MỤC LỤCPhần một: Dẫn luận. Trang
I/ Tính cấp thiết của đề tài . 2
II/ Mục tiêu của đề tài 3
III/ Nhiệm vụ của đề tài . 3
IV/ Phương pháp nghiên cứu . 4
V/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: . 4
Phần hai: Nội dung
Chương I:Tìm hiểu tổng quan về người Cơ Ho và truyền thống văn hóa của họ. . 5
1.Các nhóm . 5
2.Kinh tế . 6
3. Xã hội . 7
4. Sinh hoạt . 8
5. Tín ngưỡng 9
6. Văn học nghệ thuật 10
7. Lễ hội . 10
Chương II: sự thay đổi về truyền thống văn hóa hiện nay của người Cơ Ho trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế, xã hội, sinh hoạt, tín ngưỡng, văn học nghệ thuật và lễ hội. 11
1.Kinh tế . 13
2. Xã hội . 14
3. Sinh hoạt . 15
4. Tín ngưỡng . 16
5. Văn học nghệ thuật 16
6. Lễ hội . 17
Chương III: Các giải pháp, kiến nghị để truyền thống văn hóa các dân tộc thiểu số được bảo tồn và phát triển và nhất là người Cơ Ho ở Tây Nguyên. 19
Phần: Kết luận. . 21
Tài liệu tham khảo. 23
ĐỀ TÀI: Những thay đổi trong truyền thống văn hóa của người Cơ Ho trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phần một: Dẫn luận
I/ Tính cấp thiết của đề tài:
- Lý do tôi chọn đề tài này cũng vì nhưng mục đích và tính cấp thiết của nó. Chúng tôi nhằm tìm ra những cái mới, cái thay đổi, sự thay đổi diễn ra như thế nào? Những sự đổi thay đó có những điều gì cần định hướng cho xã hội cũng như dân tộc Cơ Ho nói riêng và từ đó đưa ra những giải pháp cấp thiết nhằm phục vụ cho việc đưa ra những chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với điều kiện trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đối vùng đồng bào dân tộc nói riêng và cả nước nói chung.
- Những đổi thay trong văn hóa truyền thống của người Cơ Ho so với văn hóa hiện nay, những nguyên nhân nào làm cho có sự đổi thay như vậy?, và từ những đổi thay đó thì có ảnh hưởng gì đến sự tồn vong của một dân tộc như người Cơ Ho (mặt tích cực và mặt tiêu cực). Trong thời kỳ hiên nay sự thay đổi này không chỉ có ở người Cơ Ho mà là diễn ra trong toàn xã hội không chỉ trong một tộc người hay chỉ đơn thuần một dân tộc, nhưng những thay đổi đó có đem lại lợi ích cho xã hội đó hay không? Hay chỉ phục vụ cho một dân tộc, có phù hợp với quy luật phát triển của xã hội không? Dưới áp lực của xã hội hiện nay họ còn giữ được bản sắc truyền thống của mình như thế nào?.
- Chính vì những lý do đó tôi đã chọn đề tài: : “Những thay đổi trong truyền thống văn hóa của người Cơ Ho trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” để nghiên cứu.
II/ Mục tiêu của đề tài:
- Mục tiêu của chúng tôi là nhăm cung cấp thông tin để từ đó có một cái nhìn khách quan hơn về vấn đề này, từ đó có những chính sách phù hợp để phát triển văn hóa mà vẫn giữ được văn hóa truyên thống của mình.
- Có thể tìm ra nguyên nhân của sự thay đổi, tìm ra mặt tích cực và mặt tiêu cực của sự thay đổi đó. Từ đó đề xuất một số kiến nghị cho các cơ quan chức năng, ban ngành liên quan để tham khảo.
III/ Nhiệm vụ của đề tài:
Để hoàn thành mục tiêu đã đặt ra nên chúng tôi đưa ra một số nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu về dân tộc Cơ Ho, so sánh sự thay đổi giữa văn hóa truyền thống và sự tiếp biến văn hóa hiện nay của dân tộc này và sự thay đổi đó đang diễn ra như thế nào?.
- Tìm hiểu sự thay đổi ở các lĩnh vực: Hoạt động sản xuất, quan hệ xã hội, hôn nhân gia đình, nhà cửa, trang phục, đời sống tinh thần (lễ hội, sinh hoạt tín ngưỡng, văn học nghệ thuật), tệ nạn xã hội, lối sống giới trẻ.
- Tìm hiểu về người Cơ Ho, thực trạng, nguyên nhân của sự đổi thay.
- Từ đó đề xuất các giải pháp cho các cơ quan ban ngành tham khảo và đưa ra những định hướng, chính sách của Đảng và Nhà nước tham khảo, để có những hành động cụ thể đối với vùng đồng bào dân tộc. Việc bảo tồn,gìn giữ các sản phẩm văn hóa truyền thống của các dân tộc, định hướng cho họ có những tiếp thu văn hóa có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại thời kỳ đổi mới.
IV/ Phương pháp nghiên cứu:
Ở đây chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: Khảo sát, phân tích, tổng hợp, so sánh.
23 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3903 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những thay đổi trong truyền thống văn hóa của người Cơ Ho trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Phần một: Dẫn luận. Trang
I/ Tính cấp thiết của đề tài. 2
II/ Mục tiêu của đề tài. 3
III/ Nhiệm vụ của đề tài. 3
IV/ Phương pháp nghiên cứu. 4
V/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 4
Phần hai: Nội dung
Chương I:Tìm hiểu tổng quan về người Cơ Ho và truyền thống văn hóa của họ. 5
1.Các nhóm. 5
2.Kinh tế. 6
3. Xã hội. 7
4. Sinh hoạt. 8
5. Tín ngưỡng. 9
6. Văn học nghệ thuật. 10
7. Lễ hội. 10
Chương II: sự thay đổi về truyền thống văn hóa hiện nay của người Cơ Ho trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế, xã hội, sinh hoạt, tín ngưỡng, văn học nghệ thuật và lễ hội. 11
1.Kinh tế. 13
2. Xã hội. 14
3. Sinh hoạt. 15
4. Tín ngưỡng. 16
5. Văn học nghệ thuật. 16
6. Lễ hội. 17
Chương III: Các giải pháp, kiến nghị để truyền thống văn hóa các dân tộc thiểu số được bảo tồn và phát triển và nhất là người Cơ Ho ở Tây Nguyên. 19
Phần: Kết luận. 21
Tài liệu tham khảo. 23
ĐỀ TÀI: Những thay đổi trong truyền thống văn hóa của người Cơ Ho trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phần một: Dẫn luận
I/ Tính cấp thiết của đề tài:
- Lý do tôi chọn đề tài này cũng vì nhưng mục đích và tính cấp thiết của nó. Chúng tôi nhằm tìm ra những cái mới, cái thay đổi, sự thay đổi diễn ra như thế nào? Những sự đổi thay đó có những điều gì cần định hướng cho xã hội cũng như dân tộc Cơ Ho nói riêng và từ đó đưa ra những giải pháp cấp thiết nhằm phục vụ cho việc đưa ra những chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với điều kiện trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đối vùng đồng bào dân tộc nói riêng và cả nước nói chung.
- Những đổi thay trong văn hóa truyền thống của người Cơ Ho so với văn hóa hiện nay, những nguyên nhân nào làm cho có sự đổi thay như vậy?, và từ những đổi thay đó thì có ảnh hưởng gì đến sự tồn vong của một dân tộc như người Cơ Ho (mặt tích cực và mặt tiêu cực). Trong thời kỳ hiên nay sự thay đổi này không chỉ có ở người Cơ Ho mà là diễn ra trong toàn xã hội không chỉ trong một tộc người hay chỉ đơn thuần một dân tộc, nhưng những thay đổi đó có đem lại lợi ích cho xã hội đó hay không? Hay chỉ phục vụ cho một dân tộc, có phù hợp với quy luật phát triển của xã hội không? Dưới áp lực của xã hội hiện nay họ còn giữ được bản sắc truyền thống của mình như thế nào?.
