Khái niệm địa vị pháp lý của bị can, bị cáo
1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của bị can
Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự và được ghi nhận tại Điều 49 BLTTHS 2003.
Địa vị pháp lý của bị can là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người đã bị khởi tố về hình sự trong quá trình tham gia tố tụng hình sự. ĐVPL của bị can được phân biệt với ĐVPL của các chủ thể khác chính bằng các quyền và nghĩa vụ của bị can.
1.2. Khái niệm địa vị pháp lý của bị cáo
2. Những quy định của luật TTHS về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự
2.1 Những quy định của luật TTHS về địa vị pháp lý của bị can trong tố tụng hình sự
2.1.1. Quyền của bị can
2.1.2. Nghĩa vụ của bị can
2.2. Những quy định của luật TTHS về địa vị pháp lý của bị cáo trong tố tụng hình sự
2.2.1. Quyền của bị cáo
2.2.2. Nghĩa vụ của bị cáo
3. Đề xuất hoàn thiện các quy định này
4. Kết luận
8 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2702 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những quy định của luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Khái niệm địa vị pháp lý của bị can, bị cáo
1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của bị can
Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự và được ghi nhận tại Điều 49 BLTTHS 2003.
Địa vị pháp lý của bị can là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người đã bị khởi tố về hình sự trong quá trình tham gia tố tụng hình sự. ĐVPL của bị can được phân biệt với ĐVPL của các chủ thể khác chính bằng các quyền và nghĩa vụ của bị can.
1.2. Khái niệm địa vị pháp lý của bị cáo
Khái niệm pháp lý về bị cáo được ghi nhận tại Điều 50 BLTTHS 2003: “bị cáo là người đã bị TA quyết định đưa ra xét xử”. Như vậy kể từ khi Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì bị can trở thành bị cáo.
ĐVPL của bị cáo là tổng thể quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho người đã bị TA quyết định đưa ra xét xử.
2. Những quy định của luật TTHS về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự
2.1 Những quy định của luật TTHS về địa vị pháp lý của bị can trong tố tụng hình sự
2.1.1. Quyền của bị can
Quyền của bị can được quy định tại khoản 2 Điều 49 BLTTHS 2003, theo đó bị can có quyền:
+ Được biết mình bị khởi tố về tội gì;
Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự do đó bị can cần phải được biết mình bị khởi tố về tội gì. Chỉ khi họ biết tội danh mà mình đang bị cơ quan có thẩm quyền buộc tội thì họ mới có thể đưa ra những chứng cứ, lỹ lẽ phủ nhận việc buộc tội đó, có thể tiến hành bào chữa hoặc nhờ NBC cho mình. Bị can phải được giao nhận quyết định khởi tố bị can, trong trường hợp có sự thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can cũng phải thông báo cho bị can biết.
Tuy nhiên, quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì của bị can có được bảo đảm trên thực tế hay không lại phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của CQTHTT và NTHTT, thông qua việc giao và giải thích các quyết định tố tụng cũng như giải thích các quyền và nghĩa vụ cho bị can. Bị can được biết mình bị khởi tố về tội gì thông qua quyết định khởi tố bị can. Quyết định khởi tố bị can của cơ quan có thẩm quyền phải có đầy đủ nội dung theo quy định của pháp luật tại khoản 2 Điều 126 BLTTHS.
+ Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;
Bị can có quyền được yêu cầu giải thích về các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định cho họ. Theo quy định tại khoản 6, điều 126 BLTTHS 2003 thì CQĐT phải bảo đảm việc giao quyết định khởi tố cho bị can và giải thích cho bị can biết quyền và nghĩa vụ của họ. Không chỉ đơn thuần thông báo các quyền và nghĩa vụ mà còn phải giải thích cặn kẽ để bị can có thể hiểu rõ, tạo điều kiện để họ thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ đó, việc giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can cũng chính là CQTHTT, NTHTT đã chỉ ra cho bị can hiểu rõ ĐVPL của mình. Từ đó họ có thể biết mình đang trong tình trạng pháp lý nào, đang có quyền và phải có nghĩa vụ gì.
