Những giá trị và những hạn chế trong lý thuyết kinh tế của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Xanhximong, Furie, Ooen

LỜI MỞ ĐẦU Chủ nghĩa xã hội không tưởng là những lý luận, những học thuyết biểu hiện dưới dạng chưa chín muồi, chưa đầy đủ. Phản ánh dưới dạng chưa chín muồi những ước mơ, nguyện vọng chủ quan của quần chúng nhân dân về một cuộc sống không có áp bức, bóc lột, bất công; mong muốn có được một xã hội công bằng, bình đẳng, tự do, hạnh phúc song không thực hiện bằng con dường cách mạng mà bằng con đường giáo dục khuyên nhủ, đó là một ước mơ chính đáng của nhân loại cần lao và những ước mơ đó có chiều dài lịch sử cùng với sự hình thành và phát triển của giai cấp và đấu tranh giai cấp. Chính từ những ước mơ khát vọng những tư tưởng chủ nghĩa xã hội ấy đã thôi thúc bao thế hệ các nhà tư tưởng, các nhà cách mạng ưu tú đã cống hiến hy sinh cho lý tưởng nhân đạo, cho sự tiến bộ của nhân loại. Từ những dự án sơ khai của Aghit, Cleomen thế kỉ III TCN đến những mô hình, hệ thống, quan điểm ngày càng tiến bộ hơn của T. Mơ rô, T.Campemela, G.Melie, G.Rably, .và đến đầu thế kỉ XIX các nhà tư tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng đã phát triển đến đỉnh cao với sự xuất hiện của ba nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng, trong đó nước Pháp có Saint Simon (Xanhximong), Charles Fourier (Furie), nước Anh có Robert Owen (Ooen). Những ước nguyện, những nỗ lực cống hiến và hy sinh của các thế hệ nói trên không chỉ phản ánh nguyện vọng chủ quan thuần túy lý tưởng mà còn là quá trình tìm tòi chân lý, mở ra con đường đi tới sự giải phóng nhân loại. Chính những tư tưởng không tưởng của Xanhximong, Furie, Ooen, đã trở thành một trong ba tiền đề lý luận cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở đất nước mình. Vì vậy trong bài tiểu luận này tôi sẽ phân tích “ những giá trị và những hạn chế trong lý thuyết kinh tế của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Xanhximong, Furie, Ooen” thông qua các tác phẩm đã học. MỤC LỤC A. LỜI MỞ ĐẦU 1 B. NỘI DUNG 2 I. Sơ lược tiểu sử, tác phẩm và tư tưởng lý luận của các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng. 4 1.Tư tưởng của T.More( 1478 – 1535): 4 2.Tư tưởng của Thomas Campanella (1568 - 1639): 5 3.Tư tưởng của Saint Simon(1761- 1825): 5 4. Tư tưởng của Charles Fourier (1772- 1837 ): 7 5. Tư tưởng của Robert Owen( 1771 – 1858): 9 I.Thành tựu cơ bản của các nhà kinh tế xã hội không tưởng: 11 III. Hạn chế trong lý thuyết kinh tế của các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng 24 IV. Ý nghĩa thực tế đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta hiện nay. 29 C. KẾT LUẬN 31 D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 32

doc33 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 13547 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những giá trị và những hạn chế trong lý thuyết kinh tế của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Xanhximong, Furie, Ooen, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
làm việc trong lĩnh vực thương nghiệp, điều này có ý nghĩ lớn đối với ông, vì ông đã chứng kiến tất cả những sự bịp bợm, dối trá của thương nhân trong lĩnh vực mua bán. Có thể nói sự căm ghét mua bán đã thúc đẩy ông nghiên cứu xã hội. Ông từng sống ở Lyon, một trung tâm công nghiệp và thương nghiệp thời đó, nên ông đã chứng kiển sự tương phản sâu sắc giữa cảnh giàu có xa hoa của một số lớp người và sự bần cùng đau khổ của đại đa số người khác, hiện tượng đó không chỉ diễn ra ở Lyon mà ở đâu ông cũng bắt gặp. Sự quan sát rộng lượng của ông đã đưa ông đi đến kết luận rằng: xã hội tư bản không thể coi là một xã hội công bằng. Từ đó, trong nhận thức của ông bắt đầu xuất hiện những tư tưởng về một xã hội mới có thể loại trừ căn bệnh của xã hội tư bản. Chính vì thế , ông đã đi sâu nghiên cứu và tiến hành những công trình dựa vào lí luận và tư tưởng của ông về một xã hội mới vào thực tiễn. Tuy việc vận dụng vào thực tiễn không mang lại kết quả cao, nhưng vẫn để lại tiếng vang lớn trong lịch sử. Ông để lại một di sản tinh thần rất phong phú và có giá trị, trong đó phải kể đến hai tác phẩm là: “Sự hòa hợp toàn thế giới”(1803)và “Thế giới kinh tế mới xã hội chủ nghĩa”(1829). Đó là những tác phẩm kết tinh những quan điểm lý luận của ông về xã hội hiện đại và tương lai của nó. Trong đó tập trung hai nội dung: phê phán chủ nghiã tư bản và lí luận về một xã hội tốt đẹp theo quan điểm không tưởng. Nội dung tư tưởng lí luận: Một trong những tư tưởng đặc săc của ông đó là phê phán xã hội tự sản một cách sâu sắc, vì theo ông, đó là một “trạng thái vô chính phủ của công nghiệp”,trong đó “ sự nghèo khổ sinh ra từ chính sự thừa thãi”. Ông kịch liệt phê phán tình trạng cạnh tranh diễn ra trong nền thương nghiệp tư bản chủ nghĩa mà hậu quả của nó là thị trường rối loạn và người lao động bị bần cùng hóa. Ông phê phán đạo đức trong xã hội tư sản đương thời vì nó hạn chế, bắt bẻ, phiền phức đối với người nghèo, trong khi đó nó lại là mặt nạ cho người giàu che đậy một âm mưu, hành động tội ác. Theo ông, trong xã hội tư bản, người nghèo chỉ bình đẳng trên danh nghĩa, trên thực tế họ phải chịu đựng mọi bất bình đẳng và rơi vào cạm bẫy của người giàu. Ông phê phán gay gắt hôn nhân tư sản vì thực tế nó chỉ là giao kèo buôn bán, hợp thức hóa sự xa đọa làm cho phụ nữ mất quyền bình đẳng. Ông cho rằng, giải phóng phụ nữ là thước đo mức độ tự do trong xã hội. Nét đặc sắc trong tư tưởng của C.Fourier là ông nêu ra quan điểm biện chứng về lịch sử. Ông chia lịch sử loài người thành bốn giai đoạn: mông muội, dã man, gia trưởng và văn minh. Ông cũng chia sự phát triển của mỗi chế độ xã hội thành bốn giai đoạn phát triển tương ứng như bốn giai đoạn phát triển của con người: thơ ấu, thanh niên ,trưởng thành và tuổi già. Theo ông, nước Pháp và nước Anh lúc đó đang ở giai đoạn văn minh thứ ba và ngả sang giai đoạn tuổi già và ông hi vọng, sau giai đoạn này xã hội đi vào một thời kì mới “xã hội hài hòa”trong đó có sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích của tập thể trên cơ sở tổ chức các hiệp hội lầm ăn tập thể mà ông gọi là Phalanx. Ông quan niệm trong xã hội hài hòa tất cả mọi năng lực của con người sẽ được hoàn thiện, cá nhân con người sẽ phát triển tới mức chưa từng thấy. 5. Tư tưởng của Robert Owen( 1771 – 1858): Ông sinh ra trong một gia đình thợ thủ công người Anh. Thời còn trẻ, ông sống xa bố mẹ, tự lập kiếm sống và trưởng