- Chính vì những lý do đó tôi đã chọn đề tài: : “Những thay đổi trong truyền thống văn hóa của người Cơ Ho trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” để nghiên cứu.
II/ Mục tiêu của đề tài:
- Mục tiêu của chúng tôi là nhăm cung cấp thông tin để từ đó có một cái nhìn khách quan hơn về vấn đề này, từ đó có những chính sách phù hợp để phát triển văn hóa mà vẫn giữ được văn hóa truyên thống của mình.
- Có thể tìm ra nguyên nhân của sự thay đổi, tìm ra mặt tích cực và mặt tiêu cực của sự thay đổi đó. Từ đó đề xuất một số kiến nghị cho các cơ quan chức năng, ban ngành liên quan để tham khảo.
III/ Nhiệm vụ của đề tài:
Để hoàn thành mục tiêu đã đặt ra nên chúng tôi đưa ra một số nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu về dân tộc Cơ Ho, so sánh sự thay đổi giữa văn hóa truyền thống và sự tiếp biến văn hóa hiện nay của dân tộc này và sự thay đổi đó đang diễn ra như thế nào?.
- Tìm hiểu sự thay đổi ở các lĩnh vực: Hoạt động sản xuất, quan hệ xã hội, hôn nhân gia đình, nhà cửa, trang phục, đời sống tinh thần (lễ hội, sinh hoạt tín ngưỡng, văn học nghệ thuật), tệ nạn xã hội, lối sống giới trẻ.
- Tìm hiểu về người Cơ Ho, thực trạng, nguyên nhân của sự đổi thay.
- Từ đó đề xuất các giải pháp cho các cơ quan ban ngành tham khảo và đưa ra những định hướng, chính sách của Đảng và Nhà nước tham khảo, để có những hành động cụ thể đối với vùng đồng bào dân tộc. Việc bảo tồn,gìn giữ các sản phẩm văn hóa truyền thống của các dân tộc, định hướng cho họ có những tiếp thu văn hóa có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại thời kỳ đổi mới.
IV/ Phương pháp nghiên cứu:
Ở đây chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: Khảo sát, phân tích, tổng hợp, so sánh.
V/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
1/Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng ở đây là nghiên cứu về sự thay đổi về truyền thống văn hóa so với văn hóa hiện nay của dân tộc Cơ Ho như thế nào?. Nghiên cứu về người Cơ Ho, về văn hóa của họ để so sánh xem họ đã có những sự thay đổi gì.
2/Phạm vi nghiên cứu:
+Phạm vi thời gian: Về cơ bản là từ khi người Co Ho hình thành và phát triển những truyền thống văn hóa đặc trưng cho đến hiện nay.
+Phạm vi không gian: Do những điều kiện chủ quan và khách quan, chúng tôi chỉ khảo sát người Cơ Ho trên địa bàn tại Tỉnh Lâm Đồng và là nơi tập trung người Cơ Ho đông nhất cả nước.
Phần hai: Nội dung
CHƯƠNG I: TÌM HIỂU TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI CƠ HO VÀ TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA CỦA HỌ.
Cơ Ho (hay Cờ Ho, Cơ ho) là một dân tộc Việt Nam. Theo tổng điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 1989, dân tộc Cơ Ho có trên 82.917 người, đến 1 tháng 4 năm 1999 có 128.723 người. Địa bàn cư trú chủ yếu của dân tộc này là tỉnh Lâm Đồng, bao gồm nhiều nhóm địa phương như Cơ Ho Srê, Cơ Ho Chil, Cơ Ho Nộp, Cơ Ho Lạt, Cơ Ho String và Cơ Ho Cờ Dòn.
1.Các nhóm
Cơ Ho Srê là nhóm có dân số đông nhất trong các dân tộc Cơ Ho.
Nhóm Cơ Ho Chil (ngày 1 tháng 4 năm 1989) có khoảng 18.000 người. Trước đây, họ cư trú rải rác trên vùng núi cao thuộc thượng lưu Sông Krông Knô (Bắc và Tây-Bắc cao nguyên Lang Biang). Nhưng do sống du canh, du cư, nên từ lâu, họ đã di chuyển xuống phía Nam (vùng Bắc và Đông- Bắc thành phố Đà Lạt) kế cận với địa bàn cư trú của nhóm Cơ Ho Lạt, người Chu Ru và Raglai. Hiện nay, họ cư trú trên địa bàn các huyện Đức Trọng, Lâm Hà, Lạc Dương, Đơn Dương và vùng phụ cận thành phố Đà Lạt...
Nhóm Cơ Ho Lạt cư trú tập trung ở Xã Lát và một số vùng thung lũng xung quanh thành phố Đà Lạt. Do có điều kiện tiếp xúc, giao lưu lâu dài với người Kinh, nên đời sống kinh tế nhóm này có những tiến bộ nhất định so với các nhóm Cơ Ho Dòn, Nộp, Chil...
Nhóm Cơ Ho Nộp cư trú phía Nam Di Linh, ven đường số từ Di Linh đi Phan Thiết. Do quá trình giao lưu văn hóa xã hội lâu đời với các dân tộc anh em ở Bình Thuận, nhất là người Chăm, nên người Cơ Ho Nộp còn lưu giữ một số yếu tố văn hóa của các dân tộc đó như tục ăn trầu, và trồng trầu, cau xung quanh địa điểm cư trú của mình.
Nhóm Cơ Ho Cờ Dòn cư trú ở miền núi phía Đông-Nam Di Linh, gọi là vùng Gia Bắc, kế cận với địa bàn cư trú của người Cơ Ho Nộp, tập trung đông nhất tại xã Đinh Trang Hòa, huyện Di Linh.
Nhóm Cơ Ho T'ring cư trú rải rác ở Khánh Hòa, Lâm Đồng.
2. Kinh tế
Chà gạc (yoas) là dụng cụ để chặt cây, phát rẫy của người Cơ Ho. Cán chà gạc được làm bằng một đoạn gốc tre già và phía gốc, chỗ tra lưỡi dao được uốn cong khá cầu kỳ. Người ta uốn một lúc nhiều cán chà gạc trên một chiếc cột như thấy trong ảnh.
Kinh tế của người Cơ Ho là chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, ngoài ra còn có săn bắt và hái lượm lâm thổ sản và một số nghề thủ công như rèn, đan lát, dệt.
Sản xuất nông nghiệp
Trồng trọt: tùy theo đặc điểm địa lý và xã hội của mỗi nhóm mà ngành trồng trọt ở mỗi nhóm có những nét khác nhau. Riêng đối với người Srê, phương thức canh tác chủ đạo là trồng lúa trên ruộng nước ở các thung lũng (Srê nghĩa là ruộng nước) còn những nhóm người Cơ Ho khác do cư trú ở vùng núi cao, nên phát rừng làm rẫy (mir) để trồng ngô, lúa rẫy, sắn. Họ thường phát rẫy như sau: trước tiên, đàn bà, trẻ em dùng chà gạc (yoas) chặt những cây nhỏ và dây leo nhưng không cần chặt đứt hẳn, tiếp đó, đàn ông dùng rìu (sùng) đốn những cây lớn dần từ dưới lên đỉnh dốc, những cây này ngã sẽ kéo theo cây nhỏ và dây leo. Sau khi phơi nắng độ hơn một tháng, người ta châm lửa đốt rồi dọn rẫy để gieo hạt khi mùa mưa bắt đầu (khoảng tháng tư). Những nhóm làm rẫy thường sống du cư, khi đất canh tác bạc màu lại chuyển đến nơi khác. Ngoài những cây lương thực chủ yếu, người Cơ Ho còn trồng lẫn các loại rau (bầu, bí, mướp, đậu...). Họ cũng làm vườn, trồng cây ăn quả như mít, bơ, chuối, đu đủ...
