Những chiến lược, chính sách hội nhập Quốc tế của Việt Nam

Lời nói đầu Từ khi thoát khỏi chiến tranh và nhất là sau đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 thì nước ta đã có những thay đổi mang tầm chiến lược nhằm khôi phục nền kinh tế cũng như văn hóa – xã hội, chính trị, an ninh – quốc phòng Đưa nước ta từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, dân trí thấp cho đến nay nước ta đã có nhữ,ng thành tựu đáng kể về nhiều mặt và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa đã có nhiều hiệu quả , để tiến tới năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được những thành tựu to lớn thì Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những mục tiêu chiến lược để nước ta hội nhập sâu hơn và rộng hơn về tất cả các mặt. Vì thế nhóm em làm bài tiểu luận này để phân tích kĩ hơn về những chiến lược, chính sách của nước ta trong thời gian tới. MỤC LỤC Lời nói đầu A. Khái quát Việt Nam I. Vị trí địa lí II. Tài nguyên thiên nhiên III. Văn hóa 1. Phong tục tập quán 2. Tín ngưỡng và tôn giáo 3. Ngôn ngữ 4. Văn học 5. Nghệ thuật IV. Xã hội V. Khái quát về con người Việt Nam 1. Nguồn gốc 2. Phân bố B. Chiến lược phát triển của Việt Nam I. Nông – Lâm - Ngư nghiệp 1. Nông nghiệp 2. Lâm nghiệp 3. Ngư nghiệp II. Công nghiệp xây dựng 1. Công nghiệp a. Thực trạng ngành công nghiệp nước ta thời gian qua b. Nội dung cơ bản của chiến lược phát triển công nghiệp 2. Xây dựng a. Thực trang ngành xây dựng nước ta thời gian qua b. Nội dung cơ bản của chiến lược phát triển ngành xây dựng III. Dịch vụ thương mại 1. Dịch vụ a. Quan điểm phát triển b. Mục tiêu tổng quát c. Mục tiêu cụ thể d. Định hướng chiến lược, phân kì, trọng điểm phát triển và các định hướng cơ bản . Định hướng chiến lược . Phân kì, trọng diểm, phát triển . Định hướng cơ bản phát triển các lĩnh vực chủ yếu đến năm 2020 2. Định hướng phát triển theo vùng lãnh thổ a. Vùng đồng bằng b. Vùng trung du miền núi c. Ven biển và hải đảo d. Phát triển dịch vụ tại khu vực nông thôn hướng tới xây dựng nông thôn mới e.Phát triển dịch vụ gắn với phát triển các hành lang, vành đai kinh tế và các cực tăng trưởng có ý nghĩa đối với cả nước 3. Thương mại IV. Văn hóa xã hội V. Chính trị - an ninh quốc phòng 1. Chính trị 2. An ninh quốc phòng PHỤ LỤC:

doc33 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3151 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những chiến lược, chính sách hội nhập Quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hơn rất nhiều so với các nền kinh tế thị trường.  Tình hình Việt Nam trước quá trình Đổi mới cũng tương tự. Không có một chính sách rõ ràng hay mục tiêu tăng trưởng đối với lĩnh vực dịch vụ, tồi tệ hơn, không có khuôn khổ pháp lý và thể chế cho lĩnh vực này. Thương mại dịch vụ hầu như bị bỏ quên trong các báo cáo về quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và bên ngoài.  Lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam đã được mở cửa dần kể từ khi Việt Nam bắt đầu các cải cách theo định hướng thị trường theo chính sách Đổi mới của mình, quá trình này đã dẫn tới những sự phát triển kỳ diệu của lĩnh vực này, đặc biệt khi Việt Nam bắt đầu gia nhập WTO.  Lợi ích kinh tế rõ ràng tự sự phát triển của lĩnh vực dịch vụ đã thu hút nhiều chú ý hơn về mặt chính sách trong vòng 15 năm qua. Kế hoạch phát triển kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1996-2000 đặt ra các mục tiêu tham vọng về tăng trưởng dịch vụ hàng năm với tốc độ 12-13% và tỷ trọng dịch vụ trong GDP đạt 45-46% vào năm 2000, tuy nhiên các mục tiêu này chưa đạt được. Chiến lược Phát triển giai đoạn 2001-2010 mà Đại hội Đảng lần thứ 9 đề ra cũng tập trung vào ngành dịch vụ, đề ra mục tiêu mới là tốc độ tăng trưởng hàng năm của lĩnh vực dịch vụ là 7-8%, tới năm 2010 dịch vụ chiếm 42-43% GDP và 26-27% việc làm trong nền kinh tê.  Kể từ Đại hội Đảng lần thứ 6, nhiều cải cách tự do hóa, theo định hướng thị trường đã được đưa ra trong giai đoạn Đổi mới, trong đó có nhiều chính sách đã ảnh hưởng trực tiếp hoăc gián tiếp tới các hoạt động dịch vụ. Tuy nhiên, việc tăng cường mở cửa thị trường xét từ khía cạnh luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã đem lại lợi ích chủ yếu cho lĩnh vực sản xuất trong khi chỉ rất ít ngành dịch vụ và là những ngành không chiến lược được hưởng lợi từ quá trình này, chủ yếu là các ngành khách sạn và nhà hàng, bất động sản, dịch vụ cho thuê và dịch vụ kinh doanh.  số chung về GDP trong giai đoạn 2005-2008 cho thấy mặc dù hoạt động của lĩnh vực dịch vụ đã được cải thiện so với lĩnh vực công nghiệp/xây dựng xét từ khía cạnh các mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2006-2020 nhưng Việt Nam vẫn chưa đạt được tiến bộ đột phá về điều chỉnh cơ cấu và tỷ trọng của lĩnh vực dịch vụ trong GDP vẫn thấp hơn lĩnh vực thứ cấp (secondary sector).  Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động dịch vụ phát triển, nhờ vậy khu vực dịch vụ đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống dân cư, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế… Ngành dịch vụ tăng khá nhanh trong giai đoạn 1991-1995, đạt 8,6%, nhưng sang giai đoạn 1996- 2000 tốc độ tăng chậm lại, chỉ đạt 5,7% và đang có xu hướng hồi phục trong những năm gần đây (năm 2001 đạt 6,1% năm 2002 đạt 6,54% và 2003 đạt 6,57%). Tỷ trọng của ngành dịch vụ ở Việt Nam chưa cao, chỉ đạt 36-37% trong GDP (tính quy luật chung là 45%). Ngoài ra xu thế tỷ trọng này đã giảm từ 37,1% năm 1995 xuống còn 36,1% năm 2002… Cơ cấu ngành dịch vụ Việt Nam đa dạng với nhiều phân ngành dịch vụ khác nhau. Tuy nhiên hiện nay, Việt Nam chỉ tập trung ở hai công đoạn lắp ráp và gia công chế biến. Các dịch vụ khác như nghiên cứu khoa học, thiết kế kiểu dáng hay tiếp thị, nghiên cứu thị trường… đều kém phát triển. Các phân ngành dịch vụ quan trọng như tài chính, viễn thông, cơ sở hạ tầng…chưa đủ mạnh. Đến nay cả dịch vụ vận tải và dịch vụ viễn thông mới chỉ chiếm 9,6% trong toàn ngành dịch vụ và dịch vụ tài chính chỉ chiếm 5% … Ngành dịch vụ tạo ra nhiều việc làm tuy nhiên,ước tính ở Việt Nam mới chỉ có 25% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực dịch vụ. Với sức ép hàng năm Việt Nam cần phải tăng thêm khoảng 1,7 triệu lao động, trong khi đó ngành công nghiệp và nông nghiệp chỉ thu hút được tối đa là 1,1 triệu lao động, vì vậy ngành dịch vụ cần phải tạo ra 0,9 triệu lao động hàng