+ Trình bày lời khai
Bị can có quyền trình bày các tình tiết, sự việc có liên quan đến vụ án để đưa ra những bằng chứng chứng minh cho mình trước sự buộc tội của CQTHTT. Việc khai báo, trình bày lời khai là một quyền chứ không phải là nghĩa vụ của bị can. Trong trường hợp họ từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối thì họ cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đó. Ngược lại, thái độ khai báo thành khẩn của họ lại được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (điểm p khoản 1 Điều 46 BLTTHS 2003).
Trong trường hợp bị can nhận tội, khai báo các tình tiết phạm tội của mình thì lời nhận tội này chỉ được coi là chứng cứ buộc tội nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án, nếu không NTHTT sẽ có những kết luận sai lầm đi đến việc buộc tội người không có tội.
Lời khai của bị can để trở thành chứng cứ và được sử dụng trong việc giải quyết vụ án phải được ĐTV tiến hành thu nhập theo những thủ tục pháp luật quy định. Do vậy khi bị can trình bày lời khai của mình thì NTHTT có nhiệm vụ ghi chép thu thập những thông tin dưới dạng văn bản, hình ảnh hay âm thanh để làm chứng cứ cho vụ án. Sau đó, ĐTV đều phải cho bị can đọc lại, hoặc nghe lại rồi cùng ký tên vào biên bản. Việc trình bày lời khai chính là việc bị can đang thực hiện quyền bào chữa của mình.
+ Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu
Bị can có quyền được đưa ra các đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án để chứng minh cho sự vô tội của mình. Cơ quan điều tra phải tiến hành kiểm tra, đánh giá cách khách quan để xác định các tài liệu, đồ vật đó có phải là chứng cứ trong vụ án hay không.
Bị can cũng có quyền đưa ra các yêu cầu như yêu cầu trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám lại… Tuy nhiên để bảo đảm hiệu quả trong công tác điều tra và tính bí mật trong giải quyết vụ án thì NTHTT có thể từ chối những yêu cầu không hợp lý của bị can.
+ Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch
Pháp luật ghi nhận quyền yêu cầu thay đổi NTHTT của bị can tại khoản 2 Điều 43 BLTTHS 2003. Bị can có quyền đề nghị thay đổi nếu có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ, việc họ tiến hành hoặc tham gia tố tụng có thể làm cho vụ án được giải quyết theo hướng không có lợi cho bị can. Tùy theo yêu cầu thay đổi từng NTHTT và chức vụ khác nhau mà căn cứ vào từng điều luật theo quy đinh của pháp luật từ Điều 44 đến Điều 47 BLTTHS 2003 mà người có thẩm quyền quyết định thay đổi hay không thay đổi NTHTT theo yêu cầu của bị can.
Với người giám định thì kết quả giám định ảnh hưởng không nhỏ đến việc chứng minh cho hành vi của bị can có cấu thành tội phạm hay không, do đó bị can có quyền yêu cầu thay đổi người giám định. Cơ quan trưng cầu giám định sẽ quyết định việc thay đổi hay không thay đổi giám định viên theo yêu cầu của bị can căn cứ theo quy định của pháp luật.
Đối với trường hợp có NTGTT không sử dụng được tiếng Việt, nếu người phiên dịch không trung thực hoặc không có khả năng phiên dịch chính xác thì cũng có thể làm sai lệch đi sự thật của vụ án rất có thể sẽ làm ảnh hưởng đến bị can. Do vậy bị can có quyền yêu cầu thay đổi người phiên dịch. Người phiên dịch phải từ chối hoặc bị thay đổi nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3, Điều 62 BLTTHS 2003. Cơ quan yêu cầu phiên dịch quyết định việc thay đổi hay không thay đổi người phiên dịch.
Quyền thay đổi NTHTT, người phiên dịch, người giám định đã một lần nữa tạo điều kiện tốt nhất cho bị can có thể bảo vệ quyền lợi của mình khỏi sự xâm phạm từ phía những NTHTT và những NTGTT khác.
+ Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa
Điều 12 BLTTHS 2003 quy định: “bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. CQĐT, VKS và TA có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ”. Quyền bào chữa không chỉ là một quyền độc lập, tách rời với các quyền khác của bị can bị cáo mà có thể hiệu quyền bào chữa là tổng hòa các quyền của bị can.
Quyền bào chữa của bị can được thể hiện dưới 2 hình thức: tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa.