Chăn nuôi: gia súc, gia cầm như trâu, bò, lợn (heo), dê, gà, vịt... theo phương thức thả rông. Trâu, bò chỉ dùng làm sức kéo ở những vùng làm ruộng nước, còn lại chủ yếu để hiến tế trong các nghi lễ.
Các nghề khác: săn bắt thú rừng, đánh cá, hái lượm lâm thổ sản vẫn rất phổ biến. Các nghề thủ công phổ biến nhất là đan lát và rèn, riêng người Chil còn có thêm nghề dệt, ngoài ra một số nơi có nghề gốm (làm theo phương thức không có bàn xoay).
Công cụ sản xuất truyền thống: rìu (sùng); chà gạc (woát hay yoas - dùng để chặt cây, là một đoạn tre già uốn cong một đầu để tra lưỡi sắt), gậy chọc lỗ tra hạt (chrmul), riêng nhóm Chil ngoài gậy chọc lỗ tra hạt còn có thêm p'hal (dùng khi vừa chọc lỗ vừa tra hạt, có cán bằng gỗ, lưỡi sắt dài khoảng 28 cm, rộng 3-4 cm). Công cụ canh tác lúa nước của người Srê có cuốc; cày (ngal) làm bằng gỗ, trước đây lưỡi cũng bằng gỗ nhưng gần đây thay bằng sắt; bừa (Sơkam) răng gỗ và Kơr (dùng để trang đất cho bằng phẳng). Cày, bừa và kơr đều do 2 trâu kéo.
3. Xã hội
Đơn vị tổ chức xã hội thường thấy của người Cơ Ho là Bon (tương đương với làng). Đó vừa là một đơn vị tổ chức xã hội, vừa là một đơn vị kinh tế tự cấp, tự túc của dân tộc Cơ Ho. Bon là làng truyền thống theo kiểu một công xã nông thôn mang đậm dấu ấn của thị tộc mẫu hệ dựa trên cơ sở cư trú trong những căn nhà dài, kế cận nhau theo nhóm dòng họ. Đứng đầu bon là già làng (Kuang bon). Về quyền lợi kinh tế, già làng cũng giống như mọi thành viên khác của làng nhưng về mặt tinh thần, người này lại có uy tín gần như tuyệt đối so với các thành viên khác trong làng. Già làng là hiện thân của truyền thống và là một yếu tố tinh thần đưa đến sự thống nhất của cộng đồng (bon) trong xã hội truyền thống của người Cơ Ho. Trong xã hội truyền thống thì chủ làng, cùng với chủ rừng (Tombri), thầy cúng và các gia trưởng hợp thành tầng lớp trên của người Cơ Ho. Sự khác biệt giữa các tầng lớp trong xã hội truyền thống chủ yếu dựa vào sự khác biệt chút ít về những tư liệu sinh hoạt như chiêng, ché, nồi đồng, chứ không phải là các tư liệu sản xuất chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp. Chưa có sự bóc lột sức lao động của những thành viên khác trong cộng đồng làng, cộng đồng dân tộc... Tuy nhiên trong xã hội đó, đã xuất hiện sự phân tầng xã hội: kẻ giàu, người nghèo, con ở hoặc tôi tớ trong gia đình. Ở những vùng tập trung dân cư với mật độ cao, hình thành một tổ chức liên minh giữa những bon với nhau trên cơ sở tự nguyện, gọi là M'đrông.
Trang phục truyền thống của phụ nữ Cơ Ho là chiếc váy quấn dài, màu xanh chàm có dệt đan cài những đường sọc ngang bằng sợi khác màu. Khi trời lạnh, họ choàng lên người một tấm đắp mỏng. Cô gái Cơ Ho thường tập dệt vải từ khi còn nhỏ để đến tuổi trưởng thành thì đem sản phẩm dệt của mình làm đồ sính lễ sang nhà trai.
Trong xã hội truyền thống của người Cơ Ho đã tồn tại hai hình thức gia đình theo chế độ mẫu hệ: gia đình lớn và gia đình nhỏ. Người phụ nữ đúng vai trò chủ động trong hôn nhân, sau hôn lễ, người đàn ông về nhà vợ ở (nếu gặp trường hợp gia đình hiếm muộn thì người phụ nữ vẫn có thể ở nhà chồng), con cái tính dòng họ theo mẹ, con gái là người thừa kế. Tập tục cổ truyền của người Cơ Ho tuyệt đối cấm kỵ việc kết nôn giữa những người có cùng một dòng họ, nhất là ở cùng một địa phương. Con chú, con bác, con dì, không được lấy nhau. Trái lại, con cô, con cậu từ hai phía có thể có quan hệ hôn nhân với nhau theo luật tục. Sau khi vợ chết, người chồng có thể kết hôn với người em gái của vợ. Và ngược lại, nếu chồng chết, người vợ góa có thể kết hôn với người em trai của chồng nếu đôi bên ưng thuận. Hôn nhân của người Cơ Ho dựa trên cơ sở sự ưng thuận giữa hai bên trai gái, cha mẹ không quyết định. Theo xu thế phát triển quá trình giải thể các gia đình lớn chuyển dần sang gia đình nhỏ đang diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là ở những vùng kinh tế phát triển hơn hoặc ở gần đường giao thông lớn, đô thị. Độ tuổi kết hôn của người Cơ Ho thường là 16 - 17 tuổi đối với nữ và 18 - 20 tuổi đối với nam, bình quân một phụ nữ sinh 5 - 6 con nên tỷ lệ sinh cao.
4.Sinh hoạt
Ẩm thực: Người Cơ Ho thường ăn ba bữa, theo tập quán ăn bốc, lương thực chính là gạo ăn với thực phẩm như cá, thịt, rau. Trước kia, họ nấu ăn bằng ống nứa, sau này mới dùng các dụng cụ nấu ăn bằng đất nung, đồng, gang. Các món ăn thường chế biến khô để thuận tiện cho ăn bốc. Thực phẩm kho hoặc luộc, canh được chế biến từ rau trộn với tấm và cho thêm ớt, muối. Thức uống là nước suối, dụng cụ trữ nước uống là những quả bầu khô hoặc ghè. Người Cơ Ho hút các loại cây thuốc phơi khô cuốn lại, rượu cần (tơrnơm) làm từ gạo, ngô, sắn...với men chế biến từ cây rừng rất được ưa chuộng trong các bữa tiệc, lễ hội...
Trang phục: trang phục của đàn ông là khố bằng vải bản rộng, dài khoảng 1,5 - 2 m, có hoa văn theo dải dọc. Phụ nữ dùng váy bằng một tấm vải quấn quanh người rồi giắt cạp.
Vay nền đen, có diềm hoa văn trắng. Nếu thời tiết lạnh, họ khoác thêm chăn (ùi) ra ngoài. Phụ nữ dùng vòng cổ, vòng tay, cườm và khuyên căng tai làm đồ trang sức.
Nhà ở: người Cơ Ho ở nhà sàn dài bằng gỗ, hai mái uốn cong, lợp bằng cỏ tranh, có liếp nghiêng ra phía ngoài và cũng lợp tranh để chống lạnh. Trước cửa ra vào là cầu thang lên xuống, vách đối diện với cửa để ché, giỏ đựng đồ đạc và bàn thờ. Mọi sinh hoạt chủ yếu (ăn uống, nghỉ ngơi, tiếp khách) đều diễn ra quanh bếp lửa trong nhà.