năm, nhưng với tốc độ tăng trưởng hiện nay, ước tính mỗi năm, chỉ đáp ứng được 0,5 triệu lao động. Ngành dịch vụ ở Việt Nam chưa thực sự tạo ra môi trường tốt cho toàn bộ nền kinh tế phát triển. Hiện tại các chi phí dịch vụ viễn thông, cảng biển, vận tải…của Việt Nam đang cao hơn mức trung bình của các nước trong khu vực (viễn thông cao hơn 30-50%, vận tải đường biển cao hơn từ 40-50%). Trong khi đó, sức ép tự do hoá đối với lĩnh vực dịch vụ của ta trong BTA và trong WTO sắp tới là rất lớn. Trước mắt, theo Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, ta cam kết mở cửa các lĩnh vực như ngân hàng, viễn thông, bảo hiểm cho các công ty dịch vụ Mỹ vào hoạt động theo lộ trình với những giới hạn mà Việt Nam đặt ra đối với các loại hình đầu tư, dịch vụ này tuỳ theo mức độ nhạy cảm (an ninh quốc gia, kinh tế). Thời hạn mở cửa cho các ngành hàng dịch vụ là từ 3-5 năm, trong đó phần góp vốn của Mỹ không quá 49%, riêng khu vực ngân hàng có thể 100% sau 9 năm Hiệp định có hiệu lực. Theo Chỉ thị, trong kế hoạch tương lai, cần nâng cao vai tròcủa khu vực dịch vụ; xem ngành dịch vụ là một trong những ngành mũi nhọn để phát triển kinh tế đất nước với các mục tiêu: a. Quan điểm phát triển - Phát triển lĩnh vực dịch vụ nhanh, hiệu quả và bền vững, đảm bảo các dịch vụ cơ bản phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước, hướng tới hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại. - Phát triển mạnh khu vực dịch vụ tiếp cận với trình độ hiện đại, đảm bảo hội nhập quốc tế và khu vực. - Huy động mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế trong phát triển các lĩnh vực dịch vụ. - Phát triển các lĩnh vực dịch vụ, phù hợp với các giai đoạn phát triển của kinh tế đất nước. - Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và ngày càng hiện đại các loại thị trường dịch vụ. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. b. Mục tiêu tổng quát Phát triển khu vực dịch vụ hiệu quả, đạt chất lượng và năng lực cạnh tranh quốc tế; phát triển các lĩnh vực dịch vụ có tiềm năng lớn, có sức cạnh tranh và giá trị gia tăng cao phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đảm bảo tăng trưởng bền vững và dần từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức. c. Mục tiêu cụ thể Giai đoạn 2011 – 2015: tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt 7,8 – 8,5%/năm với quy mô khoảng 41% - 42% GDP toàn bộ nền kinh tế; giai đoạn 2016 – 2020: tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt 8,0 – 8,5%/năm với quy mô khoảng 42,0 – 43,0% GDP toàn nền kinh tế. d. Định hướng chiến lược, phân kỳ, trọng điểm phát triển và các định hướng cơ bản Định hướng Chiến lược - Phát triển khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng các khu vực sản xuất và tốc độ tăng GDP.Tập trung nguồn lực, đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực dịch vụ có tiềm năng và lợi thế, các ngành có hàm lượng khoa học và công nghệ cao mang lại giá trị gia tăng cao, làm cơ sở cho sự phát triển chung của khu vực dịch vụ và toàn bộ nền kinh tế. Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trên thị trường nội địa, khu vực và quốc tế; đẩy mạnh khai thác tiềm năng và lợi thế của từng lĩnh vực dịch vụ, tăng cường sự hợp tác giữa các lĩnh vực dịch vụ để cùng cạnh tranh và phát triển. Đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ và dịch vụ thu ngoại tệ tại chỗ thông qua các hoạt động dịch vụ du lịch, tài chính – ngân hàng, kiều hối, bưu chính viễn thông, vận tải hàng không, đường biển và bán hàng tại chỗ, giảm thâm hụt cán cân dịch vụ. Phát triển hệ thống phân phối các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm dịch vụ Việt Nam. Hình thành một số trung tâm dịch vụ đặc biệt là các trung tâm du lịch có quy mô và có sức cạnh tranh trong khu vực. Phân kỳ, trọng điểm phát triển: Nhiệm vụ chủ yếu giai đoạn 2011 – 2015: - Nâng cao nhận thức xã hội về dịch vụ; - Tăng cường xây dựng thể chế phát triển khu vực dịch vụ; - Phát triển mạnh các lĩnh vực dịch vụ có tiềm năng và lợi thế, các ngành dịch vụ có hàm lượng khoa học và công nghệ cao mang lại giá trị gia tăng cao, bao gồm: dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông, dịch vụ giáo dục, dịch vụ lo-gi-stic, dịch vụ tài chính, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, dịch vụ du lịch, dịch vụ vận tải, dịch vụ phân phối, dịch vụ khoa học và công nghệ và dịch vụ chăm sóc sức khỏe. - Xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng của khu vực dịch vụ, tạo tiền đề phát triển nhanh, bền vững và toàn diện khu vực dịch vụ trong giai đoạn tiếp sau thông qua việc tập trung phát triển có trọng điểm các ngành dịch vụ “cơ sở hạ tầng” bao gồm: công nghệ thông tin truyền thông, dịch vụ giáo dục, dịch vụ lo-gi-stic, dịch vụ tài chính và dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Nhiệm vụ chủ yếu giai đoạn 2016 – 2020 - Phát triển mạnh mẽ, toàn diện và bền vững khu vực dịch vụ trên cơ sở phát huy hiệu quả dịch vụ “cơ sở hạ tầng” đã được tăng cường và hoàn thiện; khai thác tối đa nhu cầu về dịch vụ được gia tăng trong giai đoạn 2011 – 2015; - Sử dụng thành quả bước đầu của nền giáo dục, trong đó có giáo dục bậc cao và giáo dục chuyên nghiệp được ưu tiên phát triển trong giai đoạn trước cũng như khả năng cạnh tranh được tạo ra do phát triển công nghệ thông tin và truyền thông và các lĩnh vực khoa học công nghệ khác, thực hiện chuyển dịch mạnh mẽ sang các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng, hàm lượng công nghệ, tri thức cao, dần tiến tới mục tiêu hình thành nền kinh tế tri thức trong các giai đoạn phát triển tiếp sau. - Các lĩnh vực dịch vụ tiếp tục được tập trung phát triển gồm: công nghệ thông tin và truyền thông, tài chính, lo-gi-stic, hỗ trợ kinh doanh, giáo dục bậc cao, chăm sóc sức khỏe chất lượng cao và du lịch. Định hướng cơ bản phát triển các lĩnh vực chủ yếu đến năm 2020: - Dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông Hướng tới năm 2020, công nghệ thông tin và truyền thông phải làm nòng cốt, là tiền đề cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và trở thành một trong những điểm tựa quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội, chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế để Việt Nam có thể trở thành một nước có trình độ tiên tiến về phát triển kinh tế tri thức và xã hội thông tin, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Dịch