Đối với quyền tự bào chữa, pháp luật đã quy định cho bị can những quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì, được giao nhận các quyết định tố tụng, được giải thích về quyền và nghĩa vụ, được trình bày lời khai, đưa ra đồ vật, tài liệu, yêu cầu… Những quyền này đều nhằm mục đích trợ giúp cho bị can tự thực hiện quyền bào chữa của mình trước CQTHTT và NTHTT. Bị can có thể dùng lời khai, đưa ra những đồ vật, tài liệu để chứng minh cho sự vô tội của mình. Quyền tự bào chữa của bị can được thực hiện trong tất cả các giai đoạn mà bị can tham gia.
Bên cạnh việc tự bào chữa, pháp luật quy định cho bị can quyền nhờ người khác bào chữa cho mình, trong trường hợp bị can là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ, bị can và đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Các cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo đảm quyền bào chữa của bị can.
BLTTHS quy định, NBC có quyền, gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam; có mặt hỏi cung bị can; có quyền đề nghị CQĐT báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; có mặt trong những hoạt động điều tra khác (Điều 58 BLTTHS).
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là quyền quan trọng nhất và pháp luật đã tạo điều kiện nhất để họ thực hiện quyền này.
+ Được nhận các quyết định, văn bản tố tụng
Bị can có quyền được nhận các quyết định khởi tố, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, bản kết luận điều tra, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định khác theo quy định của pháp luật có liên quan đến quyền lời và nghĩa vụ của bị can.
Khi có các căn cứ để khởi tố, CQĐT có quyền ra quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can… và có nhiệm vụ giao các quyết định này cho bị can. Việc giao nhận các quyết định này phải được lập thành biên bản theo mẫu quy định của pháp luật.
Kết thúc quá trình điều tra, CQĐT phải giao cho bị can bản kết luận điều tra. Điều này giúp bị can có thể nắm được việc CQĐT đã đưa ra những chứng cứ, những căn cứ gì trong kết luận điều tra để có thể chuẩn bị những lý lẽ lập luận, tài liệu đồ vật để thực hiện quyền bào chữa.
Việc nhận được các quyết định tố tụng giúp bị can nắm được tình hình giải quyết vụ án cũng như tình trạng pháp lý của mình. Từ đó bị can có thể chủ động TGTT và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Pháp luật quy định cho bị can nhận được các quyết định tố tụng đó cũng thực chất là quy định cho bị can một quyền bổ trợ để thực hiện quyền bào chữa của mình.
+ Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Các quyết định của CQTHTT, NTHTT ban hành trong các giai đoạn tố tụng có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của bị can, thì bị can có quyền khiếu nại đối với các quyết định đó.
Trình tự thủ tục tiến hành khiếu nại và người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với hành vi, quyết định của các CQTHTT, NTHTT được pháp luật quy định rõ ràng tại chương XXXV của BLTTHS 2003.
Quyền khiếu nại của bị can là sự bảo đảm của pháp luật để bị can có thể bảo vệ quyền lợi của mình và cũng là căn cứ để đánh giá sự tuân thủ đúng pháp luật của các CQTHTT, NTHTT.
2.1.2. Nghĩa vụ của bị can
Bị can chỉ có nghĩa vụ “phải có mặt theo giấy triệu tập của CQĐT, VKS. Trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì bị truy nã” (khoản 3, Điều 49 BLTTHS 2003).
Bị can đang tại ngoại được CQĐT, VKS triệu tập bằng giấy triệu tập bị can. Theo quy định tại Điều 129 BLTTHS thì khi triệu tập bị can, CQTHTT phải gửi giấy triệu tập trong đó ghi rõ họ tên, chỗ ở của bị can; thời gian địa điểm có mặt, gặp ai và trách nhiệm của người được triệu tập về việc vắng mặt không có lý do chính đáng. Giấy triệu tập bị can được gửi cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can cư trú hoặc cho cơ quan, tổ chức nơi bị can làm việc. Khi nhận giấy triệu tập, bị can phải ký nhận, có ghi rõ ngày, giờ nhận. Người chuyển giấy triệu tập phải chuyển phần giấy triệu tập có ký nhận của bị can cho cơ quan, người đã triệu tập bị can; nếu bị can không ký nhận thì phải lập biên bản về việc đó và gửi cho cơ quan triệu tập bị can; nếu bị can vắng mặt thì có thể giao giấy triệu tập cho một người đã thành niên trong gia đình để ký xác nhận và chuyển cho bị can. Bị can đang bị tạm giam được triệu tập thông qua Ban giám thị trại tạm giam.
