Những giải pháp của nhà nước về phát triển nông thôn

MỞ ĐẦU Những năm gần đây, Việt Nam tiếp tục và tăng cường công cuộc Đổi mới kinh tế trên nhiều lĩnh vực và đã đạt được những thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế. Tuy giành lại được độc lập từ ngày 2/9/1945, nhưng Việt Nam phải trải qua 30 năm kháng chiến, đến năm 1975 đất nước mới hoàn toàn thống nhất. Tuy nhiên, do xuất phát điểm của nền kinh tế quá thấp, hậu quả chiến tranh quá nặng nề cùng với những thiếu sót, sai lầm trong chỉ đạo kinh tế, duy trì quá lâu cơ chế tập trung bao cấp nên đến năm 1985 kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Trước tình hình đó, Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam diễn ra vào tháng 12/1986 đã đưa ra đường lối Đổi mới trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm mà nội dung chủ yếu là xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần dưới sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp đó, tháng 6/1991, Đại hội VII của Đảng đã tiến hành đánh giá thành quả Đổi Mới và tiếp tục thực hiện đường lối Đổi Mới, đề ra chính sách đối ngoại phù hợp với xu thế lớn của thế giới là đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế để tạo thêm thế mạnh, tranh thủ thêm vốn và công nghệ cho phát triển kinh tế quốc dân và hội nhập vào nền kinh tế thị trường Những thành tựu to lớn về kinh tế xã hội trong thời gian này đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng và đặt nền móng cho giai đoạn phát triển mới. Đại hội lần thứ VIII (tháng 6/1996) khẳng định quyết tâm tiếp tục và phát triển hơn nữa đường lối Đổi mới kinh tế toàn diện, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tiếp tục phát huy hơn nữa những thành quả đã đạt được, Đại hội Đảng lần thứ IX (tháng 4/2001) đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 nhằm xây dựng nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong đó: kinh tế nông thôn là một phức tạp hợp thành nhân tố cấu thành lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong nông-lâm-ngư nghiệp cùng với các ngành thủ công nghiệp truyền thống, các ngành tiểu thủ công nghiệp chế biến và phục vụ nông nghiệp, các ngành thương nghiệp và dịch vụ tất cả có quan hệ hửu cơ với nhau trong kinh tế vùng và lãnh thổ trong và trong toàn nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nông thôn có nội dung rất rộng, bao gồm các ngành, lĩnh vực và các thành phần kinh tế có quan hệ và tác động lẫn nhau. MỤC LỤC MỞ ĐẦU : .2 : CHƯƠNG I . Vai trị nông thơn, nông nghiệp và các giai đoạn phát triển kinh tế Việt Nam I Vai trị nông thơn, nông nghiệp II. Các giai đoạn phát triển kinh tế Việt Nam từ 1945 2.1 Từ 1945-1975: Nền kinh tế trong thời kỳ chiến tranh .6 2.2 Từ 1975-1986: Nền kinh tế kế hoạch hố tập trung quan liêu bao cấp.7 2.3 Từ 1986 đến nay: Đổi mới kinh tế .7 CHƯƠNG II. Những kết quả đạt được và phát triển nông thơn I -Phải coi phát triển nông nghiệp là chủ yếu làm cơ sở để phát triển cơng nghiệp và các ngành khác, tạo điều kiện để cơng nghiệp hố nước nhà. 1.1 công nghiệp 13 1.2 Nông nghiêp 1.3 .Thương nghiệp 14 1.4 .Sự giúp đỡ từ bên ngoài 15 II Những thành tựu và khó khăn để phát triển nông thôn 2.1.Thành tựu đạt được .16 2.2.Những khó khăn .17 I - Thực hiện chính sách kích cầu, phát triển nông thôn bền vững CHƯƠNG III.Những giải pháp của nhà nước về phát triển nông thôn .20 II- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế III- Giải pháp đối với vốn đầu tư và chương trình phát triển IV- Sắp xếp, củng cố các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã V- Vấn đề ngân sách, tài chính, tiền tệ và tín dụng VI- Những vấn đề bức xúc về xã hội

doc34 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3782 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những giải pháp của nhà nước về phát triển nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quốc tế; và (v) Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế- xã hội với quốc phòng - an ninh. Trên tinh thần đó, bản Phương hướng, Nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 đã xác định mục tiêu tổng quát là tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xoá đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Cụ thể hoá mục tiêu đó, chỉ tiêu kế hoạch đặt ra là đưa GDP năm 2005 gấp 2 lần so với năm 1995. Để được như vậy, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 5 năm 2001-2005 phải đạt 7,5%, trong đó dự kiến nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,3%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,8%, dịch vụ tăng 6,2%. Về kinh tế đối ngoại, phấn đấu nâng tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm. Cơ cấu kinh tế trong GDP đến năm 2005 sẽ chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục tiêu tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp 20 - 21%, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 38 - 39%, và tỷ trọng các ngành dịch vụ 41 - 42%. Thực hiện đường lối chính sách đó, Việt Nam đã tập trung cải cách hành chính và tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, mở rộng hợp tác quốc tế, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, nhờ đó kinh tế Việt Nam tiếp tục duy trì được sức phát triển tương đối nhanh và ổn định. Tốc độ tăng trưởng GDP vẫn duy trì được xu hướng tăng dần, năm 2001 đạt 6,89% và 2002 đạt 7,05%, năm 2003 đạt  7%. Công nghiệp là ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng giá trị cao nhất, đạt trên 10% mỗi năm. Tốc độ tăng của lĩnh vực dịch vụ đạt xấp xỉ tốc độ tăng GDP, trong khi giá trị sản xuất nông nghiệp phục hồi trở lại với mức tăng trên 4% sau khi sụt giảm xuống mức gần 3% năm 2001 (do biến động giá sản phẩm nông nghiệp trên thị trường thế giới). Với mức tăng như vậy, cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng đã định, năm 2002 tỷ trọng nông nghiệp còn khoảng 23%GDP, công nghiệp đạt cao nhất 38,6% và dịch vụ 35,5%. Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển, kinh tế nhà nước tiếp tục được đổi mới, tuy còn chậm nhưng đã từng bước nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Các hình thức đổi mới doanh nghiệp nhà nước cũng đã đa dạng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy nhanh tiến trình này. Thành phần kinh tế tư nhân có bước phát triển mạnh mẽ và ngày càng mở rộng quy mô và ngành nghề. Luật Doanh nghiệp ban hành năm 2000 tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân hoạt động. