LỜI MỞ ĐẦU:
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết nền kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng cảu nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì mục tiêu cơ bản khi nhắc tới chính sách tiền tệ là tỷ lệ việc làm cao, tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định giá cả, ổn dịnh lãi suất, ổn định các thị trường tài chính, ổn định trên các thị trường ngoại hối.
Vấn dề đặt ra cho ngân hàng trung ương là đạt được một hay một số mục tiêu nào đó ví dụ, ổn định giá cả cùng với tỷ lệ có việc làm cao, nhưng không có những tác động trực tiếp đến mục tiêu này. Ngân hàng trung ương có một loạt các công cụ :
Nghiệp vụ thị trường mở.
Thay đổi lãi suất chiết khấu .
Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Hạn mức tín dụng.
Hạn mức lãi suất.
Có thể tác động gián tiếp tới các mục tiêu trên sau một thời gian, thông thường khoảng hơn một năm. Ở việt nam, từ khi đổi mới tới nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện, và phát huy tác dụng với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn côn cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể cảu nền kinh tế luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà ngiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Với mục đích trau dồi kiến thức và phân tích những ưu nhược điểm của chính sách tiền tệ, đề tài “ Nhận xét các công cụ của chính sách tiền tệ từ năm 2008 đến năm 2010 của ngân hàng nhà nước Việt Nam và đề ra giải pháp” sẽ là một cái nhìn khách quan về chính sách tiền tệ Việt Nam.
22 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3980 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nhận xét công cụ điếu hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước trong thời gian từ 2008 – 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHẬN XÉT CÁC CÔNG CỤ ĐIẾU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN TRONG THỜI GIAN TỪ 2008 – 2010
LỜI MỞ ĐẦU:
chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết nền kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng cảu nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì mục tiêu cơ bản khi nhắc tới chính sách tiền tệ là tỷ lệ việc làm cao, tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định giá cả, ổn dịnh lãi suất, ổn định các thị trường tài chính, ổn định trên các thị trường ngoại hối.
vấn dề đặt ra cho ngân hàng trung ương là đạt được một hay một số mục tiêu nào đó ví dụ, ổn định giá cả cùng với tỷ lệ có việc làm cao, nhưng không có những tác động trực tiếp đến mục tiêu này. Ngân hàng trung ương có một loạt các công cụ :
ünghiệp vụ thị trường mở.
üthay đổi lãi suất chiết khấu .
üthay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
ühạn mức tín dụng.
ühạn mức lãi suất.
Có thể tác động gián tiếp tới các mục tiêu trên sau một thời gian, thông thường khoảng hơn một năm. Ở việt nam, từ khi đổi mới tới nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện, và phát huy tác dụng với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn côn cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể cảu nền kinh tế luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà ngiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Với mục đích trau dồi kiến thức và phân tích những ưu nhược điểm của chính sách tiền tệ, đề tài “ Nhận xét các công cụ của chính sách tiền tệ từ năm 2008 đến năm 2010 của ngân hàng nhà nước Việt Nam và đề ra giải pháp” sẽ là một cái nhìn khách quan về chính sách tiền tệ Việt Nam.
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐẦU NĂM 2008
Bối cảnh nền kinh tế năm 2008
Với tình hình chung là thị trường BDS chỉ trong vài tháng đã gia tăng chóng mặt, giá tăng từ 2 đến 3 lần so với năm 2007 đã tạo thành những bong bóng BDS đe dọa nhà đầu tư.
Thị truờng chứng khoán biến động thất thường nhưng hiện có xu hướng đi xuống với tốc độ 30%.
Muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phải có vốn đầu tư. Tuy nhiên dòng vốn chủ yếu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hiện nay là vốn tín dụng ngân hàng so với vốn đầu tư của ngân hàng và vốn tự có của nhà đầu tư.
Vô tình chúng ta đã vướng vào 1 vòng tròn mang tên “Tín dụng”.
Nhà đàu tư A vay mượn NDT B, trong khi NDT B lại vay mượn NDT C, tuy nhiên trước đó C lại vay mượn vốn của A. Tất cả đã tạo nên 1 vòng tròn khép kín, và cái thực sự di chuyển giữa vòng tròn là “tín dụng”. Với mục tiêu kiềm chế lạm phát, hỗ trợ thị trường chứng khoán và kìm hãm sự tăng trưởng nóng của thị trường BDS. Ngân hàng nhà nước Việt Nam đứng trước một bài toán khó trong công cuộc điều hành chính sách tiền tệ.
Tất cả những khó khăn trên được đặt lên vai trò chính sách tiền tệ của NHNN.
Biện pháp của ngân hàng nhà nước việt nam.
Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, chỉ trong 3 tuần đầu của tháng 2 năm 2008, các ngân hàng thương mại đã phải thực hiện đồng thời 4 quyết định về thắt chặt tiền tệ của NHNN.
1/ Quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% đồng thời mở rộng them phạm vi tiền gửi dự trữ bắt buộc.
Các ngân hàng nhà nước phải nộp 20000 tỷ cho NHNN.
2/ Phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc. Ba NHTM Nhà nước có quy mô lớn nhất mỗi ngân hàng phải mua tới 3.000 tỷ đồng. Hai NHTM cổ phần thuộc tốp đứng đầu phải mua 1.200 tỷ đồng và 1.500 tỷ đồng. Các NHTM cổ phần thuộc nhóm giữa phải mua 400 - 500 tỷ đồng/ngân hàng.
