Như vậy, Lào trở thành địa bàn đầu tiên trên hành trình trở về Đông Dương
của Nguyễn Ái Quốc, nơi bổ sung những cơ sở thực tiễn mới cho công tác chính trị,
tư tưởng và tổ chức của Người về phong trào giải phóng dântộc ở ba nước Đông
Dương. Quá trình Nguyễn Ái quốc đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt Việt Nam –
Lào, Lào – Việt Nam báo hiệu bước ngoặt lịch sử trọng đại sắp tới của cách mạng
Việt Nam cũng như cách mạng Lào.
Thực tiễn đã khẳng định rằng, trong quan hệ quốc tế ít có nơi nào và lúc nào
cũng có được mối quan hệ đặc biệt, đoàn kết, hợp tác bền vững lâu dài, trong sáng
như mối quan hệ Việt - Lào.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, quan hệ hữu nghị truyền thống đặc
biệt giữa Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam cùng với những cơ hội vẫn còn không ít
thách thức, nhất là các thế lực thù địch tìm mọi cách xuyên tạc, bóp méo lịch sử,
chia rẽ tình hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Lào. Vì vậy, việc duy trì, củng cố và tăng
cường mối quan hệ đặc biệt trong sáng, thuỷ chung giữa hai Đảng, hai Nhà nước và
nhân dân hai nước Việt Nam – Lào là nhiệm vụ hết sức quan trọng của Đảng, chính
quyền và nhân dân hai nước Việt Nam-Lào, lào-Việt Nam.
35 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6447 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những nhân tố hình thành, quyết định mối quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xuân của nhà tiền Lý. Tiếp
đến vào giữa thế kỷ XIV (năm 1353) những quy ước hoà bình đầu tiên về biên giới
quốc gia đã được xác lập giữa Đại Việt và Lạn Xạng.
Ngoài ra, trong suốt quá trình của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418- 1427),
nghĩa quân Lê Lợi cũng luôn nhận được sự tiếp sức của các tộc trưởng và nhân dân
Lào ở vùng biên giới. Điều đáng nói là bất chấp hoàn cảnh bất lợi của chế độ phong
kiến ở Đại Việt và Lạn Xạng, quan hệ nương tựa vào nhau giữa nhân dân hai nước
vẫn tiếp tục được nuôi dưỡng.
Cùng với các điều kiện tự nhiên, dân cư, xã hội, văn hoá, lịch sử, truyền
thống chống giặc ngoại xâm của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào, nhất là trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ đã làm cho mối quan hệ Việt Nam - Lào,
Lào-Việt Nam càng gắn bó keo sơn.
Từ khi Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin để xác định con đường giải phóng các dân tộc Việt Nam, Lào theo con
đường cách mạng vô sản, đưa sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Việt Nam và Lào
ngày càng hoà quyện vào nhau, nương tựa lẫn nhau, mở ra một trang mới trong
quan hệ giữa nhân dân hai nước, cùng hướng tới mục tiêu chung là độc lập dân tộc
và tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa là nhân tố quyết định mối quan hệ đặc biệt
Việt Nam-Lào, Lào- Việt Nam.
Và chính Người đã cùng đồng chí Kayxỏn Phômvihản, đồng chí
Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước
dày công vun đắp mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Thực tiễn đã khẳng định rằng, trong quan hệ quốc tế ít có nơi nào và lúc nào
cũng có được mối quan hệ đặc biệt, đoàn kết, hợp tác bền vững lâu dài, trong sáng
và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã
hội như mối quan hệ Việt - Lào.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, quan hệ hữu nghị truyền thống đặc
biệt giữa Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam cùng với những cơ hội vẫn còn không ít
thách thức. Vì vậy, việc duy trì, củng cố và tăng cường mối quan hệ đặc biệt trong
sáng, thuỷ chung giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam –
Lào là nhiệm vụ hết sức quan trọng của Đảng, chính quyền và nhân dân hai nước
Việt Nam- Lào, Lào-Việt Nam.
Nhận định chung:
- Về các nhân tố dân cư, xã hội: Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa
dân tộc, đa ngôn ngữ. Hiện tượng một tộc người sống xuyên biên giới quốc gia của
hai nước, hoặc nhiều nước là đặc điểm tự nhiên của sự phân bố tộc người ở khu vực
Đông Nam Á nói chung, ở Việt Nam và Lào nói riêng. Đặc điểm này, đến nay vẫn
tiếp tục chi phối mạnh mẽ các mối quan hệ khác trên đường biên giới quốc gia Việt
Nam-Lào. Chính quá trình cộng cư, hoặc sinh sống xen cài của những cư dân Việt
Lê Minh Chiến
trang 11
Nam và cư dân Lào trên địa bàn biên giới của hai nước đã dẫn đến việc cùng khai
thác và chia sẻ nguồn lợi tự nhiên, đặc biệt là nguồn lợi sinh thuỷ. Điều này, thêm
một lần nữa khẳng định các quan hệ cội nguồn và quan hệ tiếp xúc chính là những
điều kiện lịch sử và xã hội đầu tiên, tạo ra những mối dây liên hệ và sự giao thoa
văn hoá nhiều tầng nấc giữa cư dân hai nước. Một trong những minh chứng cho
nhận định trên đó chính là hai câu chuyện huyền thoại của hai dân tộc đều xoay
quanh môtíp quả bầu mẹ, đó là: người Lào, thông qua câu chuyện huyền thoại đã
cho rằng các nhóm dân cư: Lào, Thái, Khơmú, Việt đều có chung nguồn gốc. Đặc
biệt, trong câu chuyện này, Khún Bulôm đã dặn dò với các con cháu của Người:
“Các con phải luôn luôn giữ tình thân ái với nhau, không bao giờ được chia rẽ
nhau. Các con phải làm cho mọi người noi gương các con và coi nhau như anh
em một nhà, người giàu phải giúp đỡ kẻ nghèo, người mạnh giúp kẻ yếu. Các
con phải bàn bạc kỹ trước khi hành động và đừng bao giờ gây hấn xâm lăng lẫn
nhau”. Còn ở miền tây Quảng Bình và Quảng Trị của Việt Nam, người B’ru cũng
giải thích nguồn cội của các dân tộc Tà Ôi, Ê đê, Xơ đăng, Bana, Khùa, Sách,
Mông, Dao, Tày, Khơme, Lào, Thái, Việt...cũng từ quả bầu mẹ. Hình tượng quả
bầu mẹ đã trở thành biểu tượng cao đẹp, lý giải nguồn gốc và tình đoàn kết keo sơn
giữa các dân tộc hai bên dãy Trường Sơn. Chính vì vậy, đến nay, các dân tộc anh
em sống ở khu vực biên giới hai nước vẫn còn nuôi dưỡng niềm tự hào và truyền
mãi cho nhau những câu chuyện về đạo lý làm người vô cùng sâu sắc mà người xưa
để lại.
- Về nhân tố văn hoá và lịch sử: Về nhân tố văn hoá, điều cần phải khẳng
định là do quan hệ gần gũi và lâu đời nên người Việt và người Lào đặc biệt là
người dân ở vùng biên giới am hiểu về nhau khá tường tận. Trong cuốn “Dư địa
chí” (1) của Nguyễn Trãi đã mô tả khá ấn tượng về nền văn hoá độc đáo và phong
tục thuần phác của dân tộc Lào, cũng như hiện tượng giao thoa văn hoá nở rộ giữa
Đại Việt với các nước láng giềng Đông Nam Á, trong đó có Lào Lạn Xạng.
- Sự giao thương của người dân Lào với người dân Việt nhất là với người
dân các tỉnh biên giới của Việt Nam cũng khá nhộn nhịp. Người dân Việt Nam bày
tỏ mối thiện cảm với một số mặt hàng có chất lượng cao của Lào như: vải dệt,
chiêng...Chính vì vậy, mà hiện nay, nhiều dân tộc ít người ở Tây Nguyên của nước
ta vẫn còn giữ được những chiếc chiêng Lào nổi tiếng. Đúng như nhà bác học Lê
Quý Đôn nhận xét: "Thật là một nước đã giàu lại khéo”.(2) Điều đáng chú ý là trong
quan hệ giao thương với Đại Việt, Lào Lạn Xạng đã không ít lần bộc lộ mối quan
tâm của mình muốn hướng ra biển, trong khi Đại Việt lại tìm cơ hội để mở rộng
buôn bán vào sâu lục địa.
