DÀN Ý :
I.KHÁI NIỆM NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ
II. NHỮNG CƠ SỞ CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Cơ sở chính trị.
2. Cơ sở pháp lý.
III.NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
1. Sự phụ thuộc của cơ hành chính Nhà nước vào cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp
2. Sự phục tùng cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương
3. Sự phân cấp quản lý
4. Sự hướng về cơ sở
5.Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương
IV. Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
V.THỰC TRẠNG VIỆC VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM NHẰM ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ
1. Những thành tựu bước đầu.
2. Những khuyết điểm và yếu kém.
3. Những biện pháp chủ yếu để nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
VI. KẾT LUẬN.
V.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I.KHÁI NIỆM NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ
Dân chủ là hiện tượng xuất hiện từ rất sớm trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Theo từ điển Tiếng Việt, thì “dân chủ” được hiểu là quyền tham gia, bàn bạc vào công việc chung, tôn trọng quyền lợi của từng thành viên trong xã hội; cũng có thể “dân chủ” được hiểu là chế độ dân chủ hoặc quyền dân chủ, hoặc như là một chế độ chính trị theo đó quyền làm chủ thuộc về nhân dân. Trải qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài, Đảng cộng sản Việt Nam đã chọn con đường xã hội chủ nghĩa để phấn đấu, xây dựng đất nước. Như vậy dân chủ là cơ sở và nguyên tắc của lãnh đạo và quản lý xã hội, điều này cũng có nghĩa là cần phải lãnh đạo và quản lý xã hội, quản lý nhà nước nói chung là quản lý hành chính nhà nước nói riêng theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau nhưng có ba loại ý kiến khác nhau điển hình về nguyên tắc này.
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng nội dung của nguyên tắc này là sự kết hợp hai mặt tập trung và dân chủ trong quản lý hành chính Nhà nước. “Tập trung dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất, không bao giờ được phép cường điệu hoặc coi nhẹ bất cứ mặt nào. Vì như vậy sẽ dẫn đến những hậu quả như: chuyên quyền, độc đoán, mất dân chủ, hạn chế tự do, sáng tạo, coi thường pháp luật v.v ”. “Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất kết hợp hài hòa với nhau. “Nghệ thuật của sự vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ là tìm tỷ lệ kết hợp tối ưu của hai mặt tập trung và dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước của từng lĩnh vực, ngành cụ thể, trong từng giai đoạn, từng hoàn cảnh, thậm chí là từng vấn đề cụ thể”. “Trong từng địa phương, từng thời điểm khác nhau cần định ra liều lượng kết hợp giữa những chế độ tập trung và chế độ dân chủ thích hợp tạo nên sự thống nhất hai mặt của nguyên tắc”. Nói như vậy cũng không có nghĩa là chúng ta dàn đều cả hai nội dung tập trung và dân chủ”.
Loại ý kiến thứ hai cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ là “sự” tập trung “một cách” dân chủ. Nguyên tắc này thể hiện sự tập trung trên cơ sở dân chủ chân chính, kết hợp sáng tạo với sự thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh và tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật cao. V.I. Lênin đã nhấn mạnh rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ ở nghĩa chung nhất là: tập trung được hiểu ở nghĩa dân chủ thực sự.
Ngoài ra, còn có loại ý kiến thứ ba cho rằng tập trung dân chủ là việc thủ trưởng có toàn quyền quyết định các vấn đề của cơ quan trên cơ sở đóng góp ý kiến của nhân viên. Hay nói một cách khác, việc đóng góp ý kiến của cán bộ, công nhân viên, các thành viên trong cơ quan, đơn vị chỉ có ý nghĩa tham khảo và việc quyết định thuộc thẩm quyền của thủ trưởng.
Như vậy, có thể thấy đa số các ý kiến cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước là sự kết hợp giữa hai yếu tố (hai mặt) tập trung và dân chủ. Sự kết hợp giữa các mặt này là không giống nhau, điều đó phụ thuộc vào tính chất của các cơ quan, phụ thuộc vào trình độ quản lý, vào điều kiện cụ thể về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước.