Không chỉ những vậy, các NH phải mua 20.300 tỷ đồng trái phiếu cùng một lúc, gấp từ 20 đến 40 lần so với mức 500 tỷ - 1.000 tỷ đồng tín phiếu trong các phiên đấu thầu thường kỳ.
Điều đặc biệt nữa, nếu như các loại tín phiếu trước đây được giao dịch trên thị trường mở với NHNN để được vay tái cấp vốn thì quyết định lần này NHNN nói rõ là không được vay tái cấp vốn. Do đó các NHTM khi thiếu hụt tạm thời thanh khoản không thể sử dụng tín phiếu mình đang sở hữu để vay tái cấp vốn ngắn hạn 1-2 tuần tại NHNN. Kỳ hạn của tín phiếu lại khá dài tới 364 ngày, hay gần 1 năm.
=> Là 1 điều chỉnh mở rộng nghiệp vụ thị trường mở của NHNN nhằm thu hồi lượng tiền mặt quá lớn đồng thời thắt chặt tín dụng của các ngân hàng thương mại.
3/ Từ tháng 2/2008, các loại lãi suất chủ đạo của NHNN tăng cao hơn trước. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm.
4/. NHNN ban hành Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN, ngày 1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng khoán. Trái với mong đợi của các NHTM, Quyết định 03 còn thắt chặt cho vay chứng khoán hơn so với Chỉ thị 03 trước đây.
=>Với 4 quyết định được coi là cứng rắn và kiên quyết nói trên trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN đã gây ra các tác động sốc và phản ứng tiêu cực tức thì của thị trường tiền tệ và hoạt động của NHTM. Có thể nói đây là 1 cú phanh gấp trong quá trình tụt dốc của nền kinh tế VN, ngăn chặn sự leo thangmaats giá dồng tiền và lạm phát
è Năm 2008 là năm thắt chặt tiền tệ.
3. Phản ứng của các ngân hàng thương mai
1/Lãi suất ngân hàng đã ở mức cực kỳ nguy hiểm.
Trước tiên thị trường tiền tệ nóng lên chưa từng thấy trong lịch sử nền kinh tế Việt Nam, vốn VND khan hiếm. Trên thị trường liên ngân hàng hầu như chỉ có người vay mà không có người cho vay. Trên thị trường tiền tệ các NHTM liên tục bám đuổi nhau tăng lãi suất huy động vốn nội tệ. Chỉ trong có 1 tuần một số NHTM điều chỉnh lãi suất tới 2-3 lần
è Là tác dụng của vòng tròn “tín dụng. Nguồn vốn lúc này chính là chìa khóa.
è Hậu quả của vòng tròn này là cuộc chạy đua lãi suất giữa các ngán hàng nhằm mục đích giữ khách hàng của mình không rút tiền gửi, chẳn hạn như:
Ngày 20/2/2008, NHTM CP Đông Nam Á (Sea Bank) công bố biểu lãi suất mới được coi như “một quả bom” dội vào cuộc chạy đua cạnh tranh tăng lãi suất trên thị trường hiện nay, với mức kỷ lục là 12%/năm.
Không chịu thua, ngày 21/2/2008 NHTM cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB) đưa ra chương trình siêu lãi suất, với mức lãi suất cao nhất lên tới 12,5%/năm cho kỳ hạn 1 tháng.
Không chịu kém, từ ngày 22/2/2008, NHTM cổ phần Sài Gòn (SCB) đưa ra mức lãi suất cao hơn, huy động vốn kỳ hạn 12 tháng với lãi suất tới 13,5%/năm.
Một số ngân hàng còn đưa ra mức lãi suất thỏa thuận tới 1.2%- 1.3%/ tháng đối với khách hàng gửi tiền lớn, hay giữ chân khách hàng rút tiền đến hàng tỷ đồng.
è Lãi suất ngân hàng đã ở mức “cực kỳ nguy hiểm”. Là nguyên nhân tiềm ẩn của cơn đổ vỡ những quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng trong thời điểm lạm phát lên đến 200%-300% như lúc này. Băng chứng là cuộc đổ vỡ của gần 6000 quỷ tín dụng và HTX tín dụng vào năm 1987-1988 ở nước ta.
2/Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất lien ngân hàng tăng cao chóng mặt.
Lãi suất liên ngân hàng ngày 15/2/2008 lên tới 30,1%/năm; ngày 18/2/2008 lập một kỷ lục mới khi lên tới 33%/năm, ngày 19/2/2008 kỷ lục cao hơn nữa lên tới 43%/năm…
è một phản ứng dữ dội hiếm thấy và cũng được coi là rất nguy hiểm. đây là phản ứng sốc thuốc của các ngân hàng thương mại, tạo nên 1 cơn hỗn loạn tạm thời
èCác giải pháp của NHNN trước hiện tượng sốc thuốc:
● Thị trường “căng” đến mức ngày 22/2/2008. NHNN phải bơm thêm 6.000 tỷ đồng qua nghiệp vụ thị trường mở cho một số NHTM trúng thầu, với lãi suất tới 13%/năm của kỳ hạn 14 ngày, giảm 2% so với mức 15%/năm của ngày 21/2/2008.
● Trong vòng tuần , NHNN phải bơm ra tới 39.000 tỷ đồng, mức hỗ trợ thanh khoản chưa từng có trong lịch sử can thiệp của NHNN từ trước đến nay.