- Có thể khẳng định rằng, sự hài hoà giữa tình cảm nhân ái và tinh thần cộng
đồng là một nét đặc sắc của triết lý nhân sinh ngươì Việt cũng như người Lào.
Chính trong cuộc sống chan hoà này, nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào đã ngày
càng hiểu nhau hơn và bày tỏ những tình cảm rất đỗi chân thành với nhau. Ngạn
ngữ Lào có câu: “Nói hợp lòng thì xin ăn cho cũng chả tiếc, nói trái ý thì dẫu xin
mua cũng chẳng bán” (Vầu thực khọ, khỏ kin cò bò thi (bò khỉ thi), vầu bò thực
khọ khỏ xừ cò bò khải). Đó cũng là những tình cảm bình dị nhưng chân thành mà
người dân nước Việt dành cho người bạn láng giềng của mình, còn được lưu lại
Lê Minh Chiến
trang 12
trong thư tịch cổ: “người Lào thuần hậu chất phác”(3) trong giao dịch buôn bán thì
“họ vui lòng đổi chác”(4)
- Mặc dầu Việt Nam và Lào có tiếng nói, văn tự không giống nhau, sáng tạo và lựa
chọn các nền văn hóa cũng như các hình thức tổ chức chính trị -xã hội khác nhau, nhưng
những nét tương đồng thì vẫn thấy phổ biến trong muôn mặt đời sống hàng ngày của cư dân
Việt Nam và Lào. Các nền văn hóa nghệ thuật truyền thống của Việt Nam và Lào dễ dàng
tìm thấy: sự đồng cảm lẫn nhau, chia sẻ các giá trị cộng đồng, coi trọng luật tục, tôn kính
người già… Sự tương đồng giữa văn hóa làng – nước của người Việt và văn hóa bản -
mường của người Lào xuất phát từ cội nguồn cùng nền văn minh nông nghiệp lúa nước ở
Đông Nam Á. Đồng thời, lòng nhân ái bao la và đời sống tâm linh phong phú, trong đó có
những ảnh hưởng sâu đậm của đạo Phật mà trong cách đối nhân xử thế của mình, nhân dân
Việt Nam và nhân dân Lào bao giờ cũng nêu cao những phẩm chất yêu thương và hướng
thiện.
- Về nhân tố lịch sử: Theo các thư tịch cổ nổi tiếng của Việt Nam như: “Việt điện u
linh” “Lịch triều hiến chương loại chí” thì năm 550 dưới thời Vạn Xuân của nhà tiền Lý, khi
bị quân Lương ở phương Bắc đàn áp, Lý Nam Đế buộc phải lánh nạn và anh ruột của Vua là
Lý Thiên Bảo đã chạy sang đất Lào lập căn cứ chống giặc ngoại xâm, mở ra mối quan hệ
đầu tiên Việt Nam-Lào, Lào-Việt -Nam. Còn hai bộ chính sử khác là “Đại Việt sử ký toàn
thư”, “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” thì sự kiện quan hệ ngoại giao, thông hiếu
đầu tiên giữa các nước Đại Việt và Lào là vào năm 1067(5). Tiếp đến vào giữa thế kỷ XIV
(năm 1353) những quy ước hoà bình đầu tiên về biên giới quốc gia đã được xác lập giữa Đại
Việt và Lạn Xạng khi Chạu Phạ Ngừng lần lượt chinh phục các mường Lào, lập nên vương
quốc Lạn Xạng thống nhất đầu tiên của người Lào. Ngoài ra, trong suốt quá trình của cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427), nghĩa quân Lê Lợi cũng luôn nhận được sự tiếp sức của
các tộc trưởng và nhân dân Lào ở vùng biên giới.
- Điều đáng nói, là trong khoảng thời gian từ thế kỷ XIV đến XV, hai nước Đại Việt-
Lạn Xạng, Lạn Xạng-Đại Việt mặc dù không phải không có những thời khắc gặp nguy nan
nhưng với tinh thần lấy hoà hiếu làm trọng nên đã sáng suốt và công bằng, có ý thức đề cao
không thù hận, đồng thời biết chủ động vun đắp tình thân ái và hữu nghị lâu dài giữa hai dân
tộc.
- Đến thế kỷ XVII là thời kỳ toàn thịnh của Lạn Xạng dưới Vương triều
Xulinhavôngsả (1637-1694), nhà vua Lào đích thân cầu hôn công chúa Vua Lê Duy Kỳ. Tuy
nhiên, đây cũng là lúc chế độ phong kiến Việt Nam bước vào giai đoạn khủng hoảng nên
quan hệ giữa hai vương triều hậu Lê và Lạn Xạng không phát triển được nhiều. Cuối thế kỷ
XVII, nội bộ hoàng tộc Lào rối ren. Tuy nhiên bất chấp hoàn cảnh bất lợi của chế độ phong
kiến ở Đại Việt và Lạn Xạng, quan hệ nương tựa vào nhau giữa nhân dân hai nước vẫn tiếp
tục được nuôi dưỡng. Chính vì vậy, nửa cuối thế kỷ XVIII, khu vực Mương Phuôn (Xiêng
Khoảng) đã trở thành một căn cứ đề kháng quan trọng của nghĩa quân Tây Sơn chống lại thế
lực Nguyễn Ánh. Thế kỷ XIX, quan hệ Việt Nam-Lào, Lào -Việt Nam đã có bước trưởng
thành sâu hơn, nhất là về phương diện nhận thức chủ quyền quốc gia, quan điểm bạn thù
cũng như phương cách xây dựng đồng minh giữa nhân dân hai nước. Đó là những yếu tố lịch
sử.
Cùng với các điều kiện tự nhiên, dân cư, xã hội, văn hoá và lịch sử và sự tự
nguyện phối hợp của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào trong chống ngoại xâm nhất
Lê Minh Chiến
trang 13
là trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược càng khẳng định mối
quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
Phần 3
Truyền thống chống giặc ngoại xâm của hai tộc và tinh thần tự
nguyện phối hợp chiến đấu của nhân dân Lào – Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trao đổi với Chủ tịch Kaysone Phomvihane tại Hà Nội năm 1966.
Đồng chí Cayxỏn Phômvihản nhấn mạnh: Sự giúp đỡ của Việt Nam cho cách
mạng Lào hết sức tận tình và vô tư. Việt Nam đã giúp Lào cả vật chất và xương
máu. Xương máu của nhân dân Việt Nam đã nhuộm đỏ khắp nơi trên đất nước Lào
vì nền độc lập của Lào. Sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Lào đã xây dựng nên mối
quan hệ đặc biệt, thực tế đó cũng là sự vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin
và chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Trong tiến trình lịch sử cả hai dân tộc đều phải ngoan cường chống ngoại
xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Dân tộc Việt Nam kể từ khi Nhà nước Văn
Lang thành lập đã trải qua mấy ngàn năm lịch sử và liên tục bị chế độ phong kiến
phương Bắc xâm lược, thống trị và do đó đã phải không ngừng chiến đấu giành và
bảo vệ độc lập dân tộc. Nước Lào cũng trải qua lịch sử hàng nghìn năm và cũng
phải ngoan cường chống xâm lược để khẳng định sự tồn tại của mình với tư cách
một dân tộc, một quốc gia độc lập.
Từ đầu thế kỷ 20, không cam chịu ách nô lệ, nhân dân hai nước Lào-Việt Nam
đã đoàn kết, cùng nhau đấu tranh chống Pháp. Như vậy, trước 1930, hai dân tộc
Lào-Việt đã đoàn kết cùng chiến đấu chống kẻ thù chung, nhưng lúc đó chỉ dừng
lại ở tính chất tự phát do hạn chế về trình độ nhận thức và điều kiện lịch sử. Từ khi
có chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường, đặc biệt là từ khi
Lê Minh Chiến
trang 14
Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, trực tiếp
lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng của hai dân tộc Lào-Việt Nam tình đoàn kết đó
đã được phát triển mạnh mẽ và liên tục. Chính truyền thống yêu nước vẻ vang là cơ
sở vững chắc cho sự đoàn kết giữa hai dân tộc.
Tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào trong những
năm tháng chiến tranh mà biểu hiện của nó là nhân dân Lào cùng Việt kiều đấu
tranh chống chế độ thuộc địa, phối hợp và ủng hộ cách mạng Việt Nam giai đoạn
(1930-1939), tiếp đến giúp nhau tiến hành cuộc vận động khởi nghĩa vũ trang giành
chính quyền thắng lợi (1939 - 1945) và liên minh Việt-Lào, Lào-Việt Nam chiến
đấu chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 – 1975). Sau năm 1975,
quan hệ Việt Nam và Lào bước sang một trang hoàn toàn mới: từ liên minh chiến
đấu chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập chủ
quyền. Tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào được biểu hiện
sâu nặng trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
Được thể hiện qua các mốc giai đoạn, như sau:
Từ ngày 1 tháng 1 đến 28 tháng 2 năm 1968, quân dân Phôngxalỳ (Lào)
phối hợp với quân tình nguyện Việt Nam vây địch ở Á Pô, Tông Xơ. Qua hơn một
tháng, quân tình nguyện Việt Nam và quân dân Phôngxalỳ buộc địch phải rút khỏi
Á Pô, Tông Xơ, Phu Lốp; loại khỏi vòng chiến đấu 146 tên địch.
Từ ngày 4 đến 5 tháng 1 năm 1968, Thường trực Quân ủy Trung ương (Việt
Nam) họp ở K7, nghe đồng chí Nguyễn Đôn, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, báo cáo
về tình hình Lào. Hội nghị thảo luận về vấn đề tăng cường quân số và giúp Lào trên
các mặt trận chính trị, quân sự ngoại giao; thống nhất quan điểm tích cực giúp Lào
thực hiện đường lối và chủ trương đã đề ra. Hội nghị đề cập việc giúp Lào đào tạo
đặc công...; giao Quân khu 4 giúp Lào ở Nam Lào. Ban Công tác Lào nắm tình
hình chung toàn Lào, giúp Trung ương chỉ đạo thực hiện kế hoạch giúp Lào.
Ngày 12 tháng 1 năm 1968, Trung đoàn Không quân 919 Việt Nam sử dụng
một biên đội AN2 gồm bốn chiếc xuất kích từ sân bay Gia Lâm, theo đường bay
Gia Lâm - Hoà Bình - Mương Hàm - Mương U. Biên đội bay đến Phả Thí vào lúc
quân địch đang nghỉ trưa, có nhiều sơ hở và sương mù đã tan, dễ quan sát các mục
tiêu. Bốn máy bay AN2 lần lượt lao xuống, bắn 128 quả rốckét và 48 đạn cối
120mm, địch không kịp phản ứng. Toàn bộ hệ thống rađa, đài chỉ huy, kho, sân bay
trực thăng đều bị đánh trúng...
Ngày 16 tháng 1 năm 1968: Nhân dịp Tết cổ truyền của Việt Nam, ngày 16
tháng 1 năm 1968, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Lào gửi thư chúc
Tết đến chuyên gia và bộ đội tình nguyện Việt Nam công tác và chiến đấu ở Lào.
Lê Minh Chiến
trang 15
Bức thư viết: “Đảng và nhân dân Lào chúng tôi chân thành biết ơn tinh thần hy sinh
cao cả của các đồng chí. Các đồng chí đã đóng góp vào thắng lợi to lớn của cách
mạng Lào. Nhân dịp năm mới, chúc các đồng chí mạnh khoẻ, thu được nhiều thắng
lợi mới”.
Ngày 20 tháng 1 năm 1968, Thường trực Quân ủy Trung ương (Việt Nam)
ra nghị quyết về tổ chức Đoàn chuyên gia và quân tình nguyện Việt Nam ở Lào,
nêu rõ: thành lập Đoàn chuyên gia quân sự toàn Lào đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp
về mọi mặt của Quân ủy Trung ương. Đoàn chuyên gia quân sự có nhiệm vụ quản
lý, chỉ đạo các chuyên gia quân sự về mọi mặt, đồng thời giúp Quân ủy Trung ương
nghiên cứu chủ trương, phương hướng công tác giúp Lào về quân sự. Quân tình
nguyện ở Bắc Lào do Quân khu Tây Bắc xây dựng, chỉ huy, lãnh đạo về mọi mặt.
Quân tình nguyện ở Nam Lào do Phân đoàn chuyên gia quân sự kiêm Ban Chỉ huy
quân tình nguyện chỉ huy. Ban Chỉ huy quân tình nguyện Nam Lào trực thuộc
Quân khu 4 (Việt Nam) về mọi mặt. Khi cần thiết, Bộ sẽ chỉ huy tác chiến đối với
quân tình nguyện ở Bắc và Nam Lào...
Ngày 29 tháng 1 năm 1968, quân tình nguyện Việt Nam cùng Quân giải
phóng nhân dân Lào phối hợp với quân trung lập Lào tiến công giải phóng Na Xịa.
Đây là trận đánh đầu tiên của quân trung lập có sự phối hợp với Quân giải phóng
nhân dân Lào và bộ đội tình nguyện Việt Nam. Sự kiện trên đánh dấu sự tiến bộ
trong mối quan hệ giữa lực lượng trung lập với Neo Lào Hắc Xạt và trình độ sử
dụng lực lượng tác chiến tập trung, quy mô trung đoàn tăng cường của lực lượng
cách mạng Lào, khẳng định quan điểm đại đoàn kết của Đảng Nhân dân Lào và
Neo Lào Hắc Xạt trong việc huy động mọi tầng lớp nhân dân cho mục tiêu chống
Mỹ, giải phóng dân tộc, xây dựng một nước Lào thống nhất, thịnh vượng.
Ngày 12/1 đến 27/2 năm 1968, Sau những thất bại trong hai năm 1966-1967
ở chiến trường Bắc Lào, đế quốc Mỹ huy động sáu tiểu đoàn chủ lực nguỵ Viêng
Chăn dưới sự chỉ huy và chi viện trực tiếp của Mỹ, mở cuộc hành quân lấn chiếm
vùng giải phóng Nặm Bạc. Sau khi chiếm được Nặm Bạc, chúng liên tục mở các
cuộc nống lấn, mở rộng địa bàn kiểm soát, nhằm tạo bàn đạp nối liền với Luổng
Phạbang, uy hiếp hậu phương Tây Bắc Việt Nam. Đến tháng 12 năm 1967, lực
lượng địch ở Nặm Bạc có 3 binh đoàn cơ động (11, 12, 13) và một tiểu đoàn của
Binh đoàn cơ động 15, một tiểu đoàn pháo binh. Lực lượng địch đóng quân ở ba
khu (Na Khằng, Huội Ngát và trung tâm thung lũng Nặm Bạc). Ngoài ra, còn có
các khu phỉ ở Chòm Văn, Giang Tơi, Moốc Phúc, Ta Mao. Các cụm quân đều có
phỉ ở vòng ngoài nhằm đối phó với ta từ xa. Sau một thời gian chuẩn bị, quân tình
nguyện Việt Nam cùng Quân giải phóng nhân dân Lào mở chiến dịch tiến công
địch ở Nặm Bạc (từ ngày 12 tháng 1 đến 27 tháng 2 năm 1968). Kết quả là, liên
Lê Minh Chiến
trang 16
quân Lào - Việt đã loại khỏi vòng chiến đấu 3.200 tên địch, trong đó bắt sống hơn
2.000 tên, thu và phá huỷ 34 khẩu ĐKZ, 47 súng cối, 2 khẩu sơn pháo 75, 20 xe
ôtô, bắn rơi 14 máy bay, giải phóng hoàn toàn Nặm Bạc. Thắng lợi của chiến dịch
Nặm Bạc đánh dấu bước trưởng thành của liên quân Lào - Việt, góp phần khôi
phục, củng cố vùng giải phóng, nối liền Sầm Nưa với Xiêng Khoảng và vùng giải
phóng Bắc Lào, mở ra vùng giải phóng rộng lớn ở Thượng Lào. Đây là chiến thắng
quan trọng, đánh bại một phương thức tác chiến trong chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” của đế quốc Mỹ ở Lào, làm thay đổi so sánh lực lượng ngày càng có lợi cho
cách mạng Lào.