Bị can phải có mặt theo giấy triệu tập. Trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc có biểu hiện trốn tránh thì CQĐT có thể ra quyết định áp giải. Quyết định áp giải bị can phải ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định, họ tên chức vụ của người ra quyết định, họ tên, ngày tháng năm sinh, nơi cư trú của bị can, thời gian và địa điểm mà bị can phải có mặt. Tuy nhiên không được áp giải bị can vào ban đêm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can. Trong trường hợp bị can bỏ trốn khỏi nơi cư trú sẽ bị truy nã.
2.2. Những quy định của luật TTHS về địa vị pháp lý của bị cáo trong tố tụng hình sự
2.2.1. Quyền của bị cáo
Với một tư cách tố tụng khác bị can, bị cáo là người đã bị TA quyết định đưa ra xét xử, bị cáo phải tham gia vào giai đoạn tố tụng mới là xét xử, do vậy quyền và nghĩa vụ của họ có nhiều thay đổi. Theo quy định tại khoản 2, Điều 50 BLTTHS 2003 thì bị cáo có quyền:
+ Được nhận các quyết định, văn bản tố tụng
Bị cáo có quyền được nhận các quyết định tố tụng do CQTHTT, NTHTT ban hành. Trong đó quan trọng nhất là quyết định đưa vụ án xét xử. Dựa vào nội dung của quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị cáo biết được tội danh họ bị đưa ra xét xử, thời gian, địa điểm mở phiên tòa,… Trên cơ sở đó, họ mới có thể thực hiện được các quyền của mình. Trong quyết định đưa vụ án ra xét xử phải ghi rõ họ tên, ngày tháng năm sinh, nơi sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của bị cáo. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho bị cáo chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa. Nếu không được bảo đảm quyền này, bị cáo có quyền yêu cầu hoãn phiên tòa. Trong thời hạn tối đa là 15 ngày trong trường hợp bình thường, 30 ngày nếu có lý do chính đáng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì TA phải mở phiên tòa. Trong thời gian này nếu người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố đối với vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại hoặc VKS rút toàn bộ quyết định truy tố hoặc có các căn cứ khác theo quy định của pháp luật thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ vụ án. Quyết định này phải được giao cho bị cáo để họ biết vụ án đã được đình chỉ, được trả tự do nếu họ đang bị tạm giam và được khôi phục các quyền lợi hợp pháp khác.
Trong giai đoạn từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi mở phiên tòa sơ thẩm, nếu xét thấy có căn cứ theo quy định của pháp luật thì TA có thể ra quyết định áp dụng thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn. Các quyết định này cũng cần phải được giao cho bị cáo.
Kết quả xét xử được thể hiện trong bản án, xác định bị cáo có phạm tội hay không, phạm tội gì, căn cứ pháp lý, hình phạt và các biện pháp tư pháp được áp dụng đối với bị cáo. Bản án phải được giao cho bị cáo trong vòng 10 ngày kể từ ngày tuyên án để bị cáo có điều kiện biết rõ hơn nội dung của bản án hoặc quyết định của TA, để họ có thể kháng cáo để bảo vệ và quyền lợi của mình.
Bị cáo cũng có quyền nhận được các quyết định tố tụng khác theo quy định của pháp luật. Các quyết định này được giao đến bị cáo dưới nhiều hình thức khác nhau tuy nhiên phải bảo đảm được bị cáo phải nhận được.
+ Được tham gia phiên tòa
Tại phiên tòa, bị cáo bình đẳng với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác trong việc đưa chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ tại phiên tòa. Vì vậy, việc bị cáo có quyền tham gia phiên tòa sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc bị cáo thực hiện quyền bào chữa và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án phải bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án của bị cáo và chỉ có thể xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp nhất định, những trường hợp khác phải hoãn phiên tòa. Trường hợp nhất định là khi bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có hiệu quả, bị cáo ở nước ngoài và không thể triệu tập được đến phiên tòa, hoặc nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và bị cáo đã được giao quyết định triệu tập một cách hợp lệ.