thành. Năm 1799, R.Owen mua một xưởng kéo sợi. Từ năm 1800, ông làm việc với tư cách là một tổng giám đốc một cơ sở sản xuất với bốn xưởng máy khoảng 2000 công nhân. Tại đây, R.Owem bắt đầu sự nghiệp với tư cách của một nhà cải cách xã hội chủ nghĩa không tưởng. Ông đã biết xưởng máy của mình thành nơi thu hút những người nghèo khổ, không có việc làm. Ông đã xây dựng các mối quan hệ trong một thế giới riêng của mình theo một cách thức hoàn toàn khác so với bên ngoài như rút ngắn thời gian lao động từ 13 – 14 giờ xuống chỉ còn 10 giờ rưỡi, tăng tiền công, cấm trẻ em lao động dưới 9 tuổi, xây dựng nhà ở cho công nhân , lập nhà trẻ vườn trẻ, trường học kiểu mẫu, xây dựng cửa hàng bán lương thực, bán quần áo hạ giá hơn ở địa phương 25 %. Năm 1815, ông đề nghị chính phủ thực hiện đạo luật hạn chế ngày lao động, 4 năm sau mới thực hiện. Năm 1817, ông đề nghi thành lập hợp tác xã (công xã lao động). Nhưng chính phủ bác bỏ dự án này. Năm 1824, ông thành lập “công xã lao động” lấy tên là “ sự hòa hợp mới” ở Mỹ. Năm 1832, ông xuất bản tạp chí “khủng hoảng”. Trong đó, ông tuyên truyền tư tưởng hợp tác xã và cửa hàng trao đổi, lập “cửa hàng trao đổi quốc gia”. Song tất cả đều bị thất bại và R.Owen đã bị thiệt hại rất lớn về cả tiền bạc lẫn uy tín trong xã hội. Ông viết nhiều tác phẩm có giá trị như: Những nhận xét về ảnh hưởng của hệ thống công nghiệp và nông nghiệp; Báo cáo kể hoạch về giảm bớt tai họa xã hội; Lời kêu gọi của Đại hội các hợp tác xã của nước Anh; Thế giới đạo đức mới. Nội dung tư tưởng lí luận: một trong những tư tưởng nổi bật của R. Owen là quan niệm của ông khi bàn về bản chất con người. Theo ông, bản chất con người được hình thành thông qua sự tác động qua lại giữa con người với con người diễn ra ở môi trường bên ngoài. Trong đó, những tác động có tính khách quan đến việc hình thành bản chất con người có ý nghĩa quyết định quan trọng . Xã hội tương lai dựa trên sự hiểu biết khoa học về các quy luật của bản chất con người, sẽ là một xã hội hài hòa, một xã hội thực sự của con người. Ông là người có khuynh hướng duy vật tiến và tiến bộ hơn so với những đại biểu không tưởng đương thời, khi cho rằng sự phát triển của lịch sử gắn liền với sự thay đổi trong phương thức sản xuất. Theo ông, “ lực lượng vật chất đang chín muồi trong lòng xã hội ,cuối cùng sẽ dân đến sự thay đổi xã hội và đây là nấc thang cần thiết, chuẩn bi dần đến cuộc cách mạng vĩ đại và quan trọng”. Ông lên án và phủ nhân sâu sắc chế độ tư hữu vì nó làm cho người sở hữu tài sản trở nên ngu muội và ích kỉ và tính ích kỉ đó tỉ lệ thuận với số lượng tài sản của họ; nó làm cho con người xa cách nhau, thù hằn nhau, tàn sát nhau, thậm chí chém giết lẫn nhau bỡi những cuộc chiến tranh tàn khốc. Nó là nguyên nhân gây ra tất cả các tiêu cực và bất hợp lí trong xã hội. Dẫn đến việc ông đi tới kết luận phải xóa bỏ chế độ tư hữu xây dựng một xã hội mới trong đó chế độ tư hữu được thay thế bởi chế độ công hữu, xây dựng các công xã là cơ sở của xã hội mới, ở đó mọi thành viên sẽ sống như một gia đình với nguyên tắc hoạt động của công xã; lao động tập thể, cộng đồng sở hữu, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi cho tất cả các thành viên, giúp mọi thành viên có đủ điều kiện để phát triển. Tuy nhiên, ông cũng giống như Saint Simon và C.Fourier lựa chọn con đường xây dựng xã hội mới bằng phương pháp hòa bình, tuyên truyền, giải thích những chân lí với các tầng lớp trong xã hôi và trông chờ ở họ sự thức tỉnh…để hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn. Đây là điều không tưởng xa rời với thực tế. I.Thành tựu cơ bản của các nhà kinh tế xã hội không tưởng: Thứ nhất: Hầu hết những quan niệm trong các luận điểm các nhà tư tưởng chủ nghĩa xã hội đều chứa đựng tinh thần nhân đạo cao cả. Về cơ bản những tư tưởng nhân đạo ấy chưa vượt khỏi tinh thần nhân đạo tư sản. Tuy nhiên những giá trị luận điểm đã vượt lên tinh thần nhân đạo tư sản nhất là tư tưởng của các nhà xã hội chủ nghĩa đầu thế kỉ XIX có một giá trị lịch sử to lớn. Lí luận của Saint Simon : Trong các tác phẩm khoa học , phê phán chủ nghĩa tư bản là điểm trọng tâm của ông. Theo ông xã hội tư bản dưới sự thống trị của giai cấp tư sản đã tạo ra một tầng lớp giai cấp giàu có và một tầng lớp giai cấp nghèo khổ. Ông khẳng định: tổ chức xã hội tư bản là không hoàn thiện vì sự bóc lột diễn ra quá bạo lực và lừa bịp lẫn nhau, chính phủ không lo tới việc cải thiển đời sống của nhân dân của người dân lao động. Khi phân tích kết cấu của xã hội tư bản, ông gọi chung giai cấp công nhân các nhà tư bản và thương nhân là những nhà công nghiệp, còn các tầng lớp khác, quý tộc thầy tu, cha cố, ông gọi là giai cấp không sinh lời. Xanhximong có thái độ phê phán đối với cách mạng tư sản pháp. Ông cho rằng tai họa là ở chỗ cuộc cách mạng đã đưa một giai cấp vốn ở vị trí trung gian – giai cấp tư sản lên nắm quyền thống trị thay thế cho giai cấp phong kiến, và giai cấp này đã lợi dụng địa vị đó để lái cuộc cách mạng về phía lợi ích của nó. Ông đã chỉ ra tính hạn chế của cuộc cách mạng tư sản: “khi chúng ta tuyên bố rằng cuộc cách mạng tư sản pháp đã hoàn toàn phá hủy các quyền lực phong kiến và thần quyền thì đó là sự thổi phồng”, “nó không thủ tiêu chúng mà chỉ một phần đáng kể sự tin cậy vào những nguyên tắc làm cơ sở cho chúng mà thôi”. Với những quan điểm biện chứng về lịch sử xã hội Xanhximong cho rằng cuộc cách mạng trước chuẩn bị cho cuộc cách mạng sau, những “cuộc cách mạng cục bộ” chuẩn bị cho cuộc “tổng cách mạng” những cuộc cách mạng hạn chế chuẩn bị cho những cuộc cách mạng triệt để lần sau: cách mạng Pháp bắt đầu ít nhất năm năm sau khi xuất bản cuốn “bách khoa toàn thư”, đang nổi lên như bọt, giai cấp ngu dốt chiếm lấy chính quyền vì không có năng lực mà dẫn đến nạn đối giữa cảnh thừa thãi. Bên cạnh đó ông còn chỉ ra cái bất hợp lí của xã hội đó là tình trạng vô chính phủ dẫn đến các cuộc khủng hoảng và tàn phá các cơ sở của xã hội, làm cho các dân tộc phải chịu nhiều tiêu cực. Đó là xã hội đầy rẫy những đặc quyền, đặc lợi sinh ra từ sự “bất bình đẳng trong sở hữu” và “đặc quyền theo nguồn gốc xuất thân”. Đó là tình trạng xã hội “lộn ngược”. Lí luận của Charles Fourier Furie trong tác phẩm của mình ông đã phê phán và lên án xã hội tư sản một cách sâu sắc. Theo ông xã hội tư sản là một “trạng thái vô chính phủ của công nghiệp” trong đó người lao động tiêu dùng quá ít còn các tầng lớp ăn bám thì được hưởng quá nhiều. Đó là xã hội mà “sự nghèo khổ sinh ra