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng phát triển mạnh. Đến nay Việt Nam đã thu hút thêm được tổng số trên 40 tỷ USD vốn FDI (vốn đăng ký). Các doanh nghiệp có vốn nước ngoài đã có nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế, đặc biệt là công nghiệp của Việt Nam, góp phần nâng cao chất lượng và tăng thêm sức cạnh tranh cho sản phẩm trong nước. Hoạt động kinh tế đối ngoại cũng có bước phát triển ổn định. Kim ngạch xuất nhập khẩu cũng không ngừng tăng lên, năm 2001 đạt trên 15 tỷ USD xuất khẩu và trên 16 tỷ USD nhập khẩu, năm 2002 lần lượt là trên 16,5 tỷ và 19,3 tỷ USD. Đã hình thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực gồm hàng công nghiệp nhẹ, hàng nông, lâm, hải sản và hàng điện tử. Tuy tỷ lệ nhập siêu vẫn còn cao và biến động nhưng ngoại thương Việt Nam đã đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Hoạt động du lịch cũng có bước phát triển vượt bậc với khoảng 2 triệu lượt khách quốc tế mỗi năm. Các ngành dịch vụ liên quan như khách sạn, hàng không... cũng có bước phát triển mới. Hệ thống tài chính tiền tệ cũng đang từng bước được cải thiện và nâng cấp nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Các ngân hàng hoạt động thông thoáng và ngày càng có nhiều dịch vụ hơn, đặc biệt là phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng điện tử. Tỷ lệ nợ xấu giảm đáng kể. Do đó: Nhìn chung, trong hơn 15 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế quan trọng, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Thực tiễn đã cho thấy công cuộc Đổi mới của Việt Nam phù hợp với xu thế chung của thế giới và điều kiện cụ thể trong nước. Những thành công của Đổi mới đã đã thực sự làm thay đổi bộ mặt của đất nước theo hướng tích cực, tạo được nhiều tiền đề vật chất để tiếp tục tăng cường đổi mới trong thời gian tới. Những năm đầu thế ký 21, kinh tế Việt Nam tiếp tục có những bước phát triển khá tốt, tạo đà cho nền kinh tế tăng trưởng vững vàng hơn. Chính phủ và nhân dân Việt Nam đang tiếp tục tăng cường công cuộc Đổi mới với trọng tâm là cải cách kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh nhằm nhanh chóng thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước khác trong khu vực. Trên cơ sở những thành tựu kinh tế đã đạt được và những bài học rút ra trong thực tiễn tiến hành Đổi mới, Việt Nam đã và đang tiếp tục đẩy mạnh quá trình này, thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá, thay đổi nhanh cơ cấu kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường nội địa và quốc tế. CHƯƠNG II: NHỮNG KÊT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN I -Phải coi phát triển nông nghiệp là chủ yếu làm cơ sở để phát triển công nghiệp và các ngành khác, tạo điều kiện để công nghiệp hoá nước nhà. 1.1 công nghiệp Công nghiệp hoá là biến nước ta từ nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại, tất yếu phải ra sức phát triển công nghiệp, nhưng trước hết lại phải bắt đầu từ phát triển nông nghiệp, phải coi nông nghiệp là ngành chủ yếu, là gốc mà công nghiệp, thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, giao thông, kiến trúc, văn hoá, giáo dục, y tế v.v... phải lấy phục vụ nông nghiệp làm trung tâm, bởi vì: Nếu không phát triển nông nghiệp thì không có cơ sở để phát triển công nghiệp và các ngành khác. 1.2 Nông nghiêp Nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm cho công nhân và nhân dân nói chung. Nông nghiệp cung cấp nguyên liệu cho nhà máy và cung cấp nông sản xuất khẩu. Nông thôn là thị trường tiêu thụ to nhất hiện nay. Nông thôn tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm thì ngày càng giàu có. Nông thôn giầu có sẽ mua nhiều hàng hoá của công nghiệp. Như thế là nông thôn giầu có giúp cho công nghiệp phát triển. Công nghiệp phát triển lại thúc đẩy nông nghiệp phát triển thì dân giàu, nước mạnh. C.Mác cũng từng nhấn mạnh rằng xét trên phạm vi toàn xã hội thì nông nghiệp chỉ gồm lao động cần thiết. Bởi vậy, muốn có lao động thặng dư rút ra khỏi ngành này để phát triển các ngành phi nông nghiệp thì phải tăng năng suất lao động trong nông nghiệp sao cho chỉ cần một bộ phận lao động xã hội làm nông nghiệp cũng đủ để sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cần thiết cho toàn xã hội, “do đó, để cho sự phân công lớn giữa những người làm nông nghiệp và những người làm công nghiệp, cũng như sự phân công giữa những người làm nông nghiệp sản xuất lương thực và những người làm nông nghiệp sản xuất nguyên liệu, có thể thực hiện được”. Công nghiệp và nông nghiệp phải phát triển cân đối như hai chân của con người, có như vậy mới đi khoẻ và đi đều, tiến bước nhanh. Vì vậy:Công nghiệp và nông nghiệp như hai chân của nền kinh tế. Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân, cung cấp đủ nguyên liệu cho nhà máy, đủ nông sản để xuất khẩu đổi lấy máy móc; công nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân hoá học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông nghiệp, và cung cấp dần dần máy cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau phát triển, như hai chân đi khoẻ và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh. Tuy nhiên “công nghiệp của ta đại bộ phận đã xã hội hoá, nhưng nông nghiệp thì nhiều nơi còn làm ăn riêng lẻ. Như thế là hai chân không đều nhau không thể bước mạnh được. Vì vậy chúng ta phải hợp tác hoá nông nghiệp làm cho nông nghiệp phát triển, làm cho công nghiệp và nông nghiệp tiến đều, thì mới cải thiện tốt đời sống nhân dân”. Trong “Bài nói chuyện tại Hội nghị giảm tô và cải cách ruộng đất”, ngày 31/10/1955, Hồ Chí Minh cũng đề cập việc tổ chức hợp tác xã nông nghiệp, “rồi khi đã có điều kiện và nông dân yêu cầu thì tiến tới nông trường tập thể. Thế cũng chưa hết, còn phải làm cho nông nghiệp xã hội hoá”. V.I. Lênin cũng nhiều lần nói tới xã hội hoá nông nghiệp. Nếu dựa vào cách luận giải của V.I.Lênin về xã hội hoá lao động nói chung, thì có thể hiểu xã hội hoá nông nghiệp một cách vắn tắt là phát triển nông nghiệp hàng hoá, chấm dứt tình trạng phân tán của những đơn vị kinh tế nhỏ, tập hợp các thị trường nhỏ địa phương thành một thị trường lớn trong toàn quốc (và sau đó trên toàn thế giới), sản xuất cho mình biến thành sản xuất cho toàn xã hội; tập trung sản xuất; biến nông dân thành công nhân nông nghiệp, được tự do cư trú; giảm tỷ lệ dân cư làm nghề nông, tăng các trung tâm công nghiệp và dịch vụ; thay đổi bộ mặt tinh thần ở nông thôn và tính chất của người sản xuất nông nghiệp. Cần phải tiếp tục tìm hiểu kỹ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội hoá nông nghiệp, nhưng chí ít luận điểm này của Người đã chỉ dẫn cho chúng ta tìm hiểu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về xã hội hoá lao động để vận dụng vào phát triển nông nghiệp hàng hoá nói riêng và kinh tế thị trường nói chung ở nước ta 1.3 .Thương nghiệp. Thương nghiệp “phải bảo đảm chất lượng hàng hoá và có tinh thần phục vụ người mua. Người ta cần thứ gì, bán thứ đó, người mua chỉ cần phân bón, lại bắt mua cả vôi kèm theo thì không được”. Luận điểm trên được nêu ra trong thời kinh tế bao cấp, nhưng vẫn thể hiện rõ tư duy kinh tế thị trường, công nghiệp và nông nghiệp làm thị trường lẫn cho nhau thông qua môi giới của