ĐẶT VẤN ĐỀ
Cũng giống như bất kỳ hoạt động có mục đích nào, quản lý hành chính nhà nước được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đây chính là tư tưởng chủ đạo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động giúp cho các chủ thể quản lý hành chính nhà nước thực hiện có hiệu quả các công việc của mình trên các lĩnh vực đã được phân công. Một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động quản lý hành chính đó là nguyên tắc tập trung - dân chủ. Trong quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội thì việc áp dụng nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước có ý nghĩa vô cùng quan trong. Vậy ta hiểu nguyên tắc tập trung - dân chủ như thế nào và ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lý hành chính ở Việt Nam hiện nay ra sao?
NỘI DUNG: NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG - DÂN CHỦ VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC NÀY TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
11 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4386 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên tắc tập trung dân chủ và ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cũng giống như bất kỳ hoạt động có mục đích nào, quản lý hành chính nhà nước được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đây chính là tư tưởng chủ đạo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động giúp cho các chủ thể quản lý hành chính nhà nước thực hiện có hiệu quả các công việc của mình trên các lĩnh vực đã được phân công. Một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động quản lý hành chính đó là nguyên tắc tập trung - dân chủ. Trong quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội thì việc áp dụng nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước có ý nghĩa vô cùng quan trong. Vậy ta hiểu nguyên tắc tập trung - dân chủ như thế nào và ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lý hành chính ở Việt Nam hiện nay ra sao?
NỘI DUNG: NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG - DÂN CHỦ VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC NÀY TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG - DÂN CHỦ
Tập trung dân chủ là nguyên tắc thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa chỉ đạo tập trung thống nhất của cấp trên với việc mở rộng dân chủ cho cấp dưới, đảm bảo nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước.
1. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc chính trị - xã hội. Ngay từ Hiến pháp năm 1959 tại Điều 4, Hiến pháp 1980 quy định tại Điều 6 và hiện nay được quy định tại Điều 6 Hiến pháp 1992 ( sửa đổi, bổ sung năm 2001): “… Quốc hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Nguyên tắc này bắt nguồn từ yêu cầu quản lý xã hội của Nhà nước vừa bắt nguồn từ bản chất giai cấp của Nhà nước ta. Trong quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội đòi hỏi phải có sự tập trung quyền lực. Có tập trung quyền lực mới điều khiển được xã hội, mới thiết lập được một trật tự xã hội nhất định. Vì vậy, trong xã hội có giai cấp, quyền lực nhà nước chủ yếu tập trung vào Nhà nước. Đối với các nhà nước bóc lột thì sự tập trung này là độc đoán, chuyên quyền (đặc biệt đối với các nhà nước theo chính thể quân chủ chuyên chế). Còn nhà nước xã hộ chủ nghĩa nói chung và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng thì tập trung quyền lực là cần thiết, tuy nhiên phải dân chủ với nhân dân vì Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
2. Vì sao tập trung phải gắn liền với dân chủ?
Trong quản lý hành chính nhà nước, tập trung nhằm đảm bảo thâu tóm quyền lực nhà nước vào chủ thể quản lý để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện chính sách, pháp luật một cách thống nhất. Trong khi đó, dân chủ hướng tới việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lý nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lý, phát huy khả năng tiềm tang của đối tượng quản lý trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật. Cần phải có sự phối hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ việc đảm bảo cả hai yếu tố này trong quản lý hành chính nhà nước. Nếu chỉ có sự lãnh đạo tập trung mà không mở rộng dân chủ thì sẽ tạo điều kiện cho các hành vi lạm quyền, tệ nạn quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng phát triển. Ngược lại, không có sự lãnh đạo tập trung thống nhất sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương. Trong điều kiện hiện nay sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ là yêu cầu khách quan của việc “thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (Điều 15 Hiến pháp năm 1992) (sửa đổi, bổ sung năm 2001).
3. Nội dung của nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước.
Nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước biểu hiện ở những nội dung sau:
3.1. Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Các cơ quan quyền lực nhà nước như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp phải do nhân dân bầu ra theo bốn nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín trên cơ sở dân chủ. Các đại biểu dân cử thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, nói lên tiếng nói và nguyện vọng của nhân dân, chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân dân. Nếu không còn được sự tín nhiệm của nhân dân thì đại biểu dân cử có thể bị bãi nhiệm.