+ Được giải thích về quyền và nghĩa vụ
Chủ tọa phiên tòa phải giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị cáo trong thủ tục bắt đầu phiên tòa, nhờ đó bị cáo có thể nắm được quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia phiên tòa. Đối với các bị cáo lần đầu tiên tham gia phiên tòa xét xử thì việc được giải thích về quyền và nghĩa vụ của mình tại phiên tòa sẽ làm ổn định trạng thái tâm lý cho bị cáo, từ đó có thể hợp tác với NTHTT trong phiên tòa một cách chân thực và cởi mở hơn.
+ Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của pháp luật.
Bị cáo là đối tượng bị đưa ra xét xử, là đối tượng buộc tội trong vụ án hình sự, việc xét xử như thế nào ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của bị cáo, vì vậy bị cáo có quyền yêu cầu thay đổi NTHTT, người phiên dịch, người giám định khi có căn cứ rõ ràng để cho rằng những người này có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Bị cáo có thể thực hiện quyền này trước hoặc tại phiên tòa xét xử trước khi Hội đồng xét xử xét hỏi. Chánh án Tòa án Hội đồng xét xử phải xem xét và giải quyết yêu cầu của bị cáo, khi cần thiết phải hoãn phiên tòa.
+ Đưa ra đồ vật, tài liệu, yêu cầu
Bị cáo cũng có quyền đưa ra các đồ vật, tài liệu để chứng minh cho mình vô tội và đưa ra các yêu cầu tại phiên tòa.
Bị cáo cũng có quyền nêu ra những yêu cầu của mình trước HĐXX. Và HĐXX có trách nhiệm xem xét giải quyết các yêu cầu đó theo đúng quy định của pháp luật để không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bị cáo.
+ Tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa
Về cơ bản, cách thức thực hiện quyền bào chữa của bị cáo cũng giống cách thức quyền bào chữa của bị can. Tuy nhiên, quyền được nhờ NBC ở giai đoạn xét xử được quy định chặt chẽ và bảo đảm thực hiện hơn ở chỗ, tại các buổi hỏi cung bị can, NBC có quyền được có mặt để tham gia bảo vệ quyền lợi cho bị can. Khi đó NBC có thực hiện quyền đó hay không là tùy thuộc vào họ và yêu cầu của bị can. Nhưng tại phiên tòa việc tham gia của NBC là nghĩa vụ bắt buộc. Nhưng nếu vắng mặt người bào chữa TA vẫn tiến hành mở phiên tòa xét xử. Những trường hợp bắt buộc phải có NBC (bị cáo bị đưa ra xét xử với khung hình phạt cao nhất là tử hình, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần) thì nếu NBC không có mặt tại phiên tòa thì phải hoãn phiên tòa.
Việc thực hiện tối ưu quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử có ảnh hưởng lớn đến kết quả giải quyết vụ án của HĐXX bởi việc bị cáo thực hiện quyền bào chữa trước HĐXX để chứng minh mình vô tội hay gỡ tội theo hướng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có hiệu quả hơn nhiều so với việc bị can thực hiện quyền bào chữa trước CQĐT hay VKS.
+ Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa
Khi KSV trình bày lời buộc tội với những lý lẽ lập luận và căn cứ của mình thì bị cáo cũng có quyền trình bày những ý kiến quan điểm của mình về vấn đề mà KSV hoặc Thẩm phán đưa ra. Bị cáo cũng có quyền tranh luận với KSV. Sau khi KSV đọc bản cáo trạng, bị cáo sẽ trình bày lời bào chữa của mình, bị cáo có thể tự trình bày lời bào chữa hoặc nhờ NBC trình bày những luận điểm bào chữa cho mình. Ngay cả khi có NBC thì bị cáo vẫn có quyền bổ sung ý kiến để bào chữa cho mình, BLTTHS 2003 quy định cho bị cáo và NBC cho bị cáo có quyền tranh luận nhiều lần tại phiên tòa chứ không phải chỉ một lần.
+ Nói lời sau cùng trước khi nghị án
Sau khi Hội đồng xét xử kết thúc xét hỏi và tranh luận, bị cáo được phát biểu, nói lên những lời nói chân thành, những suy nghĩ, những lời hối hận hay xin lỗi về những việc mình đã làm trước khi nghị án. Lời nói sau cùng của bị cáo sẽ phản ánh thái độ của bị cáo trước toàn bộ sự việc đã xảy ra. Những thái độ của bị cáo lúc này có ảnh hưởng không nhỏ đến việc giải quyết vụ án.
