những tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp cũng được phát triển mạnh. Tình hình này cho phép nhân dân có khả năng tham gia nhiều hơn trong hoạt động quản lý của nhà nước, từ việc phản biện các chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát sự thực hiện của các cơ quan nhà nước và của công chức, cũng như đề đạt nguyện vọng, ý kiến của mình cho các cơ quan nhà nước xem xét, thực hiện.
Với hình thức này, vai trò của nhân dân được nhân rộng lên rất nhiều và có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản lý hành chính nhà nước.
Đối với hình thức tham gia trực tiếp, đối với hình thức này thì nhân dân lao động trực tiếp tham gia vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước, trực tiếp biểu đạt nguyện vọng, mong muốn của mình cũng như trực tiếp thực hiện nó trong phạm vi quyền hạn theo quy định của pháp luật. Như vậy, đối với hình thức này, nguyện vọng của nhân dân được thể hiện chính xác nhất, trực tiếp nhất, thông qua đó nâng cao hiệu quả vận dụng nguyên tắc này vào thực tiễn đời sống xã hội, phát huy được vai trò làm chủ của nhân dân rõ ràng nhất. Hình thức này thể hiện rõ nhất vai trò làm chủ của nhân dân lao động đối với Nhà nước, xã hội, bảo đảm được bản chất của nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Hình thức tham gia của nhân dân vào các hoạt động tự quản ở cơ sở, hình thức này đã ngày càng phát huy được tính tích cực thực tế. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động hết sức rộng rãi chính vì vậy hình thức này đã hỗ trợ hoạt động quản lý ở từng cơ sở, ở từng địa phương, bám sát tình hình thực tế phát huy hiệu quả quản lý.
1.2. Những mặt hạn chế:
Đối với hình thức tham gia gián tiếp, sự tham gia của nhân dân vào việc quản lý nhà nước phụ thuộc rất nhiều vào phương thức lựa chọn người đại diện và vào phương thức hoạt động của các cơ quan đó. Theo quy định hiện hành, mối quan hệ giữa người đại diện với nhân dân vẫn còn khoảng cách khá xa và lỏng lẻo. Những người được bầu vẫn đại diện cho nhân dân một cách chung chung, chưa có sự gắn bó giữa người được bầu với cử tri. Nó thể hiện ở chỗ người được bầu không cần đi vận động, không cần hứa hẹn với cử tri vẫn được bầu và khi đã trúng họ không rõ những nguyện vọng mà người bầu ra họ là những gì. Trong thời gian đảm nhiệm trọng trách đại biểu của dân, theo quy định, họ phải tiếp xúc cử tri trước và sau các kỳ họp để nắm bắt ý kiến của nhân dân, nhưng cơ chế bắt buộc họ phải tiếp nhận và trực tiếp xử lý những vấn đề cụ thể của người dân yêu cầu là không có. Cách tiếp xúc hiện nay chủ yếu thực hiện theo phương thức “đại cử tri”, nghĩa là tiếp xúc với các đại biểu của cử tri, nên người có ý kiến thật thì không được gặp, người đi đại diện thì có nhiều lý do để có thể không nói ra.
Chính vì vậy, trong các kỳ họp, nhiều đại biểu của các cơ quan dân cử không có nội dung để phát biểu và cũng không phát biểu lần nào. Mặc dù vậy, họ cũng không bị cử tri phản ứng, nếu nhiệm kỳ tiếp theo được giới thiệu họ vẫn có thể được bầu lại. Việc thực hiện quyền lực nhà nước, thực hiện sự tham gia quản lý của nhân dân bằng và thông qua các cơ quan đại biểu rõ ràng vẫn còn nhiều hạn chế. Ngoài sự hạn chế từ những cơ chế quy định hiện hành, bản thân người dân, do trình độ nhận thức, nhất là trình độ pháp lý, cũng chưa thấy hết được quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với việc tham gia quản lý nhà nước, chưa làm hết sức mình khi tham gia quản lý nhà nước ở hình thức này. Nó thể hiện ở sự bỏ phiếu lấy lệ, cho xong của nhiều người trong các lần bầu cử.