4. Nhận xét
1/ Nhược điểm
Với mức hỗ trợ thanh khoản chưa từng có trong lịch sử can thiệp của NHNN từ trước đến nay, bằng trên 50% so với mức 61.133 tỷ đồng mua vào giấy tờ có giá ngắn hạn của cả năm 2007. Tuy nhiên hầu như chỉ có các NHTM Nhà nước, một số ít NHTM cổ phần quy mô lớn, một số chi nhánh Ngân hàng nước ngoài có điều kiện đang sở hữu tín phiếu NHNN và Tín phiếu Kho bạc Nhà nước, trái phiếu đô thị TP.HCM,… thì mới có cơ hội vay với khối lượng lớn vốn đó, còn phần đông các NHTM cổ phần thì không.
Do đó các NHTM cổ phần quy mô nhỏ và trung bình phải đi vay lại trên thị trường liên ngân hàng khoản vay của các NHTM đó với lãi suất từ 30% đến 43%/năm, gấp 2 – 3 lần lãi suất “họ” vay được của NHNN. Không phải làm gì, các NHTM Nhà nước kiếm được các khoản lãi lớn. Một tình trạng vốn chạy lòng vòng đẩy lãi suất lên cao trong nền kinh tế hiện nay, rõ ràng tác động tiêu cực chung đến tăng trưởng GDP, đến hiệu quả nền kinh tế và tính an toàn của hệ thống NHTM.
Tạo ra những thiếu hụt trầm trọng về vốn của của các nhtm, làm đẩy lãi suất lên quá cao trong thời gian quá ngắn, gây hỗn loạn thị trường tạm thời.
2/ Ưu Điểm
Khi đánh giá về chính sách tiền tệ phải đứng ở góc độ của toàn dân chứ không thể chỉ đứng trên quan điểm của doanh nghiệp.
Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, chính sách tiền tệ thông qua điều hành lãi suất tiền gửi và lãi suất dự trữ bắt buộc kịp thời đã giúp ngân hàng vượt qua được thời kỳ sóng gió đó. Đến bây giờ cơ bản các ngân hàng hoạt động ổn định, lãi suất huy động và lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần đã dần trở lại gần như cuối năm 2007.
Nền tài chính quốc gia không sụp đổ, bảo đảm cho sự ổn định về kinh tế, chính trị và xã hội. Đó là mối quan hệ nhân quả của chính sách tiền tệ đúng.
Chính sách tất nhiên chưa thể nói là cực chuẩn nhưng việc điều hành đã đúng quy luật của kinh tế thị trường, đó là thành công.
èChính sách tiền tệ là thành công lớn nhất của năm 2008.
Những thay đổi của chính sách tiền tệ trong giai đoạn cuối năm 2008
Sau 1 thời gian thắt chặt tiền tệ , ngày 17/05/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo những điều chỉnh trong chính sách điều hành lãi suất nhằm nới lỏng thị trường.
Nguồn NHNN
Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản.
Ngày 20/10/2008, NHNN ban hành 1 loạt những thay đổi lớn trong điều hành chính sách tiền tệ.
Quyết định số 2316/QĐ-NHNN về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam giảm từ 14%/năm xuống 13%/năm. Theo đó lãi suất cho vay bằng VND của các ngân hàng thương mại trên thị trường từ ngày 21/10/2008 tối đa là 19,5%/năm, thay cho mức 21%/năm trước đó.
Quyết định số 2317/QD- NHNN về quy định cho thanh khoản trước hạn 20.300 tỷ đồng tín phiếu ngân hàng nhà nước bắt buộc theo nhu cầu của các tổ chức tín dụng.
Quyết định số 2318/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng, lãi suất tái cấp vốn được giảm từ 15%/năm xuống 14%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 13%/năm xuống 12%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng giảm từ 15%/năm xuống 14%/năm.
Quyết định số 2321/QĐ-NHNN về lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng tăng từ 5%/năm tăng lên 10%/năm.
Từ ngày 5/11/2008 Lãi suất liên tục giảm cho đến cuối năm
Nhận xét :
Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc tăng mạnh như trên sẽ tạo một thuận lợi lớn, hỗ trợ các ngân hàng thương mại giảm bớt chi phí vốn, hỗ trợ cho mục tiêu lợi nhuận sắp tới; gián tiếp tạo điều kiện để các ngân hàng có thể xem xét tiếp tục giảm lãi suất cho vay đầu ra, hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng
Qua đó, đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các Ngân hàng thương mại trong những tháng cuối năm 2008; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các Ngân hàng thương mại. Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt động của các Ngân hàng thương mại đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất trong năm 2009 tương đối ổn định.
Biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất huy động và cho vay của các Ngân hàng thương mại biến động theo cung - cầu vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước , đã tác động làm thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng. Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng phù hợp với chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng.
Việc điều hành linh hoạt lãi suất, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước là thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính, tiền tệ, được các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước quan tâm, theo dõi, dự báo và có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô.
CHÍNH SÁCH tIỀn TỆ năm 2009.
Tình hình chung:
năm 2009 là năm mà chính sách tiền tệ đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế trên toàn thế giới.
Biện pháp NHNN:
Ngân hàng Nhà nước đã thực thi Chính sách tiền tệ một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường
NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%. Các loại lãi suất: lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử lien ngân hang và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của ngân hang nhà nước đối với các ngân hàng đều được giảm với mức phổ biến là 1%.