11 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8512 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DÀN Ý :
I.KHÁI NIỆM NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ
II. NHỮNG CƠ SỞ CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.Cơ sở chính trị.
2. Cơ sở pháp lý.
III.NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
1. Sự phụ thuộc của cơ hành chính Nhà nước vào cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp
2. Sự phục tùng cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương
3. Sự phân cấp quản lý
4. Sự hướng về cơ sở
5.Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương
IV. Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
V.THỰC TRẠNG VIỆC VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM NHẰM ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ
1.Những thành tựu bước đầu.
2. Những khuyết điểm và yếu kém.
3. Những biện pháp chủ yếu để nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
VI. KẾT LUẬN.
V.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I.KHÁI NIỆM NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ
Dân chủ là hiện tượng xuất hiện từ rất sớm trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Theo từ điển Tiếng Việt, thì “dân chủ” được hiểu là quyền tham gia, bàn bạc vào công việc chung, tôn trọng quyền lợi của từng thành viên trong xã hội; cũng có thể “dân chủ” được hiểu là chế độ dân chủ hoặc quyền dân chủ, hoặc như là một chế độ chính trị theo đó quyền làm chủ thuộc về nhân dân. Trải qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài, Đảng cộng sản Việt Nam đã chọn con đường xã hội chủ nghĩa để phấn đấu, xây dựng đất nước. Như vậy dân chủ là cơ sở và nguyên tắc của lãnh đạo và quản lý xã hội, điều này cũng có nghĩa là cần phải lãnh đạo và quản lý xã hội, quản lý nhà nước nói chung là quản lý hành chính nhà nước nói riêng theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau nhưng có ba loại ý kiến khác nhau điển hình về nguyên tắc này.
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng nội dung của nguyên tắc này là sự kết hợp hai mặt tập trung và dân chủ trong quản lý hành chính Nhà nước. “Tập trung dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất, không bao giờ được phép cường điệu hoặc coi nhẹ bất cứ mặt nào. Vì như vậy sẽ dẫn đến những hậu quả như: chuyên quyền, độc đoán, mất dân chủ, hạn chế tự do, sáng tạo, coi thường pháp luật v.v…”. “Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất kết hợp hài hòa với nhau. “Nghệ thuật của sự vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ là tìm tỷ lệ kết hợp tối ưu của hai mặt tập trung và dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước của từng lĩnh vực, ngành cụ thể, trong từng giai đoạn, từng hoàn cảnh, thậm chí là từng vấn đề cụ thể”. “Trong từng địa phương, từng thời điểm khác nhau cần định ra liều lượng kết hợp giữa những chế độ tập trung và chế độ dân chủ thích hợp tạo nên sự thống nhất hai mặt của nguyên tắc”. Nói như vậy cũng không có nghĩa là chúng ta dàn đều cả hai nội dung tập trung và dân chủ”.
Loại ý kiến thứ hai cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ là “sự” tập trung “một cách” dân chủ. Nguyên tắc này thể hiện sự tập trung trên cơ sở dân chủ chân chính, kết hợp sáng tạo với sự thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh và tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật cao. V.I. Lênin đã nhấn mạnh rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ ở nghĩa chung nhất là: tập trung được hiểu ở nghĩa dân chủ thực sự.
Ngoài ra, còn có loại ý kiến thứ ba cho rằng tập trung dân chủ là việc thủ trưởng có toàn quyền quyết định các vấn đề của cơ quan trên cơ sở đóng góp ý kiến của nhân viên. Hay nói một cách khác, việc đóng góp ý kiến của cán bộ, công nhân viên, các thành viên trong cơ quan, đơn vị chỉ có ý nghĩa tham khảo và việc quyết định thuộc thẩm quyền của thủ trưởng.
Như vậy, có thể thấy đa số các ý kiến cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước là sự kết hợp giữa hai yếu tố (hai mặt) tập trung và dân chủ. Sự kết hợp giữa các mặt này là không giống nhau, điều đó phụ thuộc vào tính chất của các cơ quan, phụ thuộc vào trình độ quản lý, vào điều kiện cụ thể về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước.