Ngày 2 tháng 2 năm 1968Mương Ngan là một khu vực đông dân, là vựa lúa
và cơ sở cách mạng của huyện Mương Khun, tỉnh Xiêng Khoảng (Lào). Địa hình
nổi lên ba điểm cao gồm Phu Hom Cheng, Phu Then Chao và Phu Tong Noong, tạo
thành thế chân kiềng. Tại đây, Vàng Pao bố trí năm SGU, tổ chức thí điểm các đơn
vị biệt kích. Phát huy thắng lợi, ngày 2 tháng 2 năm 1968, Quân khu Cánh đồng
Chum (Lào) và Đoàn 463 (Việt Nam) mở chiến dịch Mương Ngan, tiêu diệt một bộ
phận sinh lực phỉ Vàng Pao, giải phóng nhân dân ở Mương Ngan, tạo điều kiện cho
lực lượng trong vùng địch hậu Viêng Chăn hoạt động. Lực lượng tham gia gồm ba
tiểu đoàn bộ binh (2, 24 và 701). Ngày 2 tháng 2, liên quân nổ súng tiến công. Sau
một thời gian chiến đấu, liên quân phá vỡ tuyến phòng thủ của địch ở Mương
Ngan. Địch tháo chạy, liên quân truy kích về phía nam và tiếp tục đánh chiếm Thà
Thôm, Phu Mừn, Mương Mày, Bolịkhăn. Chiến thắng Mương Ngan đã tạo điều
kiện chi viện cho Đông Viêng Chăn.
Ngày 3 tháng 3 năm 1968, Sau khi nghiên cứu tình hình Nam Lào, ngày 3
tháng 3 năm 1968, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam
Nguyễn Đôn chỉ thị cho Ban Chỉ huy bộ đội tình nguyện Nam Lào và Bộ Tư lệnh
Quân khu 4 về nhiệm vụ trước mắt và tiếp theo của các lực lượng tình nguyện Việt
Nam ở Nam Lào: Khu vực Xalavăn: hoạt động như hiện tại, không đánh vào thị xã
mà kéo địch ra để diệt; tích cực xây dựng cơ sở quần chúng, phát động chiến tranh
du kích mạnh mẽ, tạo thành vành đai cô lập Xalavăn; giải quyết các vị trí lẻ, quét
sạch bọn dân vệ, giải phóng và làm chủ vùng nông thôn xung quanh Xalavăn, đồng
thời giữ bằng được hành lang Lao Ngam; tiếp tục chuẩn bị chiến trường. Khu vực
Lao Ngam: để một bộ phận bộ binh bám sát, bao vây bắn tỉa, phục kích, chặn đánh
quân địch nống ra... tích cực nghi binh làm như chuẩn bị đánh lớn. Phần lớn lực
lượng còn lại giải quyết các vị trí lẻ, quét dân vệ dọc sông Xê Coong, đoạn từ
Noỏng Xy đến Khôngxêđôn và Bắc Xuvannakhili, giải phóng và làm chủ vùng
nông thôn. Khu vực Áttapư: hoạt động như hiện tại, tìm mọi cách kéo địch ra ngoài
để đánh..., có kế hoạch che giấu lực lượng.
Lê Minh Chiến
trang 17
Ngày 10 tháng 3 năm 1968, quân tình nguyện Việt Nam và quân dân Sầm
Nưa tiến công giải phóng Phả Thí lần thứ hai. Ngày 10 tháng 3, liên quân Lào -
Việt nổ súng tiến công cụm phỉ ở Phả Thí, Huội Mạ, Huội Mừn. Bốn giờ ngày 10
tháng 3, lực lượng đặc công dùng bộc phá đồng loạt đánh vào trạm rađa, sở chỉ huy
của địch. Các chiến sĩ đặc công chia thành hai mũi đánh theo phương châm phối
hợp trong đánh ra, ngoài đánh vào. Quân địch vừa chống cự, vừa rút về phía thang
dây nhưng bị hoả lực của bộ binh chặn đánh; nhiều tên liều mạng tụt xuống thang,
có tên rơi xuống vực. Bộ binh tiến lên phối hợp với đặc công truy quét địch. Chín
giờ sáng, khi sương mù trên đỉnh Phả Thí vừa tan hết, một bộ phận của Đoàn 766
tiến lên đến đỉnh núi. Mỹ dùng máy bay ném bom phá huỷ trạm rađa. Đến 10 giờ
ngày 11 tháng 3, liên quân Lào - Việt làm chủ hoàn toàn căn cứ Phả Thí, loại khỏi
vòng chiến đấu 872 tên, trong đó có viên thiếu tá, chỉ huy trưởng và 18 sĩ quan
nhân viên kỹ thuật Mỹ, làm tan rã ba đại đội (3AC), bắn rơi 10 máy bay, thu 300
súng, giải phóng 10 xã với hơn một vạn dân... Chiến thắng Phả Thí đã củng cố
vững chắc vùng giải phóng Sầm Nưa, phá tan đài rađa dẫn đường cho máy bay Mỹ.
Chiến thắng đánh dấu sự trưởng thành trong liên minh đoàn kết chiến đấu đặc biệt
Việt Nam - Lào, góp phần đánh bại một bước chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mỹ, bảo vệ vùng giải phóng Lào.
Ngày 20 tháng 3 năm 1968: Để mở rộng địa bàn và ngăn chặn những hoạt
động phá hoại của phỉ, Bộ Chỉ huy tối cao Lào chủ trương mở cuộc tiến công cứ
điểm Huội Hỉn Xa, mở thông đường lên Nặm Bạc. Ngày 20 tháng 3 năm 1968,
Đoàn 766 quân tình nguyện Việt Nam được giao nhiệm vụ phối hợp với Quân giải
phóng nhân dân Lào tiêu diệt cứ điểm này.
Ngày 10 tháng 8 năm 1968, Ban Công tác miền Tây báo cáo Ban Bí thư
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về tình hình Lào mùa khô 1967-1968. Báo
cáo đánh giá những thắng lợi trong mùa khô 1967-1968 là to lớn, có ý nghĩa chiến
lược. Quân địch bị thất bại nặng nề, nhất là sau chiến dịch Nặm Bạc. Thắng lợi của
cách mạng Lào đã làm cho tương quan lực lượng chuyển sang thế có lợi cho cách
mạng... Thắng lợi trên là do Đảng Nhân dân Lào đề ra đường lối và chủ trương
đúng đắn. Nghị quyết 13 và 15 dần dần thấm vào cán bộ các cấp; nhân dân đã nhận
rõ địch, ta, thấy được mục tiêu phấn đấu, tin tưởng vào tiền đồ của cách mạng, trên
cơ sở đó nâng cao quyết tâm chiến đấu, hăng hái công tác...
Nhiệm vụ mùa khô 1968-1969 là: cần tập trung sức giành một số thắng lợi
quyết định trên chiến trường, đồng thời củng cố lực lượng cách mạng về mọi mặt.
Chuẩn bị mọi điều kiện sẵn sàng chuyển giai đoạn trong tình hình có lợi... Về sự
giúp đỡ của Việt Nam: Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã giúp Trung ương
Đảng Nhân dân Lào hoạch định đường lối và thực tế đã chứng minh đường lối đó
Lê Minh Chiến
trang 18
hoàn toàn đúng đắn, cách mạng Lào có chuyển biến rõ rệt, làm cho Lào tin tưởng,
phấn khởi. Chuyên gia có tư tưởng vững vàng, phương pháp tốt. Quan hệ Việt Nam
- Lào tiếp tục được củng cố...