è Cụ thể lãi suất tái cấp vốn là 7%/năm so với mức 8%/năm như trước đây
è Lãi suất tái chiết khấu là 5%/năm so với mức 6%/năm
è Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử lien ngân hang và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của ngân hàng nhà nước đối với các ngân hàng giảm từ 8%/năm xuống 7%/năm.
è Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn.
Ta thấy rằng không có một lời nhận xét nào xác đáng hơn khi chúng ta nhìn thẳng vào thực tế những gì đang xảy ra từng ngày từng giờ để quan sát xem chính sách tiền tệ đã có những tác động như thế nào đối với nền kinh tế, cụ thể là thông qua sự vận động của các thị trường của nền kinh tế. Sau đây là những đánh giá sự vận động của các thị trường sau khi chịu ảnh hưởng của chính sách tiền tệ:
è Ảnh hưởng đến Nền kinh tế:
Thị trường ngoại hối:
Sáu tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ.
Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng.
Và chính sách tiền tệ đã được sử dụng thế nào?
è Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, Ngân hang nhà nước đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp với các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hoà ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ trên ngân hàng.
è Đồng thời, trình Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính bán nguồn ngoại tệ thu được từ phát hành trái phiếu Chính phủ cho NHNN; đề nghị một số doanh nghiệp nhập khẩu lớn chuyển từ mua ngoại tệ sang vay bằng ngoại tệ; phối hợp chặt chẽ với Bộ Công thương trong việc kiểm soát nhập siêu và đáp ứng các nhu cầu ngoại tệ thiết yếu của nền kinh tế.
giá vàng tăng chóng mặt
Năm 2009 chứng kiến sự hỗn loạn giá trên thị trường vàng. Từ mức giá 18-19 triệu đồng/lượng hồi đầu năm, tới cuối năm 2009 có thời điểm giá leo lên 29 triệu đồng lượng, trước khi dao động 26-27 triệu đồng/lượng. Bỏ qua sự tác động của giá thế giới thì giá vàng Việt Nam vẫn cao hơn nhiều so với giá vàng thế giới và dường như trong những biến động này, các công ty kinh doanh vàng luôn là người hưởng lợi.
Đặc biệt, cùng với tâm lý đám đông, trở lại, giá vàng đột ngột giảm tới hơn 2 triệu đồng/lượng dù giá thế giới không giảm.
è Tỷ giá tăng đồng tiền mất giá.
Thị trường chứng khoán phục hồi mạnh
Chịu tác động mạnh mẽ từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thị trường chứng khoán đã sụt giảm xuống thấp nhất trong vòng 4 năm qua và Vn-Index lập mức đáy 235,5 điểm vào ngày 24/2.
Tuy nhiên, sau hàng hoạt các giải pháp kích thích kinh tế của Chính phủ, thị trường chứng khoán đã có những chuỗi ngày thăng hoa và Vn-Index leo một mạch lên tới gần 630 điểm hồi cuối tháng 10, trước khi giảm trở lại và trong những ngày cuối năm 2009 dao động trong khoảng dưới 500 điểm.
Theo các chuyên gia, sự sụt giảm của chứng khoán cuối năm do tâm lý nhà đầu tư bị ảnh hưởng bởi việc ngân hàng thắt chặt tín dụng, nhiều ngân hàng thu tiền về để giảm dư nợ cho vay xuống. Hiện tại, giới đầu tư kỳ vọng nhiều vào sự phục hồi của thị trường để đón đầu năm 2010, khi các ngân hàng, công ty tài chính công bố kế hoạch giải ngân theo hạn mức tín dụng của năm mới. Tuy vậy, với hạn mức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước đặt ra cho năm 2010 chỉ tăng 25% (so với mức 37% của năm 2010), sự đột phá trong giải ngân khó xảy ra và vì thế, nếu chỉ trông chờ vào luồng tiền ngân hàng thì thị trường chứng khoán khó bùng nổ.
Bất động sản sôi động
Cùng với sự bùng nổ của thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản Việt Nam cũng có những giai đoạn thăng hoa của quý II, quý III, trước khi trầm lắng trở lại trong quý IV.
Sự nở rộ của các dự án bất động sản cũng gắn chặt với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, với 7,6 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm, đứng thứ hai về quy mô thu hút vốn trong năm 2009. Những dự án FDI lớn về bất động sản có thể kể đến là Khu du lịch sinh thái bãi biển Rồng (Quảng Nam 4,15 tỷ USD), dự án Công ty TNHH thành phố mới Nhơn Trạch Berjaya (Đồng Nai - 2 tỷ USD); dự án Công ty TNHH một thành viên Galileo Investment Group Việt Nam có tổng vốn đầu tư 1,68 tỷ USD…
Nhận xét chung:
è Nền kinh tế Việt Nam đang có dấu hiệu dần ổn định và tăng trưởng trở lại. Tuy nhiên, vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Tốc độ tăng trưởng GDP còn thấp; tình trạng nhập siêu và thâm hụt cán cân thanh toán chậm được cải thiện; mức thâm hụt ngân sách cao; lạm phát có nguy cơ tăng do giá cả một số mặt hàng nhất là nguyên nhiên liệu đầu vào đang tăng và sẽ tiếp tục tăng khi kinh tế hồi phục.