5. Tín ngưỡng
Người Cơ Ho tin rằng mọi mặt của đời sống đều do các thế lực siêu nhiên quyết định. Tín ngưỡng về siêu nhiên trong quan niệm của người Cơ Ho có tính chất đa thần...Thần linh (yang) là thế lực phù hộ cho con người vị và ma quỷ (chà) lại gây tai họa. Vị thần tối cao là Nđu, rồi có thần Mặt Trời, Mặt Trăng, thần Núi, thần Sông, thần Đất, thần Lúa...Họ cúng tế trong những dịp thực hiện hoặc xảy ra những sự kiện quan trọng (hiếu hỷ, những giai đoạn trong sản xuất, ốm đau bệnh tật...). Liên quan đến trồng lúa, người Cơ Ho thực hiện các lễ nghi ở từng công đoạn như gieo lúa, khi lúa trổ bông, đạp lúa và cho lúa vào kho. Trong các nghi lễ cúng tế, tuỳ tầm quan trọng của buổi lễ họ dùng trâu, lợn, dê, hoặc gà để tế sống cùng với rượu. Bàn thờ (nao) thường đặt ở chỗ trang trọng và tôn nghiêm nhất trong nhà. Bàn thờ ngày trước làm bằng ván gỗ có chạm trổ nhưng nay hầu như không còn nữa, giờ đây người ta nhận ra chỗ thờ cúng nhờ những nhánh cây, bông lúa vắt trên mái đối diện với cửa ra vào.
Đến nay các lễ nghi phong tục cổ truyền của người Cơ Ho vẫn còn được bảo lưu. Nhưng bên cạnh đó, mấy chục năm lại đây một bộ phận khá lớn người Cơ Ho đã tin theo những tôn giáo du nhập từ bên ngoài như Thiên chúa giáo, nhất là Tin lành. Kinh thánh và các tài liệu truyền giáo khác được dịch ra tiếng Cơ Ho và các mục sư, người truyền đạo đã sử dụng ngôn ngữ đó trong việc truyền giảng đạo.
6. Văn học, nghệ thuật
Chữ viết: Vào đầu thế kỷ 20, chữ Cơ Ho được xây dựng bằng hệ thống chữ Latin nhưng mặc dù đã được cải tiến nhiều lần, được dùng để dạy trong một số trường học, nhưng loại chữ này chưa phổ cập.
Văn học nghệ thuật: Vốn văn học nghệ thuật dân gian Cơ Ho khá phong phú. Thơ ca đậm chất trữ tình và giàu nhạc tính. Một số vũ khúc cổ truyền thường được diễn trong các lễ hội. Các nhạc cụ truyền thống như bộ cồng chiêng gồm 6 chiếc, kèn ống bầu (Kơmbuat), đàn ống tre (Kơrla), trống (Sơgơr)... có khả năng hòa âm với lời ca hoặc độc tấu. Gần đây, ông Nguyễn Huy Trọng, một linh mục ở giáo xứ Kala, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng đã sưu tập được khoảng 400 chuyện cổ tích, nhiều câu thơ (tam pla) và 30 trường ca, sử thi của người Cơ Ho trong đó có trường ca Gơ Plom Kòn Yồi dài hơn 6.000 câu. Những kết quả sưu tập này bước đầu đã được gửi cho cơ quan chuyên môn.
7. Lễ hội
Hàng năm, người Cơ Ho tổ chức ăn Tết khi mùa màng đã thu hoạch xong (theo thời vụ hiện nay thường vào tháng 12 dương lịch). Tết này có ý nghĩa đón lúa về nhà (Nhô Lir Bông hay Nhô Lirvong ). Theo tập quán, các gia đình thay phiên nhau mỗi năm hiến một con trâu để cả bon tổ chức lễ đâm trâu (nho sa rơ pu) trong dịp này. Lễ tổ chức ngoài trời trước nhà chủ có vật hiến tế, nhà già làng hay trên mảnh đất rộng, bằng phẳng, cao ráo trong làng, với cây nêu trang trí sặc sỡ. Mọi người nhảy múa theo tiếng cồng chiêng. Thịt trâu được chia cho từng gia đình, còn máu trâu bôi vào trán những người dự lễ như một sự cầu phúc. Lễ tết kéo dài 7 - 10 ngày, trong các ngày Tết, dân làng đến chung vui với từng gia đình. Trong từng gia đình, người ta cũng tổ chức hiến tế gà, bôi máu lên vựa thóc, sàn kho, cửa ra vào, cửa sổ. Sau Tết, người ta mới được ăn lúa mới và thực hiện các công việc lớn như làm nhà, chuyển làng...
CHƯƠNG II: SỰ THAY ĐỔI VỀ TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA HIỆN NAY CỦA NGƯỜI CƠ HO TRÊN TẤT CẢ CÁC LĨNH VỰC: KINH TẾ, XÃ HỘI, SINH HOẠT, TÍN NGƯỠNG, VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VÀ LỄ HỘI.
Ngày nay, các dân tộc bản địa Nam Tây Nguyên nói chung và người Cơ Ho nói riêng đang đối mặt với một thực tế khá khắc nghiệt: Nhiều dòng văn hóa từ bên ngoài xâm nhập vào cộng đồng và đang diễn ra theo hai xu thế tích cực và tiêu cực. Điều đáng nói với xu thế tiêu cực, những nét văn hóa cổ truyền có giá trị cao dần bị mai một. Điều đáng nói là trước hết, chính cộng đồng các dân tộc này ý thức được vấn đề để giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống mà ông cha mình để lại. Và kế tiếp cả cộng đồng các dân tộc cùng chung sống trên mảnh đất Nam Tây Nguyên này phải trân trọng và cùng tham gia gìn giữ những giá trị văn hóa không còn là của riêng của cộng đồng các dân tộc thiểu số bản địa tại đây. Dòng văn hóa phi vật thể của các dân tộc thiểu số bản địa ở Tây Nguyên với hai đại diện là Cơ Ho và Churu mặc dầu đã được thiết lập về không gian địa lý nhưng không “đóng băng” trong sự cô độc vĩnh viễn mà ngược lại nó còn được tiếp nhận các dòng văn hóa phi vật thể của cộng đồng người Pháp, người Kinh và các dân tộc thiểu số ở phía Bắc du nhập vào để làm nên hiện tượng “đóng băng trên biên”. Trong thời kỳ hiện nay sự biến đổi và thay đổi về mọi mặt của đời sống xã hội nó tác động đến mọi lĩnh vực: Kinh tế - văn hóa – xã hội.Văn hóa truyền thống của một tộc người chỉ là một khía cạnh nhỏ của đời sống xã hội, trong đó thay đổi về truyền thống văn hóa của người Cơ Ho là một ví dụ điển hình. Dưới áp lực của xu thế toàn cầu hóa và thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Đảng và Nhà nước là vấn đề cấp bách mà Đảng và Nhà nước đang đặt ra. Sự thay đổi có tính bước ngoặt này đòi hỏi chúng ta phải có những hướng đi cụ thể và thiết thực chứ không phải thay đổi mang tính triệt để và sâu sắc, chúng ta phải là những người mang tính chủ động nên chúng ta phải có những định hướng là chúng ta vừa thay đổi, vừa tiếp thu có chọn lọc để phù hợp với thời cuộc và phù hợp với quy luật phát triển xã hội của loài người. Chúng ta không nên áp dụng một cách máy móc, mà với cương vị là một chủ thể của một nền văn hóa thì chúng ta phải chủ động tiếp cận và tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của các dân tộc anh em và những tinh hoa văn hóa của loài người. Bên cạnh việc tiếp nhận đó thì chúng ta cung phải biết loại bỏ những hủ tục, những tàn dư văn hóa không phù hợp với thời đại, phản văn hóa và nó có thể là bước cản của sự phát triển nền văn hóa của một tộc người và của cả dân tộc Việt Nam nói chung.
Đảng ta đã đưa ra những đường lối, chính sách về văn hóa. Các Hội nghị TW đưa ra các quan niệm về văn hóa như sau: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nhiều Nghị quyết TW tiếp theo đã xác định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội và coi văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Qua nhiều lần xác định thì hiện nay Đảng ta vẫn xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
+ Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội theo Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhăm mục tiêu tất cả vì con người. Tiên tiến không chỉ về nội dung mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.
+ Đậm đà bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngạn năm dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – tổ quốc.
