LỜI NÓI ĐẦU
Nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét xử nói chung và trong xét xử vụ án dân sự nói riêng. Nguyên tắc này được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao và được đảm bảo thi hành trên thực tế. Tuy nhiên, việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này ở nước ta vẫn còn một số bất cập, hạn chế, khiến cho nguyên tắc này chưa thực sự phát huy được hết ý nghĩa của nó.
I, LÝ LUẬN CHUNG
1, Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
1.1, Khái niệm
1.2, Ý nghĩa
2, Cơ sở pháp lý của nguyên tắc
II, NỘI DUNG NGUYÊN TẮC
1, Khi xét xử, TP và HTND độc lập
2, Khi xét xử TP và HTND chỉ tuân theo pháp luật
3, Mối quan hệ giữa độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
III, VIỆC ĐẢM BẢO THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC
1, Thành tựu đạt được
2, Hạn chế trong việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc
3, Kiến nghị tăng cường đảm bảo nguyên tắc
KẾT LUẬN
8 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3156 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét xử nói chung và trong xét xử vụ án dân sự nói riêng. Nguyên tắc này được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao và được đảm bảo thi hành trên thực tế. Tuy nhiên, việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này ở nước ta vẫn còn một số bất cập, hạn chế, khiến cho nguyên tắc này chưa thực sự phát huy được hết ý nghĩa của nó.
NỘI DUNG
I, LÝ LUẬN CHUNG
1, Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
1.1, Khái niệm
Nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một nguyên tắc cơ bản trong Luật TTDS Việt Nam, thể hiện tư tưởng, định hướng trong hoạt động xét xử các vụ việc dân sự. TP và HTND độc lập khi xét xử, tự mình quyết định việc giải quyết các vụ việc dân sự mà không bị chi phối bởi bất kỳ ý kiến của cá nhân, cơ quan, tổ chức nào cũng như của chính các thành viên HĐXX và tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Tuy nhiên, độc lập không có nghĩa là tùy tiện mà phải căn cứ vào pháp luật để xét xử.
Ngoài việc tuân theo các quy định của pháp luật, TP và HTND chỉ tuân thủ các quy tắc xét xử. Điều này nhằm tránh mọi sự lạm dụng quyền lực của các TP, cũng như để cho các TP tránh được mọi áp lực từ phía các cơ quan Nhà nước.
Độc lập xét xử là một nguyên tắc Hiến định. Trong TTDS, TA độc lập ngay từ khi đương sự nộp đơn khởi kiện lên TA và TA thụ lý đơn khởi kiện. TP và HTND tuy độc lập xét xử nhưng phải trên cơ sở tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự. TA chỉ thụ lý vụ án khi có đơn khởi kiện của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự. Trong quá trình tố tụng, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi, bổ sung các yêu cầu của mình; có quyền thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Như vậy, TA mặc dù giữ vai trò chủ định, độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật, song việc giải quyết vụ án dân sự vẫn phải dựa trên cơ sở tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên đương sự về việc giải quyết vụ án.
1.2, Ý nghĩa
Nguyên tắc này là cơ sở , nền tảng để xây dựng, thực hiện các quy phạm khác của pháp luật TTDS . Đồng thời, có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng xét xử các vụ án dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cụ thể:
Thứ nhất, đây là một trong những nguyên tắc nền tảng để tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ổn định các quan hệ kinh tế - xã hội trong giao lưu dân sự.
Thứ hai, việc thực hiện đúng và đầy đủ nguyên tắc này góp phần đảm bảo, nâng cao chất lượng xét xử; khẳng định được vị trí, vai trò và trách nhiệm của TP và HTND trong hoạt động xét xử các vụ án dân sự.
Bên cạnh đó, độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật còn bảo đảm một môi trường đầu tư và kinh doanh lành mạnh, các quyền cơ bản của mỗi con người trong xã hội được đảm bảo, góp phần vào công cuộc phòng chống tham nhũng.
2, Cơ sở pháp lý của nguyên tắc
Đây là một nguyên tắc Hiến định, được quy định từ Hiến pháp năm 1959. Tại Hiến pháp năm 1992, nguyên tắc TP và HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nói chung được quy định tại Điều 130. Sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của TP và HTND trong lĩnh vực TTDS nói riêng được quy định tại Điều 12 BLTTDS: “Khi xét xử vụ án dân sự, TP và HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật…”.