thương nghiệp và thương nghiệp phải bán cái mà người mua cần chứ không phải chỉ bán cái mà mình có Dovậy:Công nghiệp và thương nghiệp liên hệ với nhau thông qua thương nghiệp, thương nghiệp là cái khâu giữa công nghiệp và nông nghiệp, thể hiện liên minh công nông. Tóm lại:Trong nền kinh tế quốc dân có ba mặt quan trọng: nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt công tác quan hệ mật thiết với nhau. Thương nghiệp là cái khâu giữa nông nghiệp và công nghiệp. Thương nghiệp đưa hàng đến nông thôn phục vụ nông dân, thương nghiệp lại đưa nông sản, nguyên liệu cho thành thị tiêu dùng. Nếu khâu thương nghiệp bị đứt thì không liên kết được nông nghiệp với công nghiệp, không củng cố được công nông liên minh. Công tác thương nghiệp không chạy thì hoạt động nông nghiệp, công nghiệp sẽ bị rời rạc. Những điểm trên cũng thể hiện rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu ngành kinh tế ở một nước nông nghiệp khi tiến hành công nghiệp hoá. Trước đổi mới, không quán triệt tư tưởng trên, nên chúng ta đã mắc sai lầm về xác định cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư. Như Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã nhận định: “Thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều, nhưng hiệu quả rất thấp”. Do nhận rõ thiếu sót trên, Đại hội VI đã đề ra chủ trương đúng đắn: bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, tập trung sức Người, sức của vào việc thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Có thể khẳng định đây là một trong những nhân tố cơ bản giúp cho nước ta sớm ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội, đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới. Cần lưu ý rằng tuy Hồ Chí Minh đọc diễn văn khai mạc và bế mạc Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng ta, mà văn kiện Đại hội III đề ra chủ trương “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý...”, nhưng cho đến lúc Người đi xa, chưa thấy bao giờ Người đề cập vấn đề ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Ngay cả khi nói chuyện ở Hội nghị Bộ Công nghiệp nặng ngày 31/12/1964, Người cũng chỉ xác định: “Nhiệm vụ công nghiệp nặng rất nặng nề nhưng rất vẻ vang. Để nâng cao không ngừng đời sống của nhân dân, chúng ta phải phát triển tốt công nghiệp nặng”. Rồi Người đặt vấn đề công nghiệp nặng phải cung cấp máy móc, phân hoá học... cho nông nghiệp; cung cấp máy móc cho công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp phát triển nhanh chóng. Tư tưởng trên đây tiếp tục được quán triệt trong các văn kiện Đại hội VII, VIII, IX đã đưa lại những thành tựu kinh tế to lớn, chứng minh tính khoa học và thực tiễn của nguyên lý về cơ cấu ngành kinh tế ở một nước nông nghiệp khi tiến hành công nghiệp hoá: phải phát triển nông nghiệp là chủ yếu làm cơ sở cho phát triển công nghiệp và các ngành khác, tạo điều kiện để công nghiệp hoá. 1.4 .Sự giúp đỡ từ bên ngoài Ngay từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, rất nhiều lần Hồ Chí Minh tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà sẵn sàng đặt mọi quan hệ thân thiện hợp tác với bất cứ một nước nào trên nguyên tắc tôn trọng sự hoàn chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp nội trị của nhau, bình đẳng cùng có lợi và chung sống hoà bình. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc tranh thủ sự hợp tác và giúp đỡ của các nước, học tập kinh nghiệm và chuyên gia nước ngoài. Nhưng sự giúp đỡ từ bên ngoài dù to lớn đến đâu cũng chỉ là cái bổ xung, chứ không thay thế được nội lực “Các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta. Ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta. Song nhân dân ta và cán bộ ta tuyệt đối chớ vì bạn ta giúp nhiều mà đâm ra ỷ lại. Trái lại, chúng ta phải học tinh thần tự lập tự cường, tinh thần hăng hái thi đua sản xuất và tiết kiệm của nhân dân các nước bạn”. Lời khuyên trên khiến chúng ta liên tưởng đến một câu rất hay của một nhà kinh tế ở nước láng diềng: ngoại lực phải biến thành nội lực, nếu không, ngoại lực vào rồi lại ra đi, niềm vui phồn vinh ngắn hạn sẽ bị thay thế bằng cảnh tiêu điều dài hạn! Quả vậy, nếu không khéo dùng cái vốn bên ngoài để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta, mà tiêu dùng lãng phí thì sẽ không có hiệu quả, thậm chí còn để lại hậu quả tiêu cực. Bối cảnh lịch sử hiện nay ở nước ta khác với tình hình sinh thời của Hồ Chí Minh, nên chúng ta phải nhớ lời căn dặn của Người: “Cách mạng chuyển biến đòi hỏi phải có một sự chuyển biến sâu sắc về tư tưởng và nhận thức, đòi hỏi phải có những chính sách, những biện pháp về công tác tổ chức phù hợp với tình hình mới”. Tuy nhiên, những điểm II Những thành tựu và khó khăn để phát triển nông thôn 2.1.Thành tựu đạt được Toàn bộ thể chế kinh tế được xây dựng trên cơ sở bao cấp cho nên xoá bao cấp sẽ tạo ra đột phá cho tăng trưởng. Bên cạnh đó, xoá bao cấp một cách thiếu bài bản cũng có thể tạo ra khoảng trống cho các tiêu cực nẩy sinh. Điều này lý giải tại sao hầu hết các nước chuyển đổi trong khi đạt nhiều thành tích phát triển kinh tế thì giáo dục, y tế và nhiều dịch vụ công cộng khác lại bị xuống cấp nghiêm trọng. Việt Nam rất thành công trong xoá bao cấp về giá sản phẩm nông nghiệp (đi đầu trong số các nước Xã hội chủ nghĩa cũ về áp dụng cơ chế giá thị trường trong mua, bán sản phẩm của nông dân), nhưng lại rất chật vật trong xóa bao cấp về vốn cho các xí nghiệp quốc doanh và cải tổ khu vực này. Tình trạng thiếu khung pháp lý cộng với cơ chế bao cấp đã làm cho tham nhũng trở nên nặng nề ở các nền kinh tế chuyển đổi. Có thể nói, cơ chế bao cấp (mà nguồn gốc của nó là sự giáo điều, nóng vội và duy ý chí trong vận dụng tư tưởng xã hội Xã hội chủ nghĩa mong đạt đến một "sự phát triển toàn diện của mọi thành viên trong xã hội" mà không tính đến điều kiện xã hội còn quá thiếu thốn về vật chất) là rào cản lớn nhất của quá trình chuyển đổi. Trong nền kinh tế bao cấp thiếu một động lực quan trọng cho sự tăng trưởng, đó là lợi ích cá nhân. Tâm lý dựa dẫm, ỷ lại tồn tại trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặc dù tình trạng tham ô không lớn, nhưng thói quen trông chờ vào Nhà nước, lười suy nghĩ, thiếu sáng kiến đã làm cho kinh tế trì trệ kéo dài và tác động tiêu cực đến tư duy của con người. Một khi tư duy đã bị tha hoá thì rất khó chấp nhận sự thay đổi. Sự chuyển đổi của xã hội vì thế mà bị khủng hoảng, có khi đem lại tổn thất to lớn như ta đã chứng kiến. Công cuộc đổi mới còn chịu lực cản từ phía những người vốn được hưởng lợi từ cơ chế bao cấp (một bộ phận trong số họ có vai trò quan trọng trong việc hoạch định chính sách). Lấy cớ bảo vệ thành quả của Chủ nghĩa xã hội, những người này ra sức cản trở công cuộc "đổi mới", chuyển từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường, trong khi vẫn lợi dụng tình trạng "tranh tối tranh