Ngày 9 tháng 9 năm 1968, Ban lãnh đạo Mặt trận 565 báo cáo Thường trực
Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam về thực
hiện kế hoạch mùa khô 1967-1968 và phương hướng nhiệm vụ mùa mưa 1968 ở
Nam Lào. Báo cáo tổng hợp tình hình ở Nam Lào trong mùa khô 1967-1968: Việt
Nam và Lào đã phối hợp loại khỏi vòng chiến đấu 3.860 tên địch, thu 797 súng các
loại, 3 tấn đạn, hơn 4 tấn quân trang, quân dụng, phá 8 pháo, 30 xe quân sự, bắn rơi
11 máy bay, giải phóng 47 xã với 104.500 dân. Việt Nam và Lào củng cố cơ sở
địch vận từ khu đến tỉnh, huyện, xã. Hệ thống cơ quan này do cấp ủy đảng của mỗi
cấp lãnh đạo, chỉ đạo, đã in và phát hành truyền đơn, thư kêu gọi binh lính địch ra
hàng, trở về với gia đình. Đảng ủy Mặt trận đánh giá, thành tích trên đã cổ vũ nhân
dân càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Quân ủy...
Ngày 29 tháng 9 năm 1968, trước tình hình địch lấn chiếm Phả Thí, ngày 29
tháng 9 năm 1968, đồng chí Nguyễn Đôn, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội
nhân dân Việt Nam ra chỉ thị cho Quân khu Tây Bắc và Đoàn 959 về phá kế hoạch
lấn chiếm Phả Thí của địch. Đồng chí nêu rõ: nếu để mất Phả Thí sẽ gây ảnh hưởng
xấu về chính trị và quân sự; nhân dân Sầm Nưa và các nơi khác sẽ thiếu tin tưởng
vào cách mạng Lào và cho rằng lực lượng Vàng Pao vẫn mạnh, việc xây dựng cơ
sở quần chúng gặp khó khăn; lực lượng vũ trang liên quân sẽ phát sinh vấn đề về tư
tưởng... Từ ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giữ Phả Thí, đồng chí chỉ thị: phải
phá bằng được kế hoạch lấn chiếm Phả Thí của địch. Nếu để mất Phả Thí, Đoàn
959 và Quân khu Tây Bắc (Việt Nam) phải chịu trách nhiệm.
Ngày 12 tháng 11 năm 1968, Quân uỷ Trung ương (Việt Nam) chỉ thị cho
Quân khu uỷ 4, Tây Bắc, Đoàn uỷ 959 về nhiệm vụ giúp Lào trong Đông Xuân
1968-1969. Chỉ thị nêu rõ: Đông Xuân năm 1967-1968, quân và dân Lào đã giành
được thắng lợi to lớn, toàn diện. Đế quốc Mỹ và bọn tay sai bị thất bại nặng nề, có
tính chất chiến lược. Tuy nhiên, bên cạnh những thắng lợi, vẫn còn khuyết, nhược
điểm mà Trung ương Lào đã vạch ra như: sự phát triển về chính trị, kinh tế không
theo kịp thắng lợi về quân sự. Những khuyết, nhược điểm đó cũng phản ánh thiếu
sót của Việt Nam trong việc giúp Lào.
Tháng 12 năm 1968, tại Hà Nội (Việt Nam), Đoàn đại biểu Đảng Lao động
Việt Nam và Đoàn đại biểu Đảng Nhân dân Lào đã tiến hành hội đàm. Tham gia
hội đàm, phía Việt Nam có các đồng chí: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy
Trinh, Lê Văn Lương. Về phía Đảng Nhân dân Lào có các đồng chí: Cayxỏn
Lê Minh Chiến
trang 19
Phômvihản, Nủhắc Phumxavẳn, Xuphanuvông, Khăm Tày Xiphănđon, Phumi
Vôngvichít.
Tổng kết thành tích chiến đấu của liên quân Lào - Việt trong năm 1968:
Xuất phát từ tình đoàn kết chiến đấu giữa hai nước, trong năm 1968, quân giải
phóng nhân dân Lào và quân tình nguyện Việt Nam đã đánh 1.114 trận, loại khỏi
vòng chiến đấu 19.234 tên địch. Trong số đó có 8.524 tên chết, 2.449 tên bị thương,
2.882 tên bị bắt sống, 4.133 tên ra hàng, 984 tên rã ngũ, 262 tên nổi dậy làm binh
biến. Liên quân Lào - Việt Nam thu được 5.847 khẩu súng các loại, 77 xe ôtô, 247
đài vô tuyến điện, 310 tấn dụng cụ chiến tranh và phá huỷ 3 trạm rađa (Bạn Na, Phả
Thí, Pha Lan), 24 kho vũ khí, 14 cầu, 6 đài vô tuyến điện, bắn chìm 36 canô, xuồng
máy, bắn rơi 260 máy bay.
Lê Minh Chiến
trang 20
Phần 4
Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – người đặt nền móng cho mối quan
hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam
Trong lịch sử quan hệ giữa các quốc gia-dân tộc từ xưa đến nay, ít thấy có
mối quan hệ nào đặc biệt như quan hệ hai nước Việt Nam-Lào. Đây là mối quan hệ
bắt nguồn từ vị trí địa-chiến lược của hai nước, từ bản chất nhân văn, nương tựa lẫn
nhau của hai dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí lãnh đạo hai
Đảng, hai Nhà nước là những người xây dựng nền móng và dày công vun đắp...
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hoàng thân Xu-pha-nu-vông
1./Gắn kết cách mạng hai nước:
Được Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản cho phép trở về Đông Dương theo
nguyện vọng, năm 1928, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm đến bản Xiêng Vảng,
huyện Noỏng Bốc, tỉnh Khăm Muộn trực tiếp truyền bá cách mạng tại Lào nhằm
đưa cách mạng Việt Nam và Lào hòa quyện, nương tựa vào nhau, cùng đấu tranh
giành độc lập, tự do. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc, phong trào cách mạng Việt Nam-Lào những năm 1930-1931 đã
có sự phối hợp ngày càng gắn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gắn mối quan hệ giữa cách mạng hai nước Việt
Nam và Lào, kịp thời xây dựng và phát huy sức mạnh nhân dân hai nước. Thắng lợi
của cuộc Tổng khởi nghĩa ở Việt Nam và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã tạo điều kiện cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Lào.
Quán triệt chủ trương và những lời căn dặn của đồng chí Hồ Chí Minh tại Hội nghị
Lê Minh Chiến
trang 21
Tân Trào, Ban chỉ đạo khởi nghĩa ở Viêng Chăn vận động các lực lượng yêu nước
và tiến bộ Lào xúc tiến thành lập Chính phủ Lào Ít-xa-la.
Xuất phát từ nhu cầu hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau, ngày 14-10-1945, Chính phủ
Việt Nam dân chủ cộng hòa là Chính phủ đầu tiên trên thế giới chính thức công
nhận Chính phủ độc lập Lào và cử phái viên của Chính phủ Việt Nam tại Lào. Từ
đây, quan hệ Việt Nam-Lào chuyển sang giai đoạn mới không chỉ trong quan hệ
giữa nhân dân hai nước, mà nâng lên tầm quan hệ gắn bó giữa hai Nhà nước, quyết
tâm bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được. Nhân dịp năm mới, tháng 1-1946, Chủ
tịch Hồ Chí Minh gửi thư chúc Tết Việt kiều ở Lào, trong đó nêu rõ: “Lào và Việt
Nam là hai nước anh em. Mối quan hệ giữa hai dân tộc rất là mật thiết”. Người
cũng khẳng định: “Bây giờ, hai dân tộc ta tuy còn phải khó nhọc, nhưng tương lai
của chúng ta rất là vẻ vang”.
Nhằm giúp Lào xây dựng căn cứ địa kháng chiến của Trung ương làm chỗ
dựa cho cơ quan lãnh đạo kháng chiến cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho
đồng chí Võ Nguyên Giáp nghiên cứu xây dựng Sầm Nưa thuộc tỉnh Hủa Phăn
thành căn cứ chiến lược cho cách mạng Lào. Ngày 16-5-1948, Ban xung phong Lào
Bắc được thành lập, do đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản làm chỉ huy trưởng. Sầm
Nưa đã trở thành trung tâm căn cứ địa Trung ương cách mạng Lào, nơi ra đời Quân
đội Lào Ít-xa-la, do đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản trực tiếp chỉ huy.