Hiến pháp của nhà nước ta đã ghi nhận nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân Hiến pháp của Nhà nước ta đã ghi nhận nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, cụ thể Điều 6 Hiến pháp năm 1992 ( sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã quy định: “ Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông quan Quốc hội và hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”.
Để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, một hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới địa phương đã được hình thành. Trong tổ chức và hoạt động cac cơ quan hành chính nhà nước luôn có sự phụ thuộc vào các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp.
Một là, cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định trong việc thành lập, sáp nhập hay giải thể các cơ quan hành chính nhà nước ở cùng cấp.
Ở Trung ương, Quốc hội thành lập ra Chính phủ và trao cho nó quyền hành pháp. Chính phủ do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm (đối với Thủ tướng), phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức (đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ) theo đề nghị của Thủ tướng, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các thành viên của Chính phủ. Chính phủ thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật qui định để thi hành Hiến pháp, luật và các nghị quyết của Quốc hội. Chính phủ thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số nhóm vấn đề quan trọng, trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì sẽ thực hiện theo ý kiến mà Thủ tướng đã biểu quyết. Thủ tướng có quyền quyết định cá nhân những vấn đề khác (Điều 20, Luật tổ chức Chính phủ 2001).
Ở địa phương, các Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở địa phương Ủy ban nhân dân các cấp do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra. Người đứng đầu cơ quan hành chính cấp trên có quyền phê chuẩn nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp về việc bầu Ủy ban nhân dân; có quyền điều động, miễn nhiệm, cách chức đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch cơ quan hành chính cấp dưới trực tiếp; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên khác của cơ quan hành chính cấp dưới trực tiếp. Ủy ban nhân dân thảo luận tập thể và quyết định theo đa số nhóm vấn đề quan trọng. Chủ tịch Ủy ban nhân dân quyết định những vấn đề còn lại thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân.
Các cơ quan khác trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước (như bộ, cơ quan ngang bộ,...) đều do cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp hay gián tiếp quyết định việc thành lập, thay đổi hay bãi bỏ. Quốc hội thành lập, sáp nhập, giải thể các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt theo sự đề nghị của Thủ tướng (sau khi đã được tập thể Chính phủ quyết định). Đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ làm việc theo chế độ thủ trưởng, bảo đảm tính dân chủ. Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân cùng cấp, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn cấp trên và hoạt động theo chế độ thủ trưởng. Tập trung dân chủ không phải là cơ quan cấp trên làm thay hoặc “lấn sân” cơ quan cấp dưới, đồng thời cũng không phải là việc cơ quan cấp dưới ỷ lại, đùn đẩy cho cấp trên.
Hai là,trong hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
Ba là, cơ quan quyền lực nhà nước trao quyền chủ động, sáng tạo cho các cơ quan hành chính nhà nước trong việc chỉ đạo thực hiện Hiến pháp, luật và các văn bản khác của cơ quan quyền lực nhà nước.
Bốn là, cơ quan quyền lực nhà nước không can thiệp vào hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước mà tạo điều kiện thuận lợi cần thiết để các cơ quan này hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình là quản lý hành chính nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tất cả sự phụ thuộc nêu trên nhằm mục đích đảm bỏa cho hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động. Đồng thời đó chính là việc đảm bảo tập trung quyền lực nhà nước - cơ quan do dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
3.2. Sự phụ tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với Trung ương.
Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên và trung ương tập trung quyền lực để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương. Thiếu sự phục tùng đó sẽ dẫn đến việc buông lỏng sự lãnh đạo, quản lý tập trung của trung ương và cấp trên, làm nảy sinh tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương. Sự phục tùng này biểu hiện ở hai phương diện tổ chức và hoạt động. Tất cả yêu cầu, mệnh lệnh do cấp trên và trung ương đưa ra cấp dưới và địa phương có nghĩa vụ phải thực hiện. Tuy vậy, cần phải nhấn mạnh rằng sự phục tùng vô điều kiện mà là sự phục tùng những mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật. Đồng thời cấp trên, trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, địa phương về công tác tổ chức, hoạt động và về các vấn đề khác của quản lý nhà nước, phải tạo mọi điều kiện để cấp dưới, địa phương phát huy sự chủ động, sáng tạo nhằm huy động mọi khả năng về trí tuệ, lao động… để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Có như vậy mới khắc phục được tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm mất đi tính chủ động sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của địa phương và cấp dưới.