vụ tài chính: + Dịch vụ ngân hàng: phát triển ổn định và bền vững hệ thống ngân hàng là yêu cầu xuyên suốt chiến lược và quá trình thực hiện chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng; nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng. + Dịch vụ chứng khoán: tăng quy mô, củng cố tính thanh khoản cho thị trường, đưa tổng giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt từ 80% đến 110% GDP vào năm 2020. Phát triển thị trường trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu Chính phủ trở thành một kênh huy động và phân bổ vốn quan trọng cho phát triển kinh tế. Nâng cao sức cạnh tranh của các định chế trung gian thị trường và các tổ chức phụ trợ, tăng cường quản trị rủi ro, hướng tới hoạt động theo mô hình đa năng, mở rộng phạm vi hoạt động ra nước ngoài. + Dịch vụ bảo hiểm Tăng trưởng bảo hiểm phi nhân thọ bình quân đạt khoảng 29% - 30%; trong đó, tập trung nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ; ưu tiên khai thác khách hàng cá nhân; ưu tiên phát triển bảo hiểm trách nhiệm và y tế. Tăng trưởng bảo hiểm nhân thọ bình quân đạt khoảng 16% - 18%; trong đó, ưu tiên tập trung khai thác sản phẩm hỗn hợp; tích hợp các sản phẩm truyền thống; nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ; gia tăng các sản phẩm liên kết đầu tư (sản phẩm hỗn hợp: đầu tư, bảo vệ, tiết kiệm). - Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh Hình thành các dự án, chương trình phát triển các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh theo hướng: tạo môi trường kinh doanh; tạo lập và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp; cải thiện và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các nguồn lực, thị trường và các loại hình dịch vụ; tạo lập và nâng cao văn hóa và năng lực quản trị kinh doanh. Xác định rõ, cụ thể các lĩnh vực dịch vụ phục vụ kinh doanh thiết yếu theo từng ngành lĩnh vực kinh tế - xã hội cụ thể để tạo điều kiện cho các dịch vụ đó phát triển đáp ứng nhu cầu phát triển của các ngành, lĩnh vực đó. - Dịch vụ giáo dục đào tạo Phát triển dịch vụ giáo dục đào tạo nhằm xây dựng nguồn nhân lực trở thành lợi thế cạnh tranh và hội nhập quốc tế; đào tạo, đáp ứng nhu cầu của xã hội, cộng đồng doanh nghiệp nhằm thực hiện trực tiếp một trong ba mục tiêu đột phá của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020. - Dịch vụ lo-gi-stic Coi lo-gi-stic là yếu tố then chốt thúc đẩy phát triển sản xuất hệ thống phân phối các ngành dịch vụ khác và lưu thông hàng hóa trong nước và xuất nhập khẩu. Hình thành dịch vụ trọn gói 3PL (integrated 3PL); phát triển lo-gi-stic điện tử (e-logistics) cùng với thương mại điện tử và quản trị chuỗi cung ứng hiệu quả và thân thiện. Tốc độ tăng trưởng thị trường lo-gi-stic đạt 20 – 25% năm. Tỉ lệ thuê ngoài lo-gi-stic (outsourcing logistics) đến năm 2020 là 40%. - Dịch vụ vận tải Phát triển hợp lý các phương thức vận tải đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thủy nội địa, hàng không Xây dựng chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh vận tải, dịch vụ hỗ trợ vận tải; hỗ trợ các doanh nghiệp vận tải hành khách công cộng và vận tải phục vụ vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. - Dịch vụ khoa học và công nghệ Nghiên cứu đánh giá tiềm lực tổ chức R&D ở quy mô quốc gia (xét trên tổng thể các tiêu chí về nhân lực, vật lực, tài lực, tin lực) để có những chính sách phù hợp trong giai đoạn mới. Phát triển nguồn nhân lực cho hoạt động dịch vụ khoa học công nghệ; tăng cường phát triển mạng lưới các tổ chức dịch vụ khoa học công nghệ; Tăng cường công tác thống kê tiềm lực khoa học và công nghệ; bám sát các chuẩn thống kê quốc tế về khoa học và công nghệ. - Dịch vụ du lịch Phát triển du lịch mở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Tập trung phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, có thương hiệu, có trọng tâm, trọng điểm; phát triển đồng thời du lịch nội địa và quốc tế. Phát triển du lịch bền vững, đảm bảo tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa, gắn với an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội; khai thác tối ưu lợi thế quốc gia, các nguồn lực để Việt Nam trở thành điểm đến cạnh tranh được với các nước trong khu vực. - Dịch vụ chăm sóc sức khỏe Xây dựng hệ thống y tế Việt Nam theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển, đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa ngành y tế; phát triển dịch vụ y tế đạt trình độ ngang tầm các nước trong khu vực. Phấn đấu để mọi người dân được hưởng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, các dịch vụ y tế chất lượng. Mọi người được sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất và tinh thần. Giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển chất lượng giống nòi. - Dịch vụ phân phối Đẩy mạnh phát triển và tăng cường quản lý nhà nước đối với hệ thống phân phối của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn được tổ chức và phân phối thông suốt trên phạm vi cả nước, đồng thời bảo đảm chiếm lĩnh tại các địa bàn thị trường then chốt và trọng yếu; có đủ các nguồn lực để giải quyết kịp thời các biến động của thị trường về quan hệ cung – cầu, giá cả hàng hóa và dịch vụ. Có chính sách, cơ chế để tạo lập vị thế và sức mạnh điều tiết thị trường của hệ thống bán lẻ Việt Nam trong hệ thống phân phối. Đẩy mạnh phát triển và tăng cường quản lý nhà nước đối với các hệ thống phân phối vừa và nhỏ trên thị trường các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương, trước hết và chủ yếu là thị trường nông thôn và miền núi. e. Định hướng phát triển theo vùng, lãnh thổ a) Vùng đồng bằng: Phát triển mạnh dịch vụ thương mại và đầu tư, tham gia vào mạng phân phối quốc tế và khu vực, hình thành những trung tâm thương mại lớn như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ… mang tầm quốc tế. Đặc biệt chú trọng phát triển các dịch vụ phục vụ sản xuất kinh doanh, dịch vụ khoa học và công nghệ, dịch vụ tài chính, tín dụng, dịch vụ giáo dục, đào tạo, dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe và an sinh xã hội. Khai thác tiềm năng phát triển du lịch có quy mô lớn ở một số địa phương trong vùng, đưa du lịch thành một trong những ngành dịch vụ mũi nhọn. b) Vùng trung du miền núi: Chú trọng phát triển các dịch vụ phục vụ nông lâm nghiệp và dịch vụ phục vụ đời sống ở nông thôn. Phát