Đối với hình thức tham gia trực tiếp, theo Hiến pháp quy định, nhân dân có quyền quyết định các vấn đề hệ trọng của đất nước thông qua trưng cầu dân ý và trực tiếp quyết định nhiều vấn đề liên quan đến đời sống ở cơ sở. Tuy nhiên, đến nay vấn đề trưng cầu dân ý vẫn chưa thực sự phát huy được hiệu quả như mong đợi, vẫn còn mang nhiều tính hình thức. Nhiều địa phương, cán bộ chính quyền cơ sở tập trung vào hoạt động xây dựng các hương ước, quy ước của dân, bắt dân chịu nhiều quy định hơn là việc thực hiện công khai, xin ý kiến nhân dân về các việc làm của chính quyền. Về phía người dân, do trình độ, do những mối quan hệ thân thiết và do sự chưa nghiêm minh trong việc xử lý vi phạm của cán bộ nên họ cũng ít bày tỏ chính kiến của mình, trừ khi các vấn đề đã trở nên quá bức xúc. Chính điều này đã không chỉ hạn chế quyền tham gia quản lý nhà nước của người dân, không huy động được sức mạnh của nhân dân trong việc quản lý, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương mà còn là căn nguyên của sự xuất hiện các vụ khiếu kiện kéo dài, những điểm nóng tại một số cơ sở.
Ngoài những hình thức nêu trên, người dân có thể tham gia ý kiến vào các văn bản pháp luật khi được công bố hỏi ý kiến qua báo chí. Tuy nhiên, hình thức này cũng gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Người dân ít có những ý kiến đóng góp với chính quyền và các cơ quan nhà nước trừ khi có những vấn đề bức xúc của bản thân. Khi có các văn bản xin ý kiến tham gia đóng góp đăng trên các cơ quan báo chí cũng chỉ có số ít những người có ý kiến. Việc kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan và công chức nhà nước; thực hiện khiếu nại, tố cáo những việc làm trái pháp luật của các cơ quan và công chức nhà nước của người dân cũng còn hạn chế.
Hiệu quả của hoạt động quản lý bị hạn chế, không đạt hiệu quả mong muốn. Chính vì vậy cần phải tìm hiểu nguyên nhân của những hạn chế này để đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm đảm bảo hiệu quả của việc vận dụng nguyên tắc “nhân dân lao động tham gia đông đảo vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước” vào thực tiễn.
2. Nguyên nhân của những khó khăn, hạn chế trong việc tham gia quản lý hành chính nhà nước của nhân dân:
Trước hết, là từ nhận thức của xã hội, của những người quản lý. Mặc dù hiện nay tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân đã được phổ biến trong xã hội, nhưng việc nhận thức đúng về tư tưởng này vẫn còn khoảng cách. Những người quản lý vẫn còn thiếu tin tưởng ở người dân, vẫn coi việc quản lý nhà nước là công việc riêng vốn có của Nhà nước mà không phải là nhiệm vụ của chính nhân dân trong việc quản lý xã hội. Ngược lại, chính người dân cũng coi đó chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, mà không phải là của mình. Vì lẽ đó, đã làm hạn chế sự tham gia rộng rãi của nhân dân vào hoạt động quản lý nhà nước.
Thứ hai, những quy định pháp lý chưa đủ mạnh và rõ để các cơ quan nhà nước, nhất là các cơ quan đại biểu phải thực hiện các nhiệm vụ mà nhân dân ủy quyền và để nhân dân kiểm soát sự ủy quyền của mình, cũng như để nhân dân tham gia trực tiếp nhiều hơn vào các công việc của Nhà nước....
Thứ ba, ảnh hưởng của văn hóa hành chính cũ còn khá nặng. Đã có một thời gian dài ở Việt Nam, bộ máy nhà nước được xây dựng và hoạt động theo cơ chế tập trung, bao cấp. Các cơ quan nhà nước được xây dựng theo một mô hình thống nhất chung, đứng ra làm tất cả mọi việc cho nhân dân theo sự chỉ huy tập trung từ bên trên và đã mang lại nhiều kết quả cho người dân, vì thế nhân dân tin tưởng vào Nhà nước. Nhưng cũng từ thực tế đó, lâu dần đã hình thành nên tâm lý và văn hóa hành chính mà theo đó, các cơ quan, công chức coi việc xây dựng luật pháp, chính sách, quản lý hành chính nhà nước như là đặc quyền riêng của mình và vì thế các công việc của Nhà nước luôn khép kín, còn nhân dân ỷ lại, coi đó là công việc của Nhà nước, ít có quan tâm chung tới hoạt động của Nhà nước và các chính sách, nếu không có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích cá nhân.
Thứ tư, trình độ dân trí, nhất là trình độ về pháp luật, của người dân còn rất hạn chế. Hiện nay không chỉ kiến thức pháp luật của người dân còn thấp mà sự chấp hành, ý thức, tinh thần pháp luật của người dân không cao. Chính vì vậy, khi tham gia vào các công việc quản lý hành chính nhà nước, người dân rất lúng túng.
Thứ năm, việc tổ chức các hình thức, phương thức tham gia của người dân được các cơ quan nhà nước thực hiện cũng chưa thật sự khoa học. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật được tổ chức xin ý kiến của người dân chưa thật sự hướng vào các đối tượng bị điều chỉnh. Việc tiếp thu giải quyết các vấn đề mà nhân dân nêu ra chậm và luôn bị tránh, né làm giảm lòng tin và nhiệt tình của người dân.