3.3. Phân cấp quản lý .
Phân cấp quản lý là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới nhằm đạt được một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Khi tiến hành phân cấp quản lý, đã có sự phân định rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp trong bộ máy hành chính nhà nước. Mỗi cấp quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương tiện cần thiết để thực hiện tốt những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp mình. Trong phạm vi thẩm quyền được giao mỗi cấp quản lý được phép tiến hành những hoạt động nhất định nhằm phát huy tính năng động sáng tạo của mình.
Phân cấp quản lý là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên, điều này chỉ thực sự được thực hiện khi việc phân cấp quản lý đảm bảo được những yêu cầu sau:
Thứ nhất, việc phân cấp quản lí phải đảm bảo cho Trung ương có quyền quyết định trong những lĩnh vực then chốt, những vấn đề chiến lược. Ở Trung ương, Chính phủ là cơ quan đứng đầu trong hệ thống cơ quan nhà nước nên hoạt động quản lí hành chính của Chính phủ là hoạt động chủ yếu, bao trùm toàn bộ các lĩnh vực trong phạm vi cả nước: kinh tế - văn hóa – xã hội – an ninh – quốc phòng…Còn các bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn ở Trung ương có chức năng quản lí một ngành, một lĩnh vực nhất định trên phạm vi toàn quốc. Để đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước, Chính phủ thực hiện vai trò trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện và kiểm tra hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND.
Từ vị trí, tính chất, chức năng của cấp Trung ương (Chính phủ và bộ, cơ quan ngang bộ) như phân tích trên đây nên để đảm bảo cho việc phân cấp quản lí phải đảm bảo cho Chính phủ có quyền kiểm tra, thanh tra, đưa pháp luật vào đời sống nhằm giữ gìn trật tự công cộng, cơ quan ngang bộ thực hiện theo chế độ thủ trưởng.
Việc phân cấp quản lí phải đảm bảo cho Trung ương có quyền quyết định trong những vẫn đề then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược có ý nghĩa trong việc đảm bảo sự phát triển cân đối hài hòa của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lí tập trung và thống nhất của nhà nước trong phạm vi toàn quốc.
Thứ hai, cấp Trung ương mạnh dạn giao quyền cho các địa phương, các đơn vị cơ sở. Các cấp địa phương và đơn vị cơ sở trực thuộc của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Hầu hết các cơ quan có chức năng quản lí hành chính đều có các đơn vị cơ sở trực thuộc. Ví dụ: các trường đại học trực thuộc Bộ GD & ĐT; các tổng công ty, công ty, nhà máy trực thuộc Bộ công nghiệp, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, các đơn vị công an, quân đội trực thuộc Bộ công an, Bộ quốc phòng… Do đó mà việc cấp Trung ương giao quyền cho các đơn vị cơ sở, địa phương có ý nghĩa trước hết là phát huy được sức người, sức của, đẩy mạnh sản xuất, phục vụ đời sống đồng thời phát huy tính chủ động tích cực, sáng tạo của chủ thể quản lí ở Trung ương. Trên cơ sở được giao quyền, các cấp địa phương, đơn vị cơ sở hoàn thành mọi nhiệm vụ được Trung ương và cấp trên giao phó. Đây cũng là một biện pháp để Trung ương và cấp trên tránh phải ôm đồm các công việc mang tính sự vụ thuộc về chức trách của địa phương và cơ sở.
Thứ ba, việc phân cấp quản lí phải thật cụ thể, hợp lí trên cơ sở những quy định của pháp luật. Dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật, việc phân cấp quản lí cụ thể là phải được phân định rõ ràng, rành mạch, không chồng chéo lên nhau về nhiệm vụ, chức năng cũng như quyền hạn của từng cấp: Trung ương – địa phương, cấp trên – cấp dưới trong việc quản lí hành chính nhà nước. Ví dụ: Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ là những cơ quan hành chính nhà nước có vai trò quan trọng, chỉ đạo các cơ quan nhà nước ở địa phương. Phần lớn các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan này ban hành có hiệu lực trong cả nước. Còn UBND các cấp có chức năng quản lí hành chính nhà nước trong mọi lĩnh vực trên phạm vi lãnh thổ tương ứng được giới hạn trên cơ sở phân chia địa giới hành chính.