sáng" và thiếu khung pháp lý để vơ vét của công không thương tiếc. Chọn khâu đột phá là xoá bao cấp về giá (Nghị quyết của Hội nghị 4 Trung ương Khoá VI, 1981), Việt Nam đã mở đầu thành công trong công cuộc chuyển đổi. Tuy nhiên, tự do hoá giá cả đã không thu được kết quả như nhau trong các lĩnh vực của nền kinh tế. Khu vực được hưởng lợi nhiều nhất từ tự do hoá giá cả là nông nghiệp (cũng bởi vì nông thôn được bao cấp ít nhất). áp dụng giá thị trường trong mua bán nông sản cùng với cơ chế "khoán 10" áp dụng từ năm 1988 đã thay đổi bộ mặt nông thôn Việt Nam, đưa nông dân trở lại vị trí người chủ ruộng đất mà họ đang cày cấy (Nghị quyết 10 của Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam 4/1988 với nội dung chủ yếu là trao lại tư liệu sản xuất cho hộ nông dân, cũng tức là trao quyền tự chủ cho họ). Như vậy, không phải cách mạng kỹ thuật mà chính là thay đổi cơ chế (xoá bao cấp, bao biện) đã dẫn đến cuộc bứt phá ngoạn mục trong nông nghiệp khiến Việt Nam từ chỗ nhập khẩu trên dưới một triệu tấn gạo một năm trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ nhì thế giới. Sự thay đổi cơ chế đã giải phóng sức sáng tạo của nông dân, họ không dừng lại ở tăng sản lượng mà còn thay đổi cách làm ăn, tăng vụ, thay đổi cơ cấu kinh tế. Do tiềm năng nhỏ bé của nền tiểu nông nên sự chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp diễn ra chậm chạp trong những năm đầu “đổi mới” (1990 - 2000), nhưng, như "mưa dầm thấm lâu", quá trình này đã dẫn đến sự đột phá trong kinh tế mấy năm gần đây. Nếu như chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong những năm trước chủ yếu là hành động tự phát của từng hộ nông dân, từng chủ trang trại thì từ 2002 - 2003 quá trình này đã được sự đỡ đầu, bảo trợ của chính quyền. Thí dụ: Nông dân Hải Dương đã thành công trong việc chuyển từ trồng lúa sang trồng cây ăn quả (táo, dưa hấu, cam Canh đường), nay chính quyền tỉnh đang vận động nông dân tham gia dự án trồng hoa hồng xuất khẩu với cam kết: "nếu trồng hoa hồng hiệu quả thua lúa tỉnh đền nông dân". Uỷ ban Nhân dân xã Đoàn Thượng, Huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương hợp tác với Công ty Nhân Văn đầu tư cho nông dân có ruộng tham gia dự án trồng hoa hồng với mức 480.000 đ/sào, hỗ trợ 50% tiền mua giống và đào tạo những nông dân chủ chốt của dự án thành các kỹ thuật viên, hưởng lương kỹ thuật 320.000 đ/người/tháng trong vòng 4 năm. Sản phẩm của những diện tích tham gia dự án được Công ty Nhân Văn bao tiêu (mua hết sản phẩm). Có một bước tiến vượt bậc về thu nhập trên một ha tại vùng đất "thuần lúa" xưa kia: từ chỗ chỉ thu được do trồng lúa mỗi năm từ 5 đến 10 triệu đồng/ ha, nay thu nhập đã tăng lên tới 200 - 270 triệu đồng/ ha nếu trồng dưa hấu và 500 triệu đồng/ ha nếu trồng hoa hồng xuất khẩu. Lần đầu tiên nông dân ở đây đã trồng được hoa hồng xanh, hoa hồng đen. Có cán bộ thường đi nước ngoài công tác đã nhận xét: thị trường hoa của Việt Nam mấy năm gần đây đã phong phú hơn ở Mỹ và nhiều nước châu Âu. Sự chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp đã lan nhanh đến cả những địa phương vốn là những vùng có điều kiện tự nhiên và hạ tầng khó khăn như các tỉnh miền Trung, miền núi. Trong dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, tháng 5/2004 vừa qua, du khách đã rất ngạc nhiên khi được thưởng thức cá nuôi trên vùng núi cao trước đây đến rau ăn cũng hiếm. Các "hồ treo" trên núi tại Điện Biên không những cung cấp cá cho các nhà hàng, khách sạn trong dịp lễ hội mà còn là những điểm tham quan thú vị của du khách. Xã nghèo ven biển Quỳnh Lương, Nghệ An trước kia, nay đã giàu lên nhờ trồng rau, màu. Thu hoạch từ rau, màu đạt trên 100 triệu đồng/ ha, gấp 20 lần trồng lúa; cả xã có 17 xe chuyên dùng để chở rau đi bán tỉnh xa. Nghề nuôi tôm trên cát đã góp phần xoá nghèo và vươn lên giàu có cho nhiều vùng đất chua mặn quanh năm nghèo đói trước đây. Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp mất dần tính tự phát đã kéo theo những biến chuyển về chất của nền nông nghiệp Việt Nam. Chỉ trong vòng hơn một năm qua đã có nhiều thương hiệu sản phẩm nông nghiệp đưa ra thị trường quốc tế như: nước mắm Phú Quốc, bưởi Năm Roi, cà phê Trung Nguyên. Sản phẩm lưu thông trong nước cũng đang nhanh chóng đi theo xu hướng có thương hiệu đảm bảo cho chất lượng ổn định để duy trì thị trường. Tính "dã man" của kinh tế thị trường Việt Nam đang nhanh chóng nhường chỗ cho một nền thương mại văn minh. 2.2.Những khó khăn Mặc dù những thành tựu đạt được trong phát triển nông nghiệp, lĩnh vực này vẫn đang phải đối đầu với những thách thức lớn. Một trong số những thách thức đó là trình độ văn hoá, kỹ thuật của người lao động. Nông dân rất nhanh nhạy tham gia kinh tế thị trường, nhưng do trình độ văn hoá và kỹ thuật thấp nên kết quả thu được vẫn còn hạn chế, thể hiện điều mà nhiều chuyên gia nhận định rằng chất lượng tăng trưởng của kinh tế còn thấp. Có thể minh hoạ điều này qua thí dụ về tỉnh Nghệ An nêu trên: trong số 71.526 hộ sản xuất giỏi của tỉnh này, chỉ có 14% qua các lớp trung cấp, sơ cấp kỹ thuật hoặc quản lý. Khu vực được hưởng lợi thứ hai nhờ xoá bao cấp là công thương nghiệp ngoài quốc doanh, nay gọi là khu vực dân doanh. Do nhận thức cũ, coi doanh nghiệp dân doanh là thành phần "phi xã hội chủ nghĩa" nên quá trình chuyển từ cấm đoán sang không cấm rồi khuyến khích doanh nghiệp dân doanh diễn ra chậm hơn so với nông nghiệp. Mãi đến năm 2000, cùng với thi hành Luật Doanh nghiệp, khu vực dân doanh mới có được khung pháp lý thuận lợi để phát triển. Nhiều người đánh giá Luật Doanh nghiệp đã tạo ra bước đột phá tương tự như "khoán 10" trong nông nghiệp. Chỉ sau 3 năm thi hành Luật Doanh nghiệp, đã có gần 73000 doanh nghiệp đăng ký mới với số vốn xấp xỉ 9,5 tỷ USD (tương tự khối lượng FDI đạt được cùng thời gian), tạo việc làm cho gần một nửa số lao động tăng thêm hàng năm. Nếu Luật Doanh nghiệp được thi hành nghiêm túc hơn, doanh nghiệp dân doanh được dễ dàng hơn trong vay vốn ngân hàng và thuê mặt bằng sản xuất thì hiệu quả mà khu vực này đem lại còn lớn hơn. Mặc dù vẫn duy trì bao cấp trong các lĩnh vực công cộng và phúc lợi xã hội như y tế, giáo dục, văn hoá, giao thông công cộng, vệ sinh môi trường v.v... nhưng việc thực hiện "xã hội hoá" cũng đã giảm nhiều tình trạng xuống cấp của khu vực này. Đặc biệt, chính sách đoàn kết nêu ra tại Đại Hội lần thứ 9 Đảng cộng sản việt Nam (4/2003) "phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân"... "lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng..." đã làm yên lòng giới kinh doanh tư nhân và động viên được các nguồn nội lực. Trong các năm 2001 - 2003 đầu tư của khu vực tư nhân đã bù lại được sự giảm sút của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khu vực được bao cấp lớn nhất trong kinh tế Việt Nam cho đến nay vẫn là khối các doanh