từ chính bản thân sự thừ thãi” xã hội đó đang vận dộng trong vòng luẩn quẩn. Ông kịch liệt lên án tình trạng cạnh tranh trong nền thương nghiệp tư bản chủ nghĩa mà hậu quả của nó là thị trường rối loạn và người lao động bị bần cùng hóa. Theo ông “rằng cái ngược lại là sự cạnh tranh làm cho tiền công giảm sút và nhân dân bị bần cùng do những thắng lợi của công nghiệp : công nghiệp càng phát triển thì người công nhân càng phải chịu công việc chán ngắt với cái giá rẻ mạt, nhưng mặt khác số thương nhân tăng lên càng nhiều thì họ càng bị thu hút vào sự lừa bịp khó kiếm lời”. Ông phê phán gay gắt chế độ hôn nhân tư sản bị biến dạng thành giao kèo buôn bán, hợp thức hóa sự xa đọa làm cho phụ nữ bị vô chính quyền. Ông coi việc giải phóng phụ nữ là thước đo mức độ tự do trong xã hội, ông phê phán xã hội tư sản làm què quặt trẻ em. Sự phê phán chủ nghĩa tư bản của ông gắn liền với quan niệm của ông về việc phân chia lịch sử phát triển của xã hội loài người.Theo ông, loài người đã phát triển qua bốn giai đoạn: giai đoạn mông muội, dã man, giai đoạn gia trưởng đến giai đoạn văn minh. Chủ nghĩa tư bản là giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa văn minh, nghĩa là nó đã trải qua thời kì thinh vượng và đang bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong. Tiếp theo đó sẽ là một nền sản xuất xã hội chủ nghĩa công bằng hấp dẫn còn gọi là nền kĩ thuật. Đặc điểm trong phê phán chủ nghĩa tư bản của C.Fourier la tính gay gắt, sâu sắc và toàn diện. Trong đó, ngành thương nghiệp là lĩnh vực mà ông cực kì căm ghét đến mức ông cho rằng nó là nguyên nhân của mọi bệnh hoạn trong xã hội chủ nghĩa tư bản. Ông có một thái độ cực đoan đối với thương nghiệp tư bản chủ nghĩa ông coi thương nghiệp là “sự hoàn toàn tự do bịp bợm”, đó là lĩnh vực đầy rẫy đâu cơ, phá sản và ích kỷ và nhiều điều tệ hại khác. Ông cho rằng con người trong chủ nghĩa tư bản giống những con sói nuốt lẫn nhau và tình trạng này chỉ có thể bị thủ tiêu không bằng cách cải thiển chế độ văn minh mà bằng cách thủ tiêu nó và lập nên một cơ cấu xã hội tốt đẹp hơn, đó là “chế độ xã hội chủ nghĩa”. Sự phê phán một cách cực đoan về thương nghiệp của chế độ tư bản đã dẫn ông đến sai lầm nghiêm trọng về lí luận. Rõ ràng ông đã không hiểu đúng bản chất của thương nghiệp trong tư bản chủ nghĩa. Ông không hiểu được bản thân thương nghiệp chỉ là một hoạt động sinh ra từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,phục vụ cho sự phát triển của tư bản. Ngoài ra, C. Fourier còn phê phán tình cảnh khổ đau của công nhân làm thuê do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản gây ra. Ông đã nhận xét: trong khi đại bộ phận những người lao động làm thuê sống trong tình trạng nghèo khổ, không đủ công ăn việc làm và chịu mọi sự đau khổ , bất công trong xã hội thì một số bộ phận khác lại sống ăn bám vào xã hội, sống trong sự xa hoa vô độ, tình trạng nhiều người thoát li khỏi cảnh sản xuất vật chất ngày càng phát triển. Ông có ý định phân chia xã hội thành hai loại : những người sản xuất và những người không sản xuất nhưng ông lại đi đến kết luận sai lầm ở chỗ chỉ có ở chế độ tư bản mới có lao động không sản xuât vậy chất, còn trong xã hội chủ nghĩa loại này sẽ biết mất. Cuối cùng, khi phê phán chủ nghĩa tư bản, C.Fourier có một dự án chính xác về quá trình tập trung sản xuất cao sẽ phát sinh ra độc quyền tư bản. Ông đã phân chia ra 5 loại độc quyền khác nhau: độc quyền hợp tác các vi phạm liên hợp, độc quyền quan liêu hay độc quyền nhà nước; độc quyền thuộc địa hay độc quyền nước ngoài; độc quyền trên biển và độc quyền phong kiến phức tạp. Kết luận của C.Fourier về độc quyền sẽ thay thế tự do cạnh tranh là kết luận khoa học, chứng tỏ ông hiểu biết đúng đắn phép tự do biện chứng của sự phát triển xã hội tư bản chủ nghĩa. Lí luận của R. Owen: Ông phê phán chế độ tư bản chủ nghĩa bằng việc đả kích một cách gay gắt chế độ tư hữu, coi đó là nguyên nhân trong mọi tai họa của chủ nghiã tư bản. Bởi vì, nó đẻ ra lòng ích kỷ , chủ nghĩa cá nhân , sự canh tranh, tình trạng vô chính phủ trong sản xuất và phân phối. Ông đã vạch ra xã hội tư bản coi đồng tiền là mục đích cao nhất. Điều đó dẫn đến một số kẻ sống xa hoa trong khi đại đa số bộ phận “ tầng lớp dưới” sống trong cảnh thảm hại. Những thảm họa mà con người phải gánh chịu dưới chế độ chủ nghĩa tư bản như kéo dài ngày công lao động, tăng cường độ lao động sử dụng quá sức cường độ lao động phụ nữ và trẻ em, thất nghiệp do sử dụng máy móc….Tất cả những điều đó theo ông là do “con người và lao động của họ bị mất giá”, là do đồng tiền dưới chủ nghĩa tư bản gây ra. Bởi vậy, ông đã lên án gay gắt đồng tiền và dự định lên một kế hoạch thủ tiêu nó như thủ tiêu một công việc bẩn thỉu trong tay nhà tư bản. Sự phân phối trong tư bản chủ nghĩa cũng bị R.Owen lên án một cách mạnh mẽ. Ông cho rằng phân phối qua đồng tiền và thương nghiệp là có hại cho xã hội. Ông nhận xét rằng tham gia vào phân phối này có rất nhiều người trung gian như thương nghiệp, chủ ngân hàng, kẻ đầu cơ…Tất cả họ đều không làm ra giá trị, song họ lại làm tăng thêm nó vì những chi phí đủ loại.Tuy nhiên, từ những nhân xét đó ông đã mắc phải sai lầm là phủ nhận tòan bộ lĩnh vực trao đổi thông qua đồng tiền, ông hi vọng vào sự trao đổi hiện vật trực tiếp để thỏa mãn tiêu dùng là phương thức phân phối lí tưởng trong xã hội tương lại của ông. Thứ hai: Các nhà kinh tế chủ nghĩa xã hội không tưởng đã phỏng đoán xã hội chủ nghĩa trong tương lai hoàn toàn tốt đẹp. Họ đã đưa ra dự án về xã hôi tương lai tốt đẹp ấy bằng việc hình dung tạo lập ra mô hình kinh tế - xã hội trong thực tiễn bằng khả năng của họ. Mô hình ây theo Saint Simon là “hệ thống công nghiệp – khoa học”, hay “chế độ công nghiệp”,còn theo C. Founrier là “ xã hội chủ nghĩa”. Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đã nêu lên nhiều những luận điểm có giá trị, nhiều dự đoán tài tình về sự phát triển của xã hội về một xã hội tương lai tốt đẹp mà sau này các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa một cách có phê phán và thuyết minh chúng trên cơ sở khoa học. Dự án xã hội tương lai của Saint Simon : Xanhximong ước mơ xây dựng được một xã hội tốt đẹp đáp ứng được những nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi người.Theo ông muốn làm được việc ấy trước hết là phải giải quyết được vấn đề sở hữu “chế độ tổ chức phải được tổ chức như thế nào có sự thống nhất cho toàn xã hội về mặt tự do và về mặt của cải” khác với các nhà xã hội chủ nghĩa trước đó. Xanhximong đã đi đến một công thức rõ hơn. Các thiết chế xã hội phải thúc đẩy việc tăng thêm phúc lợi cho những người vô sản tức là coi trọng xã hội đó con người được sống hòa bình và các đân tộc liên kết lại để bảo vệ lời ích chung. Những nhà khoa học nhà nghệ thuật phải đóng vai trò điều khiển và lãnh đạo xã hội chỉ có họ mới điều khiển và lãnh đạo xã hội, chỉ có họ mới có khả năng đảm bảo vật chất tinh thần cho mọi người. Ông viết trong tác phẩm lý luận về tổ chức xã hội “trong một xã hội được tổ chức với một mục tiêu xác định –vươn tới phồn vinh nhờ khoa học, nghệ thuật, và nghề nghiệp, một hành động chính trị quan trọng nhất theo một hướng xác định mà xã hội phải đi không còn do những người khác giữ các chức vụ trong xã hội thực hiện nữa; nó do bản thân cơ thể tiến hàn...tức là khoa học nhằm thực hiện mục tiêu thiết lập trật tự vân dụng cho loại hình sản xuất diễn ra thuận lợi” Về vấn đề chế độ sỡ hữu ông không khẳng định việc xóa bỏ chế độ tư hữu, không đặt điều kiện phải thiết lập chế độ sở hữu công cộng đối với tư liệu sản xuất song ông đề cao vai trò lập kế hoạch chung cho nhà nước. Ông không đặt vấn đề thủ tiêu chế độ sở hữu nói chung trái lại, ông cho sự tồn tại của quyền sở hữu là điều kiện tồn tại của xã hội. Thái độ của Saint Simon đối với giai cấp vô sản công nghiệp mang tính chất tiến bộ. Được chứng kiến những khả nằng của giai cấp vô sản quản lý các xưởng máy và hiệu buôn sau cách mạng khi cách mạng Pháp thắng lợi, ông đã kêu gọi luật pháp phải thừa nhân những người lao động vô sản là những người có đầy đủ quyền hạn trong xã hội, phải cho họ có vị trí quan trọng về chính trị trong xã hội. Tính chất không tưởng trong dự án cải tạo xã hội của Saint Simon là ở chỗ dự án đó không nhằm cải tạo các cơ sở kinh tế của chế độ cũ, mà chỉ chờ mong vào các biện pháp tinh thần, bằng việc kêu gọi lòng tốt của tất cả các giai cấp trong xã hội. Rõ ràng ông đã không hiểu chính những mâu thuẫn về lợi ích của các giai cấp trong xã hội chính là động lực phát triển xã hội. Hy vọng điều hòa các lợi ích ấy nên ông đã tưởng tượng cải tạo hòa bình xã hội chủ nghĩa tư bản, đó là sự không tưởng lúc bấy giờ. Việc đề ra dự án công nghiệp mới, cùng với việc đưa ra dư án thay thế xa hôi tư bản bằng một xã hội cao hơn, việc cổ vũ vai trò của khoa khoc kĩ thuật và các nhà khoa hoc trong xã hội mới là những quan điểm tiến bộ lớn của Saint Simon. Ông có dự kiến thiên tài những mặt tiến bộ cao hơn của hệ thống công nghiệp so với chủ nghĩa tự bản, đó là năng xuất lao động và trình độ tổ chức một nền kinh tế theo kế hoach nhằm mục đích thỏa mãn những nhu cầu của con người lao đông trong xã hội mới. Dự án xã hội tương lai của C. Founrier: Cũng giống như các nhà xã hội không tưởng trước đó Furie đã phê phán xã hội đương thời đầy bất công, ông mong muốn xây dựng một xã hội mới như sau: Trước hết ông xây dựng xã hội mới qua giai đoạn “ xã hội đảm bảo” và tiến tới giai đoạn “ xã hội hài hòa ” trong đó sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể được xác lập khi “ mỗi con người riêng biệt chỉ tìm thấy đều có lợi ...trong cái lợi của toàn thể quần chúng”. Ông là con người đầu tiên chỉ ra tính tất yếu và ưu việt của tổ chức làm ăn tập thể trong các hiệp hội, ông viết : “...những nhà triết học các anh hùng càng chất đống tủ sách để tìm hạnh phúc, chừng nào chưa nhổ sạch gốc rễ của mọi tai hoa thì tôi xin nói –từ bỏ tình trạng làm ăn rời rạc, trái ngược, trực tiếp với ảnh hưởng của chúa” và “...chúng sẽ trở thành người chứng kiến cảnh tượng chỉ có thể thấy một lần ở hành tinh : bước chuyển đột ngột từ sự rời rạc sang sự phối hợp chặt chẽ về mặt xã hội” ông cho rằng tính tập thể sẽ mạnh hơn tính cá thể, trong đó phải tập hợp lại làm ăn trong các hiệp hội. Theo Furie muốn xây dựng xã hội mới cần khám phá ra quy luật vân động cơ bản của sự vận động xã hội là lôi cuốn của các đam mê, sự thỏa mãn của các dục vọng. Khác với Saint Simon, C.Founrier đã đưa dự án của mình vào trong thực tiễn. Mơ ước của ông trong chế độ mới – chế độ xã hội chủ nghĩa – đời sống nhân dân lao động sẽ được cải thiện hoàn toàn, những tệ hại của xã hội tư sản không còn nữa,chế độ dựa trên nề sản xuât tập thể tức là trên nền của các “hiệp hội sản xuất”. Ông phân chia con đường đi lên chế độ “ công bằng lí tưởng” của chủ nghĩa xã hội thành ba giai đoạn: “chủ nghĩa bảo đảm, nửa hiệp hội”, “ chủ nghĩa xã hội , hiệp hội giản đơn”,và “sự hòa hợp, hiệp hội phức tạp”.Trong đó, giai đoạn “ hiệp hội giản đơn”,và “ nửa hiệp hội” là giai đoạn chuẩn bị những cơ sở vật chât kĩ thuật cần thiết, là giai đoạn chuẩn bị cho nền sản xuất lớn, phá bỏ sản xuất nhỏ và tạo khả năng để tổ chức nền kinh tế xã hội theo kế hoạch. Giai đoạn “ hiệp hội phức tạp” là giai đoạn phát triển cao nhất, ở đó mọi thành viên xã hội được phát huy đầy đủ mọi năng lực và khả năng của chính mình. Tế bào xã hội tương lai là các “ hiệp hội”, cơ sở cấu thành là các “Phalanx”. Mỗi Phalanx khoảng 1600 – 1800 thành viên chia thành 7 nhóm hoạt động sản xuất: kinh tế gia đình nông nghiệp, công nghiệp thương nghiệp, giao thông vận tải, giáo dục, khoa hoc và kĩ thuật. Nhà ở các thành viên trong Phalanx được thiết kế thống nhất bên cạnh các xưởng, thư viện, nhà ăn, phòng khách, trường trung học chung. Phalanx là trung tâm văn hóa giáo dục, là nơi tạo điều kiện nhất cho sự phát triển của mỗi thành viên. Xã hội mới mà C.Founrier xây dựng dự án vẫn còn phân biệt giàu nghèo, sự bất bình đẳng về tài sản, sự phân chia giai cấp và chế độ tư hữu vẫn còn tồn tại nhưng chỉ trong phạm vi các Phalanx. Cơ sở cho sự phồn vinh của xã hội mới được C Founrier coi là nền đại sản xuất. Nhưng ông lại coi nông nghiêp là cơ sở của nền sản xuất xã hội, còn công nghiệp có quan trọng đến đâu cũng chỉ đứng hàng thứ hai, giữ vai trò bổ sung cho nông nghiệp. Ông chịu ảnh hưởng lớn của tư tưởng trọng nông nên ông hình dung nề sản xuất xã hội sau này là nền sản xuât nông nghiệp bao trùm toàn trái đất. Theo ông, các Phanlanx sẽ là một công xưởng nông nghiệp, còn xét về toàn bộ nền kinh tế thì các Phalanx sẽ kết hợp với nhau thành một nền nông nghiệp lớn. Ở đây, C.Founrier đã không dự kiến và phân tích đúng đắn mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp sản xuất hiện đại .Thực tế phát triển của chủ nghĩa tư bản ngày càng chứng tỏ rằng, công nghiệp tác động sâu sắc tới lĩnh vực nông nghiệp và phá vỡ dần dần nền sản xuât nông nghiệp cổ truyền, cải tạo những cơ sở của nó và