II. NHỮNG CƠ SỞ CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.Cơ sở chính trị.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, đại diện cho lợi ích và ý chí của nhân dân lao động. Đảng ta đã khẳng định, Đảng cộng sản mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân lao động và cả dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng chế độ ta là chế độ dân chủ. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong chế độ dân chủ với một nhà nước dân chủ như thế, quần chúng nhân dân là người chủ của xã hội. Bao nhiêu quyền lực là của dân, bao nhiêu lợi ích cũng thuộc về dân và vì dân, bao nhiêu sức mạnh và quyền lực đều trong dân. Đó chính là cơ sở chính trị để chứng tỏ tập trung dân chủ như một nguyên tắc của quản lý nhà nước nói chung và quản lý hành chính nhà nước nói riêng.
2. Cơ sở pháp lý.
Cơ sở pháp lý của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính Nhà nước được quy định tại Điều 6 Hiến pháp năm 1992: “Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.
+Tập trung: thâu tóm quyền lực Nhà nước vào chủ thể quản lý để điều hành, chỉ đạo thực hiện pháp luật.
+Dân chủ : là mở rộng quyền cho đối tượng quản lý nhằm phát huy trí tuệ tập thể vào hoạt động quản lý. Phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản lý trong quá trình thực hiện pháp luật.
Cả hai yếu tố này phải có sự phối hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ với nhau, có sự qua lại phụ thuộc và thúc đẩy nhau cùng phát triển trong quản lý hành chính Nhà nước. Tập trung mà không dân chủ sẽ tạo điều kiện cho hành vi vi phạm quyền công dân, tệ quan liêu, hách dịch, tham nhũng phát triển. Nếu không có sự lãnh đạo tập trung thống nhất thì sự phát triển của xã hội sẽ trở nên tự phát. Lực lượng dân chủ sẽ bị phân tán, không đủ sức chống lại các thế lực phản động, phản dân chủ.
NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính Nhà nước thể hiện ở những điểm sau:
1. Sự phụ thuộc của cơ hành chính Nhà nước vào cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp:
Điều 6 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Sở dĩ, có sự phụ thuộc này là do quyền lực nhà nước ta là quyền lực của nhân dân, nhân dân đã chuyển giao quyền lực của mình cho các cơ quan quyền lực nhà nước (quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp). Và các cơ quan quyền lực này lại trao quyền và trách nhiệm cho cơ quan quản lí hành chính nhà nước. Vì nhận quyền và trách nhiệm từ cơ quan quyền lực nhà nước nên cơ quan quản lí hành chính nhà nước phụ thuộc vào cơ quan quyền lực nhà nước là điều đương nhiên.
Để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước của nhân dân trên các lĩnh vực đời sống của xã hội, hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới địa phương được thành lập. Trong tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước luôn có sự phụ thuộc vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
Tập trung: Cơ quan quyền lực Nhà nước có những quyền hạn nhất định trong việc thành lập, bãi bỏ các cơ quan hành chính Nhà nước:
+ Ở trung ương: Quốc hội thành lập Chính phủ và trao quyền hành pháp cho Chính phủ.+ Ở địa phương: Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra (điều 123 Hiến pháp1992) và thực hiện hoạt động quản lý hành chính Nhà nước ở địa phương.
+ Các cơ quan khác trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước (như Bộ, cơ quan ngang Bộ …) đều do các cơ quan quyền lực nhà nước ở cùng cấp trực tiếp hay gián tiếp quyết định việc thành lập, thay đổi hay bãi bỏ.
Dân chủ: Thể hiện rõ nét trong việc cơ quan quyền lực Nhà nước trao quyền chủ động, sáng tạo cho cơ quan hành chính Nhà nước trong qua trình cơ quan này chỉ đạo thực hiện pháp luật và các văn bản khác của cơ quan quyền lực.
Tất cả sự phụ thuộc này nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động, bảo đảm sự tập trung quyền lực vào cơ quan quyền lực-cơ quan do dân bầu và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Mối quan hệ này luôn luôn được thể hiện ở hai khía cạnh: Về mặt tổ chức thì cơ quan quyền lực nhà nước thành lập ra cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp thể hiện sự tập trung vào cơ quan quyền lực nhà nước. Đồng thời, cơ quan hành chính cũng có những quyền tự quyết định nhất định trong việc tổ chức cơ quan của mình, điều này thể hiện sự dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước.Ví dụ: Quốc hội bầu ra thủ tướng chính phủ, sau đó thủ tướng đệ trình các thành viên khác của chính phủ và quốc hội sẽ phê chuẩn danh sách thành viên chính phủ; Về mặt hoạt động, cơ quan quyền lực trao quyền cho cơ quan quản lí hành chính nhà nước, đồng thời cơ quan quyền lực giám sát hoạt động của cơ quan quản lí hành chính, cơ quan hành chính phải báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực đã thể hiện sự tập trung. Đồng thời, cơ quan quản lí hành chính nhà nước có những thẩm quyền riêng do pháp luật quy định, các cơ quan này có quyền tự quyết định hoạt động của mình và chịu trách nhiệm trước pháp luật đã thể hiện tính dân chủ. Và ở đây, sự taapjtrung dân chủ đã được đan xen, hài hòa.