triển du lịch sinh thái, du lịch văn hóa để phát huy giá trị các tài nguyên thiên nhiên, các di tích lịch sử, đặc thù văn hóa các dân tộc của vùng. Phát triển du lịch nghỉ dưỡng ở các địa điểm có khí hậu ôn đới. Chú trọng phát triển dịch vụ theo hướng khai thác tốt hạ tầng kinh tế, xã hội tại các khu kinh tế, trong đó có các khu kinh tế cửa khẩu, đẩy mạnh giao thương với các nước láng giềng. Khai thác các lợi thế liên quan đến phát triển các hành lang và vành đai kinh tế trong quan hệ phát triển và trao đổi dịch vụ với các quốc gia khác trong khu vực, quốc tế và với Trung Quốc. c) Vùng biển, ven biển và hải đảo: Phát triển khu vực dịch vụ gắn với thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Đa dạng hóa các ngành dịch vụ, nhất là các ngành có giá trị gia tăng cao, chất Phát triển đa dạng các loại hình sản phẩm dịch vụ du lịch biển, đảo. Đầu tư xây dựng các khu du lịch biển chất lượng cao, mang tầm quốc gia và khu vực. Phát triển mạnh dịch vụ vận tải biển, dịch vụ khai thác dầu khí. Khai thác tốt tiềm năng phát triển cảng biển, đẩy mạnh và phát triển tốt các hoạt động lo-gi-stic hỗ trợ cho hoạt động hàng hải. d) Phát triển dịch vụ tại khu vực nông thôn hướng tới xây dựng nông thôn mới: Phát triển mạnh dịch vụ cơ bản với hình thức và quy mô phù hợp đảm bảo phục vụ cho đời sống dân cư nông thôn, phục vụ sản xuất nông nghiệp, làng nghề, tiêu thụ chế biến nông sản và các hoạt động sản xuất công nghiệp khác gắn với các dạng năng lượng tái tạo và bảo vệ môi trường. Chú trọng phát triển dịch vụ giáo dục và đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề với hình thức phù hợp tại khu vực nông thôn nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xây dựng nông thôn mới, khắc phục, hạn chế các tác động tiêu cực của quá trình công nghiệp, đô thị hóa. Phát triển các dịch vụ thông tin, truyền thông nhằm tạo điều kiện nâng cao dân trí, đảm bảo người dân được tiếp cận với thông tin với các cơ hội phát triển một cách công bằng, hiệu quả và bền vững. đ) Phát triển dịch vụ gắn với phát triển các hành lang, vành đai kinh tế và các cực tăng trưởng có ý nghĩa đối với cả nước và liên kết trong khu vực Khai thác tiềm năng, điều kiện đầu tư kết nối đồng bộ về hệ thống kết cấu hạ tầng trong chiến lược hình thành trục kinh tế Bắc – Nam, các hành lang kinh tế Đông – Tây, các hành lang kinh tế xuyên Á, các hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng, Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng để phát triển khu vực dịch vụ nhanh và hiệu quả. Hình thành các trung tâm hợp tác phát triển kinh tế lớn tại các cửa khẩu trên các hành lang kinh tế. Phát triển các loại hình dịch vụ vận tải, thương mại và đầu tư, dịch vụ phục vụ sản xuất kinh doanh để đảm bảo giao thương nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của các hành lang kinh tế, kết nối được các trung tâm phát triển trong nước và ngoài nước trên các tuyến hành lang. THƯƠNG MẠI Mục tiêu của chiến lược phát triển thương mại thập kỷ tới chắc chắn phải nằm ở hướng phát triển theo chiều sâu, nâng cao giá trị gia tăng cho hàng Việt. Không những vậy, nâng cao hiệu quả thương mại không chỉ là nâng tỷ lệ đóng góp của nó vào “rổ GDP” lớn tới mức nào, mà yếu tố còn quan trọng hơn rất nhiều chính là tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Cả triệu tấn cà phê nhân XK mỗi năm, nhưng bình quân chín năm gần đây chỉ thu được 1,06 tỷ USD/năm, còn nếu tinh chế để XK thì doanh thu sẽ tăng gấp 3 -4lần Biểu đồ xuất nhập khẩu và cán cân thương mại của Việt Nam(2005 – 2009) Trước hết, trong bối cảnh xuất 1, nhập 2, 3, nhưng viện trợ bị cắt giảm khiến thị trường trong nước bị “đói” hàng ngày càng gay gắt, dồn mọi sức lực để đẩy mạnh XK trong thập kỷ 90 là “mệnh lệnh” đối với hầu như tất cả các ngành, các địa phương, thì chiến lược phát triển thương mại thập kỷ này đã chuyển hướng với mục tiêu “kép”: “Phát triển mạnh thương mại, nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động để mở rộng thị trường trong nước và hội nhập quốc tế có hiệu quả”. Hai nửa bức tranh Có thể nói, sự chuyển hướng trong phát triển thương mại như vậy là một quyết định vô cùng sáng suốt của các các nhà hoạch định chiến lược. Nhận định này dựa trên bốn căn cứ chủ yếu sau đây: Thứ nhất, trong thập kỷ 90, trong khi thành công hơn cả mong đợi ở mục tiêu XK, thì thị trường trong nước lại rơi vào tình trạng “bỏ ngỏ”. Các số liệu thống kê của nước ta cho thấy, với 68,981 tỷ USD hàng hoá XK, chúng ta đã thực hiện vượt mức mục tiêu chiến lược (phương án 1) tới 31,981 tỷ USD và 86,4%, còn so với phương án 2 cũng vượt mức tới 23,981 tỷ USD và 53,3%. Trong đó, với nhịp độ tăng bình quân 17,8%/năm, kết thúc một nửa chặng đường đầu thực hiện chiến lược, chúng ta chỉ mới thực hiện chưa được một nửa mục tiêu ở phương án 1, nhưng trong nửa chặng đường còn lại, “đoàn tàu XK” đã tăng tốc lên 21,6%/năm, cho nên chính sự phát triển ngoạn mục này đã góp phần quyết định trong việc đưa tổng kim ngạch XK vượt quá xa so với mong đợi như vậy. Trong khi XK đạt được kỳ tích như vậy, thị trường trong nước lại chững lại. Đó là, cho dù hầu như liên tục “tụt dốc không phanh”, nhưng nhịp độ tăng bình quân trong giai đoạn 1991 - 1995 vẫn còn là 41,3%/năm, nhưng tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong giai đoạn 1996 - 2000 chỉ còn tăng 6,8%/năm. Như vậy, nếu coi thương mại là nguồn động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, thì thị trường trong nước đã đánh mất vị trí số 1 của nó chỉ sau một thập kỷ bị bỏ quên. Đây đương nhiên là nguyên nhân chủ yếu khiến cho nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế đang từ trạng thái leo dốc nhanh và đạt đỉnh cao phong độ những năm giữa thập kỷ hầu như liên tục tụt dốc mạnh trong những năm cuối thập kỷ (bình quân năm năm 1991 - 1995 tăng 8,18%/năm, còn năm năm 1996 - 2000 chỉ tăng 6,95%/năm).      