Về lĩnh vực tài chính tiền tệ, cuộc đua lãi suất của các NHTM đang có xu hướng nóng dần lên, một số NHTM bắt đầu gặp khó khăn về thanh khoản; Tăng trưởng tín dụng có dấu hiệu “nóng”; Tình trang khan hiếm ngoại tệ chưa được giải quyết triệt để, tỷ giá ngoại tệ còn diễn biến phức tạp. Như vậy, có thể thấy nền kinh tế Việt Nam đã tạm qua giai đoạn suy giảm và đang bắt đầu hồi phục với không ít khó khăn và nhiều nguy cơ đòi hỏi phải những nhà hoạch định chính sách tiền tệ phải đối mặt để ngăn chặn.
Điều tiết mức cung tiền là nội dung cơ bản và cũng là quan trọng nhất của chính sách tiền tệ. Thông qua các công cự khác nhau như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở … NHNN tác động điều tiết mức cung tiền nhằm ổn định tiền tệ, tác động vào nên kinh tế hướng đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Vai trò to lớn và ngày càng rõ rệt của các công cụ thực thi chính sách tiền tệ là thực tế hoàn toàn không thể phủ nhận.
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NĂM 2010
Tình hình chung:
ü Lãi suất cơ bản giữa nguyên là 8%.
ü Lãi suất chiết khấu là 6%.
ü Lãi suất tái cấp vốn là 8%.
Năm 2010 Nhà nước đã đặt trọng tâm vào mục tiêu giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn ngừa lạm phát cao, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý gắn với mục tiêu nâng cao chất lượng tăng trưởng, tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng cao hơn trong các năm tiếp theo.
Biện pháp:
Ngày 6/1/2010 NHNN bơm 15000 tỷ đồng thông qua nghiệp vụ thị Trường mở Động thái này của NHNN làm cho lãi suất vay vốn giữa các Ngân hàng giảm mạnh, kỳ hạn một tuần còn 11%/năm, vay qua đêm còn 8,5%/năm. Vì trước đó, lãi suất liên Ngân hàng ở mức 16-17%/năm, có thời điểm vượt 20%/năm. Và điều này đã làm cho tổng dư nợ tín dụng trong những tháng đầu năm tăng rất ít so với năm 2009. Cụ thể :Tháng 1 chỉ tăng 0,26%, tháng 2 tăng 1,14%, tháng 3 tăng 1,49% và quý 1 chỉ tăng 3,52%, trong đó dư nợ tín dụng bằng VND tăng 0,57% so với tháng 12/2009. Và mức tổng phương tiện thanh toán và mức tổng dư nợ tín dụng năm 2010 cũng được ngân hàng nhà nước kiềm chế ở mức 25% thấp hơn so với năm 2009 là 37,73%. Chỉ tiêu này được đặt ra nhằm kiểm soát mức độ lạm phát năm 2010 tiếp tục giữ ở mức một con số. Và nếu đi theo định hướng này ngân hàng trung ương muốn đảm bảo rằng lãi suất năm 2010 không quá căng.
Ngày 18/1/2010, NHNN đưa ra Quyết định số 74/QĐ-NHNN giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ có kỳ hạn dưới 12 tháng 4%, đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên 2% tạo điều kiện cho các NHTM tăng nguồn cung vốn ngoại tệ cho thị trường.
Ngày 14/2, Ngân hàng Nhà nước đã tăng tỷ giá liên ngân hàng thêm 3% lên mức 18.544 đồng/USD Trong khi đó biên độ tỷ giá giữ nguyên ở mức +/-3%.
Ngày 26-02-2010, Thông tư số 07/2010/TT-NHNN được ban hành, chính thức cho phép các ngân hàng được áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận với các khách hàng vay trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đầu tư phát triển. Trên thực tế, lãi suất cho vay của các NHTM từ lâu đã vượt mức trần cho phép theo quy định của NHNN. Thông tư trên ra đời đã “hợp pháp hóa” các khoản vay với mức lãi suất cao đó, giải tỏa áp lực tâm lý cho các Ngân hàng thương mại, góp phần khơi thông dòng chảy tín dụng nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mục tiêu 6,5% năm 2010 và kiềm chế lạm phát ở mức không vượt quá 7%.
Ngày 14/04/2010, Ngân hàng Nhà nước đã chính thức cho phép các Ngân hàng Thương mại sử dụng lãi suất thỏa thuận với các khoản vay ngắn hạn, tiếp nối việc sử dụng lãi suất cho vay thỏa thuận với các khoản vay. trung và dài hạn đã được thực hiện từ cuối tháng 2.
Ngày 17/8/2010, cơ quan này thực hiện điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng Việt Nam với Đô la Mỹ áp dụng cho ngày 18/8/2010 từ mức 18.544 VND lên mức 18.932 VND (tăng gần 2,1%). Trong khi đó biên độ tỷ giá giữ nguyên ở mức +/-3%.
Về tỷ giá NHNN cấp giấy phép cho doanh nghiệp, ngân hàng nhập khẩu vàng mục đích ổn định tỷ giá (7/10/2010) thông qua hình thức quota.
Năm 2010 sau khi ngân hàng nhà nước điều chỉnh ổn định tỷ giá các tổ chức tín dụng được giao dịch tối đa là 19000 VND/USD và những biện pháp mà chính phủ yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng thương mại, kêu gọi các doanh nghiệp, người dân dùng hàng việt. Đến nay, diễn biến thị trường ngoại hối theo chiều hướng tích cực, nhiều ngân hàng thương mại đã cân đối được ngoại tệ.