2. Sự phục tùng cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương:
Tập trung: Sự phục tùng cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương. Có sự phục tùng đó thì cấp trên mới tập trung quyền lực Nhà nước để lãnh đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương. Nếu thiếu nó sẽ dẫn đến buông lỏng sự lãnh đạo, làm nảy sinh tình trạng vô Chính phủ, tuỳ tiện, cục bộ địa phương. Sự phục tùng ở đây là sự phục tùng mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật.
Dân chủ: Cấp trung ương phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, của địa phương…góp phần phát huy sự chủ động sáng tạo trong việc hoàn thiện nhiệm vụ được giao.
Về tổ chức thì cơ quan cấp trên có quyền chi phối nhất định đối với cơ quan cấp dưới. Khi hội đồng nhân dân bầu ủy ban nhân dân thì kết quả phải được ủy ban nhân dân cấp trên phê chuẩn, qua đó đã thể hiện được tính tập trung. Đồng thời, tuy hội đồng nhân dân bầu ủy ban nhân dân, nhưng bộ máy đi cùng ủy ban nhân dân là do nó tự quyết; Về hoạt động thì, cơ quan hành chính cấp trên có quyền kiểm tra, chỉ đạo hoạt động của cơ quan hành chính cấp dưới đã thể hiện được sự tập trung. Nhưng mỗi cơ quan hành chính đều có quyền riêng,nó có toàn quyền hành động trong thẩm quyền của mình cũng đã thể hiện được tính dân chủ.
Sự phục tùng này đảm bảo cho cấp trên tập trung quyền lực để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới, của địa phương.
3. Sự phân cấp quản lý:
Phân cấp quản lí là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới nhằm đạt được một cách có hiệu quả mục tiêu chung của quản lí hành chính nhà nước. Và để có thể phân cấp, cơ quan cấp trên phải ra một văn bản ghi rõ giao cho cơ quan cấp dưới những quyền và nhiệm vụ gì ?
Phân cấp quản lý là sự phân định rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp trong bộ máy quản lý hành chính Nhà nước. Mỗi cấp quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương tiện cần thiết để thực hiện một cách tốt nhất mục tiêu, nhiệm vụ của cấp mình.Yêu cầu của sự phân cấp quản lý:
Tập trung: Phải xác định quyền quyết định của trung ương đối với những lĩnh vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược để đảm bảo sự phát triển của xã hội, đảm bảo sự tập trung thống nhất của Nhà nước. Đây là biện pháp đảm bảo tập trung, tránh cho cơ quan nhà nước ở trung ương phải ôm đồm các công việc mang tính sự vụ, thuộc về chức trách của các đơn vị ở địa phương cơ sở.
Dân chủ: Việc phân cấp quản lý hết sức phức tạp, đòi hỏi phải xem xét từ nhiều góc độ khác nhau: kinh tế, chính trị, xã hội, trình độ dân trí, trình độ quản lý của cán bộ…Có như vậy, mới đảm bảo cụ thể, hợp lý, đúng quy định của pháp luật.
Trong phạm vi thẩm quyền được giao, mỗi cấp quản lí được phép tiến hành những hoạt động nhất định nhằm phát huy tính năng sáng tạo của mình. Việc trao quyền phải dựa trên khả năng thực tế của chủ thể được trao quyền. Đồng thời, khi phân cấp thì cơ quan trao quyền vẫn giữ lại quyền kiểm tra, giám sát và xử lí vi phạm của cấp dưới. Ví dụ: Tổng cục hải quan thuộc bộ tài chính, thì ông tổng cục trưởng tổng cục hải quan đáng ra phải do thủ tướng bổ nhiệm, nhưng thủ tướng lại ra văn bản trao quyền bổ nhiệm tổng cục trưởng cho bộ trưởng bộ tài chính.