Nói chung thì sự thay đổi nào cũng vậy cũng phải do tính tất yếu, ở tính chủ động của tộc người chứ không thể áp đặt được. Ở dân tộc Cơ Ho cũng vậy họ có thể thay đổi rất nhiều lĩnh vực từ kinh tế - văn hóa – xã hội nhưng họ vẫn phải có bản sắc văn hóa truyền thống tạo nên đặc trưng riêng của mỗi tộc người, chủ trương phải xây dựng phát triển văn hóa thống nhất trong đa dạng. Có người đã định nghĩa văn hóa: “Cái gì còn lại sau khi tất cả mọi thứ đã mất đi thì cái đó là văn hóa”. Đó là những cái mang tính chất bền vững không thể thay đổi, truyền thống văn hóa không thể mất đi mà chỉ có thể thay đổi. Khi nói đến sự thay đổi người ta nghĩ đến có hai mặt của nó: Mặt tích cực và mặt tiêu cực. Có nhưng dân tộc do tính tự giác về tộc người và nhiều yếu tố khác tác động nên họ bị đồng hóa với một tộc người khác sống gần gũi nhau, cùng một điều kiện tự nhiên như nhau, họ bị dân tộc đông hơn lấn át, đồng hóa và dần dần họ tiếp nhận hoàn toàn văn hóa của tộc người đó và làm mất dần truyền thống văn hóa của mình và lâu dài có thể làm mất luôn tộc người (Đó là mặt tiêu cực rất dễ xảy ra trong thời kỳ hiện nay). Nhiều dân tộc cứ theo đuổi những gì đang diễn ra mà không có sự chọn lọc, không chủ động tiếp nhận nó, hoặc do tâm lý tộc người mà họ không nghĩ đến mặt tiêu cực sẽ ảnh hưởng lâu dài và rất khó lấy lại hình ảnh văn hóa truyền thống của dân tộc mình và dần bị mai một và lãng quên. Dân tộc Cơ Ho ở Việt Nam hiện nay cũng đang có những thay đổi, biến đổi đáng kể trong tất cả các lĩnh vực để phù hợp với hiện nay khi mà xu thế toàn cầu hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ, công cuộc xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đang diên ra song song. Nhưng nhìn chung thì họ vẫn giữ được những đặc trưng cơ bản nhất về văn hóa truyền thống của họ. Để hiểu rõ vấn đề này hơn thì chúng ta sẽ đi vào từng lĩnh vực cụ thể, chi tiết hơn để thấy được sự đổi thay đó đang diễn ra như thế nào?.
1.Kinh tế:
Người Cơ Ho hiện nay chủ yếu vấn là sản xuất nông nghiệp là chính. Trong nông nghiệp hiện nay thì người ta đã áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất như việc dùng máy cày, máy kéo, máy tuốt lúa, phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc xịt cỏ…săn bắt, hái lượm vẫn còn tồn tại nhưng chiếm tỷ lệ ít, một số nghề thủ công như rèn, đan lát, gốm, dệt ngày càng mai một dần người ta ưa dùng những sản phẩm trên thị trường hiện nay hơn như rổ nhựa, thau nhựa, quần áo Tây hóa, cuốc sắt, dao sắt…
Sản xuất nông nghiệp:
Trồng trọt: Do đặc điểm địa lý và xã hội khác nhau của mỗi nhóm cũng khác nhau nên cũng có sự khác nhau. Ngày nay trên khắp các đồi cao lũng thấp của vùng cây công nghiệp toàn trà và cà phê. Ví dụ như nhóm Cơ Ho Lạt ở xã Xã Lát người ta đã có trồng rau, trồng hoa và làm lúa do họ có tiếp xúc với nhiều dân tộc khác nhau đặc biệt là người Kinh. Còn những nhóm người Cơ Ho khác thì họ làm lúa rẫy, lúa nước hoàn toàn phụ thuộc vào thời tiết nên mỗi năm chỉ canh tác được một vụ, làm rẫy, làm vườn, trồng ngô, sẵn và các cây công nghiệp dài ngày như cà phê, tiêu. Do những điều kiện khác quan và chủ quan như rừng ngày một ít đi và vấp phải chính sách bảo vệ rừng của Đảng và Nhà nước nên việc phá rừng, đốt rừng làm rẫy của họ hầu như là ít đi rất nhiều, từ đó mà xu hướng du canh, du cư là rất ít và hiện giờ phần đa đồng bào đã định cư. Họ có thể vẫn rất ưa sử dụng phương pháp canh tác cổ truyền là chọc lỗ tra hạt nhưng bên cạnh đó họ lại dùng những loại giống lúa mới có năng suất cao hơn những loại giống cũ của mình. Họ làm vườn trồng cây công nghiệp dài ngày thì họ cũng biết trồng xen các loại rau, bầu, bí, mướp, đậu và thậm chí là cây ăn trái.
Chăn nuôi: Vẫn những con vật nuôi truyền thống như gà, vịt, trâu, bò, lợn, ngựa… họ dùng làm sức kéo, thịt để cải thiện bữa ăn và giết để phục vụ các nghi lễ. Chăn nuôi chỉ là chăn nuôi hộ gia đình nhỏ chưa thấy xuất hiện hình thức chăn nuôi công nghiệp.
Các ngành nghề khác: Vẫn phục vụ một số nhu cầu cho đồng bào như săn bắt thú rừng, đánh cá hái lượm. Các ngành như đan lát, rèn, gốm dần bị mai một chỉ có đan lát vẫn còn phổ biến vì họ sống ở gần rừng nên có nguyên liệu.
Công cụ sản xuất: Ngoài những công cụ sản xuất truyền thống còn khá phổ biến thì hiện nay họ cũng đã có nhiều công cụ được sản xuất từ công nghiệp, các vật dụng bằng sắt như: Dao, dựa, cuốc, cày…
2.Xã hội:
Hiện nay trong xã hội người Cơ Ho do sự di cư ồ ạt từ Bắc vào Nam, sự đa dạng của các dân tộc và các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đang ưu tiên đối với những vùng đồng bào, vùng đặc biệt khó khăn nên việc giao lưu, tiếp biến văn hóa đã diễn ra khá mạnh mẽ, người Cơ Ho họ sống hòa nhập với cộng đồng nên có những thay đổi đáng kể. Họ vẫn có những Bon (làng) truyền thống, họ sống với nhiều sự biến đổi, họ thu hẹp cộng đồng của họ, họ sống thu hẹp ở một khu vực, địa bàn nhỏ xung quanh họ là những cộng đồng tộc người khác sinh sống. Sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội người Cơ Ho đang diễn ra khá mạnh mẽ, sự tách rời gia đình lớn thành những gia đình nhỏ (gia đình hạt nhân) ở trong Bon họ chỉ xây dựng nhà truyền thống hay nhà văn hóa để tụ tập cộng đồng sinh hoạt, họ vẫn có già làng là người có uy tín nhất đối với Bon làng của họ. Sự liên kết trong xã hội vẫn được bảo đảm, có xuất hiện tính bảo thủ của một số người họ cho rằng những người cùng dân tộc họ có thể rất thân thiện với nhau, nhưng đối với người của những dân tộc khác thì họ cảm thấy có một sự ngăn cách nào đó họ không dám thổ lộ hết những tâm tư tình cảm của mình. Người Cơ Ho vẫn theo chế độ mẫu hệ. Ở những trung tâm kinh tế, gần đường giao thông, đô thị thì nhận thức, trình độ dân chí của họ đã được nâng cao. Việc hôn nhân đúng độ tuổi theo pháp luật quy định chỉ có ở những nơi tập trung đông dân cư, nơi đô thị những nơi dân chí được nâng cao và việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình cũng vậy nhưng nơi mà chính sách của Đảng và Nhà nước đến được với đồng bào còn ngược lại ở những vùng xa xôi hẻo lánh, vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn thì tỷ lệ tảo hôn và tỷ lệ sinh đẻ con cao là do tâm lý dân tộc và do lao động nông nghiệp nên cần nhiều lao động và nhận thức của người dân chưa được nâng cao, đường lối chính sách chưa đi sâu, chưa đi sát. Hiện nay việc tổ chức đám cưới của người Cơ Ho họ tổ chức gần giống với người Kinh, họ chỉ giữ những phong tục truyền thống không thể bỏ được, còn việc tổ chức họ đã làm theo ý của họ như: thuê rạp, thuê nhạc sống, mặc váy cưới của người Kinh, thuê người trang điểm cô dâu, thậm chí đồ ăn, đồ uống thuê của nhà hàng và một số người khá giả họ có thể tổ chức luôn ở nhà hàng, đám cưới cũng bị thương mại hóa như phong bao, phong bì đó là nhưng cái rất khác với văn hóa truyền thống của họ.