2./Cùng chiến đấu chống kẻ thù chung:
Trước tình hình quốc tế, khu vực và Đông Dương có những chuyển biến sâu
sắc, đọc Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương (2-
1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Phải ra sức giúp đỡ cuộc kháng chiến
của nhân dân Lào, vì cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam có liên hệ
mật thiết với cuộc chiến tranh giải phóng Lào”. Đại hội cũng quyết định thành lập ở
mỗi nước một chính đảng riêng, ở Việt Nam là Đảng Lao động Việt Nam và ở Lào
là Đảng Nhân dân Lào. Từ đây, mối quan hệ giữa Việt Nam và Lào được nâng lên
tầm cao mới trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung vì độc lập, tự do của mỗi
quốc gia.
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp nhân dân nước bạn tức
là mình tự giúp mình” và thực hiện chủ trương của lãnh đạo hai nước, quân và dân
Việt Nam-Lào đã phối hợp chiến đấu giành nhiều thắng lợi. Đặc biệt là phối hợp
giành thắng lợi to lớn trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, đỉnh cao là Chiến
dịch Điện Biên Phủ, đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, kết thúc
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Lê Minh Chiến
trang 22
Trước yêu cầu nhiệm vụ mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, những người
cộng sản Lào đã tổ chức Đại hội thành lập Đảng Nhân dân Lào (1955) để lãnh đạo
nhân dân Lào đoàn kết với nhân dân Việt Nam chống kẻ thù chung. Ngay sau khi
thành lập, Đảng Nhân dân Lào (năm 1972 đổi tên là Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào) đã gửi điện cảm ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam. Bức điện có đoạn: “Chúng tôi thành công trong việc
thành lập Đảng Nhân dân Lào là nhờ công ơn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã theo
dõi, dìu dắt và sự giúp đỡ vô điều kiện của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam
trong thời gian qua”.
Ngày 5-9-1962, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ
Vương quốc Lào chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Từ đây, quan hệ đoàn kết
đặc biệt Việt Nam - Lào được xây dựng phát triển lên tầm cao mới, thống nhất chủ
trương, sách lược đấu tranh trên các mặt chính trị, quân sự, ngoại giao, xây dựng
lực lượng kháng chiến, tăng cường giúp đỡ lẫn nhau trong tác chiến, trong kinh tế,
văn hóa, giáo dục, đào tạo cán bộ…
Quân đội và nhân dân hai nước cũng đã sát cánh bên nhau chiến đấu đánh
bại các chiến lược “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh đặc biệt tăng cường” của
đế quốc Mỹ, tạo ra thế và lực mới, bảo đảm cho quân đội và nhân dân Lào thực
hiện “ba đòn chiến lược” và mũi giáp công pháp lý năm 1975 thắng lợi, kết thúc
cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ra đời.
3./Đưa quan hệ đặc biệt Việt-Lào lên tầm cao mới
Trước yêu cầu khách quan của cách mạng Việt Nam và Lào trong thời kỳ
mới, ngày 18-7-1977, hai nước đã thỏa thuận ký kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác
Việt Nam-Lào. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng mang tính chiến lược lâu dài, đánh
dấu mốc phát triển mới của mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp
tác toàn diện giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước.
Ngày nay, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân hai nước
Việt Nam và Lào diễn ra trong bối cảnh thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều biến
đổi to lớn và sâu sắc, vừa thuận lợi, vừa có những khó khăn, thách thức khó lường.
Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam-Lào sẽ nỗ lực đoàn kết phấn đấu
vượt qua mọi khó khăn, thử thách để giữ trọn mối quan hệ đặc biệt Việt-Lào.
Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng nền
móng và chính Người dày công vun đắp là một tài sản vô cùng quý báu, mãi mãi
được giữ gìn, không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác toàn diện, vì
lợi ích của nhân dân mỗi nước, vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
*Nhận định chung:
Lê Minh Chiến
trang 23
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XX, chính Nguyễn Ái Quốc (Chủ tịch Hồ
Chí Minh), với lòng yêu nước nồng nàn và nghị lực phi thường, vượt lên mọi khó
khăn, gian khổ, đã tự mình khám phá thế giới tư bản chủ nghĩa và các dân tộc thuộc
địa, nhằm phát hiện chân lý cứu nước. Người tiếp nhận và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Đông Dương để xác định con đường
giải phóng các dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia theo con đường cách mạng vô
sản. Trong quá trình tìm đường cứu nước của mình, Nguyễn Ái Quốc rất quan tâm
đến tình hình Lào. Người không chỉ lên án chế độ thực dân Pháp nói chung mà còn
tố cáo cụ thể sự tàn bạo của thực dân Pháp ở Lào (6). Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên - một trong những tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam do
Nguyễn Ái Quốc trực tiếp sáng lập vào tháng 6 năm 1925 tại Quảng Châu (Trung
Quốc), đến tháng 2 năm 1927, Hội này gây dựng được cơ sở tại Lào. Thông qua
hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Lào, Nguyễn Ái Quốc thấy
đây là điều kiện thuận lợi để người Việt Nam vừa tham gia cuộc vận động cứu
nước tại Lào, vừa sát cánh cùng nhân dân Lào xây dựng mối quan hệ đoàn kết
khăng khít giữa Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam. Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên đã lập Hội Ái hữu, Hội Việt kiều yêu nước, mở các lớp huấn luyện cách
mạng trên đất Lào. Trên thực tế, từ nửa sau những năm 20 thế kỷ XX, Lào là một
đầu cầu trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng cứu nước mới của
Nguyễn Ái Quốc vào Đông Dương. Năm 1928, đích thân Người bí mật tổ chức
khảo sát thực địa tại Lào (7) càng cho thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa cách
mạng Việt Nam và cách mạng Lào. Cũng trong năm này, chi bộ Thanh niên cộng
sản đầu tiên được thành lập tại Viêng Chăn, đồng thời đường dây liên lạc giữa
nhiều thị trấn ở Lào với Việt Nam được tổ chức.
Như vậy, Lào trở thành địa bàn đầu tiên trên hành trình trở về Đông Dương
của Nguyễn Ái Quốc, nơi bổ sung những cơ sở thực tiễn mới cho công tác chính trị,
tư tưởng và tổ chức của Người về phong trào giải phóng dân tộc ở ba nước Đông
Dương. Quá trình Nguyễn Ái quốc đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt Việt Nam –
Lào, Lào – Việt Nam báo hiệu bước ngoặt lịch sử trọng đại sắp tới của cách mạng
Việt Nam cũng như cách mạng Lào.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng và chính Người cùng đồng chí
Kayxỏn Phômvihản, đồng chí Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai
Nhà nước, nhân dân hai nước dày công vun đắp, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Đông Dương, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lê Minh Chiến
trang 24
Phần 5
Âm mưu thủ đoạn và hệ thống trị của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch đối với cách mạng hai nước Việt Nam-Lào,
Lào-Việt Nam là một trong những nhân tố gắn kết hai dân tộc lại với
nhau trên trận tuyến chống thù chung.
Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ đặc biệt Việt Nam -
Lào, Lào - Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự gắn
kết bền chặt, thuỷ chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu tranh vì
độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
phát triển từ quan hệ truyền thống, do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng nền móng
và chính Người cùng đồng chí Kayxỏn Phômvihản, đồng chí Xuphanuvông và các
thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước dày công vun đắp. Trải
qua nhiều thử thách, hy sinh, gian khổ vì độc lập, tự do, hạnh phúc của hai dân tộc
và nhân dân hai nước, quan hệ Việt Nam - Lào đã trở thành quy luật sống còn và
sức mạnh kỳ diệu đưa tới nhiều thắng lợi vĩ đại của Việt Nam và Lào trong đấu
tranh giải phóng dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ đất nước, cùng phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai nước cùng tựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ: Việt Nam và Lào có vị
trí địa – chiến lược quan trọng ở vùng Đông Nam Á do nằm kề con đường giao
thương hàng hải hàng đầu thế giới, nối liền Đông Bắc Á, Nam Á qua Tây Thái
Bình Dương và Ấn Độ Dương, nơi có nguồn trữ lượng dầu khí và tiềm năng tài
nguyên khoáng sản khá dồi dào, một tiêu điểm của sự tranh giành lợi ích và ảnh
hưởng giữa các nước lớn và các trung tâm quyền lực quốc tế.