4. Sự hướng về cơ sở:
Dân chủ: Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính Nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất phục vụ nhân dân lao động. Do vậy, phải tạo điều kiện cho các đơn vị kinh tế, văn hoá, xã hội hoàn thành công việc của mình. Đây là việc cơ quan hành chính Nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý tập trung đối với các hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa, xã hội trực thuộc. Nhà nước có các chính sách và biện pháp quản lý một cách thống nhất và chặt chẽ về tổ chức và hoạt động của các đơn vị cơ sở.
Hướng về cơ sở là việc cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lí tập trung đối với toàn bộ hoạt động của hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa – xã hội trực thuộc. Hiểu một cách đơn giản là hướng về cơ sở là việc cố gắng tách hoạt động quản lí hành chính nhà nước ra khỏi hoạt động sản xuất, kinh doanh, sự nghiệp,…
Cơ quan hành chính chỉ tập trung ban hành pháp luật, kiểm tra việc thi hành pháp luật của các đơn vị cơ sở đã thể hiện tính tập trung. Đồng thời, các đơn vị cơ sở có quyền tự quyết định trong hoạt động của mình, thể hiện tính dân chủ ngày càng được mở rộng.
5.Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương:
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc song trùng trực thuộc. Ðối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền chung một mặt phụ thuộc vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, mặt khác phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
Cơ quan quản lý hành chính Nhà nước có thẩm quyền chung ở địa phương (Uỷ ban nhân dân) phụ thuộc vào cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp (Hội đồng nhân dân) – quan hệ ngang, và phụ thuộc vào cơ quan quản lý hành chính Nhà nước cấp trên ở cấp trực tiếp – quan hệ dọc.
VD: UBND TP Hà Nội một mặt chịu sự chỉ đạo của HÐND TP Hà Nội theo chiều ngang, một mặt chịu sự chỉ đạo của Chính phủ theo chiều dọc.
Cơ quan quản lý hành chính có thẩm quyền chuyên môn ở địa phương (sở, phòng, ban) phụ thuộc cơ quan quản lý hành chính Nhà nước có thẩm quyền chung cùng cấp (Uỷ ban nhân dân)–quan hệ ngang, và phụ thuộc vào cơ quan quản lý hành chính Nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp trên ở cấp trực tiếp – quan hệ dọc.
VD: Sở Tư pháp TP Hà Nội, một mặt phụ thuộc vào UBND Tỉnh Hà Nội, mặt khác phụ thuộc vào Bộ Tư pháp.
Tập trung: Mối quan hệ dọc: giúp cho cấp trên tập trung quyền lực để chỉ đạo, kiểm tra hoạt động của cấp dưới.
Dân chủ: Mối quan hệ ngang: tạo điều kiện cho cấp dưới phát huy dân chủ, phát huy thế mạnh ở địa phương để hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao phó.
Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
Mặc dù nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước mang tính chất chỉ đạo hoạt động nhận thức và cải tạo xã hội nhưng khi vận dụng vào thực tế, nguyên tắc này đã giúp cho công tác quản lý hành chính nhà nước đạt được những hiệu quả rất tốt trong việc tăng hiêu quả hoạt động của công tác quản lý hành chính nhà nước.
Nội dung của nguyên tắc này quy định những đặc điểm chung, mang tính quy luật khách quan trong hoạt động của hệ thống quản lý xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, nó phản ánh sự thống nhất giữa cơ sở tư tưởng, chiến lược và tổ chức của xã hội xã hội chủ nghĩa
Việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước đã giúp cho việc thực hiện quyền lực làm chủ của nhân dân (thông qua các cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương và địa phương) hoàn thiện hơn, người dân có thể thực hiện quyền giám sát của mình một cách hữu hiệu, tạo nên một cơ chế đảm bảo cho quần chúng tích cực tham gia vào công tác quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên, cần lưu ý là việc áp dụng yếu tố dân chủ nhưng không thể loại trừ trách nhiệm cá nhân, nghĩa là, dân chủ nhưng phải gắn với trách nhiệm của từng cá nhân cụ thể, trong công việc nhất định, ở thời gian xác định.