Nhận xét chung:
Ngày 14/04/2010, Ngân hàng Nhà nước đã chính thức cho phép các Ngân hàng Thương mại sử dụng lãi suất thỏa thuận sau đó lãi suất cơ bản ngân hàng nhà nước ban hành 27/9/2010 có hiệu lực thi hành 1/10 là 8%/năm. Nhưng trên thực tế ngân hàng cho khách hàng vay vượt qua 12%/năm.như vậy lãi suất cơ bản đã mất đi vay trò sau bao nhiêu năm. Thị trường được tự do trong giao dịch.
Chính sách tiền tệ năm 2010 chính phủ điều hành với mục đích ổn định kinh tế trong đó tỷ giá là tâm điểm quan trọng nhất việc điều chỉnh tăng tỷ giá đã ảnh hưởng rất lớn đến thị trường vàng làm cho giá vàng tăng đến mức cao,việc tăng tỷ giá giúp cho các doanh nghiệp thuận lợi trong xuất khẩu nhưng khó khăn trong việc nhập khẩu vì đồng tiền giảm giá ,gây tình trạng nhập nguyên liệu cho sản xuất với chi phí cao phần lớn nước ta là nước sản xuất mang tính gia công phụ thuộc vào thị trường nước ngoài rất lớn nên sản phẩm sản xuất ra sẽ định giá cao và điều này có thể gây ra lạm phát cao nguyên nhân là chi phí đẩy. Đồng thời tỷ giá tăng có thể ảnh hưởng đến khoảng nợ quốc gia tăng.
GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI.
1. Từ góc độ của NHNN.
Trọng tâm của điều hành chính sách tiền tệ, chống suy giảm kinh tế là vừa phải kiềm chế lạm phát ở mức dưới 7%, đồng thời phải bảo đảm tăng trưởng ở mức 6,5% như Nghị quyết của Quốc hội khóa XII Kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 6/11/2009. Đây là vấn đề khó trong điều hành Chính phủ cũng như các Bộ, ngành và NHNN. Chính sách tiền tệ cần linh hoạt và phối hợp đồng bộ các công cụ và hoạt động quản lý, giữa yêu cầu thắt chặt với nới lỏng tài chính - tiền tệ, đảm bảo an toàn và hiệu quả vốn đầu tư.
- Trước hết, cần đảm bảo an toàn, hiệu quả kinh doanh của tổ chức tín dụng và các quy định của pháp luật về cho vay, đảm bảo tỷ lệ an toàn trong kinh doanh; Kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng và chuyển dịch mạnh cơ cấu tín dụng theo ngành, lĩnh vực và địa bàn đáp ứng vốn cho các nhu cầu vay để sản xuất kinh doanh có hiệu quả, trong đó tập trung các nguồn vốn cho vay sản xuất nông - lâm nghiệp, thủy sản, diêm nghiệp, thu mua nông sản, chế biến và xuất khẩu, cân bằng hơn giữa cho vay đầu tư xuất khẩu với cho vay phát triển thị trường trong nước; hạn chế cho vay các nhu cầu vốn thuộc các lĩnh vực phi sản xuất; Ngoài ra, cần tiếp tục hoàn thiện và tăng cường việc kiểm tra, giám sát, thanh tra thực hiện các quy định về cho vay và kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh về hoạt động tín dụng.
- Kế đến là việc NHNN cần sử dụng và phát huy tối đa các công cụ của chính sách tiền tệ để chủ động điều tiết cung cầu tiền tệ, qua đó điều tiết lãi suất một cách phù hợp. Đồng thời với việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN cần có sự kết hợp thường xuyên và có hiệu quả giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, trong đó chú trọng: (1) giảm bội chi ngân sách; (2) giảm nợ công; (3) tăng hiệu quả đầu tư của Nhà nước; (4) sử dụng chính sách thuế phù hợp...
- Chính sách tỷ giá trong thời gian tới cần tiếp tục linh hoạt theo hướng thu hẹp chênh lệch tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do, giảm thiểu các lợi ích cơ hội hoặc cục bộ nào đó, phù hợp với các xu hướng tỷ giá chung của các đồng tiền chủ chốt trên thế giới. Giảm bớt kỳ vọng thoả mãn cùng lúc nhiều mục tiêu cho chính sách tỷ giá trong cùng một thời điểm, nhưng cũng không thể kéo dài mãi một chính sách tỷ giá chỉ phục vụ cho một mục tiêu nhất định, dù là quan trọng trong bối cảnh nào đó, bất chấp những điều kiện khách quan đã thay đổi; bảo đảm phải có sự đồng bộ giữa tỷ giá với lãi suất vả cả biên độ tỷ giá, cũng như với các chính sách tài chính khác (theo nghĩa rộng) tránh sự triệt tiêu lấn nhau giữa các công cụ chính sách này, đảm bảo tính minh bạch và có thể dự báo được của chính sách tỷ giá. Trong năm 2010, chính sách tỉ giá còn phải phục vụ mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô theo Nghị quyết 18/CP-NQ ngày 6/4/2010 của Chính phủ.
2. Từ góc độ của NHTM.
Thứ nhất, ngoại trừ điều kiện bất khả kháng, nên tiếp tục duy trì lãi suất cơ bản như thời gian qua.