biến nó thành một nền nông nghiệp được công nghiệp hóa. Về mặt này, ông đã tỏ ra không tưởng trong dự kiến xây dựng nông nghiệp thành cơ sở của nền đại sản xuât trong xã hội tương lai. Theo ông, động lực thúc đẩy con người hăng say lao động sản xuất là sự say mê của họ đối với công việc. Chính vì say mê đó sẽ nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, từ đó có khả năng xóa bỏ nhà nước quân đội, cảnh sát và các cơ quan quyền lực khác. Ông còn có ảo tưởng hơn nữa khi cho rằng, chỉ cần xây dựng được những Phalanx hoàn hảo làm kiểu mẫu để thu hút người xem là có thể truyền bá được dự án của mình ra toàn xã hội. Nhưng không may dự án về một xã hội tương lai tốt đẹp đã bị phá sản hoàn toàn. Điều này chứng tỏ rằng, không thể dựa vào xã hội tư sản để cải tạo nó mà không cần đến những đảo lộn về kinh tế xã hội. Cũng giống như Saint Simon và các nhà xã hôi chủ nghĩa không tưởng khác, C.Founrier đã không vượt qua được thời đại của chính mình. Dự án về xã hội tương lai của R.Owen. Đó là dự án về “ tiền lao động”và “trao đổi công bằng” mà R.Owen xây dựng được ông đặt trên cơ sở của chế độ sở hữu công cộng trong xã hội tương lai. Điều kiện cho việc thực hiện chế độ “ sở hữu công bằng” và dự án “ tiền lao động” là sự dồi dào về sản phẩm . Điều này ông hoàn toàn có lí khi thấy khả năng to lớn của sự phát triển khoa học kĩ thuật, mở rộng sản xuất nâng cao năng xuất lao động của nền sản xuất đại cơ khí sẽ đảm bảo cho việc làm ra ngày càng dồi dào của cải vật chất cho xã hội. Nhưng hạn chế của ông là ở chỗ, ông định áp dụng chế độ “tiền lao động” và “trao đổi công bằng” ngay trên mảnh đất của chế độ tư sản đương thời. Theo ông việc trao đổi công bằng “ các sản phẩm được sản xuất ra đem trao đổi tại của hàng trao đổi công bằng”, ở đây đồng tiền không là chức năng thức đo giá trị nữa mà thay thế cho nó là “ lao động chi phí”. Đồng tiền đã bị loại ra khỏi lưu thông, trao đổi và “ tiền lao động” xuất hiện. Thực chất của “tiền lao động” cũng là một thứ phiếu chứng nhận lao động chi phí và việc sản xuất hàng hóa, từ đó mà người lao đông nhận được những thứ hàng hóa mà họ cần thiết cho tiêu dùng. Chế độ “trao đổi công bằng”của R.Owen rõ ràng không thể tồn tại được trong xã hội đó . Vì vậy, dự án này và một loạt dự án khác của ông bị phá sản nhanh chóng. Theo quan điểm của Ooen phải thay chế độ tư hữu bằng chế độ công hữu. Nếu như trước đây chế độ tư hữu như một nhu cầu tất yếu hoặc có lợi ích đến sự phát triển của xã hội thì ngày nay, khi máy móc ra đời nó hoàn toàn không cần thiết nữa và là một tệ nạn không gì biện bạch được. Nếu có một xã hội được tổ chức và hợp lý, có khoa học, máy móc thì chế độ tư hữu hoàn toàn không cần thiết nữa. Ở đây từ người có địa vị cao nhất đến người có địa vị thấp nhất trong xã hội đều có thể đảm bảo được nhu cầu vì hạnh phúc của mình thậm chí còn đầy đủ hơn nhiều so với có thể đạt được cạnh tranh để có một tài sản sở hữu. Tức là Ooen đã xây dựng được một xã hội rất tốt đẹp. Và ông đã lý giải chế độ đó ưu việt hơn chế độ tư hữu là điều tất yếu. Đây chính là tư trưởng xã hội chủ nghĩa tốt đẹp mà Ooen đã xây dựng. Ông có tư tưởng hết sức tiến bộ đó là coi việc thủ tiêu sự khác nhau về dẳng cấp và giai cấp cho người xa rời những quy luật tự nhiên là điều kiện cần thiết cho sự bình đẳng xã hội. Trong các dự án mang tính chất không tưởng của R.Ooen còn phải kể đến kế hoạch lập các hợp tác xã của ông. Đó là những “thị trấn cộng đồng” bao gồm khoảng 500 – 1500 người trên một diện tích 600- 1800 acrơ ( 1 acrơ = 4046 mét vuông, khoảng 0,5ha), quanh thị trấn là vườn rừng. Bên ngoài là công xưởng nhà máy. Bên trong là nhà bếp, nhà ăn công cộng, trường học, thư viện, bệnh viện và nơi vui chơi giải trí…Phụ nữ chỉ làm công việc nấu ăn còn việc sản xuất là của đàn ông. Ông hi vọng rằng: “chế dộ công đồng” sẽ làm cho con người ta xa rời bản chât chế độ tư hữu của mình, tạo điều kiện để giáo dục họ thành người lành mạnh, có tài năng và có nhiều đức tính tốt. Về mặt kinh tế, ông coi các “cộng đồng” lấy nông nghiệp làm cơ sở phát triển, còn công nghiệp đóng vai trò hỗ trợ. Song do phạm vi toàn xã hội, sự liên kết các cộng đồng lại lấy công nghiệp làm cơ sở, đó là nền sản xuất cơ khí có khả năng làm ra nhiều sản phẩm để bảo đảm sự xung túc cho tất cả mọi người. Ông xem công xã lao động là cơ sở tổ chức xã hội mới ở đó các thành viên sống như một gia đình, nghĩa là “mỗi thành viên sẽ hợp tác với các thành viên khác” nguyên tắc tổ chức và hoạt động của công xã được xây dựng trên cơ sở lao động tập thể, cộng động sở hữu, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi giữa các thành viên trong công xã. Đây là ý tưởng rất gần với chủ nghĩa Mác sau này. Ooen đánh giá ý nghĩa lịch sử của sự phát triển lực lượng sản xuất trong thời đại cách mạng công nghiệp. Ông cho rằng lực lượng vật chất đang chín muồi trong lòng xã hội cuối cùng sẽ dẫn đến sự cải tạo xã hội.Trong quan niệm của ông về một xã hội tương lai sự tiến bộ của công nghiệp và khoa học kĩ thuật là nét chủ yếu và nổi bật nhất. Những cống hiến của Ooen là rất ý nghĩa như Ăngghen đã nhận xét, đánh giá học thuyết của ông “Ooen sống trong một nước mà sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển nhất, bị ảnh hưởng bởi những đối lập do phương thức sản xuất ấy sinh ra nên đã xuất phát từ chủ nghĩa duy vật Pháp mà nêu ra một cách có hệ thống. Những dự án xóa bỏ những khác biệt giai cấp”. Thứ ba: Thức tỉnh đấu tranh của quần chúng trong mỗi giai đoạn lịch sử tương đối dài với những tư tưởng đã nêu ra bằng hoạt động của mình các nhà tư tưởng đã góp phần thức tỉnh của quần chúng nghèo khổ và thúc đẩy lịch sử tiến lên, đặt một trong những mốc ghi dấu sự phát triển tư tưởng loài người một giai đoạn nhất định. Mặc dù, học thuyết của chủ nghĩa xã hội không tưởng ở thời kì này còn bộc lộ nhiều hạn chế,không triệt để ,đầy rẫy những ảo tưởng xa rời với thực tế phát triển khách quan và sự vân đông của kinh tế - xã hội nhưng những học thuyết chủ nghĩa xã hội có những giá trị hết sức to lớn góp phần quan trong vào việc hình thành chủ nghĩa xã hội khoa học, trong đó có bốn giá trị cơ bản sau: Một là, các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác ở mức độ khác nhau đã lên án, phê phán chủ nghĩa tư bản một cách sâu sắc ngay từ khi nói mới ra đời. Họ đã phần nào nói lên tiếng nói của người lao khổ, bênh vực họ trước tình trạng bị đối xử bất công và bị áp bức trong xã hội. Các ông không chỉ miêu tả những hiên tượng bất công trong xã hội tư bản mà còn từng bước đi sâu nghiên cứu, tìm ra những bất công trong nghịch lý ấy. Dưới con mắt của những nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa tư bản được miêu tả như những hiên tượng “cừu ăn thịt người” của Thomas More( thế kỉ XVI); “bệnh dịch nguy hiểm” của Thomas Campanella( thế kỉ XVII); “bức tranh lộn ngược của Sanit Simon , “xã hội vô chính phủ công nghiệp” của C.Fourier(thế kỉ XIX)…và do đó, theo các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa, xã hội tư bản cần phải loại bỏ và thay thế bằng một xã hội khác. Saint Simon nổi bật với tư tưởng lí luận giai cấp và xung đột giai cấp.