nghiệp nhà nước. Với lý thuyết "ưu tiên phát triển công nghiệp" (có thời kỳ còn đề ra khẩu hiệu "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng"), Việt Nam đã dành sự bao cấp to lớn cho công nghiệp. Các xí nghiệp quốc doanh sở hữu gần như toàn bộ cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế, hầu hết cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề. Mặc dù trình độ quản lý yếu kém, tiền lương thấp, nhưng do được bảo hiểm của Nhà nước nên khu vực này vẫn có sức hút mạnh hơn so với khu vực tư nhân mới bắt đầu phát triển từ sau khi có Luật Doanh nghiệp (có hiệu lực từ năm 2000). Điều đó giải thích tại sao việc cổ phần hoá khu vực này diễn ra chậm chạp (bên cạnh sự chống đối của những người muốn dựa vào cơ chế bao cấp cũ). Sức mạnh vật chất của kinh tế nhà nước cộng với lợi ích mà nó đem lại cho một bộ phận đông đảo dân cư khiến cho không thể nóng vội cải tổ khu vực này. Ngay cả những kinh tế gia ít chuyên sâu về kinh tế Việt Nam (như Joseph Stigliz, người được giải Nobel kinh tế) cũng khuyên Chính phủ Việt Nam không nên cổ phần hoá khu vực doanh nghiệp nhà nước với bất cứ giá nào, mà nên phát triển khu vực tư nhân bên cạnh khu vực nhà nước đồng thời với cải tổ xí nghiệp quốc doanh. Còn những người am hiểu Việt Nam như ông Jhozev Hà, nguyên chủ tịch tập đoàn Daewoo, Hàn Quốc, thì khuyên Việt Nam không nên vội vã tư nhân hoá ngành công nghiệp nặng đã được xây dựng từ thời bao cấp, vì đó là sức mạnh kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, chuyển hướng đầu tư cho công nghiệp nặng theo hướng phát triển ngành công nghiệp phụ trợ như kiến nghị của giáo sư Trần Văn Thọ tại Hội thảo hè năm 2002 là giải pháp cấp bách. Nhân đề cập đến vấn đề phát triển công nghiệp phụ trợ, từ năm 2003 đã có những tín hiệu đáng mừng: các ngành sản xuất ô tô, xe máy, ti vi, máy vi tính đang chuyển hướng đầu tư sản xuất phụ tùng, linh kiện thay thế để giảm bị động trong sản xuất và hưởng các ưu đãi của Nhà nước. Bên cạnh đó : Nhiều nền kinh tế chuyển đổi tìm thấy cơ hội xoá cơ chế bao cấp thông qua việc hội nhập vào kinh tế thế giới. Những thành tích Việt Nam đạt được trong xuất khẩu từ sau khi Hiệp định thương mại ký với Hoa Kỳ có hiệu lực đã củng cố quyết tâm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ngoài việc khẩn trương sửa đổi luật pháp cho phù hợp các cam kết của WTO, điều hành nền kinh tế cũng đang chuyển theo hướng xoá dần bao cấp, tạo môi trường bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. Ví dụ :sinh động nhất mới đây là chủ trương giảm thuế nhập khẩu thép thành phẩm từ 20% - 40% xuống mức 0% trong cơn sốt giá thép thế giới từ đầu năm 2004 bất chấp phản ứng mạnh mẽ của các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước. Thời hạn thực hiện cam kết AFTA giảm thuế hải quan xuống mức 0% - 5% đang đến gần đã khiến doanh nghiệp quan tâm đến đầu tư chiều sâu, áp dụng công nghệ mới và tiếp thị để nâng cao sức cạnh tranh. CHƯƠNG III:NHỮNG GIẢI PHÁP CỦA NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN I -Thực hiện chính sách kích cầu, phát triển nông thôn bền vững Trước tình trạng tuy được mùa, nhưng thu nhập của nông dân bị giảm sút do giá nông sản xuống thấp (Theo đại biểu Hà Văn Phụng, Bắc Cạn, thì năm nay, giá sụt giảm 20 - 30% so với năm 2000); giá nông sản xuất khẩu trên thị trường thế giới có chiều hướng đi xuống cũng làm tăng thêm sức ép đối với đời sống nông dân; Chính phủ đã đề ra chính sách cho mua tạm trữ một triệu tấn gạo với giá ưu đãi (1300 đồng/kg lúa). Nhiều đại biểu Quốc hội đã nêu vấn đề ai là người hưởng lợi nhiều hơn từ chính sách này? thay vì nông dân, thì chính mạng lưới thu mua trung gian được hưởng lợi nhiều hơn. Ðời sống của nông dân do thu nhập ít, lại phải chi nhiều khoản đóng góp để duy trì sản xuất và đời sống cộng đồng; giá nông sản đi xuống, giá hàng công nghiệp lại đi lên dẫn đến chi phí sản xuất cao, do đó hố giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn ngày càng tăng. Nhiều đại biểu Quốc hội kiến nghị một số giải pháp bổ sung vào những giải pháp của Chính phủ đưa ra; trong đó có đề nghị miễn hẳn thuế nông ngh-iệp cho nông dân; xem lại hiệu quả của chủ trương bù giá và nghiên cứu hỗ trợ bằng hàng, vật tư trợ giá xuống cơ sở, tổ chức mạng lưới tiêu thụ theo hợp đồng dài hạn để giảm nạn ép cấp, ép giá trong tiêu thụ sản phẩm. Giải pháp đối với khâu tiêu thụ có thể là đầu tư xây dựng nhiều cơ sở chế biến nông, lâm sản ở các địa phương. Ðối với hình thức hỗ trợ qua hàng hoá, một số đại biểu miền núi đề nghị thay vì khoán khoanh nuôi rừng bằng tiền, nên nghiên cứu hình thức hỗ trợ bằng gạo để đồng bào ổn định đời sống, chăm sóc bảo vệ rừng, đồng thời giải quyết một phần đầu ra tiêu thụ lúa gạo trong nước. Vai trò của nhà nước trong hỗ trợ nông nghiệp nên là vai trò hướng dẫn, thông tin và dự báo, ví dụ hướng dẫn và khuyến khích nông dân đầu tư đúng hướng, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất sản phẩm có giá trị cao.Cơ sở tính thuế sử dụng đất nông nghiệp căn cứ vào giá lúa đang tạo ra nhiều bất hợp lý, do giá lúa biến động tuỳ thời điểm và địa phương, nên Uỷ ban nhân dân các tỉnh không điều chỉnh kịp theo giá lúa thị trường. Nên nghiên cứu áp dụng cơ sở tính thuế theo mức tiền quy định cho mỗi mét vuông của từng hạng đất. Ðối với nông nghiệp và nông thôn, các công trình thuỷ lợi có tầm quan trọng sống còn, do đó, bên cạnh đầu tư của địa phương và đóng góp của nhân dân như hiện nay, nhà nước cần chú trọng đầu tư vào nâng cấp các công trình thuỷ lợi phục vụ dự trữ và tưới tiêu; đặc biệt các công trình kịp phục vụ thoát lũ ở đồng bằng sông Cửu Long. Do hiệu quả sản xuất thấp, đất đai có hạn, thanh niên ở nông thôn ở độ tuổi lao động không có việc làm đang tăng lên; ngành nghề ở nông thôn lại không phát triển được, nếu có cũng hoàn toàn trên cơ sở bột phát, không bền vững. Do đó, bên cạnh giải pháp hỗ trợ tình thế như vừa qua, Chính phủ cần xem xét và đánh giá tổng kết tình hình phát triển của các hợp tác xã nông thôn, phát triển nghề phụ trong thời gian nông nhàn, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn; đánh giá kết quả chủ trương kích cầu và thị trường nông thôn, vấn đề phát triển bền vững ở nông thôn để có chủ trương lâu dài xóa đói, giảm nghèo và phát triển bền vững. Sức mua ở nông thôn đang có chiều hướng giảm nghiêm trọng do thu nhập ngày càng sút kém và chi phí sản xuất lại tăng lên. Một số đại biểu kiến nghị hàng loạt các biện pháp hỗ trợ qua thuế để giảm chi phí đầu vào cho nông dân và tăng khả năng và hiệu quả ổn định tiêu thụ hàng nông sản như: Miễn toàn bộ không phân biệt hoặc miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp theo hạn điền: đất canh tác lúa từ 1-2 ha thì miễn, diện tích đất trên 2 ha thì giảm 50% thuế giảm miễn thuế nhập khẩu vật tư nông nghiệp, thuế từ dịch vụ thủy lợi cho nông