Trong thời gian qua, lãi suất cơ bản đã thực sự trở thành công cụ quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ, chỉ báo nhạy bén của thị trường tiền tệ. Mỗi thay đổi của công cụ này đã gần như ngay lập tức có tác động điều tiết rõ rệt đối với thị trường. Tính đến thời điểm hiện nay đã là hơn 6 tháng NHNN giữ lãi suất cơ bản ở mức 8%. Điều này một mặt cho thấy sự ổn định của thị trường tiện tệ. Mặt khác, mức lãi suất thấp có tác dụng tích cực trong kích thích đầu tư, giảm khó khăn cho các doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vĩ mô – yếu tố rất cần thiết trong giai đoạn “hậu suy thoái”. Vì vậy, lãi suất cơ bản nên tiếp tục giữ ổn định ở mức như hiện nay.
Thứ hai, nên xem xét thu hẹp phạm vi hỗ trợ lãi suất, tiến tời dừng thực hiện hỗ trợ lãi suất.
Gần đây NHNN đang có hướng hạn chế dần mức cung tiền với các biện pháp: khống chế tăng trưởng dư nợ tín dụng của các NHTM Nhà nước, giảm lãi suất DTBB (xuống còn 1,2%), giảm tỷ lệ cho vay trung dài hạn trên tổng nguồn vốn ngắn hạn từ 40% xuống còn 30%.
Trước hết phải nói rằng, hạn chế mức cung tiền trong thời điểm hiện nay là một động thái đúng đắn khi tín dụng có xu hướng tăng nóng và cần thiết để ngăn chặn nguy cơ lạm phát. Áp lực tăng giá trong năm 2009 có thể còn thấp nhưng chắc chắn sang năm 2010 sẽ lớn hơn do các nền kinh tế bắt đầu phục hồi, nhu cầu đầu vào lớn đẩy giá cả của nguyên nhiên liệu tăng cao.
NHNN nên xem xét đề xuất với Chính Phủ giảm dần, tiến tới ngừng hỗ trợ lãi suất. Tiếp tục duy trì hỗ trợ lãi suất một mặt sẽ tạo sức ép gia tăng lạm phát, mặt khác có thể dẫn đến việc sử dụng vốn thiếu hiệu quả gây tác động không tốt cho nền kinh tế và hệ lụy xấu cho các NHTM. Dừng hỗ trợ lãi suất cũng sẽ trực tiếp giảm áp lực bội chi ngân sách, giảm áp lực lạm phát.
Trong cơn bão khủng hoảng tài chính thời gian qua, các NHTM Việt Nam vẫn trụ vững nhờ đảm bảo tính an toàn trong hoạt động. An toàn hoạt động của các NHTM là nhân tố hết sức quan trọng đảm bảo tính an toàn của hệ thống, đảm bảo an toàn tiền tệ và ổn định kinh tế vĩ mô. Vì vậy, thời gian tới các NHTM cần đặc biệt chú trọng để duy trì an toàn hoạt động mà một trong các biện pháp là phải đảm bảo sự cân đối cần thiết theo kỳ hạn còn lại của các khoản mục tài sản và công nợ, đảm bảo tỷ lệ sử dụng vốn huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn theo quy định của NHNN.
Thứ ba, các NHTM cần phối hợp chặt chẽ và tăng cường đồng thuận.
Mỗi NHTM có một mục tiêu, chiến lược hoạt động riêng. Các NHTM là đối thủ cạnh tranh của nhau nhưng cũng đồng thời là đồng minh của nhau trong những “trận tuyến chung”: chống lạm phát, chống suy giảm kinh tế, … Và sự tương hỗ, phối hợp hành động giữa các NHTM với nhau trong những giai đoạn khó khăn chung là hết sức cần thiết và quan trọng. Vai trò của Hiệp Hội Ngân hàng trong việc tăng cường sự phối hợp và đồng thuận của các NHTM cần được đẩy mạnh hơn nữa.
Việc đồng thuận trong huy động vốn đặc biệt là ngoại tệ sẽ tạo thuận lợi cho cả nền kinh tế và phù hợp với mặt bằng thế giới. Đồng thuận trong áp dụng tỷ giá mua bán ngoại tệ sẽ làm giảm áp lực căng thẳng về ngoại tệ.
Thứ tư, nên tăng cường cơ chế thông tin đại chúng về các vấn đề liên quan đến chính sách tiền tệ.
Thực tế cho thấy, những biến động của thị trường tiền tệ, đặc biệt là diễn biến tỷ giá ngoại tệ chịu sự tác động khá lớn của yếu tố tâm lý. Vì vậy, thời gian tới NHNN cần tăng cường hơn nữa công tác thông tin đại chúng, định hướng dư luận, … Nên xem xét chủ động và định kỳ công bố thông tin về dự trữ ngoại hối như các quốc gia khác vẫn làm.