Khi bị cáo nói lời sau cùng, HĐXX không được đặt câu hỏi cho bị cáo, cũng không được hạn chế thời gian nói lời sau cùng của bị cáo tuy nhiên chủ tọa phiên tòa có quyền yêu cầu bị cáo không được nói những gì không liên quan đến vụ án. Trong nhiều trường hợp đến phút cuối, nhiều bị cáo đưa ra những tình tiết mới quan trọng đối với vụ án thì HĐXX phải quyết định trở lại việc xét hỏi để bảo đảm quyền lợi cho bị cáo.
Khi xét xử công khai một vụ án, thì những lời nói sau cùng của bị cáo chính là một cách thức tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật cho người dân rất hiệu quả.
+ Kháng cáo bản án, quyết định của tòa án
Kháng cáo là quyền chống lại bản án và quyết định của Tòa án, yêu cầu được xét xử lại. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án và các quyết định đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Bị cáo có thể tự mình thực hiện quyền kháng cáo hoặc người đại diện hợp pháp cho bị cáo trong trường hợp bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đối với trường hợp bị cáo vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết hoặc giao cho bị cáo.
Kháng cáo được coi là hợp lệ nếu kháng cáo trong thời hạn mà pháp luật cho phép, chủ thể kháng cáo phải là người có quyền kháng cáo. Một số trường hợp đặc biệt pháp luật quy định TA vẫn xem xét những trường hợp kháng cáo quá hạn nếu có lý do chính đáng. Bị cáo có quyền thay đổi, bổ sung, rút toàn bộ hay một phần kháng cáo của mình trước hoặc trong phiên tòa phúc thẩm. Trình tự, thủ tục kháng cáo và trách nhiệm của các chủ thể THTT bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền này được quy định từ Điều 231 đến Điều 240 của BLTTHS.
Để bị cáo có thể yên tâm thực hiện quyền kháng cáo, luật TTHS quy định, nếu chỉ có kháng cáo của bị cáo mà không có kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng nặng nào khác thì Tòa án cấp phúc thẩm không có quyền sửa án theo hướng bất lợi hơn cho bị cáo.
+ Khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
Trong pháp luật TTHS, khi CQTHTT, NTHTT có những quyết định, NTHTT có những hành vi mà bị cáo cảm thấy xâm phạm đến quyền lợi của mình, hay vi phạm pháp luật thì họ đều có quyền khiếu nại đối với những hành vi, quyết định đó. BLTTHS 2003 đã đánh một chương quy định về việc khiếu nại, tố cáo trong TTHS (chương XXXV) và hướng dẫn chi tiết thực hiện.
Bị cáo có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của CQTHTT, NTHTT trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có quyết định hoặc hành vi tố tụng mà bị cáo cho rằng có sự vi phạm pháp luật. Tùy từng đối tượng bị khiếu nại mà pháp luật quy định người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại của bị cáo là khác nhau. Phải lưu ý rằng bị cáo chỉ có quyền khiếu nại những quyết định của CQTHTT, NTHTT mà những quyết định đó không phải là đối tượng của kháng cáo.
2.2.2. Nghĩa vụ của bị cáo
Bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập của TA. Trong giai đoạn xét xử, TA triệu tập bị cáo bằng giấy triệu tập khi cần có mặt của bị cáo. Giấy triệu tập bị cáo chỉ rõ đích danh bị cáo và thời gian bị cáo phải có mặt. Một số trường hợp bị cáo vắng mặt vì những lý do khách quan như do sức khỏe hoặc do bị cáo không nhận được giấy triệu tập của TA thì việc bị cáo vắng mặt được TA chấp thuận. Nhưng nếu bị cáo vắng mặt mà không có lý do chính đáng thì sẽ bị dẫn giải. Trong trường hợp bị cáo cố tình bỏ trốn thì bị truy nã theo quy định của pháp luật.