dân; hạn chế nhập khẩu nông sản qua chính sách thuế nhập khẩu đối với nông sản; có chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp chế biến nông sản. Giải pháp kích cầu phải đi đôi với các chính sách giáo dục cộng đồng khác về ý thức tiêu thụ hàng sản xuất trong nước; nhất là sản phẩm mua bằng nguồn kinh phí của Nhà nước thì phải ưu tiên mua sản phẩm trong nước; kết hợp với tăng cường có hiệu quả mặt trận chống buôn lậu và áp dụng các biện pháp nghiêm khắc đối với hành vi buôn lậu. Về giải pháp vốn, Nhà nước cần giúp đỡ hình thành quỹ bảo lãnh tín dụng nhằm hỗ trợ tích cực việc tiêu thụ các sản phẩm trong nước. Song song với chính sách hỗ trợ có vấn đề đặt ra là không sợ ít mà chỉ sợ không công bằng. Sơ quan tham mưu của chính phủ cần khách quan hơn trong việc giúp Chính phủ ấn định danh sách các xã đặc biệt khó khăn. Ðể kích cầu tiêu thụ, nên nghiên cứu các cơ chế tín dụng ưu đãi khuyến khích các doanh nghiệp trong nước thực hiện bán hàng, vật tư trả chậm cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt nông thôn. Ðối với việc đưa điện về nông thôn, cần có đầu tư từ ngân sách công và nỗ lực của ngành điện để thúc đẩy nhanh các công trình đưa điện về nông thôn, giảm bớt chênh lệch giá điện giữa thành thị và nông thôn. II- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu nền kinh tế: Hiện nay có tình trạng nông dân rất linh hoạt trong việc tự chuyển đổi cây trồng, vật nuôi có giá trị cao để tự cứu mình, nhưng cấp huyện, cấp tỉnh chạy theo nông dân còn Trung ương thì bị bỏ lại ở sau khá xa, hỗ trợ không hiệu quả, không lâu dài, bền vững. Quảng Bình cho rằng việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi còn nhiều lúng túng và bị động, chủ yếu là tự phát nên thường dẫn đến sự mất cân đối giữa sản xuất và thị trường tiêu thụ, giữa vùng nguyên liệu và khả năng chế biến của các nhà máy, do đó đã nhiều năm xảy ra tình trạng người nông dân phải tự phá bỏ cây này, con này để chuyển sang trồng cây khác và nuôi con khác gây nên thiệt hại to lớn đối với người nông dân và sự bế tắc, thua lỗ của các nhà máy chế biến, rõ nhất là mía đường, cà phê, cao su.Cần tăng cường vai trò cung cấp thông tin, dự báo về nhu cầu thị trường quốc tế để nông dân có hướng sản xuất thích hợp tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường. Tuyên Quang và Lai Châu nêu vấn đề người dân không thấy có thu nhập đáng kể từ việc giữ rừng, chăm sóc rừng. Mức khoán khoanh nuôi rừng bảo hộ ở mức 50 nghìn đồng/ha không đủ khuyến khích; việc trồng rừng bán làm nguyên liệu giấy cũng bấp bênh do cơ chế thu mua không ổn định, giá cả thấp, thiếu mối liên kết giữa người sản xuất, chế biến công nghiệp và lưu thông tiêu thụ sản phẩm. Về tổ chức kinh doanh ở nông thôn, An Giang đề xuất tổng kết các mô hình Hợp tác xã theo quy mô phát triển và có chính sách ưu đãi về tín dụng, thuế đối với các hợp tác xã loại này, phát triển loại hình Hợp tác xã tín dụng thương mại nông thôn và nghiên cứu củng cố lại hệ thống thương nghiệp quốc doanh ở nông thôn. III- Giải pháp đối với vốn đầu tư và chương trình phát triển Trong các công trình sử dụng vốn ngân sách, vốn tín dụng, vốn ODA làm thế nào để chặn đứng tình trạng vốn chờ công trình, tốc độ giải ngân thấp, chậm; hạn chế nạn đầu tư dàn trải, đầu tư không đồng bộ, hiệu quả kinh tế của công trình không cao? Ðối với các chương trình phát triển của quốc gia như chương trình 135, việc triển khai và thực hiện chương trình còn thiếu dân chủ, dân ở cơ sở chưa được tham gia bàn bạc, nên nhận thức chưa đầy đủ nội dung của chương trình tập trung nhiều vào quy mô lớn, chủ yếu là giao thông, còn một số mục tiêu nhỏ như cải tạo ruộng bậc thang, nước sạch, thuỷ lợi nhỏ, đào tạo cán bộ lại chưa được quan tâm; chủ trương lồng ghép các chương trình định canh, định cư, chương trình trung tâm cụm xã, chương trình hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn vào Chương trình 135 là đúng nhưng khi thực hiện còn chưa tốt. Thanh Hoá đánh giá cao việc Chương trình 135 đã đến được xã, tuy nhiên việc giám sát chất lượng công trình còn có nhiều vấn đề, không được chính xác dẫn đến chất lượng không cao. Ðể hoàn thành chương trình 135, Chính phủ cần xây dựng phương án bổ sung vốn để hoàn thành 5 công trình thiết yếu và điều tra thêm các xã đặc biệt khó khăn. Cần đề cao trách nhiệm phối hợp của các cấp, các ngành trong việc chỉ đạo, điều hành kể cả việc hợp nhất các mục tiêu của Chương trình, tập trung đầu tư mạnh vào thủy lợi, xây dựng đường sá, trung tâm cụm xã, Quảng Nam hoan nghênh Chính phủ đề ra biện pháp nhằm cải tiến đơn giản thủ tục cùng với việc tăng cường cơ chế, giám sát, quản lý, đầu tư. Có thể giao cho tổ chức Hội cựu chiến binh chủ trì giám sát những công trình này. Một trong những lý do tình hình xây dựng cơ bản triển khai chậm là do thủ tục đầu tư xây dựng quá rườm rà, vốn tín dụng và Ngân hàng thì ứ đọng, cần có chính sách khuyến khích khôi phục các ngành nghề truyền thống và doanh nghiệp ở nông thôn mới có tiềm năng khai thác các nguồn vốn nhàn rỗi. Mặt khác, thủ tục vay vốn, bảo lãnh, thế chấp hiện nay còn nhiều bất cập, hạn chế khả năng sử dụng vốn. Liên quan tới vấn đề thế chấp, Chính phủ cũng cần nghiên cứu lại chính sách thu tiền sử dụng đất lần đầu đối với đất thổ cư nhằm đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận sở hữu nhà, chứng nhận quyền sử dụng đất ở để góp phần giải quyết vấn đề vốn cho người phát triển ngành nghề. Các công trình khởi công thường chậm, vào quý III, quý IV do thủ tục làm chậm, mất nhiều thời gian chuẩn bị vào nửa đầu năm, vì vậy Chính phủ cần mở rộng mục kế hoạch chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng trong các kế hoạch đầu tư nhà nước; giành ra ngay trong nửa cuối năm nay một khoản kinh phí thích đáng cho mục tiêu này để sang năm và sau này mỗi năm có thể triển khai xây dựng cơ bản ngay từ đầu năm ngân sách. Về cơ cấu đầu tư, ông nhận xét rằng thời gian qua, các công trình hạ tầng lớn triển khai xây dựng khá nhiều; trong thời gian tới nên tập trung vốn ngân sách nhiều hơn cho hạ tầng nông thôn, kể cả vùng sâu, vùng xa, vùng cao để sớm tạo đà cho nông thôn phát triển. Nói về lý do vốn chờ công tình Đối với trường hợp các tỉnh đã được hỗ trợ ngân sách từ phía Trung ương thì phần kinh phí dành cho chuẩn bị đầu tư và chuẩn bị vốn đối ứng ở địa phương là rất nhỏ, không đáp ứng yêu cầu chuẩn bị, vì vậy, sang năm 2002, Chính phủ nên dành một phần kinh phí nhất định cho chuẩn bị đầu tư và phần vốn đối ứng để cho các cơ sở có điều kiện thực hiện chương trình của mình, tránh tình trạng vốn chờ công trình. Một lý do gây chậm tiến độ các dự án đầu tư là do chính sách đền bù trong đầu tư xây dựng cơ bản chưa nhất quán và thiếu kiên quyết, giá đền bù không hợp lý. Mặt khác, thời gian đấu thầu thường kéo dài vì chủ đầu tư không có quyền và nhiều nhà thầu