Đồng thời việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước cũng tạo nên một sự thống nhất về ý chí trong việc quản lý hành chính nhà nước, tạo ra sự nhịp nhàng, ăn khớp giữa các cơ quan, ngành khối trong toàn xã hội mà vẫn bảo đảm để cho các địa phương trong nước có quyền tự do tương đối trong việc định ra các hình thức phát triển khác nhau phù hợp với địa phương của mình. Tạo nên một sức mạnh tổng thể cho đất nước.
THỰC TRẠNG VIỆC VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM NHẰM ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ.
1.Những thành tựu bước đầu.
Chính phủ đã xác định rõ vị trí, chức năng, trách nhiệm và quyền hạn của mình với tư cách là cơ quan hành pháp, là cơ quan hành chính cao nhất của tổ chức hệ thống quyền lực nhà nước. Tổ chức hoạt động, điều hành của chính phủ đã đổi mới từng bước, tập trung vào việc quản lý vĩ mô, xây dựng cơ chế, chính sách, quy hoạch, chỉ đạo thực hiện thống nhất kịp thời trong cả nước. Sự phát triển của kinh tế thị trường, sự gia tăng xu hướng đô thị hóa dưới tác động của đổi mới kinh tế đã làm cho nhiều vấn đề mới phát sinh, nhiều tình huống phức tạp mới đã xuất hiện, kể cả những ảnh hưởng tiêu cực, những mặt trái của cơ chế thị trường xâm nhập vào mọi lĩnh vực, mọi tổ chức và mọi mối quan hệ xã hội. Chính phủ đã nhận rõ tình hình đó và trong nhiều trường hợp đã có những chỉ đạo sát sao, nhạy bén, với những biện pháp mạnh và kịp thời, giải quyết thành công nhiều nhiều vấn đề được quần chúng hoan nghênh, đồng tình. VD: điển hình dễ nhận thấy là chủ trương cấm sản xuất và tiêu thụ pháo nổ trong cả nước, kèm theo các chỉ thị thi hành, kiểm tra, xử lý các vụ việc vi phạm, đồng thời có những biện pháp và các chính sách giúp hàng vạn lao động làm pháo chuyển sang ngành sản xuất kinh doanh khác. Đây là một công việc rất khó khăn phức tạp vì nó gắn liền với việc xóa bỏ một tập quán lâu đời hàng bao thế kỉ lạc hậu, lãng phí, gây nguy hiểm. Chính phủ kiên quyết ( tập trung) và dân đồng tình (dân chủ) nên đã thành công.
2. Những khuyết điểm và yếu kém.
Bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn tồn tại nhưng yếu kém trong quản lý hành chính nhà nước cần khắc phục. Những sự vi phạm hành chính ngày càng gia tăng, và mức độ nghiêm trọng ngày càng lớn. Sự tùy tiện trong quản lý hành chính nhà nước, ban hành những quyết định trái thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền là không ít. Nạn tham nhũng tràn lan thách thức nhà nước và xã hội. Những tập tục lạc hậu chưa được xóa bỏ, nhưng thiếu sót trong quản lý vĩ mô, thái độ xử lý nghiêm túc của cấp trên, ý thức của các cán bộ đảng viên còn kém, trách nhiệm của từng thành viên, cá nhân chưa được rõ ràng. Trong đời sống xã hội, nhiều nơi, tính tập trung dân chủ không được đảm bảo, vẫn còn nhiều những sai phạm xảy ra, còn nhiều những oan khuất của người dân chưa được làm sáng tỏ. Tất cả nhưng sai sót, yếu kém đó đã và đang là vấn đề rất bức xúc, ngăn cản sự phát triển của đất nước cần phải được giải quyết, loại bỏ nhằm đảm bảo sự tập trung dân chủ.