Dãy Trường Sơn, biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Lào là bức tường
thành hiểm yếu, tạo điều kiện cho hai nước tựa lưng vào nhau, phối hợp giúp đỡ lẫn
nhau trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước. Tại đây, có nhiều vị trí chiến
lược khống chế những địa bàn then chốt về kinh tế và quốc phòng rộng lớn của cả
hai nước, có thể trở thành điểm tựa vững chắc cho Việt Nam và Lào trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Do điều kiện tự nhiên và sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và Lào
có nhiều điểm tương đồng, lại vừa có những nét khác biệt, trong hoàn cảnh toàn
Lê Minh Chiến
trang 25
cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày nay, hai nước hoàn toàn có thể bổ sung cho nhau
bằng tiềm năng, thế mạnh của mỗi nước về vị trí địa lý, tài nguyên, nguồn nhân lực,
thị trường cũng như sự phân vùng kinh tế và phân công lao động hợp lý để hợp tác
cùng phát triển.
- Nhân dân hai nước giàu lòng nhân ái, bao dung và văn hóa của hai dân tộc
có nhiều nét tương đồng: Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa dân tộc, có
lịch sử phát triển lâu đời trên bán đảo Đông Dương. Quá trình cộng cư, hoặc sinh
sống xen cài của những cư dân Việt Nam và cư dân Lào trên địa bàn biên giới của
hai nước đã phản ánh sinh động, liên tục mối quan hệ cội nguồn và quan hệ tiếp
xúc từ xa xưa của nhân dân hai nước. Huyền thoại khởi nguyên về quả bầu mẹ đã
trở thành biểu tượng cao đẹp về nguồn gốc chung và tình đoàn kết keo sơn giữa các
dân tộc hai bên dãy Trường Sơn. Cho đến nay, các dân tộc anh em sống ở khu vực
biên giới hai nước vẫn còn nuôi dưỡng niềm tự hào và truyền mãi cho nhau những
câu chuyện về đạo lý làm người vô cùng sâu sắc mà ông bà xưa để lại.
Sự hài hòa giữa lòng nhân ái và tinh thần cộng đồng là một nét đặc sắc trong
triết lý nhân sinh người Việt Nam cũng như người Lào. Ngạn ngữ Lào có câu: “Nói
hợp lòng thì xin ăn cho cũng chả tiếc, nói trái ý thì dẫu xin mua cũng chẳng bán”
(Vầu thực khọ, khỏ kin cò bò thi (bò khỉ thi), vầu bò thực khọ khỏ xừ cò bò khải).
Đó cũng là những tình cảm bình dị nhưng chân thành mà người dân nước Việt dành
cho người bạn láng giềng của mình, còn được lưu lại trong thư tịch cổ: “người Lào
thuần hậu chất phác”, trong giao dịch buôn bán thì “họ vui lòng đổi chác”.
Mặc dầu Việt Nam và Lào có tiếng nói, văn tự không giống nhau, sáng tạo
và lựa chọn các nền văn hóa cũng như các hình thức tổ chức chính trị – xã hội khác
nhau, nhưng những nét tương đồng thì vẫn thấy phổ biến trong muôn mặt đời sống
hàng ngày của cư dân Việt Nam và Lào. Các nền văn hóa nghệ thuật truyền thống
của Việt Nam và Lào dễ dàng tìm thấy sự đồng cảm lẫn nhau, chia sẻ tâm hồn
chung về các giá trị cộng đồng, coi trọng luật tục, tôn kính người già…
Sự tương đồng giữa văn hóa làng – nước của người Việt và văn hóa bản -
mương của người Lào bắt nguồn từ chính nền tảng chung của văn minh nông
nghiệp lúa nước ở Đông Nam Á. Nhờ lòng nhân ái bao la và đời sống tâm linh
phong phú, trong đó có những ảnh hưởng sâu đậm của đạo Phật mà trong cách đối
nhân xử thế của mình, nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào bao giờ cũng nêu cao
những phẩm chất yêu thương và hướng thiện.
Nhân dân hai nước có truyền thống bang giao hòa hiếu, cưu mang đùm bọc
lẫn nhau từ lâu đời, cuối thế kỷ XIX cùng bị thực dân Pháp xâm lược và đặt ách cai
trị tàn bạo: Trong thời kỳ phong kiến, đặc điểm nổi bật về quan hệ giữa nhân dân
Lê Minh Chiến
trang 26
hai nước và mối bang giao giữa các triều đại là thân thiện, hữu hảo. Giữa hai dân
tộc không có sự áp bức và nô dịch nhau, không có hiềm khích và thù hằn nhau; mặt
khác, nhân dân hai nước lại có cả ngàn năm giúp đỡ, che chở lẫn nhau, là láng
giềng chí cốt của nhau.
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược và đặt ách đô hộ lên
Việt Nam (1883), Campuchia (1863) và Lào (1893). Việc thực dân Pháp sáp nhập
cưỡng bức ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia vốn có nền văn hóa, ngôn ngữ, tôn
giáo, phong tục tập quán khác nhau thành một thực thể “Đông Dương thuộc Pháp”,
chẳng những hủy bỏ tính chất quốc gia của mỗi nước, mà còn biến Đông Dương trở
thành một địa bàn chia rẽ sâu sắc giữa các dân tộc. Một mặt, thực dân Pháp tìm mọi
cách thực hiện âm mưu “chia để trị” trong nội bộ từng nước và giữa ba nước Đông
Dương với nhau; gây thù hằn và chống đối giữa Việt Nam với Lào, Lào với Việt
Nam, hòng xuyên tạc và phá hoại tình hữu nghị truyền thống Việt Nam – Lào, Lào
– Việt Nam. Mặt khác, về khách quan, Đông Dương biến đổi thành một đơn vị
hoàn toàn mới, có những mối ràng buộc chặt chẽ về chính trị, quân sự, kinh tế, xã
hội, văn hóa,…và vì thế, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt
Nam, Lào, Campuchia nhất định có tác động, ảnh hưởng mật thiết lẫn nhau.
Do có cùng một kẻ thù và chung một cảnh ngộ bị xâm lược và áp bức, phát
huy truyền thống đoàn kết hữu nghị sẵn có, nhân dân ba nước Việt Nam, Lào,
Campuchia dễ dàng đồng cảm, liên kết tự nhiên với nhau và tự nguyện phối hợp
với nhau trong một vận mệnh chung đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược,
giành độc lập, tự do.
Từ phong trào Cần Vương dưới ngọn cờ yêu nước của Vua Hàm Nghi và
Tôn Thất Thuyết (tháng 7 năm 1885) đến những năm 20 thế kỷ XX, diễn ra nhiều
cuộc khởi nghĩa và các hoạt động đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Nhiều phong
trào trong số đó nhận được sự ủng hộ giúp đỡ của nhân dân Lào tại vùng sát biên
giới Lào – Việt, chạy dài từ Hạ Lào, Trung Lào lên Thượng Lào. Đặc biệt, trong
những năm đầu thế kỷ XX, cuộc khởi nghĩa Hạ Lào do Ông Kẹo và Ông
Cômmađăm lãnh đạo (1901- 1937) phối hợp với nghĩa quân dân tộc Xơđăng ở Tây
Nguyên (Việt Nam); phong trào chống Pháp của người Mông ở Tây Bắc Việt Nam
do Chạu Phạpắtchây lãnh đạo (1918 - 1922) lan rộng trên địa bàn nhiều tỉnh biên
giới hai nước thuộc Thượng Lào và Tây Bắc Việt Nam, gây cho quân Pháp nhiều
thiệt hại.