Thứ năm, cần tăng cường kiểm tra giám sát và xử lý nghiêm các sai phạm trong việc thực hiện các quy định liên quan đến chính sách tiền tệ: vi phạm về biên độ tỷ giá, về trần lãi suất, trong cho vay hỗ trợ lãi suất, vi phạm của các đại lý thu đổi ngoại tệ, …
Thời gian qua công tác này đã được NHNN hết sức chú trọng. Tuy nhiên để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các NHTM và đặc biệt là để các công cụ của chính sách tiền tệ thực sự phát huy tác dụng tích cực, cần phải xiết chặt hơn các chế tài đi đôi với tăng cường công tác kiểm tra của các cơ quan chức năng cũng như phát huy cơ chế giám sát chéo, cơ chế giám sát của cộng đồng, công luận, …
Nền kinh tế thế giới đang vượt qua suy thoái và dần hồi phục. Kinh tế Việt Nam cũng đang bước vào thời kỳ “hậu suy giảm”. Với những công cụ hữu hiệu và sự điều hành linh hoạt của NHNN, chắc chắn chính sách tiền tệ sẽ là động lực tạo đà thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng phục hồi và tiếp tục phát triển bền vững.
Trong chính sách tiền tệ có ba công cụ ảnh hưởng nhất đó là tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cho vay chiết khấu và nghiệp vụ thị trường tự do.
Như chúng ta biết tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một công cụ đầy quyền lực bởi vì tác động mạnh mẽ của nó. Bởi vậy nên rất vất vả trong việc điều chỉnh những thay đổi nhỏ trong lượng tiền cung ứng ( điều này sẽ thực sự chính xác khi tỷ lệ dự trữ là 100%, nhưng điều đó có nghĩa là giết chết các ngân hang thương mại trong việc cho vay, vì việc cho vay nguồn sống của họ!). Để duy trì một tỷ lệ dự trữ bắt buộc như mong muốn cần có những đội ngũ quản lý những thay đổi trong chiến lược gây ra sự tốn kém và không hiệu quả. Điều này thì không thực tế cho lắm. Một điều bất lợi do việc sử dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc là khả năng thanh khoản của các ngân hang. Do ngoài tiền dự trữ ra thì những ngân hang dùng khoản tiền còn lại cho vay, mà thường những khoản vay đó là có kì hạn. Do đó việc điều tiết lượng tiền cung ứng cho thị trường trong một khoảng thời gian ngăn là một điều cực kỳ khó khăn. Mặt khác, việc thay đổi tỷ lệ dự trữ lien tục sẽ làm cho các ngân hang trở nên hoảng loạn, bất ổn định cho tính thanh khoản của các ngân hang. Ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng đối với những người cho vay.Do đó đây là một công cụ không nên sử dụng nhiều. Nói thẳng ra là nên loại bỏ công cụ này ra khỏi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương.
Chính sách cho vay chiết khấu, điểm lợi nhất là ngân hàng trung ương có thể thực hiện việc cứu cánh của mình với vai trò là ngừơi cho vay cuối cùng. Tuy nhiên việc cho vay với mức lãi suất chiết khấu ấn định sẽ gây ra một sự chênh lệch với lãi suất thị trường. Điều này gây ra hai hệ quả: Thứ nhất là ngân hàng thương mại sẽ lợi dụng điều này để thu lợi cho riêng mình hoặc không vay từ ngân hàng trung ương. Hai là ngân hàng trung ương có thể thay đổi hạn mức chiết khấu. Điều này là ý muốn chủ quan của ngân hàng trung ương, do đó không thể điều tiết thị trường một cách chính xác. Do khoảng cách lãi suất thị trường và lãi suất chiết khấu gây nên biến động mạnh đối với cầu về chiết khấu của các ngân hàng thương mại nên chúng ta nên đặt lãi suất chiết khấu ràng buộc theo lãi suất thị trường. Điều này cho thấy bốn điểm lợi sau đây:
Ngân hàng trung ương vẫn giữ vai trog cứu cánh của mình.
Khoảng cách giữa 2 lãi suất hẹp.
Việc quản lý cửa sổ chiết khấu dễ dàng vì ngân hàng trung ương cho vay theo nhu cầu của các ngân hàng thương mại, ít có nguy cơ bị lạm dụng.
Điều này vận động theo cơ chế thị trường nên việc điều chỉnh sẽ mang tính khách quan.
Mặt khác do nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi ngày càng phát triển, người gửi tiền yên tâm hơn về khoảng tiền gửi của mình, do đó họ không hề hoảng loạn trong việc rút tiền, điều này thì không ảnh hưởng lắm đển nguy cơ phá sản của ngân hàng nên ảnh hưởng của chiết khấu trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng ngày càng mờ nhạt.
Nghiệp vụ thị trường tự do: nghiệp vụ thị trường tự do có một số điểm lợi hơn so với các công cụ khác của chính sách tiền tệ.
Thứ nhất, việc điều tiết theo quy luật cung cầu của thị trường, do đó việc điều tiết chính xác hơn.
Thứ hai, linh hoạt chính xác, có thể sử dụng mọi lúc, mọi nơi, mọi cấp độ.
Thứ ba, dễ dàng đảo ngược tình thế khi có sai lầm.
Thứ tư, không ảnh hưởng đến hành chính. Việc thực hiện việc mua bán có thể chỉ cần thông qua một người kinh doanh chứng khoán.
Tuy nhiên, ở Việt Nam thì công cụ này chưa hoàn chỉnh vì thị trường vốn chỉ mới hình thành nên vẫn còn một số hạn chế. Vì vậy, để có được một chính sách tiền tệ an toàn chính xác, Việt Nam nên hoàn thiện hơn về thị trường tài chính và thị trường vốn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nhan xet công cụ điếu hành chính sách tiền tệ của nhnn trong thời gian từ 2008 – 2010.doc