Thứ hai, trong điều kiện như vậy, bên cạnh việc duy trì nhịp độ tăng XK gấp trên hai lần nhịp độ tăng GDP, tức là tiếp tục đẩy mạnh XK, việc đẩy nhiệm vụ mở rộng thị trường trong nước lên vị trí đầu tiên trong phát triển thương mại trong thập kỷ này có nghĩa là, thay vì “đi bằng một chân” , để nền kinh tế có thể tiếp tục phát triển nhanh và bền vững trong thập kỷ này, chúng ta phải “đi bằng hai chân”. Có thể nói, chính sự chuyển hướng chiến lược vô cùng sáng suốt này là “cứu cánh” để chúng ta có thể giành thắng lợi khi phải đối mặt với những thách thức gay gắt hơn bảy thập kỷ mới có một lần trên thị trường thế giới. Thứ ba, việc đầu ra ở thị trường trong nước lớn hơn XK có ý nghĩa không chỉ trên phương diện kinh tế, mà cả trên phương diện chính trị. Trên phương diện kinh tế, việc thị trường trong nước lớn hơn đầu ra XK đương nhiên đồng nghĩa với việc nó giữ vai trò động lực quan trọng nhất thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tức là sự phát triển của nền kinh tế nước ta bớt phụ thuộc vào bên ngoài. Thế nhưng, hơn thế, việc thị trường trong nước liên tục tăng ngoạn mục như vậy còn minh chứng cho việc thực hiện mục tiêu dân giàu trong “chùm mục tiêu”: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh đã đạt được một bước tiến mới về chất. Đó là, trong khi GDP bình quân đầu người giai đoạn 2001-2005 chỉ tăng 6,8%/năm, còn tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng bình quân đầu người chỉ tăng 0,8%/năm, thì trong nửa đầu thập kỷ hiện nay tăng rất mạnh lên 9,7%/năm và 12,9%/năm, còn bốn năm gần đây tiếp tục tăng rất mạnh lên 13,4%/năm và 20,3%/năm. Điều này có nghĩa là, “túi tiền rủng rỉnh”, người tiêu dùng tăng mua và thị trường trong nước liên tục sôi động trong những năm gần đây chính là “cứu cánh” để nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng dương trong bối cảnh tăng trưởng “âm” là hiện tượng phổ biến năm 2009 khi kinh tế thế giới đối mặt với khủng hoảng tồi tệ kể từ đầu thập kỷ thứ ba của thế kỷ trước cho đến nay. Thứ tư, những thăng trầm nói trên của thương mại nước ta trong gần hai thập kỷ đổi mới không thể tách rời những biến động về kinh tế và chính trị thế giới càng chứng tỏ việc chuyển hướng chiến lược phát triển như vậy là hết sức sáng suốt. Đó là, nếu như mở đầu thập kỷ 90 chúng ta phải đối mặt với những khó khăn chồng chất do sự sụp đổ của phe xã hội chủ nghĩa khiến XK hàng hoá và dịch vụ giảm kỷ lục 16%, còn bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cũng giảm 2%, thì trong thập kỷ này, khi nền kinh tế đang trong giai đoạn “nước rút” để hoàn thành thắng lợi kế hoạch năm năm và chiến lược 10 năm thứ hai thì XK hàng hoá và dịch vụ giảm 9,8%, nhưng bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng vẫn tăng gần 16%. Bên cạnh đó, trong những năm cuối thập kỷ trước chúng ta phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực khiến XK hàng hoá và dịch vụ “rơi tự do” xuống chỉ còn 5,5% năm 1998, thì trong năm mở màn thập kỷ hiện nay chúng ta cũng phải đối mặt với cuộc suy thoái kinh tế chu kỳ của thế giới “cộng hưởng” với sự kiện “ngày 11 tháng 9 đen tối của nước Mỹ” khiến XK hàng hoá và dịch vụ cũng “rơi tự do” xuống chỉ còn 3,3%. Trong bối cảnh không chỉ đã ở trình độ phát triển cao hơn hẳn, mà độ mở ở cả đầu ra XK lẫn đầu vào nhập khẩu cũng đã lớn hơn rất nhiều, việc phát triển mạnh thị trường trong nước để phòng ngừa những rủi ro từ bên ngoài tác động đến nền kinh tế càng giữ vai trò quan trọng.  Hướng đi tất yếu và chủ yếu  Thương mại hai thập kỷ đổi mới đầu tiên chủ yếu là phát triển theo chiều rộng, nhưng bên cạnh việc mở rộng thị trường trong nước như đã nói ở trên, nâng cao hiệu quả cũng là một mục tiêu bộ phận trong phát triển thương mại trong thập kỷ này, nhưng nó vẫn chưa trở thành hiện thực, cho nên hiện thực hóa trong thập kỷ tới không chỉ là hướng đi không thể không triển khai, mà còn là hướng đi phải giữ vai trò chủ đạo. Nhận định này dựa trên ba căn cứ chủ yếu sau đây: Trước hết, hiệu quả của thương mại không chỉ là phần đóng góp của nó vào “rổ GDP” lớn tới mức nào, mà yếu tố còn quan trọng hơn rất nhiều chính là tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển của thương mại mạnh hay yếu. Theo đó, do phát triển rất mạnh mẽ như đã nói ở trên, cho nên phần đóng góp của thương mại vào “rổ GDP” trong những năm gần đây ngày càng lớn là điều không thể phủ nhận. Thế nhưng, bên cạnh đó, “phần chìm của tảng băng” chính là tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển của nó lại bị giảm sút một cách rất đáng lo ngại.  Một kết quả tính toán cho thấy, nếu như không cải thiện được hiệu quả thúc đẩy kinh tế phát triển của thương mại vẫn như 9 năm qua, thì quy mô XK hàng hoá và dịch vụ của nước ta vào cuối thập kỷ tới sẽ vượt qua ngưỡng 300 tỷ USD, còn tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng sẽ phải đạt quy mô “không tưởng” gần 400 tỷ USD, bởi “rổ GDP” cũng vẫn chưa đạt ngưỡng 200 tỷ USD. Do vậy, thay vì tiếp tục phát triển rất mạnh thương mại để bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh như hai thập kỷ đổi mới đã qua, hướng đi chủ yếu trong phát triển thương mại thập kỷ tới phải là phát triển thương mại theo chiều sâu, tức là nâng cao đáng kể hiệu quả thúc đẩy kinh tế phát triển của thương mại, mà cụ thể là giảm mạnh hệ số giữa nhịp độ tăng trưởng thương mại và nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Trong đó, điều có ý nghĩa quyết định chính là ở chỗ, nền kinh tế nước ta đang có những tiềm năng vô cùng to lớn để phát triển thương mại theo hướng này. Trước hết, các số liệu thống kê cho thấy, cho tới thời điểm hiện tại, trong khi XK hàng hoá trong thập kỷ này ước tăng 16,7%/năm, thì nhập khẩu hàng hoá ước tăng khiêm tốn cũng là 17,9%/năm, cho nên nhập siêu bình quân mỗi năm sẽ đạt 8,3 tỷ USD và tỷ lệ nhập siêu so với XK cao ngất ngưởng ở mức 21,5%, còn tỷ lệ nhập siêu so với GDP cũng cao ngất ngưởng ở mức 13,5%. Có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, việc nhập khẩu tăng mạnh hơn XK trong nhiều thập kỷ liên tục khiến nhập siêu quá lớn như vậy không phải do nhập khẩu máy móc, thiết bị để tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế, càng không phải là do nhập khẩu hàng tiêu dùng, mà trước hết và chủ yếu là do tăng quá mạnh nhập khẩu không chỉ các nguyên liệu chủ yếu, mà còn do tăng quá mạnh nhập khẩu các nguyên, phụ liệu, các linh kiện để phát triển mạnh nền công nghiệp gia công, lắp ráp trong những năm gần đây. Nhìn một cách hình ảnh, trong những năm gần đây, hàng loạt các sản phẩm không chỉ cung cấp cho thị trường trong nước, mà cả XK tuy “vỏ” được ghi danh “Made in Vietnam”, nhưng thực chất trong “ruột” lại là “ASEAN + 3”. Do vậy, chỉ cần giảm được 1/5 “rổ hàng hoá nhập siêu” quá lớn đó bằng cách phát triển mạnh các ngành công nghiệp phù trợ, cũng như tiếp tục phát triển mạnh một số ngành công nghiệp nguyên liệu cơ bản như trong