3.Sinh hoạt:
+ Ẩm thực: Hiện nay người Cơ Ho phần lớn họ ăn ba bữa và ăn bàng đũa như người Việt chứ không ăn bốc như trước nữa. Lương thực chính là gạo với thực phẩm là rau, thịt, cá, họ nấu bằng xoong, nồi, chảo là chính. Thức uống là nước sạch ở suối và nước dự trữ như nước mưa…một số người lớn tuổi vẫn hút các loại cây thuốc phơi khô. Hiện nay thanh niên thì hút các loại thuốc lá trên thị trường, rượu cần vẫn được ưa chuộng.
+ Trang phục: Trang phục truyền thống chỉ thấy xuất hiện ở những người lớn tuổi mặc, còn thanh niên thì mặc đồ rất hiện đại như người Việt hiện nay như mặc đồ Tây, fashion…hầu hết những trang phục truyền thống trong các dịp lễ hội vẫn xuất hiện khá động. Khi đi làm hình ảnh những người phụ nữ Kinh một trăm phần trăm mang chiếc gùi chậm rãi bước lên từng bậc tam cấp trên nương rẫy hẳn không còn là một hình ảnh hiếm, thậm chí nó còn là hình ảnh khá quen thuộc, nếu không muốn nói là quá quen thuộc.
+ Nhà ở: Người Cơ Ho hiện nay khá trọng dụng căn nhà truyền thống bằng chứng là họ làm những căn nhà rông, nhà văn hóa ở thôn, Bon mang những dáng dấp truyền thống của đồng bào. Còn những nhà dân bình thường thì họ làm có phần giống với người Việt nhưng mang phong cách riêng như nhà xây, nhà gỗ lợp mái tôn,ở các gia đình khá giả, ngôi nhà được xây dựng theo sở thích của chủ nhân (là tri thức) thường là ngôi nhà “lạ”. Cốt cách vẫn là ngôi nhà sàn nền khá cao nhưng vòm cửa cao mang dáng dấp kiến trúc roman còn vật dụng và hình thức sinh hoạt trong nhà thì khá giống với người Kinh. Nhưng có một điểm đặc biệt là họ cho dù làm nhà kiểu nào đi chăng nữa thì cấu trúc bên trong ngôi nhà vẫn được đảm bảo tính truyền thống của dân tộc Cơ Ho.
4.Tín ngưỡng:
Hiện nay các lễ nghi, phong tục cổ truyền của người Cơ Ho vẫn được bảo lưu, nhưng hiện nay đại bộ phận khá lớn người Cơ Ho đã tin theo những tôn giáo du nhập từ bên ngoài như Thiên chúa giáo và nhất là đạo Tin lành. Kinh thánh và các tài liệu truyền giáo được dịch ra tiếng Cơ Ho và các mục sư, người truyền giáo họ đã sử dụng ngôn ngữ đó cho việc truyền giảng đạo. Họ thờ chúa, có một vài gia đình thờ tổ tiên như người Việt và thờ nhiều loại thần thánh khác nữa.
5.Văn học nghệ thuật:
Chữ viết: Hiện nay chữ viết của người Cơ Ho đang được xây dựng để giảng dạy ở một số trường nhưng chưa được phổ biến lắm vì chưa xây dựng được đội ngũ giảng dạy đủ tiêu chuẩn. Người Cơ Ho hiện nay học tiếng phổ thông rất là phổ biến (Tiếng Việt).
Văn hoc nghệ thuật: Ngoài những vốn văn học nghệ thuật dân gian khá phong phú mà do tính chất chính là truyền miệng nên hiện nay rất ít người biết đến như thơ ca, điệu nhảy, sử thi, việc sử dụng những nhạc cụ dân tộc cũng rất ít người biết đến đặc biệt là giới trẻ, mà những người biết đến là những người lớn tuổi nên họ không nhớ nổi hoặc là những nghệ nhân những số đó thì cũng không phải là nhiều mà có thể đếm trên đầu ngón tay. Những người sáng tác về thơ ca dân tộc hầu như là không có, biểu diễn nghệ thuật phần lớn chỉ là những đoàn nghệ thuật, biểu diễn đã bị sân khấu hóa không còn mang tính chất không gian riêng và không gian thiêng của núi rừng của đồng bào, bị thương mại hóa như bán vé, thu lợi nhuận từ biểu diễn…
Trước hết, chúng tôi xin lấy chuyện các đội cồng chiêng ở Lâm Đồng để dẫn ra đây như là những ví dụ. Lúc này trong những ngôi làng người Lạch (một nhóm nhỏ của người Cơ Ho) dưới chân núi Langbian cách – Đà Lạt – Thành phố du lịch nổi tiếng – chỉ hơn mười cây số có đến những mười đội cồng chiêng “vai trần chân đất”. Hiện tại người ta thường nói rằng ai đó làm du khách đặt chân đến thành phố du lịch nổi tiếng Đà Lạt mà chưa xuôi về Xã Lát dưới chân núi Langbian (thuộc Xã Lát, Huyện Lạc Dương) để uống rượu cần, ăn thịt nướng và xem biểu diễn cồng chiêng thì coi như chưa đến Đà Lạt.
Thật thế ư! Nhiều lần trao đổi với các vị lãnh đạo ngành văn hóa Tỉnh Lâm Đồng, chúng tôi không ít lần trực tiếp nghe các vị ấy phàn nàn về chuyện “biến chất” của các đội cồng chiêng làm du lịch nói trên. Vậy, thứ cồng chiêng được chính chủ nhân của nó đưa vào kinh doanh du lịch ấy đã biến chất như thế nào? Trước hết thứ cồng chiêng du lịch ấy đã bị sân khấu hóa một cách thô bạo. Nói cách khác văn hóa cồng chiêng dưới chân núi Langbian không còn không gian núi rừng hùng vĩ nữa mà đã được sân khấu hóa với những ánh đèn chiếu lấp lánh, thứ hai, đã hòa cùng với “giọng điệu” của các nhạc cụ khác đăc biệt là nhạc cụ điện tử. Như vậy xét dưới góc độ “diện” và “điểm” thì văn hóa cồng chiêng dưới chân núi Langbian đã bị chính chủ nhân xâm hại một cách thô bạo. Qua những câu chuyện trên một lần nữa chúng tôi khẳng định: Nếu tách cồng chiêng ra khỏi không gian sinh tồn của nó thì thứ sản phẩm ấy không còn là những giá trị đích thực, như vậy xét về không gian, xét về “diện” thì văn hóa cồng chiêng không thể tách rời núi rừng, buôn làng, sông suối…và cả không gian trong tâm thức của người thiểu số. Còn xét về “điểm” về sự tinh tế, về những giá trị đặc sắc và đích thực của âm nhạc cồng chiêng một khi có những tác động không phù hợp với quy luật phát triển thì thứ sản phẩm đã được “cải tiến” ấy bị chính các thành viên trong cộng đồng chủ nhân của văn hóa cồng chiêng chối bỏ và các cộng đồng xung quanh tẩy chay như là một quy luật tất yếu.