II, NỘI DUNG NGUYÊN TẮC
1, Khi xét xử, TP và HTND độc lập
1.1, Khi xét xử, TP và HTND độc lập với các yếu tố bên ngoài
1.1.1, Khi xét xử, TP và HTND độc lập với VKS
Xét xử vừa là hoạt động chấp hành pháp luật, vừa là hoạt động áp dụng pháp luật. Do vậy, TA phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật trước khi áp dụng đối với các đối tượng khác. Để đảm bảo được điều này thì hoạt động xét xử của TA được đặt dưới sự giám sát của VKS.
Theo khoản 1 Điều 197 Điều 234 BLTTDS 2004, Kiểm sát viên có quyền phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của TP, HĐXX; việc chấp hành pháp luật của người tham gia TTDS… Tuy nhiên, những ý kiến này chỉ mang tính chất khuyến nghị và không có ý nghĩa trực tiếp làm thay đổi hành vi tố tụng và phán quyết của HĐXX. Khi xét xử, TP và HTND phải căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiếm tra, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đối chiếu với các quy định của pháp luật và trên cơ sở nhận định, đánh giá của mình để ra bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự và có quyền kết luận khác với ý kiến của VKS. Hoạt động kiểm sát xét xử trong TTDS của VKS không làm ảnh hưởng tới nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
1.1.2, Khi xét xử TP và HTND độc lập với TA các cấp
Việc chỉ đạo của Chánh án đối với việc giải quyết vụ việc dân sự không phải là duyệt án mà chỉ là định hướng, hướng dẫn các TP áp dụng đúng pháp luật. Quyền quyết định cuối cùng vẫn thuộc về HĐXX, nếu sai, HĐXX phải chịu trách nhiệm về phán quyết của mình. Nguyên tắc trao đổi án cũng chỉ giúp TP xem xét vụ án ở nhiều góc cạnh, hạn chế những sao sót chứ không bắt buộc TP phải tuân theo.
Trong mối quan hệ giữa các cấp xét xử: Trong xét xử phúc thẩm, HĐXX phúc thẩm hoàn toàn độc lập với những nhận định của TA cấp sơ thẩm về nội dung của vụ án. HĐXX phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho TA cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án, nhưng không có quyền yêu cầu TA cấp dưới công nhận hay bác bỏ những chứng cứ nào trong quá trình xét xử lại vụ án, cũng như không có quyền yêu cầu TA cấp dưới xét xử theo những nhận định của mình. TA cấp sơ thẩm khi xét xử lại vụ án thì vẫn độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Các hướng dẫn của TA cấp trên đối với TA cấp dưới thông qua việc tổng kết kinh nghiệm xét xử không phải là hướng dẫn hay chỉ đạo việc xét xử một vụ án cụ thể mà chỉ có ý nghĩa là đường lối xét xử chung, đảm bảo tính thống nhất của pháp luật.
1.1.3, Nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập trong mối quan hệ với nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội
Điều 4 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội…”. Sự độc lập của TP và HTND trong xét xử không mâu thuẫn với quy định này. Vì Đảng lãnh đạo chặt chẽ cơ quan tư pháp về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cán bộ nhưng Đảng không can thiệp vào hoạt động xét xử từng vụ án cụ thể của TA. Mọi sự can thiệp trái pháp luật của cá nhân Đảng viên và của cấp ủy Đảng vào hoạt động xét xử của TP và HTND đều là nhận thức không đúng về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xét xử của TA.
1.1.4, Khi xét xử TP và HTND độc lập với các cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân và dư luận xã hội
Một nguyên tắc cơ bản trong xét xử là xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự, TP và HTND phải tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân nhưng không vì sức ép của báo chí và dư luận xã hội mà xét xử không khách quan, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
1.2, Khi xét xử, TP và HTND độc lập với các yếu tố bên trong.
Bên cạnh sự độc lập với các yếu tố bên ngoài, nguyên tắc này còn đòi hỏi chính các thành viên của HĐXX cũng phải độc lập với nhau trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ và đưa ra các kết luận về vụ án, mà không phụ thuộc vào quan điểm của các thành viên khác trong HĐXX.
HTND là đại diện của nhân dân tham gia xét xử, giám sát, chế ước và hạn chế tiêu cực trong hoạt động của TA, bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Do đó, HTND khi xét xử phải độc lập, chỉ tuân theo pháp luật và ngang quyền với TP.