Thứ sáu, trình độ sử dụng công nghệ thông tin để tham gia vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước của nhân dân còn thấp. Sự phổ cập báo chí điện tử mới giới hạn ở các thành phố và một số đối tượng - thường đã là cán bộ, công chức nhà nước.
3. Một số biện pháp nhằm đảm bảo vận dụng hiệu quả của nguyên tắc này vào quản lý hành chính nhà nước:
Căn cứ vào những nguyên nhân cụ thể nêu trên, chúng ta cần đề ra những biện pháp cụ thể nhằm đảm bảo vận dụng hiệu quả của nguyên tắc này vào quản lý hành chính nhà nước. Cụ thể:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế, có cơ chế huy động người dân tham gia vào quá trình quản lý hành chính Nhà nước. Cần sửa đổi cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân sao cho những người được bầu phải gắn bó với người dân, phản ánh được ý chí nguyện vọng của người dân, không còn đại diện chung chung, hình thức. Họ phải chịu sự giám sát của nhân dân, gắn trách nhiệm, lợi ích với sự tín nhiệm của nhân dân, khi không hoàn thành được vai trò đại diện quyền lợi và nguyện vọng của cử tri bầu cho thì họ phải bị bãi miễn. Nói một cách ngắn gọn, để sự tham gia quản lý hành chính nhà nước qua các cơ quan đại diện của dân có hiệu quả, cần chuyển các đại biểu được bầu của dân sang chế độ hoạt động chính trị chuyên nghiệp. Tách bạch, không để vai trò lập pháp, đại biểu nhân dân và vai trò hành chính do cùng một cá nhân thực hiện. Mở rộng hình thức quyết định trực tiếp – trưng cầu dân ý, để toàn dân có quyền tham gia vào các công việc trọng đại của đất nước, của địa phương, học tập các mô hình trưng cầu dân ý của một số quốc gia nhằm nâng cao hiệu quả tham gia vào các hoạt động tham gia vào quản lý hành chính nhà nước của nhân dân lao động.
Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước. Đổi mới cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động của các cơ quan nhà nước, mở rộng sự công khai, minh bạch, tạo cơ hội để người dân nắm được các công việc của Nhà nước để tham gia một cách chủ động, thiết thực, có hiệu quả. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và của công chức trong việc tiếp thu các ý kiến và nguyện vọng của nhân dân trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Thứ ba, tiếp tục mở rộng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Mở rộng sự hình thành và tham gia của các hội, tổ chức phi chính phủ trong việc giải quyết các nhu cầu của nhân dân và tích cực tham gia vào công tác quản lý nhà nước. Có các cơ chế và phương thức để phát huy và tiếp nhận được các ý kiến phản biện của nhân dân và của các tổ chức quần chúng.
Thứ tư, tiếp tục có biện pháp giáo dục nâng cao kiến thức, trình độ, nhất là ý thức chính trị, tinh thần pháp luật của người dân, làm cho người dân tự giác và có ý thức hơn nữa trong việc tham gia vào các công việc xã hội và các hoạt động quản lý nhà nước.
Thứ năm, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng trong việc tuyên truyền, giáo dục và tổ chức tham gia của người dân đối với việc xây dựng chính sách, pháp luật. Ngoài ra cần phải sử dụng tốt hơn các phương tiện thông tin đại chúng. Mở rộng việc sử dụng các báo điện tử trong việc tuyên truyền các chính sách, pháp luật của Nhà nước và thu thập, phản ánh các ý kiến đóng góp, tham gia của nhân dân.
C. Kết thúc vấn đề:
“Dân là gốc, thuộc phạm trù vĩnh viễn. Đảng và Nhà nước thuộc phạm trù lịch sử. Lòng Dân là điểm xuất phát và cũng là điểm cuối cùng của ý Đảng và pháp luật. Về nguyên tắc: Lòng Dân, ý Đảng và pháp luật phải thống nhất, phải là một, không thể là hai, trong đó lòng Dân là gốc. Phải dựa vào ý chí và nguyện vọng của nhân dân, đặt lợi ích của quốc gia dân tộc lên trên hết để xử lý những vấn đề khi có ý kiến khác nhau”. Do đó, nhận thức được tầm quan trọng của nhân dân trong việc tham gia vào các hoạt động quản lý hành chính nhà nước chính là một trong những con đường dẫn đến sự thống nhất của “Ý Đảng, lòng dân”, đến sự đoàn kết dân tộc tạo sức mạnh to lớn thúc đấy Việt Nam hội nhập quốc tế thành công.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia quản lí hành chính Nhà nước, thực trạng và giải pháp cho sự vận dụng nguyên tắc vào thực tế quản lí hành chính h.doc