Ông chia xã hội tương đương với ba giai cấp: quý tộc, nhà tư tưởng, nhà công nghiệp. Trong đó, giai cấp nhà công nghiệp là giai cấp trí tuệ, có khả năng quản lí nhà nước. Trong giai cấp công nghiệp, ông phân chia thành hai nhóm: một bên là nhóm giai cấp ít ỏi những người sở hữu; một bên khác là đông đảo những người không có của. Hai là, các nhà xã hội chủ nghĩa trước Mác đã nêu lên nhiều luận điểm có giá trị, nhiều dự đoán tài tình về sự phát triển của xã hội, về một xã hôi tương lại tốt đẹp hơn mà sau này các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa một cách có phê phán và luận chứng chúng trên cơ sở khoa học. Tiêu biểu là mô hình “Hòn đảo không tưởng” của T.more( thế kỉ XVI); “Thành phố Mặt trời” của T.Campanella( thế kỉ XVII) và mô hình “công xưởng Niulanac” của R.Owen( thế kỉ XIX).Trong các mô hình này cũng như trong tư tưởng của một số nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã nêu lên tư tưởng về một xã hội tương lai, ở đó: xây dựng chế độ sở hữu chung (công cộng) phân phối công bằng( có lợi cho đa số); ai cũng phải lao động và mọi lao động được coi trọng như nhau; không có sự khác biệt giữa thành thi và nông thôn; trẻ em được giáo dục miễn phí, phụ nữ được giải phóng, không có chiến tranh.nhà nước sẽ đi tới tiêu vong… Ăngghen từng cho rằng: mặc dù những dự đoán trên còn đầy chât ảo tưởng, nhưng đây là những dự đoán hết sức thiên tài , là những hạt ngọc lấp lánh mà sau này các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa có chọn lọc khi các ông xây dựng mô hình xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Ba là, trong giai đoạn lịch sử tương đối dài với những tư tưởng tiến bộ và bằng những hoạt động của mình, các nhà tư tưởng xã hội chủa nghĩa trước Mác đã góp phần làm thức tỉnh tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động và thúc đẩy lịch sử tiến lên không chỉ về mặt lí luận mà còn về cải tạo xã hội. Do đó, chủ nghĩa xã hội trước Mác có giá trị nhân đạo và nhân văn sâu sắc. Một số nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã hi sinh địa vị xuất thân, tiền bạc, thậm chí cả tính mạng để đấu tranh nhằm thay đổi chế độ xã hội, giải phóng quần chúng nhân dân lao động . Bốn là, với các giá trị nêu trên các nhà xã hội chủ nghĩa trước Mác nhất là tư tưởng của xã hội chủ nghĩa đầu thế kỉ XIX của Saint Simon, C.Fourier và R.Owen được Mác – Ăngghen thừa nhận la một trong ba nguồn gốc lí luận của học thuyết mà các ông xây dựng – hoc thuyết Mác – LêNin và là tiền đề tư tưởng của Chủ nghĩa xã hội khoa học. V.I.Lênin đã viết: “Chủ nghĩa xã hội lý luận ở Đức sẽ không bao giờ quên rằng nó đứng trên vại của SaintSimon,C.Fourier,R.Owen mặc dù học thuyết của ba ông mang đầy tính ảo tưởng và không tưởng- đã được liệt vào hàng những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của tất cả các thời đại,và đã chứng kiến một cách tài tình được rất nhiều chân lí mà ngày hôm nay chúng ta đem khoa học ra chứng minh đều thấy đúng đắn”. III. Hạn chế trong lý thuyết kinh tế của các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng Bên cạnh những thành tựu mà chủ nghĩa xã hội không tưởng đạt được vẫn tồn tại nhiều điểm hạn chế ở học thuyết của các ông mà sau này Mác – Ăngghen đã kế thừ chọn lọc và tiếp thu một cách phê phán từng bước khắc phục những hạn chế đó đưa đến cho loài người một học thuyết xã hội chủ nghĩa khoa học thực sự. Trong đó, phải nói đến các điểm hạn chế sau: Hạn chế đầu tiên phải nói đến của các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác đó là các ông đẫ phê phán chủ nghĩa tư bản gây ra tình trạng bất công, nhưng họ chưa khám phá ra bản chất và quy luật vận động của xã hội tư bản; không giải thích được đúng nguyên nhân chủ yếu dẫn tới cảnh bất công, nghèo đói của đại bộ phần quần chúng nhân dân lao động… là do chế độ tư hữu tư nhân chủ nghĩa tạo ra (trừ R.Owen). Trong đó: Saint Simon mặc dù phê phán mạnh mẽ tính chất sản xuất vô chính phủ của xã hội tư bản chủ nghĩa, chính là nguyên nhân dẫn đến cạnh tranh gay gắt, song ông lại không đả động gì đến việc quần chúng nhân dân sống trong tình trạng bị bóc lột.Trong khi đây là một trong những nguyên nhân cản bản dẫn đến mâu thuẩn trong xã hội trong lòng chủ nghĩa tư bản lúc bấy giờ. Mặt khác trong dự án xã hội tương lai, ông không khẳng định việc thủ tiêu xóa bỏ chết độ tư hữu, không đặt điều kiện xây dựng chế độ sở hữu công cộng đối với tư liêu sản xuất. Trái lại,ông cho rằng sự tồn tại của quyền sở hữu là điều kiện cho một xã hội tồn tại. Chứng tỏ ông vẫn còn chưa hiểu hết sự phát triển của xã hội, bản thân muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp nhưng lại xây dựng trên cơ sở nền kinh tế xã hội cũ. Rõ Ràng ông không hiểu được sự tồn tại và phát triển khách quan của các quy luật tự nhiên trong xã hội và một trong những yếu tố quan trọng mà ông không nhận ra trong sự tác động ấy chính là yếu tố những mâu thuẫn trong xã hội về lợi ích giai cấp là nguyên nhân là động lực phát triển của xã hội, trong khi ấy, ông lại muốn điều hòa chúng, đây là điều không tưởng. C.Fourier cũng mắc phải sai lầm trong khi phê phán chủ nghĩa tư bản trong đó có sai lầm quan trong khi ông phê phán một cách cực đoan nền thương nghiệp trong xã hội chủ nghĩa tư bản lúc bấy giờ. Ông xem thương nghiệp là nguyên nhân của mọi “bệnh hoạn” trong xã hội lúc ấy. Điều này dẫn tới việc ông đưa ra những lí luận sai lầm. Rõ ràng ông không hiểu đươc rằng bản chất đúng của thương nghiệp trong nền sản xuất xã hội tư bản chủ nghĩa.Thực chất thương nghiệp chỉ là một hoạt động sinh ra từ nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, phục vụ cho nền sản xuất tư bản mà thôi.Trong khi ấy, ông lại coi nó như là một hình thái chủ yếu trong tư bản chủ nghĩa và không thấy được vai trò của nó.