TP và HTND hỗ trợ nhau giải quyết vụ việc dân sự, song vẫn có sự độc lập với nhau trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, kiểm tra, đánh giá các tài liệu, chứng cứ làm cơ sở cho việc giải quyết yêu cầu của đương sự.
Trong quá trình nghị án, TP không được lấy quyền do mình là chủ tọa phiên tòa mà áp đặt ý kiến, nhận định lên HTND. HTND cũng không được dựa vào ưu thế số đông để giải quyết vụ án theo quan điểm của riêng họ.
Sự độc giữa TP và HTND có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm cho hoạt động xét xử được tiến hành một cách nghiêm minh, đúng pháp luật. Tuy nhiên, phải hiểu độc lập không có nghĩa là hoàn toàn tách biệt với nhau.
2, Khi xét xử TP và HTND chỉ tuân theo pháp luật
Đây chính là giới hạn của hoạt động xét xử. Độc lập xét xử không đồng nghĩa với xét xử tùy tiện. Sự độc lập trong hoạt động xét xử đòi hỏi TP phải có trách nhiệm xét xử đúng pháp luật, phải ngăn chặn được sự lạm dụng địa vị pháp lý trong quan hệ tố tụng. Khi xét xử, TP và HTND phải xem xét, đánh giá một cách khách quan, toàn diện các tình tiết của vụ án để có thể áp dụng chính xác pháp luật. Áp dụng luật phải sáng tạo, linh hoạt đối với từng trường hợp chứ không được rập khuôn máy móc.
TP và HTND chỉ tuân theo pháp luật , cả luật nội dung và luật hình thức. Hoạt động xét xử thể hiện trực tiếp thái độ của nhà nước đối với ác vụ án cụ thể. Do đó, hoạt động xét xử phải chính xác, công minh trong việc vận dụng và áp dụng pháp luật, “tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân” (khoản 1 Điều 13 BLTTDS)
3, Mối quan hệ giữa độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ, ràng buộc lẫn nhau. Độc lập và điều kiện tiên quyết để TP và HTND chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử. Và ngược lại, chỉ tuân theo pháp luật là cơ sở cần thiết để TP và HTND được độc lập khi xét xử. Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì sẽ dẫn đến sự tùy tiện, độc đoán, chủ quan, duy ý chí khi xét xử. Còn nếu chỉ tuân theo pháp luật mà không được độc lập thì có thể dẫn tới sự can thiệp trái phép từ phía các cơ quan, tổ chức, cá nhân vào hoạt động xét xử của TA, làm mất đi tính độc lập của TP và HTND. Đây là hai mặt của một vấn đề, chúng có mối quan hệ tác động qua lại và bổ sung cho nhau, nhằm bảo đảm cho việc xét xử các vụ án dân sự được khách quan, công bằng và đúng pháp luật.
III, VIỆC ĐẢM BẢO THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC
1, Thành tựu đạt được
Để đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của TP và HTND, TANDTC rất coi trọng việc giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức nghề nghiệp cho các TP và HTND. Bên cạnh việc ban hành các quy tắc nghề nghiệp, quy tắc ứng xử, TANDTC hàng năm còn mở nhiều đợt tập huấn về chuyên môn, các cuộc hội thảo nhằm nâng cao kỹ năng cho các TP và HTND. Đồng thời cũng có những cơ chế xử lý nghiêm khắc đối với các vi phạm liên quan đến việc vi phạm đạo đức nghề nghiệp của người TP. Số lượng và chất lượng của đội ngũ TP được cải thiện đáng kể. Trong năm 2010, số TP được bổ nhiệm lại là 1053 người, số TP TAND các cấp được bổ nhiệm lần đầu là 523 người. Hiện nay, tổng số TP TAND các cấp là 4680 người, tăng khoảng 350 người so với cùng kỳ năm trước Tòa án nhân dân tối cao (2010) “Báo cáo tổng kết công tác năm 2010 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2011 của ngành Tòa án nhân dân”
Đảng và Nhà nước đã quan tâm tới việc đầu tư cơ sở vật chất và cải thiện chế độ tiền lương cho ngành TA. Quốc hội đã đổi mới hình thức phân bổ kinh phí cho ngành TA, kinh phí tăng thêm 19%/năm; năm 2010, kinh phí được phân bổ tăng trên dưới 30%. Bên cạnh đó, chế độ tiền lượng, làm thếm giờ, phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên, vượt khung cũng từng bước được đổi mới.