giảm giá quá thấp. Chính phủ sớm trình dự thảo Pháp lệnh về đấu thầu và giao trách nhiệm thẩm quyền quyết định chọn thầu cho chủ đầu tư, đơn giản bớt các thủ tục thanh toán. Về chính sách đầu tư, phải tăng đầu tư cho nông nghiệp từ 10% hiện nay lên 15 - 20% trong năm tới. Để tăng hiệu quả đầu tư các công trình nhà nước, song song với nhiều biện pháp khác, cần tăng cường vai trò thực chất của Quốc hội trong lĩnh vực phân bổ và giám sát thực hiện ngân sách, chấm dứt tình trạng đầu tư dàn trải kém hiệu quả, nhiều công trình đầu tư không sử dụng hết công suất, vẫn sử dụng công nghệ lạc hậu. IV- Sắp xếp, củng cố các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã Tới đây, cần củng cố doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và hợp tác xã như thế nào để đảm bảo thực hiện những nội dung cơ bản của Nghị quyết Ðại hội IX trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa: kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân và phải trên nền tảng đó để phát triển các thành phần kinh tế khác Về hoạt động của DNNN, An Giang kiến nghị cần gắn kết doanh nghiệp với nông dân, nói một cách khác là gắn kết sản xuất nguyên liệu với chế biến và thị trường. Ðể phát huy vai trò của DNNN, phải mạnh dạn tách rời quản lý Nhà nước với quyền tự chủ của doanh nghiệp; các doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động kinh tế của mình, cũng cần có cách nhìn mới về hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp nhà nước qua hiệu quả thực hiện nhiệm vụ kinh doanh chứ không phải là làm chính sách xã hội hay nhiệm vụ chính trị xã hội thay cho Ðảng và Nhà nước. Về vai trò hợp tác xã, Quảng Bình nhận thấy nhiều tỉnh đã hoàn thành việc chuyển đổi hoặc thành lập mới các hợp tác xã theo Luật hợp tác xã nhưng vai trò của các hợp tác xã còn rất hạn chế, ở một số nơi lại sa vào tính hình thức, kém hiệu quả và đang gặp rất nhiều khó khăn. Vốn và tài sản của hợp tác xã còn nhỏ bé, công nợ dây dưa từ trước để lại, còn nhiều khoản nợ khó đòi, khó trả, trình độ quản lý của cán bộ và chính sách đối với cán bộ hợp tác xã còn nhiều bất cập. Chính phủ sớm tổng kết mô hình kinh tế hợp tác xã, kinh tế hộ, kinh tế trang trại, tổng kết thực hiện Luật Hợp tác xã, tháo gỡ khó khăn, xử lý tồn tại cũ (thanh toán công nợ tồn đọng, thực hiện khoanh nợ, xóa nợ) cho các hợp tác xã. Ðể tăng cường năng lực cho các hợp tác xã, các Bộ, ngành chức năng cần có những hướng dẫn cụ thể về các vấn đề còn khó khăn vướng mắc (các cơ chế chính sách về thuế, về tín dụng, chế độ quản lý tài chính, kế toán, chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cán bộ kế toán, thống kê hợp tác xã) và về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế đối với xã viên. Phải bổ sung chính sách khuyến khích phát triển các loại hình kinh tế hợp tác để thúc đẩy sản xuất, chuyển dịch cơ cấu tạo nền tảng cho kinh tế xã hội phát triển bền vững, nhất là ở nông Phân tích các bài học từ những trục trặc thiếu đồng bộ giữa kết quả sản xuất vùng nguyên liệu mía và hoạt động của các nhà máy đường trên toàn quốc trong thời gian qua và kiến nghị Chính phủ cần có sự kiểm tra để chỉ đạo các Bộ, ngành giúp đỡ các địa phương thực hiện tốt sự liên kết, liên minh công nông trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ðồng ý rằng kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, nhưng điều đó không có nghĩa là cố bám giữ lấy những doanh nghiệp kém hiệu quả. Hiện nay vẫn còn một số vướng mắc trong xử lý các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ kéo dài. Ninh Bình kiến nghị: Chính phủ cần tập trung chỉ đạo các cơ quan có liên quan tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước như xác định giá trị của Doanh nghiệp, xử lý công nợ tồn đọng, giải quyết lao động dôi dư... Ðể dứt điểm giải quyết khoảng 30% số doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ kéo dài nhưng chưa được xử lý. Với cách tiếp cận hỗ trợ qua thuế, Tây Ninh cho rằng thành phần kinh tế hợp tác xã hiện vẫn chịu mức thuế 32% là quá cao so với một số thành phần kinh tế khác, cần điều chỉnh giảm để khuyến khích phát triển hợp tác xã. V- Vấn đề ngân sách, tài chính, tiền tệ và tín dụng Dự toán ngân sách nhà nước năm 2001 có những bất hợp lý nào không? Trong khi chỉ tiêu tăng trưởng GDP đặt ra là 7,5% nhưng dự toán ngân sách lại giảm so với thực hiện năm 2000 là 3,6%; nên khắc phục mâu thuẫn này như thế nào, cần quyết định thay đổi chỉ tiêu dự toán hay là điều chỉnh mức thu, chi trên cơ sở những giải pháp tăng thu, tiết kiệm chi? Mối quan hệ lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền cho vay, lãi suất của VND và USD đã phù hợp ch Vệc đánh giá mức thực hiện dự toán ngân sách của Nhà nước năm 1999- 2000 không sát với tình hình thực tế, làm ảnh hưởng tới việc quyết định của Quốc hội về các vấn đề liên quan đến chi ngân sách và mức bội chi ngân sách của Nhà nước, vì vậy Chính phủ cần nghiêm túc rút kinh nghiệm và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cần giám sát chặt chẽ những số tăng thu thêm ở những năm quyết toán. Quảng Nam-cho rằng Dự toán ngân sách Nhà nước năm 2001 do Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 8 thấp hơn nhiều so với thực hiện năm trước, vì vậy Quốc hội nên xem xét điều chỉnh dự toán ngân sách Nhà nước năm nay cho phù hợp. Có tình trạng số nợ xây dựng cơ bản nhiều năm trước tồn đọng rất nhiều, chưa được xử lý, và nhiều công trình xây dựng trong năm 2000 chưa tiêu hết vốn phải chuyển sang năm kế hoạch sau gây trở ngại cho quyết toán đầu tư trong năm. Nên đem số thu tăng này hỗ trợ cho các tỉnh đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn. Về cho vay tín dụng sản xuất, Hà Tây kiến nghị cần tăng cho vay trung và dài hạn phù hợp với chu kỳ sản xuất cây, con và ngành nghề, không nên phụ thuộc vào cơ cấu cho vay giữa dài hạn và ngắn hạn. VI- Những vấn đề bức xúc về xã hội Vấn đề phân hóa giàu nghèo, bảo đảm quyền lợi của người lao động, giải quyết việc làm trong xuất khẩu lao động, trong sử dụng lao động; làm cách nào để ngăn chặn có hiệu quả tình trạng nghiện ma túy công khai, sự thác loạn ở các vũ trường thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội hiện nay, nạn mãi dâm, HIV, AIDS? các giải pháp chống tham nhũng phải được thể hiện như thế nào để thực hiện nghị quyết Ðại hội IX? Về bảo đảm quyền lợi của người lao động ở các trung tâm công nghiệp.Bình Dương- ở khu vực có đông số công nhân "ngụ cư" từ các địa phương khác, kiến nghị Nhà nước cần có chính sách cho phép các doanh nghiệp được hạch toán vốn xây dựng nhà ở cho công nhân vào tài sản cố định cho doanh nghiệp và được khấu hao, vì hiện nay do doanh nghiệp chưa đáp ứng nhu cầu nhà ở cho công nhân, nhường cho thị trường nhà trọ tự phát gây ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của công nhân. Mức thuế suất thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (50%) là cao và hạn chế sự đầu tư cho giáo dục, đào tạo chất xám. Nên quy định không quá 32%- bằng với mức thuế suất tối đa của thuế thu nhập doanh nghiệp. Nói đến quyền lợi của người lao động, vùng đồng bằng bắc bộ Khuất Hữu Sơn (Hà Tây) đời sống khó khăn của người lao động nông nghiệp, càng ngày hố ngăn cách về thu nhập giữa dân thành thị và dân nông thôn ngày càng xa (dân thành thị thu nhập gần gấp 4 lần người dân ở nông thôn). Trong tình trạng lao động dư dôi ở khu vực nông nghiệp có chiều hướng tăng, các cơ sở tuyển dụng lao động ở nước ngoài lại lợi dụng tình thế này gây nhiều phức tạp xã hội, đại biểu Nhà nước cần nghiên cứu vấn đề này để tổ chức tốt đáp ứng yêu cầu lao động ở nông thôn đi xuất khẩu lao động. Cần triển khai bảo hiểm xã hội cho nông dân và về lâu dài không nên bỏ thuế sử dụng đất mà chuyển thành một nguồn đóng góp hỗ trợ cho quỹ bảo hiểm xã hội này.Chế độ trợ cấp cho một số đối tượng chính sách bằng lương cơ bản tối thiểu là 210.000đ và phụ cấp cho trưởng thôn nên điều chỉnh tăng lên (mức 90.000đ hiện nay là thấp và chưa tương xứng với chức danh và chức trách). Miền Trung, đồng bằng sông Cửu Long đề nghị nghiên cứu lại chế độ tiền lương trong ngành y tế để khuyến khích nhân viên y tế giỏi yên tâm và tận tâm phục vụ, không phải lo làm thêm; chính sách viện phí, bảo hiểm y tế cũng cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung. Ngân sách cho chăm sóc sức khỏe ở tuyến y tế cơ sở cần tăng cường một cách hiệu quả. Về chính sách xã hội đối với người có công còn rất nhiều trường hợp tồn đọng mặc dù đã có chủ trương chính sách và nhiều trường hợp cũng chưa có chủ trương chính sách để giải quyết. Ngành chức năng ở trung ương và địa phương có kế hoạch tổng rà soát lại các diện trong chính sách để không bị sót và bảo đảm sự chính xác, công bằng, đồng thời có ý kiến cuối cùng về các trường hợp không giải quyết để người dân tránh mong chờ, khiếu nại. Việc thưởng Huân chương kháng chiến cho các đối tượng có công sau 01/01/1995 đến nay chưa thực hiện mặc dù đã có Nghị định của Chính phủ, nay nên tiếp tục thực hiện, không nên tuyên bố kết thúc trong năm nay. Chống lại các tệ nạn xã hội là một vấn đề bức xúc, nhưng rất khó khăn, vụ sau lớn hơn vụ trước, chống ở đô thị thì tệ nạn tràn về nông thôn. Chính tệ nạn xã hội đã trở thành bạn đồng hành với nạn tham nhũng. Cần phải phát động xã hội hóa việc đấu tranh chống tệ nạn xã hội từ gia đình đến trường học, công sở, đường phố, xử lý nghiêm những cán bộ công chức vi phạm và cần có chính sách đầu tư cho các trường giáo dưỡng, dạy nghề, tạo việc làm cho những người lầm lỡ đã hoàn lương. Về vấn đề chống tham nhũng, nên nghiêm túc thực hiện quy định người có chức vụ, quyền hạn phải kê khai tài sản; kết hợp đấu tranh chống tham nhũng với các phương tiện thông tin đại chúng, tăng cường nêu gương các doanh nghiệp làm ăn giỏi, các giám đốc chủ doanh nghiệp thành công trong điều kiện cạnh tranh khó khăn của cơ chế thị trường sản xuất ra của cải vật chất, làm giàu cho đất nước Cần phát biểu nhiều ý kiến xung quanh các vi phạm Bộ luật lao động từ phía người sử dụng lao động và cơ chế bảo hộ kém hiệu quả hiện nay về an toàn, vệ sinh lao động và quyền lợi của người lao động Tóm lại: các chính sách kinh tế của nhà nước sử dụng để điều khiển , dẫn dắt hoạt động các chủ thểtrong nông nghiệp vận hành phù hợp với lợi ích chung của xã hội , huy động và sử dụng có hiệu quả cá c nguồn tài nguyên để đạt tới mục tiêu phát triển đề ra . khi sử dung các chính sách tác động vào sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn , diều cần chú ý mỗi chính sách cụ thể có phương hướng tác dụng khác nhau và đât những mục tiêu khác nhau . Do vậy việc phân tích kinh tế các chính sách trong nông nghiệp là việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Kết luận chung : Trong quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá nông thôn và xây dựng nông thôn mới, sự phân cômg lao động mới tất yếu sẽ xảy ra.Khi chyển sang nền kinh tế nông nghiệp, nông nghiệp hàng hoá thì cơ cấu xã hội sẻ thây đổi. Cơ cấu xã hôi giai cấp thuần nông trước đây bị phá vở. Cơ cấu giai cấp mới xuất hiện, bao gồm những tầng lớp xã hội khác nhau:người lao động cá thể, người lao động trong cùng các tổ chức xã hội người lao động trong các doang nghiệp nhà nước… bên cạnhg đó những tầng lớp xã hội mà nguồn góc thu nhập dựa vào hoặc chủ yếu dựa vào lao động của bản thân , sẻ xuất hiện những tầng lớp xã hội mà thu nhập dựa vào chiền hữu lao động thặng dư… Do vậy sự phân hoá giàu nghèo,sự phân hoá lợi ích kimh tế cùng với khả nâng xung độ về lợi ích kinh tế là điếu khó tránh khỏi. Để phát triển kinh tế nông thôn theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải hạn chế và ngăn chặn , tháo gở kịp thời những xung dột để khômg trở thành mâu thuẩn đối kháng về lợi ích trông nông thôn, giữa nông thôn và thành thị Để đạt được những yêu cầu này , một mặt phải thừa nhận sự chênh lệchvề lợi ích là điều tất yếu của kinh tế khyếnh khích mọi người làm giàu hợp pháp , người đã giàu càng giàu thêm, tiến tới mọi người cùng giàu có , mặt khác, không để sự chênh lêch ấy dẫn tới sự đối kháng về lợi ích, bằng cách thực hiện các chính sách và pháp luật , đặt biệt là chính sách phân phối sao cho mọi người điều được hưởng những thành tựu của sự phát triển. Trong thời gian tới cần khuyến khích và định hướng phát triển các loại hình kinh tế , tạo điều kiện cho tư nhân trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư kinh doanh nông nghiệp, nhất là đầu tư vào công nghiệp phục vụ nông nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng; đồng thời khuyến khích tư bản tư nhân, các chủ trang trại, hộ gia đình liên kết với doanh nghiệp nhá nước xây dựng cơ sở chế biến, tìm thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá …..vì đó là nấc thang tiến bộ trên con đường phát triển kinh tế hàng hoá nông thôn và xã hội hoá kinh tế nông thôn. TAØI LIEÄU THAM KHAÛO 1. Giaùo trình Kinh teá chính trò Maùc – Leânin – NXB.CTQG.HN 1999 2. Vaên kieän Ñaïi hoäi Ñaûng toaøn quoác khoùa VI, VII, VIII, IX NXB-CTQT-HN-1986-1991-1996-2001 3. Tìm hieåu moät soá khaùi nieäm trong vaên kieän Ñaïi hoäi Ñaûng khoùa IX.NXB-CTQG-HN 2001 4. Vai troø laõnh ñaïo cuûa Ñaûng Coäng saûn Vieät Nam trong thôøi kyø ñoåi môùi ñaát nöôùc. 5. Taïp chí Coäng saûn 2001 – 2002. 6. Kinh teá thò tröôøng ñònh höôùng xaõ hoäi chuû nghóa ôû Vieät Nam cuûa Phoù GS-TS Mai Ngoïc Cöôøng (Saùch tham khaûo) 7. Nghò quyeát Trung öông (Laàn thöù 3) khoùa IX 8. Hoà Chí Minh toaøn taäp. 9. Chuùc naêng kinh teá cuûa nhaø nöôùc (NXB Coâng an nhaân daân) 10.Một số vấn đề phát triện nông nghiệp- nông thôn (NXB sự thật Hà Nội - 2002 .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnoi dung.doc
  • docbiabktct.doc
Luận văn liên quan