Tuy các phong trào trên đều bị chính quyền thực dân đàn áp, dập tắt, song
mối quan hệ giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào trong những năm đầu chống
sự xâm lược và ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp cho thấy nhận thức của hai
dân tộc về xây dựng khối đoàn kết đấu tranh trở nên một nhu cầu tất yếu khách
Lê Minh Chiến
trang 27
quan. Việc xác định con đường cứu nước đúng đắn và xây dựng mối quan hệ đoàn
kết giữa các dân tộc trên bán đảo Đông Dương là những nhiệm vụ cấp bách đặt ra
cho các nhà lãnh đạo phong trào yêu nước và cách mạng tại xứ này.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm xác định con đường giải phóng dân tộc Việt Nam
và dân tộc Lào : Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XX, chính Nguyễn Ái Quốc (tức
Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này), với lòng yêu nước nồng nàn và nghị lực phi
thường, vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, đã tự mình khám phá thế giới tư bản chủ
nghĩa và các dân tộc thuộc địa, nhằm phát hiện chân lý cứu nước. Người tiếp nhận
và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Đông Dương
để xác định con đường giải phóng các dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia theo quỹ
đạo cách mạng vô sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Hoàng thân Suvanna Phuma, Thủ tướng Chính phủ
Vương quốc Lào và Hoàng thân Souphanouvong, Chủ tịch Mặt trận Lào yêu nước.
Trong quá trình tìm đường cứu nước của mình, Nguyễn Ái Quốc rất quan
tâm đến tình hình Lào. Người không chỉ lên án chế độ thực dân Pháp nói chung mà
còn tố cáo cụ thể sự tàn bạo của thực dân Pháp ở Lào[3]. Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên - một trong những tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam do
Nguyễn Ái Quốc trực tiếp sáng lập vào tháng 6 năm 1925 tại Quảng Châu (Trung
Quốc), đến tháng 2 năm 1927, Hội này gây dựng được cơ sở tại Lào. Thông qua
Lê Minh Chiến
trang 28
hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Lào, Nguyễn Ái Quốc thấy
đây là điều kiện thuận lợi để người Việt Nam vừa tham gia cuộc vận động cứu
nước tại Lào, vừa sát cánh cùng nhân dân Lào xây dựng mối quan hệ đoàn kết
khăng khít giữa Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam. Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên đã lập Hội Ái hữu, Hội Việt kiều yêu nước, mở các lớp huấn luyện cách
mạng trên đất Lào. Trên thực tế, từ nửa sau những năm 20 thế kỷ XX, Lào là một
đầu cầu trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng cứu nước mới của
Nguyễn Ái Quốc vào Đông Dương. Năm 1928, đích thân Người bí mật tổ chức
khảo sát thực địa tại Lào càng cho thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa cách
mạng Việt Nam và cách mạng Lào. Cũng trong năm này, chi bộ Thanh niên cộng
sản đầu tiên được thành lập tại Viêng Chăn, đồng thời đường dây liên lạc giữa
nhiều thị trấn ở Lào với Việt Nam được tổ chức.
Như vậy, Lào trở thành địa bàn đầu tiên trên hành trình trở về Đông Dương
của Nguyễn Ái Quốc, nơi bổ sung những cơ sở thực tiễn mới cho công tác chính trị,
tư tưởng và tổ chức của Người về phong trào giải phóng dân tộc ở ba nước Đông
Dương. Quá trình Nguyễn Ái quốc đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt Việt Nam –
Lào, Lào – Việt Nam báo hiệu bước ngoặt lịch sử trọng đại sắp tới của cách mạng
Việt Nam cũng như cách mạng Lào.
Thực tiễn đã khẳng định rằng, trong quan hệ quốc tế ít có nơi nào và lúc nào
cũng có được mối quan hệ đặc biệt, đoàn kết, hợp tác bền vững lâu dài, trong sáng
như mối quan hệ Việt - Lào.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, quan hệ hữu nghị truyền thống đặc
biệt giữa Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam cùng với những cơ hội vẫn còn không ít
thách thức, nhất là các thế lực thù địch tìm mọi cách xuyên tạc, bóp méo lịch sử,
chia rẽ tình hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Lào. Vì vậy, việc duy trì, củng cố và tăng
cường mối quan hệ đặc biệt trong sáng, thuỷ chung giữa hai Đảng, hai Nhà nước và
nhân dân hai nước Việt Nam – Lào là nhiệm vụ hết sức quan trọng của Đảng, chính
quyền và nhân dân hai nước Việt Nam-Lào, lào-Việt Nam.
Lê Minh Chiến
trang 29
ẢNH SƯU TẦM
Đại hội liên minh Việt - Miên - Lào tại chiến khu Việt Bắc tháng 3-1951.
Lê Minh Chiến
trang 30
Đại tướng Võ Nguyên Giáp (người thứ 3 từ trái sang) và Hoàng thân Lào
Souphanouvong (người thứ 4 từ trái sang) cùng các cán bộ quân đội Việt Nam -
Lào bàn kế hoạch mở chiến dịch Thượng Lào năm 1953
Đoàn nghệ thuật tỉnh Champasak tham gia chương trình diễu hành tại lễ khai mạc
Lễ hội trái cây Nam Bộ 2012
Bệnh viện Hồng Thập Tự của Việt Nam tại Xiêng Khoảng (Lào) được xây dựng
theo hiệp định ký kết giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Lào năm
1960.
Lê Minh Chiến
trang 31
Hội nghị bàn và quyết định phương án tác chiến: Chiến thắng Đường 9 – Nam Lào 1971
Quân đội nhân dân Việt Nam hiệp đồng chiến đấu với Quân đội nhân dân Lào
trong Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào.
Lê Minh Chiến
trang 32
Liên quân Việt - Lào trước giờ xuất trận năm 1946.
Liên quân Việt - Lào phối hợp chiến đấu tại Lao Bảo (Quảng Trị) năm 1946.
Lê Minh Chiến
trang 33
Nhân dân Khăng Khay (tỉnh Xiêng Khoảng, Lào) mít tinh phản đối đế quốc Mỹ
xâm lược Việt Nam, ngày 23/5/1965.
Tổng bí thư Kaysone Phomvihane thăm một đơn vị quân tình nguyện Việt Nam ở
Lào năm 1970.
Lê Minh Chiến
trang 34
Chuyến thăm Việt Nam là chuyến thăm nước ngoài đầu tiên
của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Chu-ma-ly Xay-nha-xỏn sau
thành công của Đại hội lần thứ IX Đảng NDCM Lào
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước CHDCND Lào
Choummaly Sayasone
Lê Minh Chiến
trang 35
Tài liệu tham khảo
- Xem Nguyễn Trãi:Toàn tập, bản dịch, in lần thứ hai, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1976.
- Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, bản dịch, NXB khoa học xã hội, Hà nội 1964, q9 trang
156,155 (dẫn theo Lịch sử Quan hệ đựac biệt Việt Nam-Lào, Lào Việt Nam. NXB CTQG Hà Nội
2011. Trang 10
- Hồ Chí Minh: Lời phát biểu tại Hội nghị cán bộ Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào
lần thứ nhất tháng 9-1952. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị-Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh.
- Kayxỏn Phômvihản: Bài nói tại Hội nghị cán bộ toàn quốc ngày 13-5-1974. Tài liệu lưu
tại Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh..
- Lịch sử Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào Việt Nam. NXB CTQG Hà Nội 2011.
Trang 13
- Hồ Chí Minh: Lời phát biểu tại Hội nghị cán bộ Liên minh nhân dân Việt – Miên - Lào,
TL đã dẫn
- Tổng cục Chính trị, Đảng lãnh đạo quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam
làm nhiệm vụ quốc tế, Nxb Quân đội nhân dân, H. 2008, tr. 317-318.
- (8) Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục - Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr.108.).
- Tài liệu Internet, trang điện tử:
Báo Nhân dân
Tạp chí Tuyên giáo.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam
Thông tin điện tử Chính phủ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- viet_lao_1_8161.pdf