2, Hạn chế trong việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc
Về hệ thống pháp luật tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn hạn chế, vướng mắc. Đặc biệt, thủ tục TTDS ở nước ta hiện nay là thủ tục xét hỏi, khiến cho TA có xu hướng lệ thuộc vào hồ sơ vụ án, các giai đoạn tố tụng diễn ra một cách khép kín, các bên đương sự và luật sư không phá huy được hết vai trò của mình với tư cách là những người tham gia tố tụng.
Về mô hình tổ chức và hoạt động của TAND, hệ thống TA tổ chức theo cấp hành chính lãnh thổ tạo ra một bộ máy cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả và không phải huy được hết vị trí, vai trò của mỗi cấp TA trong hệ thống TA.
Về chế độ đối với TP, cơ chế tuyển chọn và bổ nhiệm TP còn nhiều bất cập, nhiệm kỳ của TP là ngắn so với nhiều nước dẫn đến tình trạng một số TP có thể hành xử theo hướng có lợi nhất cho việc tái bổ nhiệm mình.
Đối với HTND còn nhiều bất cập, quyền năng pháp lý trao cho HTND là khá lớn song chưa có cơ chế để cho các HTND phát huy hết vai trò của mình. Hiện nay, phần lớn HTND là các công chức, viên chức kiêm nhiệm hoặc đã nghỉ hưu, động lực để họ tham gia vào vụ án là không cao…
3, Kiến nghị tăng cường đảm bảo nguyên tắc
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND: tổ chức TA theo cấp xét xử không phụ thuộc vào đơn vị hành chính để tạo ra sự độc lập trong hoạt động xét xử, hạn chế sự lệ thuộc vốn đã tồn tại lâu năm giữa các cấp TA. Đồng thời, phải bảo đảm tự chủ về ngân sách cho TA, vì có tự kiểm soát được chi tiêu thì mới duy trì được tính độc lập.
- Đổi mới chế độ đối với Thẩm phán:
+ Kéo dài nhiệm kỳ của thẩm phán (7-10 năm, có thể tái bổ nhiệm)
+ Đổi mới cơ chế tuyển chọn và bổ nhiệm TP: mở rộng đối tượng không chỉ từ cán bộ TA mà còn cả điều tra viên, công tố viên, luật sư, luật gia đã qua đào tạo nghề TP nhưng chưa làm TP
+ Thay đổi phương pháp đào tạo, phối hợp với các tổ chức quốc tế và TA các nước để TP được học hỏi, trau dồi kinh nghiệm và chuyên môn về pháp luật, nâng cao trình độ ngoại ngữ.
+ Đảm bảo chế độ tiền lương và đãi ngộ vật chất
+ Tăng cường cơ chế kiểm soát tư cách và hoạt động của thẩm phán
- Đổi mới chế định HTND
+ Quy định thẩm quyền bầu HTND của các TAND, tổ chức Đoàn Hội thẩm TAND chung cho cả 2 cấp TA
+ Cụ thể hóa các tiêu chuẩn lựa chọn giới thiệu và bầu làm HTND so với các quy định trong Pháp lệnh TP và HTND 2002
+ Coi Đoàn HTND là 1 tổ chức xã hội – nghề nghiệp giống như Đoàn luật sư, không chịu sự quản lý của Chánh án TAND cùng cấp, có kinh phí hoạt động riêng.
+ Pháp luật cần quy định cụ thể về quy chế trách nhiệm của HTND.
- Hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục tổ tục dân sự: chuyển hướng từ thủ tục xét hỏi sang thủ tục tranh tụng. Tranh tụng trong TTDS thể hiện bản chất dân chủ và nhân đạo nhằm bảo về các quyền con người, tạo ra những cơ chế hợp lý đảm bảo cho các TP và HTND được độc lập trong xét xử và chỉ tuân theo pháp luật.
Để đảm bảo độc lập phải cần phải có cơ sở pháp lý vững chắc: thực hiện đồng bộ các giải pháp từ tổ chức, cán bộ đến cơ sở vật chất kỹ thuật, từ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đến xây dựng và hoàn thiện quy định của pháp luật về thể chế xét xử.
KẾT LUẬN
Như vậy, chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng trong việc thực thi nguyên tắc này trên con đường xây dựng và bảo vệ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy đạt được nhiều thành tựu, song,vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định, cản trở việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này trên thực tế. Do đó, chúng ta cần sớm hoàn thiện khung pháp lý và thực hiện triệt để các quy định đó.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này.docx