6.Lễ hội:
Người dân tộc thiểu số bản địa ở Tây Nguyên nói chung và người Cơ Ho nói riêng thì họ thường tổ chức các lễ hội theo mùa vụ như tết mừng lúa mới là sau khi thu hoach song họ mới tổ chức. Người Cơ Ho vẫn duy trì lễ hội đam trâu truyền thống. Hiện nay thì những lễ hội truyền thống cơ bản vẫn được lưu truyền nhưng do tác động từ bên ngoài nên lễ hội đã mang tính chất thương mại như bán vé, đấu thầu lễ hội..và đã bị sân khấu hóa một cách rất mạnh mẽ không còn mang vẻ nguyên sơ,đậm hồn chất dân tộc nữa. Các cộng đồng dân tộc xung quanh nên người Cơ Ho có nhiều lễ hội khác mới du nhập như lễ giáng sinh là do họ đi theo đạo và nhiều lễ hội khác của đạo Thiên chúa và đạo Tin lành và cùng với đó là những lễ hội được tiếp nhận từ những cộng đồng xung quanh như: Trong văn hóa các dân tộc thiểu số bản địa ở Lâm Đồng không hề có khái niệm “tết nguyên đán” như người Kinh. Song gần đây hầu hết các dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng trong đó có người Cơ Ho đã biết đón tết và tổ chức vui tết. Đó là cái tết của người Kinh, nhưng rõ ràng là cái tết của người Kinh trong cộng đồng người thiểu số không hoàn toàn “Việt”. Hầu hết các dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng đều tổ chức các lễ hội theo mùa vụ nông nghiệp với nhiều cấp độ khác nhau. Lễ hội lớn nhất được diễn ra vào thời điểm mùa rẫy vừa kết thúc, khi tất cả những hạt thóc đã được đưa về nhà. Những lễ hội này đều có sự tham gia của người Kinh và ngược lại, tết của người Kinh cũng đã được đồng bào dan tộc thiểu số quan tâm đến. Do sống cộng cư với nhiều dân tộc như dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số ở phía Bắc di cư vào được các dân tộc bản địa hấp thụ một cách tự nhiên và hoàn toàn tự giác các lễ tết, truyền thống văn hóa của họ thêm phong phú hơn. Tết nguyên đán đến các gia đình người Cơ Ho họ cũng sắm sửa những vật dụng để tiếp khách như bánh, kẹo, trái cây, rượu cần họ cũng qua lại thăm hỏi, chúc tụng lẫn nhau, trẻ con cũng được cho quà bánh, được mặc áo mới…họ chỉ coi đó là hội tết chứ không có lễ tết gì. Những cái “lễ” được tiến hành là những lễ hội truyền thống.
Nói tóm lại, sự thay đổi hiện nay của người Cơ Ho diễn ra hầu như tất cả các lĩnh vực, mọi mặt của đời sống xã hội, sự thay đổi này cũng do nhiều nguyên nhân trong đó có những nguyên nhân sau: Do đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước cũng có sự quan tâm đến đồng bào dân tộc thiểu số do chính sách phát triển của quốc gia dân tộc, do sự toàn cầu hóa tác động đến sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, do sự tuyên truyền chính sách, đường lối của các phương tiện thông tin đại chúng là có tầm ảnh hưởng lớn, do ý thức, trình độ dân trí của đồng bào dân tộc thiểu số đã được nâng cao và có sự thay đổi, do sự xáo trộn trong cộng đồng các dân tộc chung sống với nhau nên có sự giao lưu, tiếp biến văn hóa qua lại với nhau…Đó chỉ là những nguyên nhân cơ bản và rất còn rất nhiều nguyên nhân khác nữa.Những sự thay đổi đó cũng mang đến những điều tích cực và tiêu cực có thể đối với dân tộc này là tiêu cực nhưng đối với dân tộc kia lại là tích cực điều đó là khó có thể xác định chắc chắn vì nó còn tùy thuộc vào quy tắc ứng xử của từng tộc người. Nhưng chúng ta cũng nên phát huy mặt tích cực và nên loại bỏ dần mặt tiêu cực để hướng tới cộng đồng các dân tộc Việt Nam ngày càng văn minh và giàu đẹp hơn, chúng ta phải gìn giữ được văn hóa truyền thống cơ bản nhất của các dân tộc thiểu số và đặc biệt là người Cơ Ho ở Tây Nguyên để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nền văn hóa thống nhất trong đa dạng và bên cạnh đó chúng ta cũng nên tiếp thu những tinh hoa văn hóa tốt đẹp của các dân tộc anh em và tinh hoa văn hóa của nhân loại.
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ ĐỂ TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ ĐƯỢC BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN VÀ NHẤT LÀ NGƯỜI CƠ HO Ở TÂY NGUYÊN.
Nhìn tổng thể, nền văn hoá cổ truyền các dân tộc Tây Nguyên đang đứng trước thử thách của một giai đoạn, một thời kỳ phát triển mới do những cơ sở kinh tế - xã hội vốn có và làm nảy sinh nay bị thu hẹp, mất dần, cộng thêm những yếu tố văn hoá ngoại sinh tràn ngập đời sống tác động. Tất cả những nhân tố đó đang đặt văn hoá truyền thống các dân tộc Tây Nguyên trước thực tế của sự mai một dần dần. Để giữ gìn, bảo tồn và phát huy, kế thừa những tinh hoa văn hoá cổ truyền Tây Nguyên, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chuẩn bị hành trang văn hoá Việt Nam hội nhập khu vực và quốc tế, theo ý kiến chủ quan của chúng tôi xin góp một số ý kiến sau đây:
- Thứ nhất: Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với kế thừa và phát triển văn hoá, bởi kinh tế là nền tảng, là cơ sở để văn hoá thăng hoa. Ngược lại, khi những vấn đề văn hoá có điều kiện phát triển sẽ tạo nhiều thuận lợi để kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Do vậy, đối với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, bên cạnh những chính sách xoá đói, giảm nghèo, hỗ trợ vốn, giống, vật nuôi, cây trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên ở khu vực, thì đồng thời tích cực chuyển giao công nghệ, đào tạo đội ngũ cán bộ văn hoá, kỹ thuật lành nghề và chú trọng vào đối tượng là con em của đồng bào các dân tộc thiểu số. Cần tiếp tục đầu tư hơn nữa về nhân tố con người và cơ sở vật chất cho hai trường Đại học của vùng là Đại học Đà Lạt (Lâm Đồng) và Đại học Tây Nguyên (Đắc Lắc), cùng hệ phổ thông, trung học hướng nghiệp và đào tạo nghề để góp phần nâng cao dân trí, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài cho khu vực.
- Thứ hai: Cần tiếp tục quan tâm đầu tư thoả đáng cho công tác sưu tầm, điền dã, xuất bản các bộ sử thi Tây Nguyên, các loại sách giáo khoa song ngữ, khôi phục lại nhà Rông truyền thống vì đây là địa điểm sinh hoạt văn hoá có ý nghĩa tâm linh rất lớn cho đồng bào, cho thanh niên các dân tộc thiểu số. Đồng thời cho khôi phục và tổ chức lại các lễ hội còn có ý nghĩa tâm linh và giáo dục đối với đời sống văn hoá cộng đồng, thường xuyên tổ chức các lễ hội giao lưu văn hoá như tuần lễ văn hoá, liên hoan văn hoá ở các địa phương và khu vực.
- Thứ ba: Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống các dân tộc Tây Nguyên không chỉ là công việc của các cấp chính quyền mà còn là sự đồng thuận của các dân tộc theo quan điểm “ý Đảng, lòng dân”. Đầu tiên là phải giáo dục cho đồng bào các dân tộc hiểu được tầm quan trọng của các giá trị văn hoá, nhất là với lớp người trẻ, bởi đây sẽ là lực lượng kế cận quyết định sự tồn vong bản sắc văn hoá dân tộc. Đồng thời phải có chính sách khen thưởng đãi ngộ xứng đáng với những người tham gia vào quá trình bảo tồn và phát huy các giá trị như văn nghệ sĩ, các nghệ nhân, các nhà nghiên cứu văn hoá, văn nghệ gắn bó với mảnh đất và con người Tây Nguyên. Trên cơ sở đó tiếp thu những cái mới, cái tiến bộ của văn hoá bên ngoài, giữ gìn những thuần phong mỹ tục của đồng bào các dân tộc, loại bỏ dần các hủ tục, tập quán lỗi thời, lạc hậu.