Trên thực tế hiện nay còn không ít xã, phường, thị trấn cán bộ lãnh đạo chưa thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý. Điều đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chức năng lãnh đạo và uy tín của cán bộ xã, phường thị trấn trấn đối với cá nhân. Qua số liệu khảo sát ở 37 xã, 34 phường ở các tỉnh duyên hải miền Trung trong năm 2004 cho thấy: khoảng 25% xã, phường chưa thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính, đặc biệt có khoảng 8% vi phạm rất nghiêm trọng nguyên tắc này. Không ít xã, phường, thị trấn chưa thực hiện nguyên tắc thông báo công khai hóa những vấn đề liên quan đến đời sống kinh tế- xã hội, môi trường của người dân trên địa bàn để tranh thủ ý kiến tham gia đóng góp của dân trước khi quyết định. Đồng thời chưa tích cực, chủ động kết hợp và mạnh dạn kiến nghị với các đơn vị, các cơ quan cấp trên đối với những đơn vị do thiếu tinh thần trách nhiệm đã làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, điều kiện ăn ở của người dân trên địa bàn, nhất là các vấn đề như quy hoạch, giải tỏa mặt bằng, di dời vị trí nhà ở, xây dựng cơ sở hạ tầng. Điều này không chỉ dẫn đến tình trạng các quyết định quản lý của chính quyền cấp xã chưa phù hợp với điều kiện thực tế, gây hậu quả lãng phí mà còn làm cho người dân hoàn toàn bị động, trông chờ, thiếu an tâm, không an cư nên không lập nghiệp. Nhiều cán bộ xã, phường vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, có biểu hiện độc đoán, gia trưởng và tùy tiện. Nhiều vấn đề quan trọng không tổ chức lấy ý kiến, sự tham gia góp ý của người dân đã dẫn đến các quyết định quản lý được ban hành và thực hiện trong thực tế kém hiệu quả.
3. Những biện pháp chủ yếu để nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Một là: Xây dựng nhà nước pháp quyền với sức mạnh tối cao của pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân, đảm bảo thực hiện đúng đắn đường lối chính trị của Đảng cộng sản lãnh đạo và được thể chế hóa.
Hai là: Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị theo yêu cầu dân chủ hóa, đảm bảo vai trò và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, phát huy hiệu lực quản lý hành chính nhà nước.
Ba là: Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp và chuên môn hóa, thành thạo nghiệp vụ, am hiểu pháp luật, có thái độ tận tụy và khả năng sang tạo trong những nhiệm vụ được giao phó, giữ nghiêm kỉ luật và quy chế công chức trong khi thi hành công vụ, gương mẫu trong quan hệ và trong ứng xử với nhân dân theo chuẩn mực của văn hóa pháp luật và văn hóa dân chủ.
Bốn là: Xây dựng cơ chế thực hiện dân chủ và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước và trong đời sống cộng đồng. Cần cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ thành nghị quyết, quy chế, quy định có tính pháp lý. Tiếp tục nghiên cứu phân cấp quản lý, tránh tình trạng chồng chéo về nhiệm vụ và thẩm quyền.
Năm là: Nâng cao dân trí trong xã hội. cần có chủ trương triển khai tổ chức cuộc vận động , tuyên truyền, một cách cụ thể về nguyên tắc tập trung dân chủ.
VI. KẾT LUẬN.
Tập trung và dân chủ là một nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước khoa học, nhưng việc thực hiện đúng đắn nội dung của nguyên tắc này là một nhiệm vụ hết sức khó khăn và vô cùng quan trọng. Chỉ khi nào chúng ta kết hợp được sự tập trung và dân chủ một cách hài hoà thì mới phát huy được hết vai trò của nguyên tắc này trong thực tế xã hội nước ta hiện nay.
Việc tìm hiểu nguyên tắc tập trung dân chủ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng quan trọng đối với công tác quản lý xã hội và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước phải dựa trên quan niệm mới là quản lý tập trung trong điều kiện phát huy quyền tự chủ của tất cả các chủ thể xã hội. Có như vậy mới đưa đất nước đi lên, phát triển, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
V.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình luật hành chính Việt Nam, đại học luật Hà Nội, NXB CAND, Hà Nội 2008.
Hiến pháp 1992.
Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân.
Giáo trình luật hành chính, học viện hành chính quốc gia, NXB thành phố Hồ Chí Minh.
Giáo trình luật hành chính và tài phán hành chính Việt Nam, học viện hành chính quốc gia, NXB giáo dục.
Giáo trình luật hành chính Việt Nam, khoa luật đại học quốc gia Hà Nội.
google.com.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước.doc