3. Đề xuất hoàn thiện các quy định này
Trên cơ sở một số nội dung mang tính chất định hướng của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 mà Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 đã đề ra là: “… Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ vị trí quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo công khai, dân chủ, nghiêm minh…”; căn cứ vào những vướng mắc được rút ra từ thực tiễn áp dụng BLTTHS. Sau đây là đề xuất hoàn thiện một số quy định của luật Tố tụng Hình sự về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự như sau:
Do pháp luật quy định chỉ mới khái quát rằng “bị can là người đã bị khởi tố về hình sự” gây khó khăn cho việc xác định thời điểm chuyển hóa tư cách bị can thành bị cáo, nên cần có hướng dẫn chi tiết cho quy định này trong các văn bản dưới luật hoặc sửa đổi lại khoản 1 Điều 49 theo hướng quy định rõ thời điểm xác định tư cách bị can.
Điều 49 và Điều 50 BLTTHS đều quy định bị can, bị cáo có quyền: “Được giải thích về quyền và nghĩa vụ”. Để có tính khả thi cao hơn nên bổ sung vào quyền này một đoạn như sau: “Được giải thích về quyền và nghĩa vụ. Vi phạm về quyền này là vi phạm pháp luật nghiêm trọng”.
Theo quy định của Điều 49 và Điều 50 thì bị can, bị cáo “Có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu”. Việc quy định quyền này chưa phản ánh hết vị trí trung tâm của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự và chưa thực sự phản ánh đầy đủ việc bảo đảm quyền tự bào chữa của bị can, bị cáo. Vì vậy nên sửa đổi, bổ sung quyền này thành bị can, bị cáo “có quyền đưa ra chứng cứ, yêu cầu”.
Điều 49, Điều 50 BLTTHS đều quy định bị can, bị cáo có quyền “tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”. Theo quy định của pháp luật thì bị can, bị cáo là chủ thể có quyền bào chữa. Để thực hiện tốt quyền trên, sẽ là hợp lý hơn khi bổ sung vào Điều 49, Điều 50 quyền mới như sau: Bị can, bị cáo “được xem hồ sơ, được sao chép, được ghi chép tài liệu có trong hồ sơ liên quan tới việc bào chữa sau khi có kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật”. Đồng thời, có cơ chế quy định “Bị can, bị cáo có hành vi vi phạm việc quản lý, bảo vệ, lưu trữ hồ sơ thì sẽ đương nhiên bị mất quyền này tại bất cứ thời điểm nào”.
Để đảm bảo tính khả thi quyền này của bị cáo thì nên bổ sung một quyền mới vào Điều 50 BLTTHS là: “Bị cáo có quyền sử dụng những gì ghi chép được trình ra trước Tòa án để bảo vệ mình”.
Nên quy định trực tiếp bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có người đại diện hợp pháp vào Điều 49 và Điều 50. Theo đó, bổ sung vào Điều 49 một khoản mới (khoản 4) như sau: “4. Bị can là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có người đại diện hợp pháp theo pháp luật. Người đại diện hợp pháp của bị can có quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật này”.
Bổ sung vào Điều 50 một khoản mới (khoản 4) như sau: “4. Bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có người đại diện hợp pháp theo pháp luật. Người đại diện hợp pháp của bị cáo có quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật này”.
Ngoài ra, để đảm bảo và mở rộng quyền nhờ người khác bào chữa của bị can, bị cáo thì cũng cần phải sửa đổi, bổ sung Điều 56, 57 BLTTHS về vấn đề này. Cụ thể sửa đổi Điều 56 về người bào chữa sẽ là: “Người có kiến thức pháp luật được bị can, bị cáo mời và cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận bào chữa thì được tham gia bào chữa”. Sửa đổi Điều 57 về việc lựa chọn người bào chữa là: “Người bào chữa do bị can, bị cáo hoặc đại diện hợp pháp của họ và gia đình họ lựa chọn”.
4. Kết luận
Trong quá trình thực hiện các quy định của BLTTHS 2003 về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo có rất nhiều quyền của bị can, bị cáo được bảo đảm thực hiện. Tuy nhiên do điều kiện kinh tế xã hội có nhiều đặc thù và nhiều nguyên nhân khác nhau nên một số quyền của bị can, bị cáo còn chưa được bảo đảm. Do đó cần có những thay đổi bổ sung trong quy định của pháp luật và những chính sách khác của Đảng và Nhà nước để quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo được bảo đảm thực hiện trên thực tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những quy định của luật TTHS về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.doc