Ông cho rằng xã hội phân chia thành người lao động và người không lao động dẫn đến việc ông chỉ ra trong xã hôi tư bản mới có điều này, sang giai đoạn xã hội chủ nghĩa loại lao động này sẽ biết mất. Sở dĩ ông đưa ra quan điểm này là vì tính chất không tưởng trong qua điểm xã hội của ông, xã hội chủ nghĩa trong tương lai theo ông là xã hội mà ở đó, không có người thừa, lười biếng, tất cả mọi người đều yêu lao động, phải lao động và xem lao động là một nhu cầu trong cuộc sống giống như con người cần phải ăn phải thở thì mới có thể tồn tại được. Nhìn chung có vẻ hợp lí, nhưng liệu có thật sư tốt đẹp đến như vậy không, ông đã tuyệt đối hóa quan điểm của mình. Sở dĩ như vậy là do tính không tưởng trong suy nghĩ của ông nên khi hướng vào xã hội tương lai ông thiếu xa vời với thực tế khách quan của nó. Trong lí luận của R.Owen, ông mắc phải sai lầm khi đem chế độ “tiền lao động” và “trao đổi công bằng” áp dụng vào ngay trên mảnh đất xã hội tư sản đương thời,Trong xã hội mà con người ,đặc biệt là tầng lớp giai cấp tư sản chỉ biết tới lợi nhuận, chỉ có lợi nhuận và càng nhiều lợi nhuận càng tốt thì làm sao có thể tồn tại hình thức trao đổi công bằng được. Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng nhìn xã hội lúc bấy giờ với suy nghĩ chỉ cần cải tạo cơ sở kinh tế xã hội đương thời theo một mô hình hoàn chỉnh hơn, khắc phục những thiếu sót của chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra được nhiều công ăn việc làm cho người dân bên cạnh giải quyết tốt các vấn đề xã hội như giáo dục, y tế, trẻ em, phụ nữ thông qua xây dựng một mô hình chung lí tưởng nhất. Thực hiện những vấn đề đó thì xã hội chủ nghĩa của các ông sẽ trở thành hiện thực: xã hội sẽ không còn áp bức bóc lột, không còn khổ đau nhưng họ không nhận thấy rằng sự tồn tại của chủ nghĩa tự bản lúc bấy giờ, nó phát triển dự trên chế độ bóc lột về sức lao động của người dân và tư hữu về của cải vật chất ,vì thế rất khó để thực hiện được điều này. Hai là: Chưa phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp các nhà tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng bênh vực những người nghèo khổ nhưng chưa ai trong số họ nhìn thấy nhân tố cách mạng trong những người nghèo khổ, chưa ai phát hiện ra lực lượng xã hội có thể thực hiện cuộc chuyển biến cách mạng từ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa cộng sản. Lực lượng ấy đã được sinh ra và lớn lên phát triển cùng với nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Các ông xem người lao dộng trong xã hội là tầng lớp bị áp bức bóc lột ,xem họ là tầng lớp không có khả năng chống cự mà chỉ biết cam chịu sự áp bức của giai cấp tư sản.Mặt khác, các ông cũng chưa nhân rõ được sự đối kháng của tầng lớp lao đông trong xã hội trong lòng chủ nghĩa tư bản. Chính vì vậy,trong tư tưởng của các nhà kinh tế xã hội chủ nghĩa có xu hương đi điều hòa mối quan hệ về lợi ích giữa hai giai cấp này bằng cách tuyên truyền vào giai cấp tư sản những lý luận công bằng, những tư tưởng về đạo đức, nhân văn với mong muốn sẽ giảm bớt đi tính bóc lột của tầng lớp tư sản đối với nhân dân lao động. Bên cạnh đó các nhà kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng nghĩ rằng mâu thuẩn giữa tầng lớp nhân dân lao đông trong xã hội với tư sản chỉ là vấn đề việc làm sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày, chỉ cần cho họ đủ những quyền lợi về vật chất và tinh thần thì tầng lớp lao động sẽ không còn đấu tranh, không còn phải dùng đến nhà tù, cảnh sát, quân đội để đàn áp dập tắt bạo động trong xã hội. Xã hội “công bằng”, “bình đẳng” được đặt lên hàng đầu. Lúc ấy, quần chúng nhân dân sẽ chỉ tập trung vào lao động, sản xuất của cải vật chất, làm giàu cho xã hội, xã hội sẽ dần biến đổi , chế độ tư bản cũng sẽ vì thế mà mất đi thay thế vào đấy là một xã hội mới tốt đẹp hơn như các ông đã mong muốn. Xanhximong giải thích nguyên nhân hưởng ứng cách mạng, tham gia và hiến thân cho cách mạng như sau: “nếu như ai hỏi sự ham muốn nào đã gây nên cuộc cách mạng Pháp và giai cấp nào đã cảm nhận nó mạnh hơn cả, thì tôi trả lời: sự ham muốn bình đẳng và những gười thuộc giai cấp dốt nát của họ cũng như lợi ích của họ”. Như vậy, quan niệm của Xanhximong cho rằng quần chúng hiến thân cho cách mạng bởi vì sự dốt nát, tức là xem họ là vật hy sinh mù quáng cho cách mạng là không đúng, không thấy được vai trò cách mạng to lớn của quần chúng. Ba là: các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng chưa ai đặt mình đại diện cho quyền lợi của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động nghèo khổ và đấu tranh giải phóng họ. Các nhà không tưởng luôn đứng trên lập trường của giai cấp, tầng lớp trên(quý tộc,tư sản), đứng ngoài xã hội để mưu giải phóng toàn xã hội. Họ không gắn học thuyết của mình với phong trào đấu tranh của quần chúng. Bốn là: Chưa thấy được sự cần thiết phải thực hiện một cuộc cách mạng vô sản để đi đến xã hội mới. Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng mong muốn một xã hội tốt đẹp nhưng họ chủ trương đi đến xã hội công bằng bằng con đường cải cách dần dần, thuyết phục giáo hóa bằng con đường đấu tranh cách mạng, cải biến cách mạng. Quan niệm của Furie về con đường và biện pháp xây dựng xã hội lý tưởng cũng chứa đựng đầy mâu thuẫn. Một mặt ông cho rằng trong các giai đoạn nhất định của nhân loại, cách mạng là phù hợp quy luật, “sự yên tĩnh chỉ là sự tạm lắng của cách mạng”. Mặt khác giống như Xanhximong ông lại phản đối bạo lực cách mạng và cho rằng việc quá độ lên khối liên hiệp sẽ diễn ra một cách hòa bình, ông hy vọng thực hiện kế hoạch của mình nhờ vào sự giúp đỡ của những kẻ có quyền hành quan trọng tiền của. Thậm chí năm 1803 ông đã thỉnh cầu tới “bàn tay thánh” của Napoleong để hòng đưa nhân loại thoát khỏi cơn biến loạn xã hội. Tức là trong tư tưởng xây dựng xã hội mới của Furie có nhiều tiến bộ. Nó biểu hiện thông qua sự phát triển của xã hội những giai đoạn yếu tố cách mạng, nhưng bên cạnh đó tư tưởng của ông còn nặng về tôn giáo, ông tin rằng có thánh nên không dùng đến bạo lực để cải biến xã hội. Theo Ooen có thể chuyển sang một xã hội mới bằng con đường hòa bình, rằng “sự biến đổi đó sẽ xảy ra mà phải dùng đến bạo lực, không đổ máu”, tức là bằng sự thuyết phục tuyên truyền và ông đã chủ trương thuyết phục chính phủ từ bỏ con đường lầm lạc của mình nhưng ông đã bị thất bại. Ông càng thuyết phục thì thái độ của họ càng lạnh nhạt đối với ông. Đây chính là sự xác định sai lầm của Ooen muốn thay đổi chế dộ bằng con đường hòa bình, không dùng đến bạo lực hay nói một cách khác đấy chính là tư tưởng xã hội không tưởng. Ooen không đưa ra lý thuyết cộng sản của ông vào phong trào hiến chương đang diễn ra sôi nổi. Vì vậy cả phong trào hiến chương và cả bản thân chủ nghĩa xã hội của Ooen đều không thể tiến xa được. Học thuyết của Ooen vẫn không thâm nhập và thúc đẩy được cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Cho đến giới hạn cuối cùng trước khi chủ nghĩa Mác ra đời các nhà xã hội không tưởng đã không thể giải thoát mình khỏi vòng không tưởng, bởi vì ngay cả những luận điểm đúng đắn nhất mà họ nêu ra cũng chỉ là dự đoán chưa được luận chứng dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn. Sự diệt vong của xã hội cũ và sự ra đời của xã hội mới vẫn còn là giấc mơ nhưng mong muốn chủ quan của con người chưa được đảm bảo bởi điều kiện vật chất nảy sinh và chín muồi ngay trong quá trình phát triển của xã hội. Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng không thể tự giải thoát mình khỏi vòng không tưởng. Ngay cả những luận điểm đúng đắn nhất dao các nhà không tưởng nêu ra cũng mới chỉ là những dự đoán chưa được luận chứng bởi một cơ sở khoa học thực tiễn.Sự diệt vong của xã hội cũ, sự ra đời cũa xã hội mới vẫn chỉ là giấc mơ mang tính viển vông,những mong muốn chủ quan của con người, chưa có điều kiện vật chất khách quan, do đó đều thất bại khi đưa vào thực tế. Tóm lại,Chủ nghĩa xã hội không tưởng là những lí luận, những học thuyết kinh tế biểu hiện dưới dạng chưa chín muồi nguyện vọng của quần chúng nhân dân mong xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột, tình trạng, tình trạng bất công trong xã hội, mong muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp.Ở đó, không còn tình trạng đói khổ của người lao động, mong muốn có một xã hội tốt đẹp và mối quan hệ giữa người với người là quan hệ hữu ái, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Tuy nhiên,những mong muốn, nguyện vọng, những dự án tốt đẹp đó không dựa vào điều kiện thực tiến khách quan, mà nảy sinh từ đầu óc, từ những mong muốn chủ quan của một số người, vì vậy không thực hiện được trong thực tế và nó thành ảo tưởng, không tưởng. V.I.Lenin khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội không tưởng không thể vạch ra được một lối thoát thực sự. Nó không giải thích được bản chất chế độ nô lệ làm thuê trong chủ nghĩa tư bản, cũng không phát hiện ra được những quy luật phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa và cũng không tìm thấy được lực lượng xã hội có khả năng trở thành người sáng tạo xã hội mới.” IV. Ý nghĩa thực tế đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta hiện nay. Qua nghiên cứu tư tưởng xã hội chủ nghĩa của Xanhximong, Furie và Ooen cho ta thấy rằng mặc dù chủ nghĩa xã hội của các ông là không tưởng nhưng nó được Mác và Ăngghen xem là những hệ thống xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa chính tông. Vì vậy trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay cũng cần phải kế thừa những tư tưởng tiến bộ của ba nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đầu thế kỉ XIX. Các ông đã đi sâu vào nghiên cứu và đề cập một loạt tư tưởng vô cùng quan trọng về sự tiến bộ của lịch sử. Coi lao động là nhu cầu đầu tiên của con người về làm ăn có kế hoạch, về khắc phục sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và nông thôn. Coi công nghiệp cơ khí là cơ sở kĩ thuật của chế độ mới bình đẳng xã hội xóa bỏ nạn bóc lột người và tất cả mọi hình thức bất bình đẳng trong xã hội. Đây là một tư tưởng có giá trị rất to lớn mà chúng ta cần phải kế thừa để xây dựng một xã hội mới. Trong công cuộc đổi mới hiện nay chúng ta càng phải biết kế thừa giữa lý luận và thực tiễn, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy tại đại hội đại biểu toàn quốc lần IX Đảng ta đã khẳng định: “con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất xây dựng nền kinh tế hiện đai”. C. KẾT LUẬN Tư tưởng xã hội chủ nghĩa của Xanhximong, Furie, Ooen đã phê phán xã hội tư bản gay gắt, quyết liệt mang tính phủ định nó với nền tảng tư tưởng của nó là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đến tình trạng bóc lột người, phần nào phản ánh được tiếng nói của nhân dân lao động trước tình trạng bị đối sử bất công và áp bức trong xã hội sự phê phán không chỉ dừng lại ở việc miêu tả chi tiết những hiện tượng tội ác phơi bày trên bề nổi của xã hội mà còn bắt đầu khám phá bí ẩn trong xã hội và đi tới phủ nhận sự tồn tại của xã hội đó. Thông qua sự phê phán của Xanhximong, Furie, Ooen chế độ tư bản hiện ra với đầy đủ tính chất xấu của nó như bóc lột, bất bình đẳng. Sự phê phán đó thể hiện tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, tuy không ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân đạo tư sản để vươn tới những giá trị nhân đạo – hướng vào mục tiêu giải phóng những người lao động và thực hiện công bằng xã hội. Những tư tưởng xã hội khộng tưởng thế kỉ XIX không những có giá trị với xã hội đương thời mà ngày nay để tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chúng ta thấy những tư tưởng đó vẫn còn có giá trị về mô hình xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn mà chúng ta cần phải kế thừa nhằm thực hiện con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản một cách sớm nhất. D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lược khảo lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, NXB Chính trị Quốc Gia Hà Nội 1991. 2. Sưu tập các nhà không tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác, năm 2004. 3. Giáo trình lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa, NXB Chính trị Quốc Gia Hà Nội năm 2002. 4. Lược khảo lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa V.P Vông him, NXB Sự thật Hà Nội 1979. 5. C.Mác, Ăngghen toàn tập NXB Chính trị Quốc Gia Hà Nội năm 1995. 6. Văn kiện Đại nhội đại biểu Toàn Quốc lần IX Đảng Cộng Sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc Gia Hà Nội năm 2001. 7. Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn Quốc lần X Đảng Cộng Sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc Gia Hà Nội năm 2006. 8. Lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa phuương Tây trước chủ nghĩa Mác. NXB Chính trị Quốc Gia Hà Nội năm 2006. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhững giá trị và những hạn chế trong lý thuyết kinh tế của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Xanhximong, Furie, Ooen.doc