3.4. Hướng về cơ sở .
Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất, trực tiếp phụ vụ đời sống vật chất, tinh thần của người dân lao động. Do vậy trách nhiệm của mọi cơ quan nhà nước là phải tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị kinh tế, văn hóa – xã hội hoàn thành tốt công việc của mình.
Hướng về cơ sở chính là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa – xã hội trực thuộc. Các đơn vị đó, trước hết là những tế bào của nền kinh tế quốc dân, nơi trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất. Các đơn vị kinh tế được nhà nước bảo hộ quyền sở hữu các tài sản hợp pháp, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng được nhà nước hướng dẫn, giúp đỡ về vật chất, tinh thần. Các đơn vị văn hóa- xã hội được nhà nước cung cấp những trang thiết bị cần thiết để hoạt động, giúp đỡ về vật chất, tinh thần nhằm tạo ra những điều kiện tốt nhất để các đơn vị này hoạt động có hiệu quả. Nhà nước có các chính sách và biện pháp quản lý một cách thống nhất và chặt chẽ tổ chức và hoạt động của hệ thống các đơn vị cơ sở.
3.5. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều hay còn gọi là nguyên tắc song trùng trực thuộc. Sự phụ thuộc này thể hiện ở cả hai mặt tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và được pháp luật một cách cụ thể.
Ở địa phương, Ủy ban nhân dân các cấp trước hết phụ thuộc vào Hội đồng nhân dân cùng cấp (mối phụ thuộc ngang), đồng thời chúng còn phụ thuộc vào cơ quan hành chính có thẩm quyền chung ở cấp trên trực tiếp (mối phụ thuộc dọc). Mối phụ thuộc ngang tạo điều kiện cần thiết cho cấp dưới phát huy dân chủ, phát huy thế mạnh của địa phương để hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên đã giao phó. Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (sửa đổi 2003) quy định ủy ban nhân dân do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra…Kết quả bầu ra các thành viên của Ủy ban nhân dân phải được Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải được Thủ tưởng Chính phủ phê chuẩn và Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và Ủy ban nhân dân cấp trên. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước hội đồng nhân dân cùng cấp và Chính phủĐiều 45,46 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2004.
. Mối phụ thuộc dọc giúp cho cấp trên có thể tập trung quyền lực nhà nước để chỉ đạo hoạt động của cấp dưới, tạo nên một hoạt động chung thống nhất.
Nguyên tắc phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương nhằm đảm bảo thống nhất giữa lợi ích chung của cả nước với lợi ích của địa phương, giữa lợi ích ngành với lợi ích vùng lãnh thổ. Ví dụ: Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh vừa phải chịu trách nhiệm và báo cáo trước Hội đồng nhân dân tỉnh và Chính Phủ.
II. Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
1. Nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở pháp lí để đảm bảo thực tế các văn bản pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước.
Cũng như giống như các cơ quan nhà nước khác, ngoài những đặc trưng cơ bản như nhân danh quyền lực nhà nước, có cơ cấu tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, …thì cơ quan hành chính nhà nước ta hiện nay còn có đặc trưng riêng, thể hiện sự khác biệt so với các cơ quan nhà nước khác đó là chức năng quản lí hành chính nhà nước. Bởi vậy để đảm bảo sự ổn định, bình đẳng trong cuộc sống, Nhà nước ta đã dùng pháp luật như một công cụ để quản lí mọi mặt vần đề của xã hội mà việc đặt ra các nguyên tắc cơ bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Một trong những nguyên tắc cơ bản, rõ nét có thể kể đến trong hoạt động quản lí hành chính ở nước ta hiện nay là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tại sao nói nguyên tắc tập trung dân chủ có ý nghĩa là cơ sở pháp lí để đảm bảo thực tế các văn bản pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước? Như đã phân tích ở trên:
+ Nói đến “nguyên tắc” là nói đến một khuôn mẫu, chuẩn mực, quy định những tư tưởng chủ đạo bắt nguồn từ cơ sở khoa học của quản lí, từ bản chất của chế độ, được quy định trong pháp luật, làm nền tảng cho tổ chức và hoạt động quản lí hành chính nhà nước.
+ Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của Nhà nước. Điều này thể hiện tính chất pháp lí của nguyên tắc; nó tạo ra cơ sở để buộc các chủ thể phải tuân theo một cách thống nhất và chính xác nguyên tắc này trong quản lí hành chính nhà nước.
+ Theo đó, cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành – điều hành (đó là những hoạt động tiến hành trên cơ sở luật, và thi hành luật). Mà tính chất chấp hành được thể hiện ở mục đích của quản lí hành chính nhà nước ta là đảm bảo thực hiện trên thực tế các văn bản pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước.
Tức là trên cơ sở Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật, Nghị Quyết của Quốc hội, Pháp lênh của Ủy ban Thường Vụ Quốc hội thì cơ quan hành chính nhà nước ban hành các văn bản mang tính chất dưới luật.
- Chính phủ ban hành ra văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức là Nghị định;
- Thủ tướng Chính phủ ra: Quyết định;
- Bộ, cơ quan ngang Bộ ra: Thông tư;
- Ủy ban nhân dân ra Quyết định, chỉ thị;
Ví dụ: Căn cứ và Luật tổ chức Chính phủ ngày 25/12/2001; Căn cứ Luật Đất Đai ngày 26/11/2003, Chính phủ ban hành Nghị định 18/2004/ND-CP ngày 29/10/2004.
2. Nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở pháp lí giúp cơ quan hành chính nhà nước tiến hành hoạt động tổ chức và chỉ đạo một cách hiệu quả.
+ Do nguyên tắc tập trung dân chủ mang tính khách quan và khoa học, được xây dựng, tổng kết và rút ra từ thực tiễn quản lí hành chính nên chúng không thể là những nội dung chủ quan theo ý muốn của các chủ thể quản lí hành chính nhà nước. Đồng thể hiện rõ nét của bản chất Nhà nước – Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Chính vì vậy, Nhà nước ta coi nguyên tắc tập trung dân chủ là công cụ chủ yếu để cơ quan hành chính quản lí xã hội về mọi mặt một cách hiệu quả.
Ví dụ:
Chính phủ thống nhất quản lý công tác quy hoạch trên phạm vi cả nước. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trực tiếp quyết định quy hoạch cấp quốc gia, bao gồm: quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương; quy hoạch các công trình kết cấu hạ tầng quan trọng có ý nghĩa chiến lược; quy hoạch tổng thể phát triển ngành, vùng kinh tế; Quy hoạch chung xây dựng các đô thị (từ loại II trở lên); quy hoạch phát triển các Khu công nghiệp, Khu công nghệ cao. Các bộ quản lý ngành phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng quy hoạch phát triển ngành, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Bộ trưởng Bộ quản lý ngành quyết định quy hoạch cụ thể phát triển nội bộ ngành, lĩnh vực theo phân công của Chính phủ.
Trên cơ sở quy hoạch tổng thể của cả nước, của ngành, của vùng kinh tế, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng các quy hoạch cấp địa phương, bao gồm: quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của các tiểu vùng lãnh thổ thuộc tỉnh và của các đơn vị hành chính trực thuộc; quy hoạch cụ thể phát triển ngành trên địa bàn; Quy hoạch xây dựng các đô thị (từ loại III trở xuống), nông thôn của tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phê chuẩn, trước khi quyết định.
Thực tế hiện nay, sự phân cấp trong quản lý hành chính nhà nước vẫn còn bộc lộ rất nhiều hạn chê, thực sự chưa quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước. Tình trạng phân tán thiếu trật tự kỉ cương trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước có chiều hướng gia tăng. Vì vậy, khi tiến hành cải cách bộ máy hành chính nhà nước phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc. Thể chế hóa kịp thời đường lối chủ trương chính sách của Đảng về cải cách bộ máy hành chính nhà nước thành các quy phạm pháp luật trong từng giai đoạn cụ thể. Luôn xuất phát từ lợi ích của dân, đáp ứng quyền lợi, nguyện vọng của dân đảm bảo nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước.
KẾT LUẬN
Có thể nói, nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản và ý nghĩa quan trọng trong quản lý hành chính nhà nước với những nội dung đó là sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp; sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương; việc phân cấp quản lý; hướng về cơ sở và sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ ngày càng trở nên cấp thiết nhằm xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nguyên Tắc Tập Trung Dân Chủ và ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam.doc