- Thứ tư: Thực hiện chính sách tôn giáo, đất đai, dân tộc hợp lý. Ví dụ như với đạo Tin lành ở Tây Nguyên thì đẩy nhanh quá trình bình thường hoá, các buôn phải đăng ký với chính quyền để sinh hoạt tôn giáo. Hiện nay, về mặt tổ chức mới công nhận được 37/1730 buôn với gần 100 mục sư truyền đạo. Đồng thời tập trung giải quyết vấn đề đất đai, dân tộc, sẽ giải quyết tận gốc những vấn đề bất ổn về kinh tế xã hội trong thời gian qua. Đồng thời, để gần dân, sát dân hơn, yêu cầu những người làm công tác văn hoá cần nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng hưởng thụ văn hoá chính đáng của đồng bào, và làm tốt công tác tham mưu cho chính quyền về các vấn đề văn hoá xã hội kịp thời. Đồng thời Nhà nước cần có chính sách ưu đãi, trợ cấp để cán bộ văn hoá yên tâm công tác. Đối với công tác với từng buôn, cần phát huy vai trò của Già làng, trưởng bản và các nghệ nhân trong công tác tuyên truyền, vận động giáo dục, thuyết phục bà con buôn làng noi theo trong công tác xoá đói, giảm nghèo, thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Đây là những người có uy tín cao trong cộng đồng, là hạt nhân của khối đại đoàn kết ở cơ sở, và chính họ sẽ là những người đào tạo và giúp lớp trẻ nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và giá trị của các di sản văn hoá truyền thống.
Phần ba: Kết luận.
Toàn cầu hoá diễn ra với tốc độ nhanh, rộng lôi kéo tất cả các quốc gia dân tộc vào vòng xoáy của nó. Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang chủ động hội nhập với khu vực và thế giới. Là một địa bàn chiến lược của đất nước, Tây Nguyên có nhiều tiềm năng khơi dậy và phát triển. Trươc bối cảnh chung đó, bên cạnh giải quyết các vấn đề cơ bản về kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trọng tâm, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống các dân tộc trong khu vực là một nhiệm vụ quan trọng góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam đa dạng, thống nhất, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chuẩn bị những tiền đề, bản lĩnh văn hoá vững vàng khi hội nhập để phát triển.
Rõ ràng, nền văn hoá truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên là vô cùng quý giá và đa dạng. Đây chính là những nhân tố góp phần vào hành trang văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế. Dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá tiêu biểu của dân tộc cũng như bảo tồn và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Tây Nguyên đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, thực tế hiện tại trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, văn hoá cổ truyền các dân tộc Tây Nguyên đang bị tấn công và có những nét văn hoá bị mai một đi từng ngày, hoặc được chú ý giữ gìn nhưng lại mang hơi hướng “hiện đại hoá”. Có thể nhận thấy rất rõ một giai đoạn trước đây, chúng ta đã không cho đồng bào tổ chức các lễ hội, hoạt động văn hoá với lý do mê tín dị đoan, lãng phí tốn kém. Đời sống tâm linh của đồng bào có một khoảng trống. Khoảng trống đó lập tức được lấp đầy bằng đạo Tin lành, chỗ dựa tâm linh mới của đồng bào, bởi vì “Đảng đi xa, đức cha sẽ đến”. Cho đến năm 2004, qua khảo sát của Ban Tôn giáo Chính phú, ở Tây Nguyên đã có khoảng 400 ngàn người theo đạo, hiện nay có 1730/3600 buôn theo đạo Tin lành, chiếm gần 50%. Sự phục hồi Tin lành Tây Nguyên gắn với sự phục hồi phát triển của Đề Ga, Fulro. Fulro có hai tồn tại, đó là tồn tại về tổ chức và tồn tại trong tư tưởng. Thời gian gần đây, vấn đề kinh tế xã hội, đặc biệt là tác động của kinh tế thị trường và nhiều nguyên nhân khác nữa, Fulro được sự hỗ trợ và phục hồi trở lại. Các vụ gây rối tháng 04/2001 và tháng 04/2004 cho thấy rõ điều đó. Hoặc một ví dụ dẫn chứng như chủ trương xây nhà Rông bằng bê tông, đồng bào nhận rồi bỏ hoang, rất lãng phí, mặt dù xuất phát từ thiện ý muốn kết hợp các nhân tố văn hoá truyền thống và văn hoá hiện đại. Cồng chiêng là những nhạc cụ, vật dụng quý giá, là niềm tự hào âm vang núi rừng của các tộc người Tây Nguyên bị bán, thất thoát hoặc đem làm đồng nát! Các giá trị văn hoá truyền thống là đặc trưng sắc thái của nền văn hoá dân tộc. Nó không bất biến đứng yên mà trái lại luôn năng động tiến triển, đổi mới liên tục. Văn hoá truyền thống Tây Nguyên cũng vậy, trong quá trình phát triển cũng cần phải loại bỏ dần những tập tục lạc hậu lỗi thời, cũng như cần tiếp tục chọn lọc cái mới, giữ gìn cái truyền thống còn ý nghĩa và tác dụng tích cực để bổ sung và làm phong phú thêm. Trong nguyên lý phát triển của chủ nghĩa Mác, đó chính là nguyên tắc kế thừa cần được quán triệt. Tuy nhiên, có lúc có nơi, ở cấp cơ sở, mang danh hiệu “hiện đại hoá” mà thực chất là phương Tây hoá những gì thuộc về nghệ thuật truyền thống. Ví như hát những bài hát mang âm hưởng của núi rừng Tây Nguyên thì người hát phải gào, hú, hét giống người nguyên thuỷ, bốc lửa kiểu Tây Nguyên! Nhưng đâu phải thế! Người Tây Nguyên thông minh, chân thật nhưng tinh tế, hồn nhiên và hóm hỉnh. Họ đâu có “gào, hú, hét” lên quá đáng như những người thể hiện kia. Hoặc lấy một dẫn chứng nữa là việc muốn đưa hương ước của người Kinh thay thế Luật tục, đặt ra những thiết chế văn hoá ở trung tâm thì người dân làm gì có thời gian để tham gia hoạt động. Văn hoá dân gian truyền thống dần mai một. Người già nắm giữ vốn văn hoá này lần lượt ra đi, lớp trẻ không được truyền dạy nên không thiết tha gì với văn hoá của ông bà.
Tất nhiên, cũng có những nguyên nhân chủ quan và khách quan để nền văn hoá truyền thống các tộc người Tây Nguyên không tồn tại toàn vẹn như quá khứ. Chúng ta phải chấp nhận thực tế khách quan như lợp mái tôn thay mái tranh, cột bê tông thay cột gỗ vì lấy đâu ra gỗ to và tranh dày làm nhà khi rừng ngày càng thu hẹp và cạn kiệt. Các lễ hội không thể kéo dài ngày như ngày xưa mà phải nhanh, ngắn và nhỏ hơn trước. Hoặc thay vì độc canh thì chuyển đa dạng hoá sản xuất, phải ứng dụng kỹ thuật, phải định canh định cư, đất đai vì dân di cư có và không có tổ chức đến nay đã làm cho diện tích canh tác trên đầu người bị thu hẹp, không gian sinh hoạt văn hoá rộng rãi trước kia nay dần thu hẹp lại…/.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Minh Dục, Giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá Tây Nguyên trong quá trình xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, Tạp chí Sinh hoạt Lý luận, số 1/2003.
2. Võ Khắc Dũng, Nam Tây Nguyên những điều kỳ thú, NXB Văn Nghệ, 2007.
3. Nguyễn Văn Huy (chủ biên), Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam, NXB Giáo dục,1997.
4. Google.com.vn
5. Trang điện tử của ủy ban dân tộc.
6. Vietbao.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những thay đổi trong truyền thống văn hóa của người Cơ Ho trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.doc