một số năm gần đây, hàm lượng “Made in Vietnam” sẽ tăng lên, thì “rổ GDP” của chúng ta sẽ tăng thêm 2,7%. Nói cách khác, tiếp tục phát triển một số ngành công nghiệp nguyên liệu cơ bản, đặc biệt là phát triển mạnh công nghiệp phù trợ, chúng ta không những giảm được nhập khẩu và nhập siêu một cách tương ứng, mà không phải tăng thêm quy mô và nhịp độ phát triển XK, cũng như thương mại trong nước, nhưng vẫn có thể tăng tốc phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta hiện cũng đang có những tiềm năng rất lớn mà nếu khai thác được, chúng ta sẽ không cần tăng nhập khẩu, trong khi vẫn gia tăng được XK. Đó chính là không ít những nguyên liệu thô XK khiến chúng ta được ghi danh trên thị trường thế giới, nhưng hiệu quả thúc đẩy kinh tế phát triển lại rất thấp. Đó không chỉ là cả triệu tấn cà phê nhân XK mỗi năm, nhưng bình quân chín năm gần đây chỉ thu được 1,06 tỷ USD/năm, còn nếu tinh chế để XK thì doanh thu sẽ tăng gấp 3 - 4 lần... Nói tóm lại, trong điều kiện thế và lực của nền kinh tế đã khác hẳn, và mặt khác, do tiềm năng để tiếp tục phát triển thương mại theo chiều rộng đã sắp cạn kiệt, cho nên phát triển thương mại theo chiều sâu trong thập kỷ tới chắc chắn phải là hướng phát triển chủ yếu. Thay vì tiếp tục phát triển rất mạnh thương mại để bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh như hai thập kỷ đổi mới đã qua, hướng đi chủ yếu trong phát triển thương mại thập kỷ tới phải là phát triển thương mại theo chiều sâu, tức là nâng cao đáng kể hiệu quả thúc đẩy kinh tế phát triển của thương mại, mà cụ thể là giảm mạnh hệ số giữa nhịp độ tăng trưởng thương mại và nhịp độ tăng trưởng kinh tế. IV. VĂN HÓA XÃ HỘI Tổ chức triển khai thực hiện “Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020”, có thể nhận thấy chúng ta đã thu được nhiều kết quả ấn tượng như: Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đang được mở rộng và đi vào chiều sâu, mang lại hiệu quả thiết thực. Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc luôn được chú trọng, nhiều di tích lịch sử văn hóa đã được trùng tu, tôn tạo. Trong 2 năm 2009 - 2010, nhiều di sản văn hóa của Việt Nam được UNESCO vinh danh như: Quan họ Bắc Ninh, Ca trù, Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long Hà Nội, Hội Gióng; Bia đá các khoa tiến sĩ đời Lê-Mạc tại Văn Miếu, Hà Nội được đưa vào danh mục di sản tư liệu thuộc Chương trình ký ức thế giới... Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nổi bật ấy, nhìn lại 2 năm thực hiện “Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020”, Bộ VHTTDL vẫn còn bộc lộ một số hạn chế như: Cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, dân trí khu vực nông thôn nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, biên giới, hải đảo... còn nhiều thiếu thốn; Kinh phí cho hoạt động ngành, nhất là đầu tư ngân sách của địa phương cho hoạt động văn hóa còn thấp so với yêu cầu thực tiễn. Đời sống của đa số những người làm công tác văn hóa còn gặp nhiều khó khăn; Công tác tuyên truyền, quảng bá văn hóa, đặc biệt là văn hóa nghệ thuật truyền thống và công tác giáo dục, định hướng văn hóa, thẩm mỹ trong nhân dân, nhất là đối với thanh thiếu niên, học sinh, công nhân... chưa được đầu tư đủ mạnh, hiệu quả thấp, thiếu sự phối hợp đồng bộ, quyết liệt giữa các ngành chức năng; Công tác quy hoạch, đầu tư phát triển thiết chế văn hóa còn chậm, chưa có sự đầu tư và kế hoạch khả thi để xây dựng các công trình văn hoá nghệ thuật (VHNT) có giá trị xứng tầm thời đại; Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở một số địa phương chưa được quan tâm đúng mức, chạy theo bệnh thành tích. Việc cưới, việc tang, lễ hội còn có những biểu hiện tiêu cực, hiện tượng thương mại hóa, mê tín dị đoan ở một số lễ hội chưa được xử lý triệt để... Trước thực tế này, nhằm thực hiện tốt “Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020” trong giai đoạn tới, Bộ VHTTDL đã đề ra các giải pháp cụ thể: Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước; đẩy mạnh cải cách hành chính; tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm và dứt điểm các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa; đẩy mạnh công tác xã hội hóa, phát huy cao nhất vai trò của cộng đồng, xã hội trong phát triển văn hóa. Tập trung xây dựng, điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, các cơ chế, chế độ, chính sách trong lĩnh vực VHNT. Xây dựng kế hoạch cụ thể về công tác tuyên truyền, định hướng về văn hoá; giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống cho mọi tầng lớp nhân dân. Củng cố, hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở; xây dựng các công trình VHNT lớn xứng tầm thời đại; Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại trong quản lý và tổ chức các hoạt động văn hóa nghệ thuật. Coi trọng hơn nữa việc chăm lo bồi dưỡng tài năng, nhất là đội ngũ cán bộ văn nghệ sĩ trẻ tuổi. Đầu tư phục dựng và phát triển các loại hình VHNT truyền thống. Rà soát, đưa vào danh mục, xếp hạng những giá trị văn hoá cốt lõi, tinh hoa dân tộc, từ đó có giải pháp cụ thể để bảo vệ, phát huy. Tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp khắc phục những hạn chế, yếu kém của ngành: bảo tồn, tôn tạo di tích; tổ chức lễ hội; tôn vinh và phát triển nghệ thuật truyền thống đầu tư, khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật chất lượng cao; thực hiện nếp sống văn minh công cộng; nâng cao đời sống văn hóa cơ sở, nhất là đời sống văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đời sống văn hóa công nhân trong các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung. Rà soát, thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá. Tăng cường giao lưu, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hoá gắn với giới thiệu bản sắc văn hoá và quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam... V. CHÍNH TRỊ – AN NINH QUỐC PHÒNG CHÍNH TRỊ Vào năm 1986, đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới, trong đó dổi mới về lĩnh vực chính trị an ninh – quốc phòng là một lĩnh vực quan trọng và bức thiết lúc bấy giờ.Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn về CNXH và về thời kỳ quá độ lên CNXH, dựa vào những kết quả bước đầu của sự đổi mới từng phần, lắng nghe, tổng kết sáng kiến, kinh nghiệm của nhân dân, của các địa phương và cơ sở.Trước hết, đổi mới tư duy lý luận mà thực chất là nắm vững và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, khắc phục căn bệnh nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã nhận thức rằng, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua một thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế xã hội của mỗi nước. “Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn”1. Đại hội IX (4-2001) tổng kết 15 năm đổi mới, khẳng định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”. Trong hàng loạt các quy luật khách quan, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ hơn quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, sửa chữa sai lầm trước đó là là đã đưa quan hệ sản xuất đi quá nhanh, quá xa trong khi lực lượng sản xuất còn rất lạc hậu, tập trung phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất thông qua thực hiện cách mạng khoa học - công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa, từ đó điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp. Các quy luật vận động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là các quy luật kinh tế đã từng bước nhận thức và vận dụng đúng đắn và có hiệu quả hơn. Khi quyết định đường lối đổi mới ở Đại hội VI Đảng ta đã nghiêm túc chỉ ra rằng, cuộc sống cho ta một bài học thấm thía là không thể nóng vội làm trái quy luật. Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và vai trò, chức năng quản lý điều hành của Nhà nước. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Củng cố sức mạnh của hệ thống chính trị. Đại hội VI của Đảng đặt ra yêu cầu xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền, tăng cường sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo và năng lực tổ chức thực tiễn, đổi mới phong cách làm việc, đi sâu, đi sát thực tế, sát cơ sở, gắn bó với nhân dân. Nâng cao trình độ trí tuệ, nắm bắt và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, hiểu biết sâu sắc những vấn đề kinh tế, xã hội.Quan điểm cơ bản là: quyền lực Nhà nước là thống nhất, song có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từng bước đẩy mạnh công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước cả về chức năng, cơ chế vận hành, quản lý, tổ chức bộ máy và đội ngũ công chức. Bộ máy và hoạt động tư pháp được củng cố và tăng cường. Cùng với việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhiệm vụ xây dựng hoàn thiện Nhà nước là những nội dung quan trọng về đổi mới hệ thống chính trị và có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ tiến trình của sự nghiệpđổimới. Thật sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tăng cường và đổi mới công tác vận động quần chúng nhân dân và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI của Đảng đã rút ra bài học là trong toàn bộ hoạt động, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Chính lợi ích sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới... Đảng nhấn mạnh các quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân; các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng; công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể. Đảng cũng chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Cùng với Đảng, Nhà nước, tổ chức Mặt trận và đoàn thể nhân dân như Tổng liên đoàn lao động, Hội nông dân, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh hợp thành hệ thống chính trị. Công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị ở tất cả các cấp. Đảng chú trọng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc đổi mới. Đoàn kết các giai cấp, các thành phần kinh tế, đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo, mọi tầng lớp, cá nhân yêu nước, đoàn kết người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài nhằm phát huy nội lực của dân tộc Việt Nam. Về thực tiễn, Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc mà nền tảng là liên minh công nhân - nông dân - trí thức do Đảng lãnh đạo ngày càng được tăng cường và củng cố. Nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được giữ vững. Chính trị - xã hội ổn định. Quan hệ đối ngoại được mở rộng. Vì thế nước ta trên thế giới được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp từ nguồn nội lực của đất nước tăng lên nhiều. Nhân dân tin tưởng ở đường lối đổi mới và sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, tin tưởng ở tương lai phát triển của đất nước. Về lý luận, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng rõ hơn, “hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã bước đầu hình thành trên những nét cơ bản” (Văn kiện trình Đại hội X trang 11). Nhận thức rõ hơn về mục tiêu, mô hình của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, rõ hơn về chặng đường, bước đi khi đã hoàn thành những nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu trên của thời kỳ quá độ, cho phép chuyển sang chặng đường đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, rõ hơn về những công cụ, giải pháp để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, rõ hơn về những mối quan hệ đặt ra cần được giải quyết một cách đúng đắn trên con đường đổi mới vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà trước hết làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 20 năm đổi mới đã có cơ sở để rút ra một số bài học lớn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Đó là các bài học: trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp; đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới; phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới; đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Đổi mới chính sách đối ngoại, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hoá, Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trên thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ quốc phù hợp với tình hình mới.. Đại hội VII của Đảng tuyên bố chính sách đối ngoại rộng mở, Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển. Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh sự hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và các tổ chức quốc tế. Tích cực đóng góp cho hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ. Đại hội IX của Đảng tiếp tục chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế. Đảng ta luôn luôn xác định, nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Phát triển nhanh, bền vững; đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị; mở rộng dân chủ... Đây là quan điểm phát triển của Việt Nam, được Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trình bày tại phiên khai mạc Đại hội Đảng XI sáng nay. Dựa vào dân để xây dựng Đảng Chủ đề của Đại hội là “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Nhiệm vụ thời gian tới là xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.Khắc phục tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo của Đảng với các cơ quan nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung vào lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Tăng cường phát huy dân chủ, nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt của các cấp ủy, tổ chức đảng. Đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo đảm chất lượng đảng viên theo yêu cầu của Điều lệ Đảng; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, chủ động, sáng tạo của đội ngũ đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ; thực hiện tốt Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa; coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Tập trung vào đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ. Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ trẻ, nữ, dân tộc thiểu số, chuyên gia trên các lĩnh vực; xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược. Trọng dụng người có đức, có tài. Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được quy định, lấy hiệu quả công tác và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy huân chương. Kịp thời thay thế cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, giảm sút uy tín, vi phạm pháp luật, chính sách của Nhà nước, kỷ luật của Đảng. Thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ. Coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chú trọng những vấn đề chính trị hiện nay. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, công tác dân vận của Đảng. Nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng. Tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước, việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, chế độ công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ; thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các sai phạm; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng. AN NINH – QUỐC PHÒNG An ninh – quốc phòng ở nước ta có nhiều phức tạp, nhất là vùng biên giới và hải đảo xa xôi. Chính vì thế, chính sách chiến lược phát triển an ninh quốc phòng được Đảng và Nhà nước ta chú trọng . Tăng cường sức mạnh quốc phòng giữ vững an ninh, trước hết các cấp và các ngành, cần phát huy sức mạnh của nhiều thành phần và các hình thức sở hữu kinh tế đóng góp tiền của, công sức, nguồn lực vào xây dựng củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh. Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, yếu tố quyết định tăng cường ngân sách quốc phòng. Bước phát triển về nguồn lực, cũng như văn hóa, khoa học và công nghệ... của đất nước, quyết định đến chất lượng xây dựng, huấn luyện, phát triển trang bị của LLVT. Khả năng cung cấp hàng hóa và dịch vụ, nhất là tổ chức thực hiện tốt các chính sách và pháp luật, bảo đảm sự tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho toàn dân, yếu tố tiên quyết để ta xây dựng niềm tin, tạo cơ sở củng cố ngày càng vững chắc nền QPTD và ANND, nhất là thế trận lòng dân trên mọi vùng, miền đất nước. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, không chỉ tạo ra thời cơ, thế mạnh để ta mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế, mà còn làm tăng nguồn dự trữ quốc gia, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế. Đó còn là điều kiện thuận lợi để ta đẩy mạnh quan hệ và hợp tác về quốc phòng, an ninh trong phòng, chống các thảm họa thiên nhiên và môi trường, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia và quốc tế; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bảo đảm mua sắm các trang bị kỹ thuật, góp phần nâng cao sức mạnh và khả năng SSCĐ và chiến đấu của LLVT. Đây còn là yếu tố cần thiết bảo đảm cho LLVT thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.      Chức năng và nhiệm vụ của LLVT, làm tham mưu cho Đảng và Nhà nước trong hoạch định cương lĩnh, đường lối và chiến lược xây dựng cũng như bảo vệ Tổ quốc ở thời kỳ mới. Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành ở Trung ương và địa phương, hoạch định chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ... gắn với tăng cường sức mạnh quốc phòng và giữ vững an ninh. Trực tiếp tham gia xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội ở vùng và địa bàn chiến lược trọng điểm, nhất là trên tuyến biên giới, vùng biển đảo, ngành mà lực lượng vũ trang có tiềm năng và thế mạnh. Hoạch định chiến lược xây dựng nền QPTD và ANND rộng khắp trên mọi vùng, miền đất nước, trong các thành phần kinh tế và trong các dự án hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực ở trong cũng như ngoài nước. Hoạch định chiến lược tổ chức xây dựng LLVT nhân dân, chiến lược phát triển ngành công nghiệp quốc phòng; phương án bảo vệ đất nước, từng miền, vùng và địa bàn chiến lược... Kết hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành ở Trung ương và địa phương, xây dựng các kế hoạch bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường; Phòng, chống các thảm họa do biến đổi thời tiết và khí hậu gây ra, các loại dịch bệnh, cũng như tội phạm xuyên quốc gia và quốc tế. Mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyển giao các công nghệ mới, cũng như phòng, chống thiên tai và tội phạm, đặc biệt là giải quyết các tranh chấp bất đồng thông qua đối thoại hòa bình. Đó là yếu tố quan trọng để ta giữ vững môi trường hòa bình và ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế phát triển. Bên cạnh đó ta còn thu hút nguồn vốn đầu tư, tận dụng thành quả khoa học và công nghệ, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao chất lượng hàng hóa và hạ giá thành, yếu tố quyết định để sản phẩm nước ta đủ sức cạnh tranh lành mạnh ở trong nước và quốc tế. Làm cho nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta phát triển ngày càng bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho toàn dân. Yếu tố quan trọng tạo ra sức mạnh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN ở thời kỳ mới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhững chiến lược, chính sách hội nhập Quốc tế của Việt Nam.doc
Luận văn liên quan